Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “WHY JUST WAR THEORY ALWAYS MATTERS”, nghĩa là “Tại Sao Lý Thuyết Chiến Tranh Chính Nghĩa Luôn Quan Trọng”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Tháng trước, tôi đã vinh dự phát biểu với Hiệp hội Civitas Dei, được tài trợ bởi Viện Thánh Tôma của Dòng Đa Minh hợp tác với Viện Sinh thái Nhân văn của Đại học Công Giáo. Vào thời điểm tôi phát biểu tại bữa tiệc bế mạc, hàng chục sinh viên đã dành ba ngày vật lộn căng thẳng với truyền thống chiến tranh chính nghĩa, tranh luận về các văn bản của các nhà cổ điển về chiến tranh chính nghĩa như Thánh Augustinô và Thánh Tôma Aquinas và các nhà lý thuyết chiến tranh chính nghĩa đương thời như Gregory Reichberg của Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo. Sau mức độ nghiêm trọng nặng nề đó, có lẽ sẽ có một chút nhẹ nhõm.

Nhưng trong thời điểm khó khăn của chúng ta, tôi hy vọng các sinh viên sẽ không bận tâm rằng, thay vì trình bày những câu chuyện cười và những giai thoại sau bữa tối thông thường, tôi sẽ cố gắng đưa việc đọc và thảo luận sôi nổi của họ vào một số vấn đề rất thực tế của thế kỷ XXI. Tôi sẽ tóm tắt chúng một cách tóm lược ở đây, vì những vấn đề này chắc chắn không chỉ dành cho các học giả.

Lối suy nghĩ chiến tranh chính nghĩa đã bị thay thế bởi “chủ nghĩa hòa bình chức năng” trong hầu hết các Giáo Hội Kitô ngày nay, ít nhất là trong hàng lãnh đạo các Giáo Hội.

Đây không phải là kết quả của một cam kết đạo đức đối với chủ nghĩa hòa bình cổ điển, theo đó chiến tranh về bản chất là xấu xa và việc từ chối tham gia vào bạo lực gây chết người là một mệnh lệnh của phúc âm, mà là do nhiều hình thức xu thời khác nhau của giáo hội. Kết quả cuối cùng của việc các Giáo Hội nhượng bộ phe cánh tả chính trị là khiến các nhà lãnh đạo tôn giáo phải rời khỏi cuộc đối thoại nghiêm chỉnh với các nhà hoạch định chính sách về các vấn đề chiến tranh và hòa bình, khiến họ phải ném những quả lựu đạn hùng biện mang tính mệnh lệnh từ khán đài.

Tuyên bố cho rằng “không có thứ gọi là chiến tranh chính nghĩa” là vô nghĩa một cách nguy hiểm.

Tuyên bố này nguy hiểm về mặt thần học, bởi vì lối suy nghĩ chiến tranh chính nghĩa dựa trên quy luật đạo đức tự nhiên, những sự thật được xây dựng trong thế giới và trong chúng ta mà chúng ta có thể nhận thức bằng lý trí. Những chân lý của luật luân lý tự nhiên là chân lý vĩnh viễn và không bị thay đổi bởi hoàn cảnh chính trị hay công nghệ, mặc dù những hàm ý của những chân lý đó sẽ tiến hóa theo thời gian.

Tuyên bố này nguy hiểm về mặt mục vụ vì cho rằng ngày nay không thể có “chiến tranh chính nghĩa” là một cách khác để nói rằng chiến tranh hiện đại về bản chất là xấu xa. Và nói như vậy là đặt một gánh nặng lương tâm không chính đáng lên những người Công Giáo nghiêm chỉnh trong lực lượng vũ trang - mà, trong trường hợp của Mỹ, có tỷ lệ người Công Giáo cao hơn nhiều so với dân số nói chung.

Tuyên bố này cũng khiến các nhà lãnh đạo tôn giáo trông có vẻ không nhất quán (ít nhất phải nói như thế) khi một mặt họ ca ngợi những người nam nữ trong quân đội vì lòng yêu nước và sự hy sinh quên mình của họ, mặt khác lại tuyên bố một “cuộc chiến tranh chính nghĩa” là không thể xảy ra.

Ví dụ rõ ràng về một cuộc chiến chính nghĩa ngày nay là cuộc chiến vì sự sống còn của quốc gia Ukraine chống lại sự xâm lược của Nga; Ngược lại, cuộc chiến của Nga là bất công cả về ý định lẫn cách hành xử.

Lối suy nghĩ về chiến tranh chính đáng không bắt đầu bằng “giả định chống lại chiến tranh”.

Thánh Tôma Aquinas không nghĩ như vậy và chúng ta cũng vậy. Điểm khởi đầu “giả định chống chiến tranh” đưa tiền đề của chủ nghĩa hòa bình vào lý thuyết chiến tranh chính nghĩa, sau đó biến tư duy chiến tranh chính nghĩa thành một loạt các vòng để các nhà lãnh đạo chính trị nhảy qua. Đúng hơn, lối suy nghĩ về chiến tranh chính nghĩa bắt đầu với trách nhiệm của cơ quan chính trị được thiết lập đúng đắn trong việc bảo đảm an ninh cho những người mà các quan chức nhà nước đảm nhận trách nhiệm. Đó là lý do tại sao một cuộc chiến tranh chính nghĩa là việc sử dụng sức mạnh quân sự để bảo vệ hoặc thúc đẩy thiện ích chung, đó là một trong những mục đích nếu không muốn nói đó chính là mục đích của chính trị. Clausewitz có thể đã sai về một số điều, nhưng ông đã đúng khi nói rằng chiến tranh là sự mở rộng của chính trị theo những cách khác. Nếu chiến tranh không nhằm mục đích tự vệ cho thiện ích chung, thì đó chỉ là sự tàn sát vô tâm.

Vậy nếu lối suy nghĩ chiến tranh chính nghĩa không phải là một loạt các bài kiểm tra mà các nhà đạo đức và các nhà lãnh đạo tôn giáo đặt ra cho các nhà lãnh đạo chính trị, thì nó là gì?

Lý thuyết chiến tranh chính nghĩa cung cấp một khuôn khổ cho sự phản ánh hợp tác của các nhà đạo đức, các nhà lãnh đạo tôn giáo, các nhà ngoại giao và các quan chức nhà nước trong việc suy nghĩ về các vấn đề khó khăn trong việc bảo đảm hòa bình trật tự—nền hòa bình bao gồm công lý, an ninh và tự do—trong một thế giới rối loạn: là thế giới này, bên này của Vương quốc sẽ đến trong vinh quang. Sự phản ánh đó đề cập đến việc làm thế nào để có thể hướng tới việc sử dụng lực lượng vũ trang một cách cân xứng và có cân nhắc nhằm đạt được trật tự hòa bình. Vì vậy, ngoài các tiêu chuẩn chiến tranh chính nghĩa cổ điển—ius ad bellum hay “luật quyết định chiến tranh” và ius in bello hay “luật tiến hành chiến tranh”—một lối suy nghĩ về chiến tranh chính nghĩa đã phát triển còn chứa đựng một ius ad Pacem: suy ngẫm về việc khôi phục hoặc tạo ra hòa bình.

Và không nên nhầm lẫn ius ad Pacem với lý thuyết “hòa bình công chính” đương thời, một dạng khác của chủ nghĩa hòa bình chức năng, tên của nó mang tính ký sinh trên các nguyên tắc chiến tranh chính nghĩa mà nó loại bỏ.

Source:First Things