CÁC LINH MỤC PHẢI MANG Ý THỨC TRUYỀN GIÁO
Anh em linh mục đã và vẫn nói qua nhiều về ơn gọi truyền giáo, về sứ mạng truyền giáo. Nhất là hàng năm, trong ngày Khánh nhật Truyền giáo, và tất cả những dịp đặc biệt có liên quan đến khía cạnh này.
Nhân Khánh nhật Truyền giáo năm nay, một mặt lo giảng thuyết, lo hướng dẫn giáo dân về ơn gọi truyền giáo, lo kêu gọi đóng góp cho công tác truyền giáo như đã thành lề thói trong các giáo phận..., các linh mục thử nhìn lại chính mình về việc sống và thực thi ơn gọi truyền giáo.
Vì hơn ai hết, hơn bất cứ thành phần nào trong Hội Thánh, LINH MỤC PHẢI LÀ NGƯỜI DẪN ĐẦU TRONG CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO của Hội Thánh Công Giáo.
Vậy để nhìn lại mình trong trách nhiệm truyền giáo và rao giảng về ơn gọi truyền giáo, tôi đề nghị anh em linh mục chúng ta hãy khởi đi:
I. TỪ MỘT ĐỊNH NGHĨA.
Truyền giáo là gì? Người ta có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng trong các định nghĩa ấy, người truyền giáo không bao giờ được phép quên một định nghĩa quan trọng, vì nhờ đó mà làm nên ơn gọi truyền giáo trong Hội Thánh. Một ơn gọi không đến từ yếu tố con người, nhưng lại tùy thuộc vào yếu tố thần linh.
Đúng hơn, định nghĩa quan trọng ấy thuộc về chính Đấng vừa là NGUỒN vừa là ĐÍCH. NGUỒN, nơi mà từ đó xuất phát ra ơn gọi truyền giáo. ĐÍCH, nơi màchính công cuộc truyền giáo phải quy về. Đấng đó không ai khác hơn là chính CHÚA KITÔ.
Chúa là gợi hứng cho ơn gọi truyền giáo và là chung cuộc cho hành trình truyền giáo của Hội Thánh. Vì thế cũng chính Chúa là gợi hứng về một định nghĩa quan trọng mà chúng ta đang nhắc tới:
TRUYỀN GIÁO LÀ MANG CHÚA KITÔ LÀM QUÀ TẶNG, TRAO TẶNG ANH CHỊ EM CỦA MÌNH.
1. Phải có Chúa Kitô trong tâm hồn.
Muốn cho ai bất cứ cái gì, phải có, mới có thể cho. Chỉ có một con đường duy nhất để trao tặng Chúa Kitô, là phải có Chúa Kitô trong tâm hồn.
Nếu hiểu một tâm hồn chưa thanh sạch là tâm hồn thiếu vắng Chúa Kitô, thì người linh mục phải tự hỏi rằng, rất nhiều lần tôi giơ tay ban phép lành để tha tội cho anh chị em của tôi, để sau khi được tha thứ, anh chị em có Chúa Kitô, còn tâm hồn tôi đã thanh sạch chưa, đã có Chúa Kitô chưa?
Bảo rằng truyền giáo là ban tặng Chúa Kitô, thì bước đầu tiên để khởi sự truyền giáo, lòng tôi phải có Chúa Kitô. Tôi phải luôn ý thức rằng, tội lỗi, gương xấu không bao giờ làm bạn với ơn truyền giáo.
2. Trách nhiệm truyền giáo trước tiên thuộc về linh mục.
Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của mọi Kitô hữu. Nhưng vượt lên đứng hàng đầu trong số các Kitô hữu ấy về việc sống ơn truyền giáo là chính linh mục. Từ những việc làm rất lớn như cử hành thánh lễ, cử hành bí tích…, đến việc nhỏ nhất như một lời nói, một cử chỉ thân thương, một nụ cười dung thứ… của linh mục, đều có thể gây ảnh hưởng, và cũng rất có khả năng ảnh hưởng đó lan rộng.
Vậy muốn có được đời sống chứng tá, người linh mục tất yếu phải kiểm điểm mình liên tục. Tôi có còn thói quen kiểm điểm bản thân hay không, hay vì vịn vào công việc, từ lâu tôi đã bỏ mất thói quen này?
