J.D. Flynn của The Pillar, ngày 20 tháng 1, 2024, tường trình nguyên văn rằng: "Hôm thứ Hai, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp kiến Hiệp hội Nhà báo Quốc tế bên cạnh Tòa Thánh, một tổ chức được thành lập vào năm 1978 mà trước đây chưa từng có cuộc gặp mặt chính thức nào với Giám mục Rôma.



Bài phát biểu được chuẩn bị trước của Đức Giáo Hoàng cho cuộc gặp mặt đã cảm ơn cơ quan báo chí Vatican vì sự cống hiến của họ trong việc đưa tin về Vatican và đã hy sinh để làm điều đó. Bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng thậm chí còn nói rằng làm nhà báo là một ơn gọi, các phóng viên chọn 'chạm vào vết thương của xã hội và thế giới một cách bản vị', và khi làm như vậy là yêu thương thế giới.

Tất cả đều rất tốt đẹp. Nhưng ngay sau khi được công bố, bài phát biểu đã thu hút sự chú ý hoàn cầu, không chỉ vì giáo hoàng đã nói những điều tốt đẹp về các nhà báo.

Đúng hơn, những nhận xét của Đức Giáo Hoàng đã “được loan truyền” sau khi Frank Rocca của tờ Wall Street Journal đăng tweet phần bài phát biểu trong đó Đức Giáo Hoàng cảm ơn cơ quan báo chí Vatican vì 'sự tế nhị mà các bạn thường sử dụng khi nói về các vụ tai tiếng trong Giáo hội: có rất nhiều [tai tiếng] và tôi thường thấy ở các bạn một sự tế nhị tuyệt vời, một sự tôn trọng, một sự im lặng gần như - tôi có thể nói - 'đáng xấu hổ' [shameful silence]: cảm ơn các bạn vì thái độ này.'

Tôi nên lưu ý rằng bản dịch tiếng Anh chính thức, được công bố vài giờ sau đó, đã sử dụng cụm từ 'sự im lặng bối rối' [abashed silence].

Trong cả hai trường hợp, phần của bài phát biểu đều gây tranh cãi: Cảm ơn các bạn, các phóng viên – bài phát biểu của Đức Giáo Hoàng nói – vì đã đưa tin về vụ bê bối của giáo hội một cách 'tế nhị' và với một kiểu 'im lặng'.

Bây giờ, tôi nghĩ có lẽ Đức Giáo Hoàng muốn nói rằng ngài đánh giá cao việc các nhà báo đã chọn cách đưa tin về các vụ tai tiếng lạm dụng một cách thận trọng liên quan đến những chi tiết sơ sài nhất về hành vi sai trái tình dục. Quả thực, đó là một quyết định mà những phóng viên như tôi thường xuyên phải vật lộn.

Khi báo cáo về cáo buộc lạm dụng và hành vi sai trái, điều có giá trị là cung cấp các chi tiết cụ thể, hữu hình. Những chi tiết đó giúp củng cố độ tin cậy của một câu chuyện. Chúng cũng có thể giúp các nạn nhân khác của lạm dụng tình dục suy nghĩ về trải nghiệm của chính họ và nói công khai về chúng. Và chúng giúp các nhà lãnh đạo Giáo hội xác định các khuôn mẫu và điểm yếu.

Và để công bằng cho bị cáo, tốt hơn hết là nên công khai các chi tiết của cáo buộc, để nếu họ muốn bác bỏ chúng, họ có thể giải quyết chúng một cách chuyên biệt, thay vì chỉ phủ nhận một khái niệm mơ hồ về 'hành vi sai trái' hoặc 'hành vi thiếu thận trọng'.

Nhưng đồng thời, người ta muốn tránh viết một cách tục tĩu hoặc với những chi tiết ghê gớm về cáo buộc lạm dụng, theo cách thiếu tôn trọng nạn nhân hoặc tạo ra một cảnh tượng về một sự kiện được cho là có thể gây chấn thương sâu xa.

Vì vậy, có sự cân bằng ở đó, và tôi nghĩ có thể Đức Giáo Hoàng đang cố gắng nhận ra điều đó.

Nhưng bài phát biểu đã không đề cập cách đó đối với nhiều nhà báo hoặc đối với hầu hết những người Công Giáo khác chú ý đến nó.

Và lý do có thể rất rõ ràng – dựa trên thành tích không rõ ràng trong quá khứ của Đức Giáo Hoàng về các quyết định liên quan đến lạm dụng, những sai lầm được thừa nhận của ngài trên mặt trận đó và cách Vatican xử lý các trường hợp như của Giám mục Gustavo Zanchetta, Hồng Y Jean-Pierre Ricard và Cha Marko Rupnik, không có bằng chứng rõ ràng cho thấy Đức Giáo Hoàng có cam kết đối với kiểu minh bạch mà người Công Giáo đã kêu gọi trong những năm gần đây.

