1. Bàn thờ bị phá hoại, bình thánh bị đánh cắp từ Vương cung thánh đường Thánh Tâm ở Pháp

Trong đêm 14 rạng sáng 15 tháng 11, những người không rõ danh tính đã phá hủy bàn thờ và lấy trộm các bình thánh từ Vương cung thánh đường Thánh Tâm thuộc Tổng giáo phận Rouen, Pháp.

Theo tờ báo Pháp Le Figaro, văn phòng công tố xác nhận rằng vương cung thánh đường Thánh Tâm đã bị phá hoại và những người không rõ danh tính cũng đã đập vỡ một bức tượng, mặc dù Mình Thánh Chúa không bị đánh cắp.

Chính quyền vẫn chưa xác định được những kẻ phá hoại, nhưng cảnh sát địa phương đã mở cuộc điều tra để tìm ra họ.

Trong một đoạn video được đăng vào ngày X ngày 15 tháng 11, Cha Geoffroy de la Tousche, linh mục của các giáo xứ ở trung tâm thành phố Rouen, giải thích rằng tình trạng của vương cung thánh đường là “hoàn toàn kinh khủng: một bức tượng bị vỡ, các bình thánh bị đánh cắp, cung thánh bị phá hủy và nhiều thứ bị hư hỏng nặng.”

Ngài nói thêm: “Do tình cờ, ân sủng hay sự quan phòng, Mình Thánh Chúa không bị đánh cắp, nhưng mọi thứ đã bị bỏ lại trong tình trạng kinh hoàng và bi thảm”.

“Tôi mời gọi anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, cho giáo xứ và tôi khuyến khích anh chị em hãy cầu nguyện đền tạ, theo yêu cầu của Đức Tổng Giám Mục Dominique Lebrun”

Cha De la Tousche nói thêm rằng sau khi cầu nguyện, Thánh lễ sẽ được cử hành với các bình thánh được Đức Tổng Giám Mục cho mượn, và sau đó sẽ diễn ra hai giờ chầu Thánh Thể.

Một báo cáo gần đây của Đài quan sát về sự không khoan dung và phân biệt đối xử đối với các Kitô hữu ở Âu Châu chỉ ra rằng Pháp đứng thứ ba về tội ác căm thù đối với tôn giáo, nhất là đối với các Kitô hữu vào năm 2022, với 106 trên tổng số 748 vụ tấn công vào các nơi công cộng.


Source:Catholic News Agency

2. Tính đồng nghị và sự mỉa mai trong vụ cách chức Đức Cha Strickland

Vụ cách chức Đức Cha Strickland đang gây ra rất nhiều tranh cãi, đặc biệt là trong Giáo Hội tại Hoa Kỳ.

Phil Lawler của Catholic World News có bài nhận định nhan đề “Synodality and the Strickland case”, nghĩa là “Tính đồng nghị và trường hợp Đức Cha Strickland”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Túy Vân.

Sau một tháng Vatican nhất quyết lắng nghe mọi quan điểm, thật là mỉa mai khi tin tức lớn tiếp theo là việc cách chức một giám mục người Mỹ, rõ ràng là vì ngài đã nói quá nhiều. Nhưng đừng bận tâm đến những thông điệp lẫn lộn. Việc cách chức Đức Cha Joseph Strickland có thể gây tổn hại cho chính nghĩa của thẩm quyền thượng hội đồng theo một cách quan trọng khác.

Trong thông báo ngắn gọn về việc cách chức giám mục, Vatican đã không giải thích lý do tại sao Giám mục Strickland phải ra đi. Những thông báo như vậy từ Rôma không bao giờ đi kèm với lời giải thích. Vì vậy, khi một giám mục ra đi trước tuổi nghỉ hưu thông thường, các tín hữu sẽ tự hỏi: ngài đã bước xuống hay bị gạt ra? Phải chăng ngài bị buộc phải từ chức vì một căn bệnh hiểm nghèo nào đó, hay vì sắp bị phát hiện một hành vi sai trái nghiêm trọng nào đó? Vì những lý do, mà tôi không thể giải thích được, Vatican không phân biệt giữa các giám mục đã phản bội lòng tin của mình và những người chỉ đơn giản là ngã bệnh. Phải chăng đó là một ác cảm kinh niên đối với sự minh bạch?

