Ngày 07-08-2025
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:01 07/08/2025

7. Người kiêu ngạo và người bủn xỉn thì tâm hồn thường nhiễu loạn; người nghèo khó tâm hồn thường bình an.

(sách Gương Chúa Giê-su)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức"


---------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
01:06 07/08/2025
11. GẶP ĐƯỢC CÂU TUYỆT DIỆU

Thi nhân đời nhà Đường là Châu Lâm làm thơ, ở nơi cánh đồng bát ngát đang mệt nhọc vì tìm cấu trúc từ, đột nhiên gặp một tiều phu, họ Châu vội vàng nắm chặt và níu kéo, nói:

- “Tôi được rồi !”

Người tiều phu ấy rất kinh hoàng, giựt tay ra và bỏ chạy, nhưng Châu Lâm lại thong thả nói:

- “Thơ tuyệt, thơ tuyệt !”

Té ra là anh ta đang muốn làm bài “thơ cổ mộ”, nhưng đang lúng túng vì hai câu kết thúc thì ngẫu nhiên gặp tiều phu, như có linh cảm thì la lên:

- “Con cháu chỗ nào rỗi (thì) làm khách, (cây) tùng bá được người kiếm làm củi.”

(Tiếu Tiếu lục)

Suy tư 11:

Thơ, trước hết được xuất phát từ một trái tim yêu thương, và được hình thành qua hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, cho nên có những bài thơ được viết trên giấy người ta gọi là thi nhân, và có những bài thơ được viết bằng đời sống chứng nhân hy sinh người ta gọi đó là gương anh hùng.

Có nhiều người Ki-tô hữu dùng thơ văn để ca tụng tình yêu của Thiên Chúa, và cũng có rất nhiều Ki-tô hữu lấy đời sống bác ái hy sinh của mình để làm những bài thơ sống động, cụ thể, ca ngợi và quảng bá tình yêu của Thiên Chúa giữa lòng xã hội: bài thơ của họ được viết bằng máu tử đạo, được viết bằng sự hiểu lầm của người khác, được viết bằng những bất công của xã hội dành cho họ, được viết bằng khiêm tốn và nổi bật nhất là viết bằng sự tha thứ trong yêu thương…

Bởi vì Đức Chúa Giê-su đã làm như thế bằng chính cuộc sống của mình, và khi bị đóng đinh vào thập giá, Ngài đã để lại cho nhân loại một bài thơ tuyệt tác, đó là hy sinh mạng sống mình cho người mình yêu.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


--------

http://www.vietcatholic.net

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Ngày 08/08: Ai muốn theo Thầy phải từ bỏ chính mình – Lm. Giuse Trần Châu Đông – TGP Melbourne.
Giáo Hội Năm Châu
02:06 07/08/2025

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

“Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên sứ của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị.”

Đó là lời Chúa
 
Tỉnh thức chờ Chúa
Lm. Thái Nguyên
05:29 07/08/2025

TỈNH THỨC CHỜ ĐÓN CHÚA
Chúa Nhật 19 Thường Niên, năm C: Lc 12, 32-48
Suy niệm

Bài Phúc Âm tuần rồi, Đức Giêsu cảnh báo chúng ta tránh mọi thứ tham lam và đừng dại khờ chỉ lo thu tích của cải cho mình, kẻo mọi thứ sẽ tiêu tan trong phút chốc. Cần phải khôn ngoan lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa bằng đời sống yêu thương bác ái.

Đoạn Phúc Âm hôm nay tiếp nối ý hướng đó, Ngài gọi các “môn đệ” là “đoàn chiên nhỏ bé”, và trấn an họ: “Đừng sợ!”, vì Chúa Cha sẵn sàng ban cho họ kho tàng ở trên trời, chỉ cần họ biết sử dụng của cải vật chất như món quà để trao tặng. Đó chính là thái độ của người Kitô hữu, luôn sẵn sàng tỉnh thức để đón chờ ngày giờ Chúa đến.

Trong ý hướng đó, Đức Giêsu tự ví mình như một ông đi ăn cưới tới khuya, không biết sẽ về vào giờ nào. Vì thế, người đầy tớ phải tỉnh thức để chờ đợi: thắt lưng cho gọn, thắp đèn cho sẵn, nghĩa là luôn trong tư thế sẵn sàng để mở cửa cho chủ vào. “Khi chủ về mà thấy những đầy tớ ấy đang tỉnh thức, thì thật là phúc cho họ”. Tiếp theo Đức Giêsu cho thấy một hành vi bất ngờ của ông chủ: là hạ mình xuống làm người tôi tớ: ông thắt lưng, mời các đầy tớ vào bàn ăn và phục vụ.

