Cuộc đổ bộ Normandie là cuộc hành quân vào ngày thứ Ba 6 tháng Sáu năm 1944 của quân Đồng minh nhằm mở đường tiến vào Âu châu trong Thế chiến II. Đó là cuộc tấn công từ biển vào đất liền lớn nhất trong lịch sử. Chiến dịch này nhằm giải phóng nước Pháp đang bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, và đặt nền móng cho chiến thắng của phe Đồng minh trên mặt trận phía Tây.

Việc hoạch định kế hoạch cho chiến dịch này bắt đầu vào năm 1943. Trong những tháng trước cuộc tấn công, quân Đồng minh đã tiến hành một loạt đáng kể các hoạt động quân sự nhằm đánh lạc hướng người Đức về ngày giờ và địa điểm của cuộc đổ bộ của quân Đồng minh.

Tuy không biết chính xác, nhưng đề phòng khả năng một cuộc tấn công từ Anh quốc của quân Đồng minh, Adolf Hitler đã đặt Nguyên soái Erwin Rommel, một tướng lĩnh tài ba của Đức, chỉ huy việc xây các công sự, các bãi mìn và các chướng ngại vật dọc theo bờ biển. Đức Quốc Xã gọi đó là Bức tường Đại Tây Dương.

Các nhà hoạch định cuộc tấn công đã xác định một tập hợp các điều kiện cần thiết liên quan đến chu kỳ của mặt trăng, thủy triều và hướng gió. Họ nhận ra rằng mỗi tháng chỉ có vài ngày thỏa mãn được các điều kiện này. Trăng tròn là tốt nhất, vì ánh trăng sẽ cung cấp ánh sáng cho các phi công nhận ra các công sự phòng thủ của Đức. Cuộc tấn công được dự định diễn ra vào tảng sáng lúc có thủy triều cao nhất để cải thiện tầm nhìn của binh lính đối với các chướng ngại vật trên bãi biển, đồng thời hướng gió phải đi từ biển vào để giảm thiểu thời gian binh lính đang chơi vơi giữa dòng nước, làm mồi cho pháo binh địch.

Tướng Eisenhower đã chọn ngày 5 tháng Sáu là ngày tấn công. Tuy nhiên, vào ngày 4 tháng Sáu, biển động mạnh không phù hợp cho việc tấn công, trong khi nhiều đám mây thấp ngăn cản tầm nhìn của phi công trên các máy bay.

Cuộc tấn công đã bị hoãn lại 24 giờ. Mặc dù thời tiết vẫn chưa được hoàn hảo như mong muốn nhưng nếu chờ hơn nữa thì phải đến hai tuần sau mới có các điều kiện phù hợp. Vì thế, Tướng Eisenhower đã quyết định chọn ngày đổ bộ là ngày 6 tháng Sáu.

Đồng minh kiểm soát Đại Tây Dương có nghĩa là các nhà khí tượng học Đức có ít thông tin hơn so với Đồng minh trong việc dự báo thời tiết. Khi trung tâm khí tượng Luftwaffe ở Paris dự đoán hai tuần tới là thời tiết bão tố, nhiều chỉ huy của quân Đức đã rời bỏ vị trí của họ để tham dự các tiêu khiển ở Rennes, và quân nhân nhiều đơn vị được nghỉ phép. Chính Nguyên soái Erwin Rommel cũng trở về Đức vào dịp sinh nhật vợ và để gặp Hitler xin thêm xe tăng.

Ngay sau nửa đêm, không quân bắt đầu các cuộc oanh tạc và từ ngoài biển hải quân bắn tới tấp vào bờ để chuẩn bị cho cuộc đổ bộ của 24,000 quân thuộc các lực lượng Mỹ, Anh và Canada vào bờ biển Pháp lúc 06:30. Các mục tiêu trải dài đến 80 km dọc theo bờ biển Normandie được chia thành năm khu vực: Utah, Omaha, Gold, Juno và Sword.

Những cơn gió mạnh đã thổi bay các tàu đổ bộ về phía đông so với vị trí dự định của họ, đặc biệt là tại Utah và Omaha. Thành ra, nhiều binh sĩ Đồng Minh rơi vào những chỗ quân Đức bố trí mạnh nhất và phải chịu hỏa lực nặng nề từ các ụ súng nhìn ra bãi biển. Khi vào đến bờ họ lại gặp phải các bãi mìn và vô số các chướng ngại vật như cọc gỗ, và dây kẽm gai, khiến thương vong rất nặng. Nặng nhất là tại Omaha, với những vách đá cao.

Ngoài việc kiểm soát được bãi biển, Đồng minh đã không giải phóng được bất kỳ thị trấn nào trong ngày đầu tiên. Thương vong của người Đức trong D-Day ước tính khoảng 4,000 đến 9,000 người. Thương vong của Đồng minh ít nhất là 10,000.


Source:Wiki