Trong trường hợp của Đức Cha Strickland, chúng ta biết rằng ngài đã bị gạt ra vì ngài đã tuyên bố trước đó rằng ngài sẽ không từ chức theo yêu cầu của Tòa Thánh. Nhưng chính ngài cũng nói rằng ngài không hoàn toàn rõ ràng về lý do khiến Vatican nhất quyết yêu cầu ngài không được lãnh đạo Giáo phận Tyler, Texas nữa.

Sau thông báo này, một số người chỉ trích vị giám mục cho rằng ngài bị cách chức không phải vì lý do rõ ràng là ngài đã chỉ trích thẳng thắn Đức Giáo Hoàng Phanxicô, mà vì thành tích kém cỏi của ngài trong việc quản lý giáo phận. Quan điểm đó càng được củng cố bởi lời khai của một linh mục từ Tyler, là người đã tuyên bố rằng nhiều người Công Giáo ở Texas đã bị tổn hại bởi những thiếu sót trong việc cai quản của Đức Cha Strickland. Nhưng những lời phàn nàn khác từ các tín hữu Tyler rất khó tìm thấy, trong khi ít nhất một giáo dân trung thành mô tả việc loại bỏ vị giám mục là một cú đấm mạnh mẽ.

Đúng là Đức Cha Strickland không có bằng thạc sĩ về quản trị kinh doanh. Nhưng thực sự chúng ta mong đợi điều gì từ một giám mục về mặt quản lý giáo phận? Tình hình tài chính của giáo phận Tyler rõ ràng là ổn định. Nhưng thước đo tốt hơn về khả năng lãnh đạo của giám mục sẽ là số lượng chủng sinh trong giáo phận. Nếu như thế Đức Cha Strickland đã thành công rực rỡ; có nhiều thanh niên từ Giáo phận Tyler bé nhỏ đang học làm linh mục hơn là từ một số tổng giáo phận lớn nhất nước Mỹ. Rõ ràng, những thiếu sót được cho là của vị giám mục với tư cách là người quản lý đã không ngăn cản những người đàn ông này muốn phục vụ trong giáo phận của mình.

Nhưng khi Giám mục Strickland thảo luận về việc loại bỏ ngài với Raymond Arroyo trên chương trình phát sóng “The World Over” của EWTN, ngài đã báo cáo rằng các vấn đề hành chính (thực sự hay tưởng tượng) không xuất hiện trong vụ kỷ luật của Vatican chống lại ngài. Ngài nói rằng ngài đã bị cách chức vì “thiếu tình huynh đệ với các giám mục anh em của tôi”. Nói cách khác, ngài không phải là một cầu thủ của đội.

Đúng vậy, Giám mục Strickland có tiếng nói mạnh mẽ hơn nhiều so với các giám mục Mỹ khác. Những bình luận công khai gây tranh cãi của ngài – đặc biệt là việc ngài tham gia vào mạng xã hội và xu hướng “thích” các bài đăng thể hiện quan điểm thậm chí còn gây tranh cãi hơn – chắc chắn đã khiến các giám mục khác khó chịu. Những phát biểu của ngài thường có vẻ bốc đồng, thiếu chính trị, thiếu thận trọng. Có lẽ các giám mục khác lẽ ra phải khuyên ngài nên thận trọng hơn. Có lẽ một số vị đã làm như thế, một cách lặng lẽ. Nhưng ít nhất theo Đức Giám Mục Strickland, mối quan hệ của ngài với các giám mục Mỹ khác luôn thân mật.

Phải chăng ngài đã lạc nhịp với đoàn thể các giám mục. Đúng. Nhưng Đức Giám Mục Strickland sẽ nhấn mạnh rằng việc bảo vệ đức tin quan trọng hơn việc giữ vững bước đi. Thánh Athanasiô không phải là một cầu thủ có tinh thần đồng đội. Các giám mục người Anh dưới thời Henry VIII đã duy trì sự hiệp nhất của họ - tất cả trừ Thánh John Fisher.

