Stephen P. White, trên Catholic Thing, ngày 7 tháng 3 nhận định rằng các cuộc chiến tranh văn hóa, giống như hầu hết các cuộc chiến tranh tiêu hao, đều là những vấn đề mệt mỏi và kiệt sức. Những giải thích cạnh tranh và không thể hòa giải về ý nghĩa của con người - và do đó, về mục đích đúng đắn của cuộc sống và hành động con người phải là gì - là nguồn gốc của những xung đột không ngừng, không chỉ trong nền chính trị của chúng ta mà còn trong cả Giáo hội nữa. Những điểm ma sát chói tai đó quen thuộc với hầu hết chúng ta; chúng đều ở xung quanh chúng ta.

Như George Weigel đã từng nói, “Chúa có thể không quan tâm đến cuộc chiến văn hóa, nhưng cuộc chiến văn hóa lại quan tâm đến Chúa - và mọi người khác”. Dòng chảy văn hóa của chúng ta không đi theo hướng lành mạnh hay nhân đạo (hoặc đúng mực), và nếu một người không ý thức được thủy triều đang chảy hoặc không muốn bơi ngược dòng, người đó có khả năng sẽ bị trôi dạt trên biển cả.

Trong trường hợp của người Mỹ chúng ta, vấn đề còn trở nên tồi tệ hơn bởi thực tế là dường như có quá ít người trong chúng ta thực sự hiểu được các điều khoản của cam kết. Tác giả không có ý nói rằng người Mỹ không biết gì về những vấn đề đặc thù tạo nên “các cuộc chiến tranh văn hóa”. Cũng không thiếu mầm bệnh. Rất nhiều người, từ cả hai phía, đều coi những xung đột khác nhau là những cuộc khủng hoảng cơ bản, thậm chí mang tính hiện sinh.

Nhưng rất ít người, ở cả hai phía, dường như có quan niệm rõ ràng về một nền văn hóa lành mạnh sẽ như thế nào nếu phe của họ “chiến thắng”. Chúng ta đã hiểu được điều tác giả muốn nói vào năm 2022, khi, sau khi đấu tranh để lật ngược vụ Roe kiện Wade trong 50 năm, phán quyết Dobbs đã cho thấy phong trào ủng hộ sự sống hoàn toàn không được chuẩn bị cho chiến thắng.

Đấu tranh trong cuộc chiến văn hóa có thể là cần thiết, thậm chí là cao cả. Nhưng người ta không bao giờ nên nhầm lẫn việc chiến thắng trong cuộc đấu tranh văn hóa với việc xây dựng một nền văn hóa xứng đáng với tên gọi. Điều sau khó khăn hơn nhiều.

Văn hóa là một trong những điều có xu hướng trở nên mờ nhạt hơn khi người ta xem xét nó kỹ hơn. Chúng ta ít nhiều đều biết văn hóa nghĩa là gì. Chúng ta nói về nó và nghe về nó liên tục. Trong Giáo Hội, chúng ta nói về nền văn hóa sự sống, nền văn hóa sự chết, nền văn hóa vứt bỏ. Tuy nhiên, đối với tất cả những điều này, văn hóa – cả nói chung và nói riêng – rất khó định nghĩa.

Ví dụ, người ta có ý gì khi nói về “văn hóa Mỹ”? Những người trong chúng ta bơi như cá trong vùng biển đặc biệt đó đều có một cảm thức nào đó về nó. Tuy nhiên, một người Texas và một người New York (hoặc, chẳng hạn, một người Công Giáo và một người theo phái Báp-tít) có thể mô tả nó rất khác nhau. Sự khác biệt cần có để mô tả chính xác ý nghĩa của văn hóa có thể khiến Chúa choáng váng.

Có sự nhất trí rộng rãi rằng văn hóa bao gồm, ở những mức độ khác nhau, tôn giáo, lịch sử, ngôn ngữ, ẩm thực, nghệ thuật, v.v. của một dân tộc. Chúng ta thường nói về chính trị và văn hóa một cách khác biệt (ví dụ: khi người ta nói “chính trị là hạ nguồn của văn hóa”). Tuy nhiên, rất khó để hình dung văn hóa Mỹ ngoài những trải nghiệm của người Mỹ (tốt và xấu) về chính trị và chính quyền tự trị. Chúng ta nói về các nền văn hóa phụ (hoặc đôi khi là Nền Văn hóa phụ) và văn hóa đại chúng và văn hóa bình dân.