Một ông chủ Giêsu quá tuyệt vời! Ông không cố ý về bất ngờ để bắt quả tang, nhưng muốn thấy tình yêu của người đầy tớ dành cho chủ, và đó cũng là sự bất ngờ rất thú vị mà chủ muốn dành cho người đầy tớ. Đức Giêsu không bắt chúng ta gắn bó với Ngài như những tên nô lệ, nhưng như người bạn hữu. Sự gắn bó với Ngài sẽ đưa tới niềm vui và hạnh phúc mà Ngài ban cho sau này. Chúa muốn chúng ta sống theo ý Ngài chỉ là để ban cho chúng ta tất cả.

Ðức Giêsu còn tự ví mình như một ông chủ vắng nhà và giao hết trách nhiệm cho người quản gia, để cắt đặt công việc và phân phát lương thực cho các đầy tớ. Những người làm chủ cộng đoàn, chủ gia đình hay trưởng nhóm, trưởng khu, cũng được mời gọi suy nghĩ về cách mình đang chu toàn trách nhiệm. Mọi quyền bính trong Hội Thánh bắt nguồn từ Ðức Kitô, và phải được sử dụng để phục vụ mọi người. Nhưng quyền bính luôn có nguy cơ bị lạm dụng để phục vụ cho bản thân. Đức Giêsu đòi chúng ta phải “trung tín và khôn ngoan” trong khi thi hành bổn phận, không chỉ tránh sự độc tôn, độc tài, gây bất công và hiếp đáp người khác, mà còn phải tạo nên sự bình an và hiệp nhất cho đời sống cộng đoàn. Nhất là những ai đã được cho nhiều thì sẽ bị đòi nhiều, và ai được giao phó nhiều thì sẽ bị đòi hỏi nhiều hơn.
Việc Đức Giêsu trở lại trong ngày sau hết phù hợp với việc phán xét cuối cùng của chúng ta và toàn thể nhận loại, nhưng cũng phù hợp với mỗi giây phút sống của chúng ta hôm nay: mỗi giây phút sống cho ta thấy mình trung thành hay bất tín, trưởng thành hay ấu trĩ trong tương quan đối với Thiên Chúa và tha nhân. Chúa vẫn đến với chúng ta trong mọi hoàn cảnh và trong mọi tình huống. Không gặp được Ngài một cách nào đó là vì ta không chú tâm tìm kiếm Ngài, vì còn đang chú tâm tìm kiếm những thứ khác.

Người ta chỉ tha thiết và gắn bó với những gì họ mong muốn:“kho tàng của anh em ở đâu thì lòng anh em ở đấy”. Kho tàng của chúng ta đặt nơi Chúa thì chắc chắn lúc nào chúng ta cũng tỉnh thức để ôm ấp giữ gìn, để tỉnh thức canh chừng. Có tình yêu sâu đậm với Chúa, ta mới phấn khởi trong mọi việc, kiên trì trong mọi khó khăn, trung tín trong mọi thử thách, sáng suốt trong mọi lựa chọn, và khôn ngoan trong mọi hành động.

Khi đưa ra thái độ tỉnh thức, Chúa mong muốn chúng ta không còn bị khống chế bởi thế giới vật chất này nữa, nhưng biết làm chủ nó, sử dụng nó để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Chúng ta phải làm ăn sinh sống và phát triển ngành nghề của mình cho thật tốt; phải góp phần xây dựng gia đình, xã hội, đất nước, con người, nhưng qua mọi việc đó, tâm hồn chúng ta vẫn luôn sống bên Chúa, vẫn ý thức mình thuộc về Chúa, vẫn hết tâm thực hiện ý Chúa, vẫn khao khát Chúa là cùng đích viên mãn của đời mình.

Chúa sẽ đến với mỗi người chúng ta vào ngày chúng ta không ngờ, vào giờ chúng ta không biết. Điều đó không làm chúng ta lo sợ nhưng khiến chúng ta cẩn trọng trong từng giây phút sống, và sống với niềm vui hồi hộp được gặp Chúa cách bất ngờ. Chỉ cần chúng ta có một tình yêu trung thành và một sự khôn ngoan đạo đức, là chúng ta đang sống tỉnh thức để chờ đón Chúa trong an vui và hạnh phúc muôn đời.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Chúa dạy con phải biết luôn tỉnh thức,
để nhận ra là Chúa thường hay đến,
lúc con không ngờ, giờ con không biết.
Chỉ trong tỉnh thức,
con mới sáng suốt trong mọi tình thế,
cư xử khôn ngoan trong mọi tình trạng,
biết sống vững vàng trong mọi tình huống,
và biết linh động trong mọi tình hình.
Chỉ trong tỉnh thức,
con mới phát hiện ra Chúa trong đời,
qua mọi người và mọi lúc mọi nơi,
qua vui buồn và sướng khổ hôm nay,
qua đổi thay và biến chuyển từng ngày.
Chỉ trong tỉnh thức,
con mới thoát sa lầy và cạm bẫy,
những cám dỗ trói buộc của thế gian,
thoát nguy nan và sự ác lan tràn,
để con sống vững vàng và trung tín.
Nhưng thực tế con lại dễ ngủ mê,
nhắm tương lai mà quên đi hiện tại
dễ lê thê với những chuyện trần thế,
theo đam mê đến quên mất nẻo về.
Xin cho con biết tập trung vào Chúa,
Đấng yêu con và hằng luôn mong đợi,
để con luôn sẵn sàng khi Ngài tới,
cho đời con hạnh phúc mãi khôn vơi. Amen.
 