Trong những trường hợp hiếm hoi, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI đã loại bỏ các giám mục vi phạm tính đồng đoàn của hàng Giám Mục khi đặt câu hỏi về những điểm cơ bản của giáo huấn Công Giáo. Trong trường hợp này, có vẻ như Đức Thánh Cha Phanxicô đã cách chức Giám mục Strickland vì ngài quá ồn ào trong việc bảo vệ giáo lý Công Giáo.

Trường hợp Đức Cha Strickland đặt ra một câu hỏi nghiêm chỉnh: Hành vi nào là thích hợp đối với một giám mục, khi ngài tin rằng giáo lý Công Giáo đang bị tấn công? Nếu ngài tin rằng Giám mục Rôma đang gây nguy hiểm cho đức tin thì sao? Công đồng Giêrusalem, có lẽ là kiểu mẫu của chính quyền đồng nghị, tại đó Thánh Phaolô đã không ngần ngại đối đầu với Thánh Phêrô. Nếu tin rằng các chính sách của Đức Giáo Hoàng là sai lầm, thì người kế vị các tông đồ không chỉ có quyền mà còn có nghĩa vụ phải lên tiếng. Nếu những lời chỉ trích của Giám mục Strickland không đúng mục tiêu thì các giám mục khác có nhiệm vụ phải nói như vậy. Đây chẳng lẽ không phải chính xác là kiểu trao đổi cởi mở đã được tán thành một cách chân thành tại Thượng hội đồng về Tính đồng nghị sao?

Giám mục Strickland, người đã nghiên cứu giáo luật, thừa nhận rằng Đức Giáo Hoàng có thẩm quyền loại ngài ra khỏi chức vụ. Các nhà giáo luật khác không đồng ý, cho rằng một giám mục giáo phận chỉ có thể bị cách chức “có lý do” sau một thủ tục giáo luật chính thức. Câu hỏi rõ ràng đề cập đến bản chất cơ bản của thẩm quyền của Giáo hoàng đối với giám mục đoàn - nghĩa là, bản chất của chính quyền đồng nghị.

Như tôi đã quan sát trước đây, các giáo hội Đông phương rất tự hào về chính quyền đồng nghị của họ:

Mỗi Giáo hội Chính thống độc lập được điều hành bởi Thượng hội đồng Giám mục riêng. Các thượng hội đồng bổ nhiệm các giám mục mới, đặt ra các chính sách giáo hội và bầu các Thượng Phụ đóng vai trò “đầu tiên trong số những người bình đẳng” trong việc quản trị. Chúng ta biết rằng phương thức quản trị này tương thích với Công Giáo, bởi vì các giáo hội Đông phương hiệp thông hoàn toàn với Rôma – Công Giáo Ukraine, Công Giáo Maronite, Công Giáo Syro-Malabar, v.v. – đều có công nghị riêng của họ.

Bây giờ hãy tưởng tượng các giáo hội Đông phương – tự hào về các công nghị của họ, nhiệt thành bảo vệ truyền thống chính thống và nghi ngờ về quyền tối thượng của giáo hoàng – nhìn nhận trường hợp này như thế nào. Một Giáo hoàng Rôma, sử dụng quyền lực của mình mà không giải thích hay tham khảo ý kiến, đã cách chức một giám mục vì vị Giám Mục đó nghi ngờ sự lãnh đạo của Giáo hoàng. Trường hợp này là một bước thụt lùi cả về tính đồng nghị lẫn phong trào đại kết.


Source:Catholic World News

3. Đức Tổng Giám Mục biện minh cho việc treo cờ đồng tính trên quan tài ở nhà thờ chính tòa Thủ đô Mễ Tây Cơ

Phó chủ tịch Hội đồng Giám mục Mexico, Đức Tổng Giám Mục Gustavo Rodríguez Vega, đã biện minh cho việc treo cờ LGBT trên quan tài của một nhà hoạt động đồng tính và bạn đời của ông ta trong lễ tang của họ được tổ chức tại nhà thờ Aguascalientes, bất chấp các tai tiếng mà điều này đã gây ra giữa các tín hữu..