Chủ Nhật Phục Sinh năm 1939 [Nhà thờ Thánh Patrick, New York]


Đã có những nền văn hóa Công Giáo đặc trưng trong suốt lịch sử. Bắc Phi Rôma có một nền, nhưng đã qua lâu rồi. Châu Âu có một nền. Hay đúng hơn là đã có một nền. Ở nhiều nơi ở Châu Âu, nền văn hóa Công Giáo của nó giống như một bông hoa bị cắt: vẫn đẹp nhưng đã bị cắt khỏi rễ sống của nó.

Văn hóa Mỹ, như nó vốn có, chưa bao giờ thực sự là Công Giáo. Chúng ta có nhiều nền văn hóa Công Giáo, một số trong đó đang phát triển mạnh. Phần lớn lịch sử Công Giáo Hoa Kỳ thế kỷ 20 là câu chuyện về sự xuất hiện của chúng ta từ các nền văn hóa phụ Công Giáo (phần lớn là thành thị, dân tộc, người nhập cư) để đi vào cao nguyên đầy nắng của dòng chính Hoa Kỳ. Chúng ta đến, chúng ta nỗ lực, chúng ta được thẩm hóa.

Joe Biden có thể được mô tả là di tích cuối cùng còn sót lại của quá trình thẩm hóa của Công Giáo Thế kỷ 20: sự phong thần Công Giáo “Boomer”. Phong cách Công Giáo Mỹ đó là điển hình của một thời đại đã trôi qua từ lâu. Tuy nhiên, nó cũng đại diện cho một thời điểm lịch sử trong đó, ít nhất là về bề ngoài, đạo Công Giáo Mỹ vừa Công Giáo một cách dễ nhận thấy vừa cảm thấy thoải mái nhất trong nền văn hóa Mỹ.

Đối với những người Công Giáo quan tâm đến văn hóa, điều đó đáng để suy gẫm. “Chiến thắng” trong cuộc chiến văn hóa sẽ như thế nào? Sự trở lại hiện trạng trước đây? Ngay cả khi điều đó có thể xảy ra, nhưng rõ ràng là không, tác giả không chắc có ai mong muốn quay trở lại thời kỳ mà Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ đang ở đỉnh cao ảnh hưởng văn hóa nếu điều đó đồng nghĩa với việc mất đi tính khác biệt giống như quá nhiều muối vô vị.

Nếu không trở lại, thì sao? Chúng ta nghĩ chúng ta đang cố gắng xây dựng loại văn hóa nào? Mục tiêu là gì? Tác giả không giả vờ có câu trả lời rõ ràng cho những câu hỏi này, nhưng dù sao thì chúng cũng quan trọng.

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy nghĩ và giảng dạy về văn hóa nhiều như bất cứ vị giáo hoàng nào. Đối với ngài, văn hóa vừa là nguyên nhân hoạt động của con người vừa là một sản phẩm. Quan điểm của ngài được định hình rõ ràng bởi kinh nghiệm dân tộc Ba Lan: một nền văn hóa Công Giáo đặc trưng đã hỗ trợ, định hình và hướng dẫn dân tộc Ba Lan ngay cả khi không có nhà nước Ba Lan.

Theo nghĩa này, văn hóa là một điều gì đó phát triển một cách hữu cơ, trong một thời gian dài. Văn hóa không phải là thứ do người ta thiết kế và hiếm khi chỉ đạo; đó là một di sản quý giá. Và nó mang trong mình sức ì của ký ức có khả năng đoàn kết một dân tộc ngay cả khi vượt qua những khó khăn gần như không thể tin được.

Trong văn hóa, cũng như trong Giáo hội, sự tăng trưởng và đổi mới chủ yếu đến từ cách sống của con người – những điều chúng ta trân trọng và những tình yêu mà chúng ta vun trồng. Điều này cần có thời gian. Thông thường, phải mất nhiều thế hệ. Và có lẽ đó là khởi đầu của một câu trả lời: để xây dựng một nền văn hóa xứng đáng với tên gọi, chúng ta phải trân trọng những con người và của cải vượt quá chúng ta, cống hiến mạng sống của mình vì lợi ích của những người sẽ tồn tại lâu hơn và kế vị chúng ta - và để tạ ơn Đấng duy nhất nâng đỡ chúng ta.