II. TIẾP NỐI BUỚC CHÂN CHA ÔNG.
Định nghĩa quan trọng về truyền giáo: Truyền giáo là mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, không chỉ dừng lại ở định nghĩa, mà qua định nghĩa, còn nói lên cả một nền tảng của đức tin, của cả dòng lịch sử Kitô giáo, của niềm hãnh diện và say mê truyền giáo có giá trị hàng ngàn năm mà Hội Thánh đã, đang và sẽ còn cưu mang và sống.
Niềm hạnh phúc tuyệt diệu khi được tiếp nối bước chân Chúa Kitô làm nhà truyền giáo, thể hiện ngay từ thuở bình minh của Hội Thánh. Sách Công vụ tông đồ chứng minh điều đó khi cho thấy bước chân lên đường không mệt mỏi, không sợ sệt, không đầu hàng nghịch cảnh, bất chấp sự chống đối của thế gian, sự cô đơn khi phải đối diện với sứ mạng nặng nề…
Bảo rằng, đấy là Hội Thánh sơ khai, nhưng những con người của Hội Thánh, lại là những con người trưởng thành. Không chỉ trưởng thành, nếu so sánh với mỗi người trong anh em linh mục, có lẽ phải gọi các ngài là “Những nhà truyền giáo trưởng thành vượt bậc”, điều mà anh em linh mục ngày nay, dù đã thừa hưởng kho tàng đức tin do các ngài để lại lên đến hơn 2.000 tuổi, vẫn không dễ gì có được.
Vậy bây giờ, chúng ta hãy đọc lại một phần (chỉ một phần thôi) về những lời đầy khí phách, những thái độ ngoan cường, và những tâm hồn tràn đầy lòng yêu mến, tràn đầy niềm phó thác của cha ông mình:
“Có những người thuộc hội đường, gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alexanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông… Họ đưa mấy người làm chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến nơi thánh và lề luật…”. Toàn cử tọa trong Hội đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
Bấy giờ vị thượng tế hỏi Stêphanô: “Có đúng như vậy không?”. Ông đáp: “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây… Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. Các ông là những người đã lãnh nhận lề luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ”.
Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô.
Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa tôi thấy trời mở ra, và Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá… Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 6, 8-7, 60).
Đối với Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay cũng không khác. Từ năm 2003, Hội đồng Gíam mục Việt Nam, một lần nữa mời gọi nhìn về cha ông để “tiếp nối bước chân truyền giáo” của các ngài: “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đới sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quý giá” (Thư mục vụ 2003).
Sau khi nghe những lời ấy, có lẽ thái độ thích hợp nhất của chúng ta lúc này là lặng đi để có thể tra vấn lương tâm mình. Một lần thinh lặng, để một lần nữa, ta ý thức rằng, ơn gọi truyền giáo là ơn gọi cấp bách, đã từng thôi thúc cha ông mình, thì hôm nay sự thúc bách ấy vẫn mới nguyên, vẫn đòi mỗi người dấn thân y như thế!
III. KHÔNG THỂ KHÔNG CẦU NGUYỆN.
Nói gì thì nói, điều quan trọng nhất vẫn là cầu nguyện. Để có thể làm tròn sứ mạng Truyền giáo: mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, chúng ta đừng quên, việc cầu nguyện là việc làm trước tiên, và là việc ưu tiên hàng đầu.
Nếu muốn trao tặng quà, trong tay phải có quà, và muốn đưa Chúa Kitô đến với anh chị em, tâm hồn phải có Chúa Kitô, thì chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện bằng tất cả lòng tin, niềm hy vọng, lòng mến yêu, sự tôn thờ sốt sắng, ta mới thấy lòng khao khát Chúa thẳm sâu. Chính khi ta đói khát Thiên Chúa thật nơi tâm hồn mình, đó mới là dấu hiệu có Chúa trong ta.
Ý thức truyền giáo không bao giờ xuất phát từ một tâm hồn đầy, đúng hơn, là một tâm hồn không thấy mình khao khát Chúa. Vì thế, nếu lo toan quá nhiều, bộn bề với bao nhiêu việc, có khi là những công việc không đâu, hay không hoạch định cho mình những công tác nào ưu tiên, việc làm nào cần cắt bỏ, việc làm nào tuyệt đối không được phép làm…, chắc chắn không bao giờ ta thấy mình thiếu Chúa.
Không bao giờ thấy mình khao khát Chúa, không những nguy hại cho đời sống đức tin, mà còn tạo nên một khoảng cách trong lòng càng lúc càng xa Thiên Chúa, làm cho bản thân thất vọng về Chúa, không còn cảm thấy muốn vươn lên.
