Luật Phòng, chống Tham nhũng sửa đổi (36/2018/QH14) (PCTN) của Cộng sản Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/07/2019, đã lộ chân tướng chỉ để bao che tội phạm và bảo vệ tài sản cho kẻ tham nhũng.

Bằng chứng không do ai bịa đặt để bôi nhọ chế độ mà viết rành mạch trong Luật, quan trọng nhất ở hai lĩnh vực :Kê khai tài sản; và không dám tịch thu tài sản có nguồn gốc bất minh.

KHAI XONG GIẤU ĐI

Thứ nhất, Luật quy định (Điều 34) người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập gồm :

1. Cán bộ, công chức.

2. Sĩ quan Công an nhân dân; sĩ quan Quân đội nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp.

3. Người giữ chức vụ từ Phó trưởng phòng và tương đương trở lên công tác tại đơn vị sự nghiệp công lập, doanh nghiệp nhà nước, người được cử làm đại diện phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

4. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân.

Điều 35. Tài sản, thu nhập phải kê khai bao gồm:

a) Quyền sử dụng đất, nhà ở, công trình xây dựng và tài sản khác gắn liền với đất, nhà ở, công trình xây dựng;

b) Kim khí quý, đá quý, tiền, giấy tờ có giá và động sản khác mà mỗi tài sản có giá trị từ 50.000.000 đồng trở lên;

c) Tài sản, tài khoản ở nước ngoài;

d) Tổng thu nhập giữa 02 lần kê khai.

Luât giải thích tiểu điểm (đ) :”Kê khai bổ sung được thực hiện khi người có nghĩa vụ kê khai có biến động về tài sản, thu nhập trong năm có giá trị từ 300.000.000 đồng trở lên so với tài sản, thu nhập đã kê khai lần liền trước đó.”

Nhưng khai rồi, công khai với ai, ai giữ và làm gì với lời khai?

Luật quy định tại Điều 39, theo tuần tự như sau:

1. Bản kê khai của người có nghĩa vụ kê khai phải được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người đó thường xuyên làm việc.

2. Bản kê khai của người dự kiến được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại cơ quan, tổ chức, đơn vị phải được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm.

3. Bản kê khai của người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân phải được công khai theo quy định của pháp luật về bầu cử.

4. Bản kê khai của người dự kiến bầu, phê chuẩn tại Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải được công khai với đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân trước khi bầu, phê chuẩn. Thời điểm, hình thức công khai được thực hiện theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

5. Bản kê khai của người dự kiến bầu giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý tại doanh nghiệp nhà nước được công khai tại cuộc họp lấy phiếu tín nhiệm khi tiến hành bổ nhiệm hoặc tại cuộc họp của Hội đồng thành viên khi tiến hành bầu các chức vụ lãnh đạo, quản lý.

6. Chính phủ quy định chi tiết về thời điểm, hình thức và việc tổ chức công khai bản kê khai quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều này.

Như vậy, nhân dân –người đóng thuế nuôi cán bộ, đảng viên—không được dòm ngó vào bản kê khai tài sản của những kẻ được đảng khiêm nhượng gọi láu cá là đầy tớ của nhân dân.

Vì vậy, với chủ trương che mắt dân để đóng cửa bênh nhau, đảng đã tự bôi tro trát phấn vào mặt qua câu tuyền truyền sáo rỗng “nhà nước ta là nhà nước pháp quyền, của dân, do dân và vì dân”.

Cũng nên biết, tuy luật PCTN không có hiệu lực về mặt Đảng, nhưng vì hệ thống cầm quyền ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chi phối nên tất cả các cấp Lãnh đạo gọi là “chủ chốt” từ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước xuống cho đến cấp Ủy địa phương đều vừa là Đại biểu Quốc hội (Lập pháp), kiêm luôn các chức lãnh đạo trong cơ cấu nhà nước (Hành pháp) và cả Tư pháp. Do dó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng; Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đều phải kê khai tài sản.