Phồn thực
Lm Minh Anh
18:36 07/08/2025
PHỒN THỰC
“Ai muốn đi theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo!”.

“Người ta có thể tự hỏi, làm sao một người có thể trả hết án phạt đời đời vì ‘vô ngần’ tội lỗi của ‘vô số’ người chỉ trong vài giờ trên thập giá? Chúa Kitô làm được điều đó vì hai lý do: Ngài quý giá ‘vô hạn’ nên có thể thế chỗ cho ‘vô tỷ’ người; Ngài công chính ‘vô cùng’ nên có thể chuốc lấy án tử cho ‘vô vàn’ tội nhân!” - Joe Wall.

Kính thưa Anh Chị em,

Ý tưởng cái chết của Chúa Kitô trên thập giá có thể chuốc lấy án tử cho ‘vô vàn’ tội nhân” được gặp lại trong Tin Mừng hôm nay. Ngài tiết lộ, chính tình yêu từ thập giá mới đem lại hoa trái cứu rỗi - những hoa trái chứng tỏ một sự tồn tại ‘phồn thực!’.

“Từ bỏ chính mình, vác thập giá mình!”. Nghịch lý này hàm chứa một quy tắc vàng: chỉ tình yêu tự hiến mới mang lại ý nghĩa và hạnh phúc. Ai dành thời gian, sức lực và tài năng chỉ để vun quén, hoàn thiện bản thân - trên thực tế - người ấy đang phá sản; bởi lẽ điều này chỉ dẫn đến một sự tồn tại ‘vô sinh’. Ngược lại, khi sống cho Chúa và tha nhân, người ấy vui hưởng một niềm vui cứu rỗi và cuộc sống sẽ là một sự tồn tại ‘phồn thực’. “Người dại không phải là kẻ cho đi điều không thể giữ, nhưng để đạt được điều không thể mất!” - Jim Elliot.

Lề luật là ‘ách êm ái’, là ‘thập giá’ của Israel. Môsê nói với dân, “Hãy tuân giữ các thánh chỉ và mệnh lệnh của Người mà hôm nay tôi truyền cho anh em; anh em sẽ được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, vĩnh viễn ban cho anh em!” - bài đọc một. “Các điều răn của Chúa không phải là xiềng xích, nhưng là đôi cánh!” - Nicky Gumbel.

Cám dỗ thường xuyên của bạn và tôi là tìm kiếm một Đức Giêsu không có thập giá; chúng ta muốn một ‘thứ Kitô giáo’ dễ dãi, hợp thời. Thế nhưng, cần nhận ra rằng, Tin Mừng Đức Kitô là một Tin Mừng khổ chế; không để rao giảng nhưng để sống, thực thi và làm chứng; nghĩa là chết đi chính mình để chân lý và tình yêu toả rạng. Không như thế, Tin Mừng sẽ mơ hồ, thập giá thành đồ trang sức và giáo lý là một mớ lý thuyết. “Kitô giáo mà không có thập giá là một sự dối trá!” - Jean Vanier.

Anh Chị em,

Cái chết của Chúa Kitô trên thập giá không chỉ là một sự kiện lịch sử, mà là một mầu nhiệm cứu độ có sức toả lan đến mọi thời đại, mọi con người. Chỉ khi dám “chết đi” mỗi ngày vì yêu, vì sự thật, vì Thiên Chúa, cuộc đời chúng ta mới thôi ‘cằn cọi’ mà trở nên tồn tại ‘phồn thực’. Vì thế, chính khi thập giá được sống, được ôm, được yêu mến - thì Tin Mừng bừng sáng như một sức sống thiêng liêng, giải thoát và biến đổi. Hãy đến với Thánh Lễ - nơi Chúa Kitô tự hiến mỗi ngày - và sống thật đúng mầu nhiệm Tạ Ơn này, cuộc sống của bạn và tôi mới là một sự tồn tại lâu dài. “Thánh Thể là trường học biến đổi - bánh trở nên Đức Kitô, và ta trở nên tình yêu!” - Carlo Carretto.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sống mòn, sống hoài, sống lâu… mà chẳng sống thật. Dạy con chết mỗi ngày, để đời con phong nhiêu vì yêu!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Ủy ban Do Thái Hoa Kỳ quyên góp để xây dựng lại nhà thờ ở Gaza
Vũ Văn An
14:33 07/08/2025