Cả hai thi thể đều được tìm thấy với dấu hiệu bạo lực bên trong nhà của Baena vào ngày 13 tháng 11. Văn phòng tổng chưởng lý bang Aguascalientes đưa tin ngày hôm đó rằng “mọi thứ cho thấy đó có thể là vấn đề cá nhân” vì “một dụng cụ sắc bén” được tìm thấy trong tay của một trong những người đã chết. Cho đến nay, chính quyền Mễ Tây Cơ cho rằng hai người hục hặc với nhau và đã qua đời sau một cuộc ẩu đả trong nhà họ.

Trong một cuộc họp báo được tổ chức vào ngày 16 tháng 11, Đức Cha Rodríguez, cũng là tổng giám mục của Yucatán, đã chỉ ra rằng Baena và đối tác của ông là “con cái của Chúa và anh em của chúng ta” và vì vậy “chúng tôi không thể, bằng bất kỳ cách nào, không tiếp nhận họ trong nhà thờ. Đặc biệt là khi gia đình muốn họ được đưa đến đó.”

Khi được ACI Prensa, đối tác tin tức tiếng Tây Ban Nha của CNA hỏi, về việc đặt các lá cờ, Đức Tổng Giám Mục nhận xét rằng “nếu họ đặt những lá cờ đó, điều đó có ý nghĩa rất lớn đối với họ, thì chúng tôi tôn trọng điều đó”.

Phó chủ tịch hội đồng giám mục tiếp tục: “Không có vấn đề gì”, bởi vì “không có ý định xúc phạm bất cứ ai”.

Cờ LGBT có được trưng bày trong Thánh lễ an táng không?

Trong một cuộc phỏng vấn ngày 15 tháng 11 với ACI Prensa, Cha Francisco Torres Ruiz, một chuyên gia về phụng vụ của Giáo phận Plasencia ở Tây Ban Nha, đã giải thích rằng “không được phép đặt bất kỳ loại biểu tượng nào trong Thánh lễ an táng, đặc biệt khi biểu tượng đó đại diện cho các ý thức hệ trái với nhân học Kitô giáo, nghĩa là khi họ chống lại đức tin.”

“Điều được thừa nhận là khi chôn cất một nguyên thủ quốc gia hoặc một quân nhân, người đó có nghi thức riêng, đặt quốc kỳ, quốc kỳ của đất nước lên quan tài. Nhưng không bao giờ một lá cờ làm mất đi nơi thiêng liêng đó là nhà thờ.”


Source:Catholic News Agency

4. Tại sao người Công Giáo không thể tham gia Hội Tam điểm?

Bộ Giáo lý Đức tin, gọi tắt là DDF của Vatican trả lời câu hỏi của một giám mục người Phi Luật Tân gần đây đã tái khẳng định quan điểm lâu đời của Giáo Hội Công Giáo rằng việc trở thành một Hội viên Tam điểm tích cực sẽ cấu thành một tội trọng.

“Việc một thành viên tín hữu tích cực tham gia Hội Tam điểm bị cấm,” bức thư có chữ ký của Đức Thánh Cha Phanxicô và Đức Hồng Y Tổng trưởng DDF Victor Fernández cho biết.

Bộ đã gửi thư cho Đức Giám Mục Julito Cortes của Giáo phận Dumaguete, người đã yêu cầu Vatican hướng dẫn đường lối khi một số lượng “rất đáng kể” người Công Giáo Phi Luật Tân ghi danh tham gia Hội Tam điểm và “một số lượng lớn những người có cảm tình và cộng sự bị thuyết phục về mặt cá nhân” rằng không có sự đối lập nào giữa tư cách thành viên trong Giáo Hội Công Giáo và các hội viên Tam điểm”, theo tài liệu của Bộ.

Ngoài việc tái khẳng định giáo huấn của Giáo hội về Hội Tam điểm, Bộ còn khuyến khích các giám mục Phi Luật Tân tiến hành dạy giáo lý giải thích lý do tại sao Công Giáo và Hội Tam điểm là không thể hòa giải được.