Nhưng chưa bao giờ người dân được đọc các tờ khai của họ, hay của các đời lãnh đạo cấp cao trước họ.

XÁC MINH VỚI NHAU

Ngay cả khi những người ra ứng cử Hội đồng Nhân dân và Đại biểu Quốc hội làm bản kê khai tài sản thì cũng chỉ có cơ quan tổ chức bầu cử là các cấp Mặt trận Tổ quốc, từ địa phương lên Trung ương, được xem rồi cất vào tủ khóa lại !

Vì vậy, đến khi cần xác minh xem lời khai có đúng không thì lại ngựa quen đường cũ, cứ nhắm mắt đi theo đường đảng vẽ như quy định tại Điều 42, viết rằng :

a) Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bầu, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm, người dự kiến được bổ nhiệm Phó Tổng Kiểm toán nhà nước;

b) Chủ tịch nước yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao;

c) Thủ tướng Chính phủ yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Thứ trưởng và chức vụ tương đương thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan thuộc Chính phủ, người dự kiến được bầu hoặc đề nghị phê chuẩn chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;

d) Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân các cấp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bổ nhiệm Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân các cấp, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản này;

đ) Thường trực Hội đồng nhân dân yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn;

e) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bầu hoặc đề nghị phê chuẩn chức vụ Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp;

g) Hội đồng bầu cử quốc gia, Ủy ban bầu cử hoặc Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam yêu cầu xác minh đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân;

h) Cơ quan thường vụ của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội yêu cầu xác minh đối với người dự kiến được bầu tại đại hội của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội;

i) Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người có thẩm quyền quản lý cán bộ đối với người có nghĩa vụ kê khai yêu cầu hoặc kiến nghị xác minh đối với người có nghĩa vụ kê khai thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng trực tiếp của mình, trừ trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g và h khoản này.

2. Cơ quan thanh tra, Kiểm toán nhà nước, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác có quyền yêu cầu Cơ quan kiểm soát tài sản, thu nhập xác minh tài sản, thu nhập nếu trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án xét thấy cần làm rõ về tài sản.

Nhưng sau khi xác minh thì đảng công khai với ai ?

Một lần nữa, bàn tay lông lá của đảng lại can thiệp để chỉ công khai bản xác minh trong nội bộ cơ quan, tổ chức với nhau, như ấn định trong Điều 39 ở trên.

XỬ PHẠT NỘI BỘ

Tưởng như giấu dân nhiêu đó chưa đủ, luật PCTN còn vẽ thêm chân rết làm trò hề như trong quy định của Điều 51 về việc “Xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực.”

Theo đó :

1. Người ứng cử đại biểu Quốc hội, người ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì bị xóa tên khỏi danh sách những người ứng cử.

2. Người được dự kiến bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử giữ chức vụ mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì không được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, phê chuẩn, cử vào chức vụ đã dự kiến.

3. Người có nghĩa vụ kê khai không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà kê khai tài sản, thu nhập không trung thực, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, bị xử lý kỷ luật bằng một trong các hình thức cảnh cáo, hạ bậc lương, giáng chức, cách chức, buộc thôi việc hoặc bãi nhiệm; nếu được quy hoạch vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thì còn bị đưa ra khỏi danh sách quy hoạch; trường hợp xin thôi làm nhiệm vụ, từ chức, miễn nhiệm thì có thể xem xét không kỷ luật.

Cuối cùng, luật PCTN cũng ấn định không công khai cho dân biết mà chỉ:”Quyết định kỷ luật được công khai tại cơ quan, tổ chức, đơn vị nơi người bị xử lý kỷ luật làm việc.”

Sau cùng, để bảo mật tuyệt đối các hồ sơ kê khai tài sản, luật PCTN quy định “Cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập được xây dựng và quản lý tập trung tại Thanh tra Chính phủ (TTCP) .”