Omar AL-QATTAA / AFP


Christine Rousselle, trên Aleteia ngày 07/08/25, đưa tin: Ủy ban Do Thái Hoa Kỳ thông báo vào ngày 1 tháng 8 rằng tổ chức này sẽ quyên góp 25,000 đô la để giúp xây dựng lại Nhà thờ Thánh Gia ở Gaza.

Liên minh Do Thái Hoa Kỳ (AJC), có trụ sở chính tại New York, đã hợp tác với Tổng giáo phận New York để thực hiện khoản quyên góp này.

Giám đốc điều hành AJC, Ted Deutch, phát biểu trong một tuyên bố: "Chúng tôi vô cùng đau buồn trước những cái chết, thương tích và thiệt hại về cơ sở vật chất tại Nhà thờ Thánh Gia ở Gaza và xin bày tỏ tình liên đới với anh chị em Công Giáo của chúng tôi. Chúng tôi cầu nguyện cho những người bị thương sớm bình phục và tất cả những người bị ảnh hưởng bởi sự tàn phá của chiến tranh được an toàn."

Nhà thờ Thánh Gia bị đánh bom vào ngày 17 tháng 7 năm 2025. Ba người đã thiệt mạng và nhiều người khác, bao gồm cả linh mục chánh xứ, bị thương. Lực lượng Phòng vệ Israel cho biết nhà thờ "vô tình bị đánh bom" và không phải là mục tiêu của cuộc tấn công.

Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã nói chuyện với Đức Giáo Hoàng Leo XIV sau vụ tấn công và bày tỏ sự tiếc thương vì có người thiệt mạng.

Người Do Thái và Công Giáo cùng với nhau

Đức Hồng Y Timothy Dolan, Tổng giám mục New York, đã bày tỏ lòng biết ơn về khoản quyên góp này.

Ngài phát biểu trong tuyên bố do Ủy ban Do Thái Hoa Kỳ công bố: "Chúng tôi trân trọng sự an ủi và hỗ trợ của AJC và biết ơn vì cơ hội được cùng nhau làm điều tốt đẹp với tư cách là người Do Thái và Công Giáo, để mang lại chút ánh sáng cho bóng tối của chiến tranh".

Tổng giáo phận New York trước đây đã tham gia vào một nhóm liên tôn giúp xây dựng lại một ngôi nhà trên một kibbutz bị hư hại trong vụ tấn công Israel ngày 7 tháng 10 năm 2023, theo tuyên bố của Liên minh Do Thái Hoa Kỳ.

Rabbi Noam Marans, giám đốc phụ trách các vấn đề liên tôn của Ủy ban Do Thái Hoa Kỳ, cho biết: Việc quyên góp để xây dựng lại nhà thờ là một cách để "khẳng định nhân tính chung của tất cả mọi người".

Ông nói thêm: "Sau thảm kịch này, chúng tôi muốn ở bên cạnh những người Công Giáo đã luôn ở bên cạnh người Do Thái trong những lúc khó khăn".

Nhà thờ Thánh Gia là giáo xứ Công Giáo Latinh duy nhất ở Dải Gaza. Trước vụ đánh bom ngày 17 tháng 7, nhà thờ đã tiếp đón khoảng 500 Kitô hữu phải di dời do xung đột đang diễn ra.
 
Thiếu niên và mạng xã hội: Liệu xu hướng có đang thay đổi không?
Vũ Văn An
14:59 07/08/2025

Rofiqoh El Sera | Shutterstock


Caitlin Bootsma, trên Aleteia ngày 07/08/25, đưa tin: Dữ liệu nghiên cứu cho thấy thanh thiếu niên ngày càng nghi ngờ về thời gian dành cho mạng xã hội. Tuy nhiên, nhiều người lại thấy vấn đề ở "người khác" chứ không phải ở bản thân mình.

Khi nói đến điều mà Đức Giáo Hoàng Benedict XVI gọi là "lục địa kỹ thuật số", thanh thiếu niên được biết đến là một trong những người khám phá nhiệt thành nhất. Tuy nhiên, dữ liệu gần đây của Pew Research cho thấy thanh thiếu niên ngày càng nhận thức rõ ràng rằng mạng xã hội cũng có những mặt trái của nó.