Tại sao Giáo hội chống lại Hội Tam điểm?

Sự lên án đầu tiên từ một vị Giáo hoàng đối với Hội Tam điểm là của Đức Giáo Hoàng Clementê 12 vào năm 1738, và đã được nhiều vị giáo hoàng khác nhắc lại trong ba thế kỷ qua. Lời tuyên bố được đưa ra trong Tự Sắc của Đức Giáo Hoàng Clementê có tựa đề In Eminenti.

Trong Tự Sắc này, Đức Clementê đã bình luận về sự bí mật của các nhóm Tam Điểm và “hàng loạt hình phạt đau buồn” phải nhận khi vi phạm lời thề giữ bí mật. Tự Sắc không đi sâu vào nhiều phản đối cụ thể đối với các hoạt động của Hội Tam điểm nhưng kết luận, dựa trên “kiến thức nhất định và sự cân nhắc chín chắn”, rằng “tất cả những người đàn ông khôn ngoan và ngay thẳng đều đưa ra phán xét giống nhau về họ là những kẻ đồi trụy và hư hỏng”.

Gần 150 năm sau, Đức Giáo Hoàng Lêô 13 đã mở rộng đáng kể giáo huấn của Giáo hội trong thông điệp Humanum Genus năm 1884 của ngài. Thông điệp trình bày chi tiết lý do tại sao Hội Tam điểm không thể hòa giải với Công Giáo và cáo buộc các Hội Tam điểm “lên kế hoạch phá hủy Giáo hội thánh thiện một cách công khai và bí mật” cũng như cổ vũ các học thuyết trái ngược với giáo huấn của Giáo hội.

Theo Đức Giáo Hoàng Lêô, Hội Tam điểm tuân theo chủ nghĩa tự nhiên, mà ngài nói đó là ý tưởng rằng “bản chất con người và lý trí của con người trong mọi việc phải là người tình và người hướng dẫn ta”. Ngài nói thêm rằng “họ phủ nhận rằng bất cứ điều gì đã được Chúa dạy; họ không chấp nhận giáo điều tôn giáo hay chân lý nào mà trí tuệ con người không thể hiểu được, cũng như không chấp nhận bất kỳ vị thầy nào lẽ ra phải được tin tưởng vì thẩm quyền của người ấy.”

Thông điệp đào sâu hơn về chủ nghĩa tự nhiên của Hội Tam điểm, trong đó lưu ý rằng theo Hội Tam điểm, mọi người thuộc mọi tôn giáo đều có thể trở thành Hội viên Tam điểm và tôn giáo “được coi là một vấn đề không quan trọng và tất cả các tôn giáo đều giống nhau”, điều này hủy hoại “mọi hình thức tôn giáo, và đặc biệt là Công Giáo”, vì đó là điều duy nhất đúng nên không thể được coi là ngang bằng với các tôn giáo khác.”

Đức Giáo Hoàng Lêô Leo nói rằng các Hội viên Tam điểm mong muốn thế tục hóa hôn nhân chỉ đơn giản là những hợp đồng dân sự, mong muốn trẻ em được phép lựa chọn tôn giáo của riêng mình khi chúng đến tuổi thay vì nhận được sự hướng dẫn tôn giáo phù hợp. Tam điểm cũng mong muốn các chính phủ từ chối công nhận Chúa. Ông nói thêm rằng việc thế tục hóa được đề xuất này nhằm mục đích loại bỏ những sự thật cơ bản khỏi xã hội.

Ngài nói: “Nếu những điều này bị loại bỏ, như những người theo chủ nghĩa tự nhiên và những người theo chủ nghĩa Tam điểm, sẽ ngay lập tức không có kiến thức về điều gì tạo nên công lý và bất công, hoặc nền tảng đạo đức dựa trên nguyên tắc nào”. “Và, trên thực tế, việc giảng dạy về đạo đức được phe Tam điểm ưa chuộng và trong đó họ cho rằng thanh thiếu niên nên được hướng dẫn, chính là điều mà họ gọi là 'dân sự', 'độc lập' và 'tự do', tức là thứ không chứa đựng bất kỳ niềm tin tôn giáo nào.”