Có điều là TTCP cũng đã nổi tiếng bê bối, bênh che, làm hình thức và đã đôi lần cán bộ ngành này bị bắt qủa tang tham nhũng, tiếp tay cán bộ vi phạm chạy tội. Do đó, quyết định của luật PCTN cho phép TTCP được “Xây dựng, quản lý, khai thác và bảo vệ cơ sở dữ liệu quốc gia về kiểm soát tài sản, thu nhập trong phạm vi cả nước” không làm ai ngạc nhiên.

Vì vậy, khi còn thảo luận tại Quốc hội, nhiều Đại biểu đã đã đòi phải đưa vào luật điều cho phép tịch thu tài sản có nguồn gốc không minh bạch của những cán bộ, đảng viên bị tố cáo tham nhũng. Nhưng phe “đi hàng hai” đã thắng cuộc khiến cho Điều 93 chỉ còn lại nội dung “lửng lơ con cá vàng”, theo đó:

1. Tài sản tham nhũng phải được thu hồi, trả lại cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc tịch thu theo quy định của pháp luật.

2. Thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra phải được khắc phục; người có hành vi tham nhũng gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

TRÒ HỀ DIỄN TUỒNG

Ở Việt Nam, nhóm chữ “theo quy định của pháp luật” được diễn nghĩa sẽ kéo dài vô tận, hay chẳng đi đế đâu.

Bằng chứng trong báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018, có gần 1,137 triệu người kê khai tài sản, đạt tỷ lệ 99,8, so với số người phải kê khai. Xác minh bản kê của 44 người thì cơ quan chức năng phát hiện 6 trường hợp vi phạm, tăng 1 trường họp so với năm 2017. (báo Dân Trí, ngày 10/12/2018)

Báo này viết tiếp:”Ngay tại Hà Nội, trong báo cáo mới nhất về minh bạch tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức thành phố, qua báo cáo của trên 34.300 người, chỉ phát hiện có một trường hợp kê khai không trung thực.

Sự vô lý này được phát hiện ngay khi đó, khi một nhóm nghiên cứu của Ủy ban Tư pháp cuả Quốc hội có khảo sát là riêng tại tỉnh Bạc Liêu, đã có 19 trường họp không kê khai tài sản, thu nhập, trong đó chỉ ở 1 đơn vị cấp huyện đã có đến 17 trường hợp không kê khai nhưng không có lý do.”

Đó là chuyện quá lạ, báo cáo chính thức là một đằng, nhưng qua kiểm tra, thẩm tra lại, kết quả ở một đơn vị cấp huyện, số người vi phạm về kê khai tài sản lại lớn hơn gần 3 lần con số báo cáo về người kê khai sai của toàn quốc. Thế thì ai còn tin được vào báo cáo được nữa?

Dân Trí là báo của Hội Khuyến học Việt Nam nhấn mạnh rằng:”Có một điều khá rõ cần nói ở đây là sở dĩ số người vi phạm quy định về kê khai tài sản được phát hiện rất ít có phần do có quá ít người được xác minh bản kê khai tài sản, thu nhập của họ. Trong báo cáo của Chính phủ cũng đã nêu rất rõ: Trong hơn 1,1 triệu hồ sơ kê khai, chỉ có 44 người được xác minh và phát hiện 6 trường hợp vi phạm quy định về kê khai, minh bạch tài sản. Và những người này phải xác minh là để phục vụ công tác tổ chức cán bộ, bổ nhiệm.

Thế thì rõ rồi, nếu số người còn lại được xác minh thì chắc chắn, số người vi phạm sẽ phải lớn hơn nhiều. Và ở đây, có một vấn đề lớn đặt ra: Nếu kê khai chỉ để ở... ngăn bàn, hơn 1 triệu người chỉ xác minh vài chục người thì việc kê khai tài sản quả thực là việc làm quá hình thức.”