Để xảy ra như thế, người linh mục đã đánh mất, không chỉ bản thân, bên cạnh đó còn đánh mất cả tâm hồn anh chị em mà Chúa giao cho mình chăm sóc. Sự nguy hại như thế không nhỏ chút nào. Nó biến ta thay vì thành nhà truyền giáo, lại gieo rắc những gì khác hơn không thuộc về Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2003, phần đề nghị “Những việc làm cụ thể”, các Giám mục đã không nói đến một điều gì cao xa, nhưng trước tiên vẫn chính là việc cầu nguyện: “Cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đây là việc quan trọng hàng đầu”.
Công tác truyền giáo là công tác đặc biệt, khác mọi công tác bình thường khác. Nếu trong mọi công tác, ta càng có đầy bao nhiêu, thì càng dễ ban phát bấy nhiêu. Còn trong công tác truyền giáo, ta càng thấy mình đói Thiên Chúa, càng khao khát Chúa Kitô mãnh liệt bao nhiêu, thì lại càng giới thiệu Chúa một cách đầy xác tín, mạnh mẽ, nhiệt huyết và thành công bấy nhiêu. Vì những công tác khác, khi đầy là ta có, còn việc rao giảng Tin Mừng, khi thấy mình cần Chúa hơn, mình quá mong manh, yếu đuối, lẻ loi, nhiều khuyết điểm… lại là lúc ta giàu có Thiên Chúa để mà cho đi.
Vậy để nung nấu tâm hồn mình, chỉ có một cách duy nhất là chìm đắm trong cầu nguyện, để chính đời sống cầu nguyện thẩm thấu trong từng chi tiết, từng biểu hiện của mình, nhờ đó bản thân sẽ mỗi ngày một khao khát Chúa hơn.
Vì sự khao khát, chúng ta sẽ dám dấn thân cho Chúa hơn. Khao khát và dấn thân trong nỗ lực từng ngày như thế, chúng ta sẽ nên những chứng tá đích thực trong đời thường mà mình đang sống. Vì một nguyên tắc không thể sai chạy trong việc truyền giáo: truyền giáo đòi phải có chứng tá, truyền giáo mới hiệu quả.
Anh em linh mục đã và vẫn nói qua nhiều về ơn gọi truyền giáo, về sứ mạng truyền giáo. Nhất là hàng năm, trong ngày Khánh nhật Truyền giáo, và tất cả những dịp đặc biệt có liên quan đến khía cạnh này.
Nhân Khánh nhật Truyền giáo năm nay, một mặt lo giảng thuyết, lo hướng dẫn giáo dân về ơn gọi truyền giáo, lo kêu gọi đóng góp cho công tác truyền giáo như đã thành lề thói trong các giáo phận..., các linh mục thử nhìn lại chính mình về việc sống và thực thi ơn gọi truyền giáo.
Vì hơn ai hết, hơn bất cứ thành phần nào trong Hội Thánh, LINH MỤC PHẢI LÀ NGƯỜI DẪN ĐẦU TRONG CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO của Hội Thánh Công Giáo.
Vậy để nhìn lại mình trong trách nhiệm truyền giáo và rao giảng về ơn gọi truyền giáo, tôi đề nghị anh em linh mục chúng ta hãy khởi đi:
I. TỪ MỘT ĐỊNH NGHĨA.
Truyền giáo là gì? Người ta có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng trong các định nghĩa ấy, người truyền giáo không bao giờ được phép quên một định nghĩa quan trọng, vì nhờ đó mà làm nên ơn gọi truyền giáo trong Hội Thánh. Một ơn gọi không đến từ yếu tố con người, nhưng lại tùy thuộc vào yếu tố thần linh.
Đúng hơn, định nghĩa quan trọng ấy thuộc về chính Đấng vừa là NGUỒN vừa là ĐÍCH. NGUỒN, nơi mà từ đó xuất phát ra ơn gọi truyền giáo. ĐÍCH, nơi màchính công cuộc truyền giáo phải quy về. Đấng đó không ai khác hơn là chính CHÚA KITÔ.
Chúa là gợi hứng cho ơn gọi truyền giáo và là chung cuộc cho hành trình truyền giáo của Hội Thánh. Vì thế cũng chính Chúa là gợi hứng về một định nghĩa quan trọng mà chúng ta đang nhắc tới:
TRUYỀN GIÁO LÀ MANG CHÚA KITÔ LÀM QUÀ TẶNG, TRAO TẶNG ANH CHỊ EM CỦA MÌNH.