Văn phòng Tổng Y sĩ Hoa Kỳ trích dẫn dữ liệu cho thấy trẻ em và thanh thiếu niên dành hơn ba giờ mỗi ngày trên mạng xã hội có nguy cơ mắc các vấn đề sức khỏe tâm thần tăng gấp đôi, bao gồm các triệu chứng trầm cảm và lo âu.

Văn phòng nhận xét: "Điều này thật đáng lo ngại, vì một cuộc khảo sát gần đây cho thấy thanh thiếu niên dành trung bình 3.5 giờ mỗi ngày trên mạng xã hội."

Việc các bậc phụ huynh và chuyên gia bày tỏ lo ngại về tác động của mạng xã hội có thể không phải là điều mới mẻ, nhưng việc thanh thiếu niên bày tỏ những lo lắng của riêng mình về kỹ thuật ít được phổ biến hơn.

Các thiếu niên đang ở đâu

Đức Giáo Hoàng Leo XIV vừa có bài phát biểu với những người Công Giáo gây ảnh hưởng trực tuyến về sự phổ biến của lĩnh vực kỹ thuật số trong cuộc sống của chúng ta, ngài nói: "Ngày nay, chúng ta đang sống trong một nền văn hóa mới, được định hình và đặc trưng sâu sắc bởi kky4 thuật."

Và tất nhiên, những người trẻ đang lớn lên trong nền văn hóa mới này cũng chịu ảnh hưởng sâu xa bởi nó.

Đối với những người có con đang ở độ tuổi thiếu niên, dữ liệu về nơi thiếu niên ở trên trực tuyến không có gì đáng ngạc nhiên. YouTube là câu trả lời phổ biến nhất, với 9/10 thiếu niên cho biết họ sử dụng nó.

Tiếp theo YouTube, là TikTok (63%), Instagram (61%) và Snapchat (55%). Facebook và X (trước đây là Twitter) đã giảm mạnh về mức độ phổ biến trong giới hiếu niên trong thập niên qua.

Gần ba phần tư thiếu niên cho biết họ truy cập YouTube hàng ngày, với 15% cho biết họ sử dụng nó "gần như liên tục".

Nhưng liệu họ có nghĩ rằng nó tốt cho họ không?

Ngày nay, gần một nửa số thiếu niên (48%) cho rằng tác động của mạng xã hội đối với thiếu niên "chủ yếu là tiêu cực".

Con số này tăng đáng kể so với con số 32% của năm 2022. Trên thực tế, những người thuộc nhóm "chủ yếu là tiêu cực" lại là nhóm phản hồi hàng đầu, với 41% thiếu niên cho rằng mạng xã hội "không có tác động tích cực cũng không tiêu cực" và chỉ 11% cho rằng mạng xã hội chủ yếu có tác động tích cực.

Họ, chứ không phải tôi

Tuy nhiên, nhận thức của thiếu niên về tác động của mạng xã hội đối với bạn bè đồng trang lứa lại khác biệt rõ rệt so với cách họ nghĩ rằng mạng xã hội ảnh hưởng đến chính bản thân họ. Chỉ 14% trả lời rằng cuộc sống của họ bị ảnh hưởng tiêu cực - một sự chênh lệch tương tự cũng được thấy trong cuộc khảo sát năm 2022.

Đây không phải là thống kê duy nhất về mạng xã hội đang giảm sút. Năm 2023, 64% thiếu niên cho biết họ đã dành đủ thời gian trực tuyến. Hiện tại, chỉ có 49% nghĩ như vậy.

Trên thực tế, 45% thiếu niên cho rằng mình dành quá nhiều thời gian trên mạng xã hội (so với 27% vào năm 2023).

Tác động đến “cuộc sống thực”

Khi nói đến việc mạng xã hội ảnh hưởng đến cuộc sống ngoài màn hình của họ như thế nào, phản ứng của thiếu niên khá lẫn lộn.

Một mặt, ba phần tư số người được hỏi cho biết mạng xã hội giúp họ kết nối với bạn bè. Sáu mươi ba phần trăm cho biết mạng xã hội mang đến cho họ cơ hội thể hiện khả năng sáng tạo. Năm mươi hai phần trăm cho biết mạng xã hội mang đến cho họ một hệ thống hỗ trợ để vượt qua những thời điểm khó khăn.

Mặt khác, ba mươi chín phần trăm cảm thấy choáng ngợp bởi “tất cả những rắc rối” và ba mươi mốt phần trăm cho biết họ cảm thấy áp lực phải đăng những thứ sẽ giúp họ nhận được “lượt thích”.

Khoảng một phần ba cảm thấy bạn bè của họ bỏ rơi họ khỏi các hoạt động trực tuyến.