Những hành động và thực hành nào của Hội Tam điểm thúc đẩy chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa thờ ơ?

Hội Tam điểm không coi họ là một tôn giáo; đúng hơn, họ chấp nhận thành viên từ nhiều tôn giáo khác nhau, bao gồm Hồi giáo, Do Thái giáo và Kitô giáo. Tuy nhiên, các Hội Tam điểm có bàn thờ tại nơi ở của họ, họ tham gia vào các nghi lễ bí mật và họ cầu nguyện theo một quan niệm chung về Chúa, mà họ thường gọi là “Kiến trúc sư vĩ đại của vũ trụ”.

Bản thân thực hành này đã thúc đẩy chủ nghĩa thờ ơ về tôn giáo, nhưng Hội Tam điểm rất phi tập trung hóa và không tuân theo một nội dung văn bản cụ thể nào tuyên bố tất cả các tôn giáo đều bình đẳng. Tuy nhiên, một số nhóm Hội Tam điểm nổi bật và có ảnh hưởng lại ủng hộ rõ ràng hơn thái độ thờ ơ với tôn giáo.

Albert Pike, người chỉ huy tối cao của hội đồng tối cao về thẩm quyền phía nam của Nghi thức Hội Tam điểm Tô Cách Lan vào cuối những năm 1800, đã viết một cuốn sách có tên “Đạo đức và Giáo điều”, được trao cho các Hội viên Tam điểm. Các bài viết của ông rút ra những mối liên hệ được cho là giữa các tôn giáo khác nhau và thúc đẩy chủ nghĩa thờ ơ.

Pike nói: “Chúng tôi không đánh giá thấp tầm quan trọng của bất kỳ sự thật nào. Chúng tôi không thốt ra lời nào có thể bị coi là thiếu tôn trọng bởi bất kỳ ai thuộc bất kỳ tôn giáo nào. Chúng tôi không nói với người Hồi giáo rằng điều quan trọng đối với anh ta là tin rằng chỉ có một Thiên Chúa duy nhất, và việc Muhammad có phải là nhà tiên tri của anh ta hay không là điều hoàn toàn không cần thiết. Chúng ta không nói với người Do Thái rằng Đấng Messia mà họ mong đợi đã sinh ra ở Bêlem gần hai nghìn năm trước; và rằng anh ta là một kẻ dị giáo vì anh ta đã không tin như vậy. Và chúng ta cũng không nói với các tín hữu Kitô chân thành rằng Chúa Giêsu người Nagiarét chỉ là một người như chúng ta, hoặc lịch sử của ngài chỉ là sự hồi sinh không có thực của một truyền thuyết xa xưa hơn.”

Hội Tam điểm cũng đã sử dụng ảnh hưởng chính trị trên khắp Âu Châu và Mỹ Châu trong nhiều thế kỷ để thúc đẩy quá trình thế tục hóa xã hội và làm giảm ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo.

Ví dụ, trong thông điệp Etsi Multa năm 1873, Chân phước Giáo hoàng Pius thứ 9 đã trình bày chi tiết các cuộc tấn công chính trị của Tam điểm vào Giáo hội ở Ý, Thụy Sĩ và Đức. Ngài gọi “sự lừa dối và mưu mô” của Tam điểm là việc hình thành “giáo đường của Satan” khi đề cập đến chương thứ hai và thứ ba của Sách Khải Huyền.

Thông điệp đề cập đến các cuộc tấn công chống lại nền giáo dục Công Giáo, đặc biệt là Đại học Grêgôriô ở Rôma đang bị “đàn áp và bãi bỏ”. Về Thụy Sĩ, nó thảo luận về việc thông qua luật chống Công Giáo, sự xâm nhập của nhà nước vào các vấn đề của Giáo hội, và “việc trục xuất bằng bạo lực người anh em đáng kính Gaspar, giám mục Hebron và tông tòa đại diện của Geneva”. Nó cũng trình bày chi tiết về “cuộc đàn áp đang diễn ra” chống lại người Công Giáo và việc đàn áp tự do tôn giáo ở Đế quốc Đức, đặc biệt là ở Phổ.