1. Phải có Chúa Kitô trong tâm hồn.
Muốn cho ai bất cứ cái gì, phải có, mới có thể cho. Chỉ có một con đường duy nhất để trao tặng Chúa Kitô, là phải có Chúa Kitô trong tâm hồn.
Nếu hiểu một tâm hồn chưa thanh sạch là tâm hồn thiếu vắng Chúa Kitô, thì người linh mục phải tự hỏi rằng, rất nhiều lần tôi giơ tay ban phép lành để tha tội cho anh chị em của tôi, để sau khi được tha thứ, anh chị em có Chúa Kitô, còn tâm hồn tôi đã thanh sạch chưa, đã có Chúa Kitô chưa?
Bảo rằng truyền giáo là ban tặng Chúa Kitô, thì bước đầu tiên để khởi sự truyền giáo, lòng tôi phải có Chúa Kitô. Tôi phải luôn ý thức rằng, tội lỗi, gương xấu không bao giờ làm bạn với ơn truyền giáo.
2. Trách nhiệm truyền giáo trước tiên thuộc về linh mục.
Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của mọi Kitô hữu. Nhưng vượt lên đứng hàng đầu trong số các Kitô hữu ấy về việc sống ơn truyền giáo là chính linh mục. Từ những việc làm rất lớn như cử hành thánh lễ, cử hành bí tích…, đến việc nhỏ nhất như một lời nói, một cử chỉ thân thương, một nụ cười dung thứ… của linh mục, đều có thể gây ảnh hưởng, và cũng rất có khả năng ảnh hưởng đó lan rộng.
Vậy muốn có được đời sống chứng tá, người linh mục tất yếu phải kiểm điểm mình liên tục. Tôi có còn thói quen kiểm điểm bản thân hay không, hay vì vịn vào công việc, từ lâu tôi đã bỏ mất thói quen này?
II. TIẾP NỐI BUỚC CHÂN CHA ÔNG.
Định nghĩa quan trọng về truyền giáo: Truyền giáo là mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, không chỉ dừng lại ở định nghĩa, mà qua định nghĩa, còn nói lên cả một nền tảng của đức tin, của cả dòng lịch sử Kitô giáo, của niềm hãnh diện và say mê truyền giáo có giá trị hàng ngàn năm mà Hội Thánh đã, đang và sẽ còn cưu mang và sống.
Niềm hạnh phúc tuyệt diệu khi được tiếp nối bước chân Chúa Kitô làm nhà truyền giáo, thể hiện ngay từ thuở bình minh của Hội Thánh. Sách Công vụ tông đồ chứng minh điều đó khi cho thấy bước chân lên đường không mệt mỏi, không sợ sệt, không đầu hàng nghịch cảnh, bất chấp sự chống đối của thế gian, sự cô đơn khi phải đối diện với sứ mạng nặng nề…
Bảo rằng, đấy là Hội Thánh sơ khai, nhưng những con người của Hội Thánh, lại là những con người trưởng thành. Không chỉ trưởng thành, nếu so sánh với mỗi người trong anh em linh mục, có lẽ phải gọi các ngài là “Những nhà truyền giáo trưởng thành vượt bậc”, điều mà anh em linh mục ngày nay, dù đã thừa hưởng kho tàng đức tin do các ngài để lại lên đến hơn 2.000 tuổi, vẫn không dễ gì có được.
Vậy bây giờ, chúng ta hãy đọc lại một phần (chỉ một phần thôi) về những lời đầy khí phách, những thái độ ngoan cường, và những tâm hồn tràn đầy lòng yêu mến, tràn đầy niềm phó thác của cha ông mình:
“Có những người thuộc hội đường, gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alexanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông… Họ đưa mấy người làm chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến nơi thánh và lề luật…”. Toàn cử tọa trong Hội đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
Bấy giờ vị thượng tế hỏi Stêphanô: “Có đúng như vậy không?”. Ông đáp: “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây… Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. Các ông là những người đã lãnh nhận lề luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ”.
Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô.
Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa tôi thấy trời mở ra, và Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá… Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 6, 8-7, 60).
Đối với Hội Thánh tại Việt Nam hôm nay cũng không khác. Từ năm 2003, Hội đồng Gíam mục Việt Nam, một lần nữa mời gọi nhìn về cha ông để “tiếp nối bước chân truyền giáo” của các ngài: “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đới sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quý giá” (Thư mục vụ 2003).