Bốn mươi phần trăm thiếu niên cho biết mạng xã hội làm giảm năng suất của họ và nhiều hơn một chút cho biết nó làm giảm thời gian ngủ của họ. Cứ năm người thì có một người nói rằng mạng xã hội làm giảm điểm số của họ và 19% cho biết nó ảnh hưởng đến sức khỏe tinh thần của họ.

Cắt Giảm

44% thiếu niên cho biết họ đã "cắt giảm" việc sử dụng mạng xã hội. Đây cũng là tỷ lệ phần trăm tương tự cho biết họ đã cắt giảm việc sử dụng điện thoại thông minh nói chung.

Với sự ra đời của trí tuệ nhân tạo, thiếu niên phải đối diện với những thách thức mới trong việc xem xét lại việc sử dụng kỹ thuật của mình. Tuy nhiên, nghiên cứu này cho thấy nhận thức ngày càng tăng về tác động của mạng xã hội, điều có thể mang lại lợi ích cho họ trong những năm tới.
 
Đức Giáo Hoàng Lêô gửi lời chia buồn tới Ghana đang thương tiếc các nạn nhân trong vụ tai nạn trực thăng
Thanh Quảng sdb
15:00 07/08/2025
Đức Giáo Hoàng Lêô gửi lời chia buồn tới Ghana đang thương tiếc các nạn nhân trong vụ tai nạn trực thăng

Một bức điện của Đức Giáo Hoàng gửi tới Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Ghana, chuyển lời chia buồn của Đức Giáo Hoàng Lêô tới người dân Ghana đang thương tiếc các bộ trưởng, quan chức chính phủ và thường dân đã thiệt mạng trong vụ tai nạn trực thăng quân sự hôm 6 tháng 8 bị rơi.

(Tin Vatican)

Đức Giáo Hoàng Lêô đã bày tỏ sự đau buồn trước cái chết của các bộ trưởng, quan chức chính phủ và phi hành đoàn đã thiệt mạng trong vụ tai nạn trực thăng quân sự hôm thứ Tư (6/8/2025), tại quốc gia Tây Phi Ghana. Lời chia buồn được gửi trong một bức điện do Đức Hồng Y Quốc vụ khanh Pietro Parolin ký gửi tới Đức Giám Mục Matthew K. Gyamfi của Giáo phận Suyani, đồng thời là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Công Giáo Ghana.

Văn phòng Báo chí Tòa Thánh đã công bố bức điện tín vào tối thứ Năm, ngày 7 tháng 8, với nội dung: "Đức Giáo Hoàng Lêô XIV gửi lời chia buồn sâu sắc về cái chết của các bộ trưởng, quan chức chính phủ và tất cả những người đã thiệt mạng trong vụ tai nạn trực thăng quân sự. Ngài phó thác linh hồn những người đã khuất cho lòng thương xót của Thiên Chúa Toàn năng, và cầu nguyện cho những người đang đau buồn vì những mất mát, đặc biệt là gia đình của họ, Đức Thánh Cha cam kết với toàn thể quốc gia về sự gần gũi thiêng liêng của ngài trong thời điểm khó khăn này."

Chiếc trực thăng chở ba phi hành đoàn và năm hành khách đã bị rơi tại một khu vực rừng rậm ở miền trung Ashanti. Trên trực thăng có Bộ trưởng Quốc phòng Ghana, Edward Omane Boamah, Bộ trưởng Môi trường, Ibrahim Murtala Muhammed, cùng sáu phi hành đoàn và các hành khách khác cùng đi. Họ đang trên đường đến thị trấn Obuasi để tham dự một sự kiện liên quan đến việc ngăn chặn khai thác mỏ trái phép. Không ai sống sót.

Hãng thông tấn Fides đã đưa tin về phản ứng của Đức Giám Mục Gyamfi trước thảm kịch, cho biết tin này đã gây sốc lớn cho tất cả mọi người. Hội đồng Giám mục Ghana đã ra tuyên bố bày tỏ lời chia buồn tới Tổng thống, gia đình các nạn nhân, Quốc hội và đất nước, đồng thời cho biết "chúng tôi kêu gọi tất cả người dân Ghana cầu nguyện cho họ", đồng thời bày tỏ "nỗi đau buồn khi mất đi những con người lỗi lạc như vậy cùng một lúc". Hội đồng Giám mục nhấn mạnh rằng các nạn nhân "là những người tận tụy, những người phục vụ nhà nước, các chính trị gia, các nhà kỹ sư và các sĩ quan dũng cảm của Lực lượng Vũ trang Ghana, những người đã hy sinh mạng sống để phục vụ nền Cộng hòa, các thể chế và nhân dân đất nước này. Sự ra đi đột ngột và không đúng lúc của họ không chỉ là một cú sốc đối với gia đình và bạn bè của họ, mà còn là một mất mát to lớn cho đất nước."