Thực tế tuồng diễn chống tham nhũng nhêch nhác như thế mà báo Quân đội Nhân dân (QĐND), một trong những cái loa tuyên truyền của Bộ Quốc phòng vẫn oang oang nói rằng:”Có thể nói công cuộc PCTN của chúng ta tuy còn rất gian nan nhưng đã thu được những thành quả rất quan trọng.” (báo QĐND, ngày 01/07/2019)

Trước khi phản công những phê bình, báo QĐND thừa nhận:”Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác PCTN vẫn còn những tồn tại, hạn chế, vẫn còn tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu… Đồng thời, việc chưa có cơ chế đủ mạnh để kiểm soát chặt chẽ quyền lực; công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền hạn chưa được quan tâm thực hiện nghiêm đã tạo “kẽ hở” cho việc lạm quyền để trục lợi của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thiếu rèn luyện đạo đức, tham lợi, vụ lợi bất chính...”

SỰ THẬT TRÊN SÂN NHÀ

Nhưng những “kẽ hở” này không chỉ nhất thời mà là căn bệnh kinh niên của một số không nhỏ cán bộ đảng viên trong cuộc chiến ăn chia với quốc nạn tham nhũng, lãng phí. Do đó, báo QĐND đã tự kỷ ám thị khi cố tình đánh lạc hướng để che đậy thất bại khi viết rằng:”Khoét sâu” vào những hạn chế nói trên, một số người đưa thông tin trên mạng xã hội hoặc báo chí nước ngoài rằng “việc PCTN ở Việt Nam thất bại”, “chỉ đưa ra ánh sáng những vụ việc không thể che đậy được”, “chống tham nhũng ở Việt Nam như nước đổ đầu vịt”… Có lẽ những người đưa ra các thông tin này không hiểu hoặc cố tình không hiểu công tác PCTN ở Việt Nam.”

Chả cần phải “cầy sâu cuốc bẫm” mới thấy được thửa đất tham nhũng của nhà nước CSVN có nhiều sỏi đá thế nào. Hãy đọc lời thừa nhận của ông Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Đảng và Nhà nước:”Bên cạnh những kết quả đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận công tác phòng, chống tham nhũng vẫn còn những tồn tại, hạn chế …Công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chưa có sự chuyển biến rõ rệt, vẫn còn tình trạng "trên nóng, dưới lạnh", nể nang, né tránh, ngại va chạm; việc phát hiện, xử lý tham nhũng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu; tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng trong nội bộ cơ quan, đơn vị vẫn là khâu yếu. Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công vẫn gây bức xúc trong người dân, doanh nghiệp” (Diễn văn ngày 25/06/2018)

Ông nói:”Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế là do nhiều cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị chưa nhận thức sâu sắc mức độ nghiêm trọng của tình hình tham nhũng ở địa phương, lĩnh vực mình quản lý; chưa thực sự gương mẫu, quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng.

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả những người là lãnh đạo, quản lý thiếu tu dưỡng, rèn luyện, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, tham nhũng.”

Nhưng nhân dân cũng muốn biết những khối lượng tài sản khổng lồ, những dinh thự ngàn tỷ đồng của những kẻ bảo rằng họ có được là do tự lao động,do nuôi lợn, bán rau, vay mượn dòng họ hay “của cha mẹ để lại cho” phải được chứng minh thế nào cho phải đạo làm người và hợp tình hợp lý.

Nếu ông Nguyễn Phú Trọng còn muốn muốn xứng đáng được coi là “người đốt lò vĩ đại”, như câu viết “nâng bi” qúa cỡ thợ mộc của Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV, Voice of Vietnam) ngày 10/02/2019 thì ông hãy mau chóng trả lại cho dân những tài sản đã bị đám tham ô đảng cho trôi sông lạc chợ ở khắp vùng đất nước.

Bằng không, Luật Phòng, chống Tham nhũng mới cũng chỉ là tờ giấy lộn mà thôi. -/-

Phạm Trần

(07/019)