Thật vậy, quy trình cải cách và trách nhiệm giải trình đặc trưng của Đức Giáo Hoàng - Vos estis lux mundi [các con là ánh sáng thế gian]- thiếu sự minh bạch thực sự đến mức thực tế không làm gì để đảm bảo với người Công Giáo rằng việc lạm dụng và việc che đậy nó đang được các quan chức giáo hội điều tra và xử lý nghiêm túc.

Khi một vị giáo hoàng bị chỉ trích vì không thiết lập được các quy trình minh bạch, việc khen ngợi 'sự im lặng đáng xấu hổ' của các phóng viên khó có thể nhận được sự đánh giá cao.

Cùng với đó là thực tế là trong báo cáo về McCarrick của Vatican, ít nhất một thành viên của cơ quan báo chí Vatican thừa nhận rằng ông đã không theo đuổi những tin đồn về cựu Hồng Y Theodore McCarrick vì ông lo ngại, một phần, về việc mất vị Hồng Y như một nguồn. Sự thừa nhận đó đã khiến một số nhà phê bình suy đoán rằng đoàn báo chí được thành lập của Vatican không phải lúc nào cũng sốt sắng trong việc đưa tin về các hành vi lạm dụng và hành vi sai trái - và đối với một số người, lời khen ngợi của Đức Giáo Hoàng đối với sự thận trọng của họ dường như đã xác nhận các giả thuyết về mối quan hệ cộng sinh qua lại giữa những người của Đức Giáo Hoàng và các phóng viên tòa án địa phương.

Về bối cảnh của tất cả những điều này, tôi muốn trực tiếp nói với các bạn một điều mà có lẽ các bạn đã biết: Trong khi Đức Giáo Hoàng ca ngợi các nhà báo và kêu gọi họ thực hiện công việc điều tra trong Giáo hội, thì việc đánh giá cao công việc đó không phải là điều phổ biến trong Giáo hội.

Khi nghĩ về cuộc cải cách và đổi mới của Giáo hội, tôi được gây dựng bởi số lượng giám mục đã đọc The Pillar và bày tỏ sự đánh giá cao về cam kết của chúng tôi trong việc điều tra các hành vi lạm dụng, che đậy và hành vi sai trái của các nhà lãnh đạo giáo hội. Tôi cảm thấy được khích lệ khi họ thường xuyên bảo chúng tôi “hãy tiếp tục”, vì điều đó có thể biểu thị sự cam kết của chính họ đối với việc quản lý tốt các giáo phận của họ.

Nhưng tôi cũng có thể nhớ lại thời điểm một quan chức cấp cao của Vatican khiển trách tôi vì đã 'làm tổn thương Giáo hội' bằng cách báo cáo sự hiện hữu của một cuộc điều tra Vos estis lux mundi. Ngài hỏi tôi tại sao, nếu tôi thực sự là một người Công Giáo yêu mến Giáo hội, tôi lại 'làm xấu hổ' Giáo Hội khi đưa tin về việc một giám mục đang bị điều tra.

Và tôi nghĩ về những gì đã xảy ra cách đây vài năm, sau khi The Pillar đưa tin về hành vi sai trái của một quan chức giáo hội cấp cao ở vị trí lãnh đạo. Ngay sau đó, một giám mục người Mỹ đã tiếp cận riêng với tôi để nói rằng việc báo cáo như vậy có thể hủy hoại cuộc sống của mọi người - và rằng nếu cuối cùng một giáo sĩ tự kết liễu đời mình vì việc chúng tôi báo cáo về hành vi sai trái của ngài, thì đó sẽ là trách nhiệm của chúng tôi phải gánh chịu trước Thiên Chúa, trong sự phán xét chúng tôi.

Tôi cám ơn vị giám mục về ý kiến phản hồi và xin ngài ban phước lành, nhưng tôi không đồng ý với ngài, như các bạn có thể tưởng tượng rõ ràng.

Tôi kể cho các bạn nghe những câu chuyện đó bởi vì đối với tôi, dường như chúng là bối cảnh cho cách giải thích những nhận xét của Đức Giáo Hoàng ở một số khía cạnh.

Trong một Giáo hội mà việc nói sự thật có thể bị coi là một hành động nổi loạn hoặc bất tuân, lời khen ngợi của Đức Giáo Hoàng đối với việc ‘im lặng’ trước cuộc khủng hoảng đạo đức lạm dụng dường như không bao giờ có kết quả tốt đẹp.

Tất nhiên, tôi không phải là thành viên của Hiệp hội Nhà báo Quốc tế được Vatican công nhận. Tôi biết một số nhà báo rất giỏi. Nhưng Đức Giáo Hoàng đã không nói chuyện với The Pillar trong trường hợp này. Tôi không chắc liệu ngài có khen ngợi công việc của chúng tôi hay không.

Chúng tôi nghĩ là có. Và do đó, cung cách ngài giải quyết các tai tiếng lạm dụng rõ ràng theo một tiến trình càng ngày càng minh bạch và nghiêm khắc. Trong tư cách Giáo Hoàng, tiếng nói của ngài buộc phải có những cung giọng khác nhau, ở đây, ngài nói với các nhà báo nói chung, không hẳn nói với “con cái trong nhà”, những người ngài biết rõ lòng chân thành.