Tổng thống Ghana, John Dramani Mahama, đã tuyên bố quốc tang ba ngày.
 
Đức Giáo Hoàng Lêô XIV: Gia đình là nơi đầu tiên chúng ta nhận được sự hỗ trợ để vượt qua những thử thách của cuộc sống
Vũ Văn An
15:23 07/08/2025

Đôi vợ chồng mới cưới Anna và Cole Stevens gặp gỡ Đức Giáo Hoàng Lêô XIV tại buổi tiếp kiến chung tại Rome vào thứ Tư, ngày 11 tháng 6 năm 2025. | Nguồn: Anna và Cole Stevens


Almudena Martínez-Bordiú của hãng tin CNA, từ Thành phố Vatican, ngày 7 tháng 8 năm 2025, đưa tin: Trong một thông điệp video gửi đến những người tham dự đại hội lần thứ ba của Mạng lưới Công Giáo Liên Phi về Thần học và Chăm sóc Mục vụ, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã nhắc lại vai trò nền tảng của gia đình, “nơi đầu tiên chúng ta nhận được tình yêu thương và sự hỗ trợ cần thiết”.

Sự kiện với chủ đề “Cùng nhau bước đi trong Hy vọng như Giáo hội - Gia đình của Thiên Chúa tại Châu Phi”, đã diễn ra từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 8 tại Đại học Công Giáo Tây Phi ở Abidjan, Bờ Biển Ngà. Mục tiêu chính của cuộc họp là thúc đẩy thông đạt trong khu vực Nam bán cầu bằng cách quy tụ các nhà thần học, mục vụ, giáo dân và các nhà lãnh đạo tôn giáo để cùng nhau suy gẫm, chia sẻ kinh nghiệm và phát triển sứ vụ mục vụ từ góc nhìn của châu Phi.

Trong phần mở đầu sứ điệp được công bố ngày 6 tháng 8, Đức Thánh Cha đặc biệt bày tỏ lòng biết ơn đối với công việc của ban tổ chức cuộc họp và cam kết cầu nguyện cho những người tham dự, những người trong những ngày này đang suy gẫm về tương lai của Giáo hội tại châu Phi.

Trong bối cảnh Năm Thánh Hy Vọng, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đã nhấn mạnh vai trò thiết yếu của hy vọng trong cuộc hành hương trần thế của chúng ta. Ngài lưu ý: “Đức tin và thần học cung cấp nền tảng để nhận biết Thiên Chúa, trong khi đức ái là đời sống yêu thương mà chúng ta được hưởng với Người”.

Tuy nhiên, ngài giải thích rằng “chính nhờ đức cậy mà chúng ta mong muốn đạt được hạnh phúc viên mãn trên thiên đàng. Vì vậy, đức cậy truyền cảm hứng và nâng đỡ chúng ta đến gần Thiên Chúa hơn ngay cả khi phải đối diện với những khó khăn của cuộc sống”.

Đức Thánh Cha thúc giục Giáo hội trở thành “ngọn hải đăng hy vọng cho các quốc gia” đang đối diện với nhiều khó khăn khác nhau ở Châu Phi, đồng thời kêu gọi tình huynh đệ và trách nhiệm “chăm sóc lẫn nhau”.

Ngài nhấn mạnh: Gia đình thường là nơi đầu tiên chúng ta nhận được tình yêu thương và sự hỗ trợ cần thiết để tiến bước và vượt qua những thử thách trong cuộc sống”.

Trong bối cảnh này, ngài khuyến khích việc tiếp tục xây dựng “gia đình của các Giáo hội địa phương” tại các quốc gia Châu Phi “để có những mạng lưới hỗ trợ dành cho tất cả anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô, và cho cả xã hội rộng lớn hơn, đặc biệt là những người ở vùng ngoại vi”.

Cuối sứ điệp, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV nhấn mạnh tầm quan trọng của việc “nhận ra sự hiệp nhất giữa thần học và công tác mục vụ”.

Ngài chỉ ra rằng “chúng ta phải sống điều mình tin. Chúa Kitô đã nói với chúng ta rằng Người đến không chỉ để ban sự sống cho chúng ta mà còn để ban sự sống đó cách trọn vẹn. Do đó, nhiệm vụ của anh chị em là cùng nhau thực hiện các chương trình mục vụ cho thấy giáo huấn của Giáo hội giúp mở rộng tâm trí con người ra sao để đón nhận chân lý và tình yêu của Thiên Chúa”.
 
Tòa án Tây Ban Nha ra phán quyết có lợi cho Giáo hội trong vụ kiện trục xuất các nữ tu ly giáo
Đặng Tự Do
17:32 07/08/2025


Một tòa án Tây Ban Nha đã ra phán quyết có lợi cho Giáo Hội Công Giáo trong vụ kiện trục xuất các nữ tu dòng Thánh Clara Khó Nghèo ở Belorado, ra lệnh cho các sơ rời khỏi tu viện mà họ đang chiếm giữ bất hợp pháp.