Sau khi nghe những lời ấy, có lẽ thái độ thích hợp nhất của chúng ta lúc này là lặng đi để có thể tra vấn lương tâm mình. Một lần thinh lặng, để một lần nữa, ta ý thức rằng, ơn gọi truyền giáo là ơn gọi cấp bách, đã từng thôi thúc cha ông mình, thì hôm nay sự thúc bách ấy vẫn mới nguyên, vẫn đòi mỗi người dấn thân y như thế!
III. KHÔNG THỂ KHÔNG CẦU NGUYỆN.
Nói gì thì nói, điều quan trọng nhất vẫn là cầu nguyện. Để có thể làm tròn sứ mạng Truyền giáo: mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, chúng ta đừng quên, việc cầu nguyện là việc làm trước tiên, và là việc ưu tiên hàng đầu.
Nếu muốn trao tặng quà, trong tay phải có quà, và muốn đưa Chúa Kitô đến với anh chị em, tâm hồn phải có Chúa Kitô, thì chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện bằng tất cả lòng tin, niềm hy vọng, lòng mến yêu, sự tôn thờ sốt sắng, ta mới thấy lòng khao khát Chúa thẳm sâu. Chính khi ta đói khát Thiên Chúa thật nơi tâm hồn mình, đó mới là dấu hiệu có Chúa trong ta.
Ý thức truyền giáo không bao giờ xuất phát từ một tâm hồn đầy, đúng hơn, là một tâm hồn không thấy mình khao khát Chúa. Vì thế, nếu lo toan quá nhiều, bộn bề với bao nhiêu việc, có khi là những công việc không đâu, hay không hoạch định cho mình những công tác nào ưu tiên, việc làm nào cần cắt bỏ, việc làm nào tuyệt đối không được phép làm…, chắc chắn không bao giờ ta thấy mình thiếu Chúa.
Không bao giờ thấy mình khao khát Chúa, không những nguy hại cho đời sống đức tin, mà còn tạo nên một khoảng cách trong lòng càng lúc càng xa Thiên Chúa, làm cho bản thân thất vọng về Chúa, không còn cảm thấy muốn vươn lên.
Để xảy ra như thế, người linh mục đã đánh mất, không chỉ bản thân, bên cạnh đó còn đánh mất cả tâm hồn anh chị em mà Chúa giao cho mình chăm sóc. Sự nguy hại như thế không nhỏ chút nào. Nó biến ta thay vì thành nhà truyền giáo, lại gieo rắc những gì khác hơn không thuộc về Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 2003, phần đề nghị “Những việc làm cụ thể”, các Giám mục đã không nói đến một điều gì cao xa, nhưng trước tiên vẫn chính là việc cầu nguyện: “Cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đây là việc quan trọng hàng đầu”.
Công tác truyền giáo là công tác đặc biệt, khác mọi công tác bình thường khác. Nếu trong mọi công tác, ta càng có đầy bao nhiêu, thì càng dễ ban phát bấy nhiêu. Còn trong công tác truyền giáo, ta càng thấy mình đói Thiên Chúa, càng khao khát Chúa Kitô mãnh liệt bao nhiêu, thì lại càng giới thiệu Chúa một cách đầy xác tín, mạnh mẽ, nhiệt huyết và thành công bấy nhiêu. Vì những công tác khác, khi đầy là ta có, còn việc rao giảng Tin Mừng, khi thấy mình cần Chúa hơn, mình quá mong manh, yếu đuối, lẻ loi, nhiều khuyết điểm… lại là lúc ta giàu có Thiên Chúa để mà cho đi.
Vậy để nung nấu tâm hồn mình, chỉ có một cách duy nhất là chìm đắm trong cầu nguyện, để chính đời sống cầu nguyện thẩm thấu trong từng chi tiết, từng biểu hiện của mình, nhờ đó bản thân sẽ mỗi ngày một khao khát Chúa hơn.
Vì sự khao khát, chúng ta sẽ dám dấn thân cho Chúa hơn. Khao khát và dấn thân trong nỗ lực từng ngày như thế, chúng ta sẽ nên những chứng tá đích thực trong đời thường mà mình đang sống. Vì một nguyên tắc không thể sai chạy trong việc truyền giáo: truyền giáo đòi phải có chứng tá, truyền giáo mới hiệu quả.