Đức Piô kêu gọi các giáo sĩ: “Hãy áp dụng mọi nỗ lực của anh chị em để bảo vệ các tín hữu được trao phó cho sự chăm sóc của anh chị em khỏi cạm bẫy và sự lây lan của những giáo phái này”. “Hãy mang về những người không vui khi gia nhập những giáo phái này. Đặc biệt vạch trần sai lầm của những người đã bị lừa dối hoặc những người khẳng định rằng chỉ có lợi ích xã hội, tiến bộ và thực hiện các lợi ích chung mới là mục đích của các hiệp hội đen tối này.”

Đức Piô cho biết thêm rằng những sắc lệnh này “không chỉ liên quan đến các nhóm Tam Điểm ở Âu Châu mà còn cả các nhóm ở Mỹ Châu và các khu vực khác trên thế giới”.

Ở Mễ Tây Cơ gần đây nhất là vào năm 2007, Nhóm Tam Điểm ở Thung lũng Mễ Tây Cơ đã nỗ lực chống lại việc Giáo hội giành quyền đối với các trường học và thông tin liên lạc của chính mình. Các Hội Tam điểm nổi tiếng đã đóng một vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng Mễ Tây Cơ và các cuộc cách mạng Mỹ Latinh khác làm giảm ảnh hưởng của Giáo hội.

Giáo luật nói gì về Hội Tam điểm?

Trước năm 1983, Bộ Giáo luật đã tuyên bố rõ ràng rằng nếu một người Công Giáo gia nhập Hội Tam điểm, người đó sẽ tự động bị vạ tuyệt thông mà chỉ có Tòa thánh mới có thể dỡ bỏ. Điều này không chỉ áp dụng cho Hội Tam điểm mà còn cho bất kỳ nhóm nào tham gia vào các âm mưu chống lại Giáo hội.

Điều 2335 của Bộ Giáo luật năm 1917 viết: “Những người ghi danh cho các giáo phái Tam điểm hoặc các hiệp hội khác thuộc loại này có âm mưu chống lại Giáo hội hoặc các quyền lực dân sự hợp pháp sẽ bị rút phép thông công chỉ dành cho Tòa thánh”.

Bản sửa đổi năm 1983 của Bộ Giáo luật đã tránh đề cập cụ thể đến Hội Tam điểm và loại bỏ hình phạt vạ tuyệt thông tự động nhưng vẫn duy trì lệnh cấm tham gia bất kỳ nhóm nào có âm mưu chống lại Giáo hội.

“Ai ghi tên vào một hội âm mưu chống lại Giáo Hội, sẽ bị phạt hình phạt xứng đáng. Ai phát động hay điều khiển hội ấy, sẽ bị phạt cấm chế,” điều 1374 của Bộ Giáo luật hiện hành viết.

Mặc dù giáo luật mới không đề cập rõ ràng đến Hội Tam điểm, Bộ Giáo lý Đức tin đã ban hành một tuyên bố về Hội Tam điểm trong cùng năm đó, làm rõ rằng mặc dù có sự thay đổi trong cách diễn đạt, nhưng không có thay đổi nào đối với sự phản đối của Giáo hội đối với Hội Tam điểm. và việc gia nhập bất kỳ hiệp hội Tam điểm nào vẫn là một tội trọng khiến người ta không được rước lễ.

“Do đó, phán đoán tiêu cực của Giáo hội đối với hiệp hội Tam điểm vẫn không thay đổi vì các nguyên tắc của họ luôn được coi là không thể hòa giải với giáo lý của Giáo hội và do đó tư cách thành viên của Tam Điểm vẫn bị cấm,” tài liệu viết. “Các tín hữu ghi danh vào các hội Tam Điểm đang ở trong tình trạng tội trọng và có thể không được rước lễ.”


Source:Catholic News Agency