“Phán quyết này giữ nguyên toàn bộ đơn kiện trục xuất được đệ trình vào ngày 16 tháng 9 năm 2024, bởi Đặc Sứ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tư cách là bề trên cao cấp, quản trị viên và đại diện pháp lý của tu viện Belorado”, tuyên bố từ Đức Tổng Giám Mục Mario Iceta, cũng là tổng giám mục của Burgos, nơi tu viện tọa lạc, cho biết như trên.

Văn bản nêu rõ rằng phán quyết tuyên bố “việc trục xuất bị đơn, tức là các nữ tu ly giáo, khỏi tài sản nói trên là hợp lý, quyền sở hữu tài sản này phải được trả lại cho nguyên đơn và ra lệnh cho bị đơn phải rời đi, để lại tài sản nói trên được sử dụng tự do và theo ý muốn của nguyên đơn, kèm theo lời đe dọa trục xuất nếu họ không tự nguyện làm như vậy”.

Phán quyết của tòa án cấp dưới, có trụ sở tại thị trấn Briviesca, được đưa ra sau phiên tòa ngày 29 tháng 7 và tuyên bố rằng “bị đơn đã không chứng minh được, như trách nhiệm của họ, rằng họ sở hữu bất kỳ quyền sở hữu nào để biện minh và hợp pháp hóa việc sử dụng tài sản” chống lại yêu cầu rời khỏi của người nắm giữ quyền sở hữu thực tế, “điều này phải dẫn đến việc duy trì hoàn toàn yêu cầu bồi thường.”

Phán quyết cũng nhấn mạnh rằng các nữ tu ly giáo không thể có được tài sản mà họ đang nắm giữ vì đó chỉ là “một tập hợp các cá nhân khác với một pháp nhân không có thẩm quyền” để làm như vậy.

Carlos Azcona thuộc Tòa Giám Mục Burgos cho biết về vụ việc rằng “điều quan trọng cần lưu ý là phán quyết này đề cập đến bản chất của vấn đề”, nêu rõ rằng “cái gọi là hội đồng tu viện” của các cựu nữ tu không gì hơn là “một cuộc tụ họp của những cá nhân không có thẩm quyền để họp như một hội đồng như vậy”.

Do đó, ông lưu ý rằng “thỏa thuận đạt được bởi các nữ tu ly giáo liên quan đến việc chuyển đổi tu viện thành một hiệp hội dân sự sẽ vô hiệu và không thể dùng làm lý do biện minh cho quyền tiếp tục chiếm giữ tu viện”.

Cuối cùng, Azcona làm rõ rằng “phán quyết mà chúng ta được biết hôm qua ra lệnh trục xuất các cựu nữ tu ly giáo không thuộc cộng đồng tu viện. Các nữ tu lớn tuổi vẫn hiệp thông với Rôma là những người duy nhất cấu thành cộng đồng tu viện Belorado, và hiện tại chúng ta không nên đưa ra bất kỳ tuyên bố nào liên quan đến bất kỳ hành động nào liên quan đến họ.”

Trong phán quyết trước đó, tòa án Briviesca đã ấn định ngày 12 tháng 9 là ngày trục xuất.

Các nữ tu dòng Clara Khó Nghèo của Belorado đã bị khai trừ khỏi Giáo Hội Công Giáo vì tội ly giáo vào tháng 6 năm 2024 sau khi tuyên bố vào tháng 5 năm 2024 rằng họ sẽ rời khỏi Giáo Hội Công Giáo và đặt mình dưới sự giám hộ của một giám mục giả đã bị khai trừ.

Vào ngày 13 tháng 5, khi họ tuyên bố rời khỏi Giáo Hội Công Giáo, các nữ tu đã nêu trong một lá thư và một tuyên bố rằng họ công nhận “Đức Giáo Hoàng Piô XII là giáo hoàng tối cao hợp lệ cuối cùng”, một quyết định được giải thích thông qua một văn bản đính kèm dài 70 trang có tựa đề “Tuyên ngôn Công Giáo” tuyên bố rằng “ngai tòa của Thánh Phêrô đang bị bỏ trống và bị chiếm đoạt”.

Vào thời điểm đó, các nữ tu tuyên bố rằng cộng đồng của họ “đang rời khỏi Giáo hội Công đồng mà họ từng thuộc về để trở thành một phần của Giáo Hội Công Giáo chính thống”. Họ phàn nàn rằng trong những năm gần đây đã có “những mâu thuẫn, ngôn ngữ khó hiểu, mơ hồ và lỗ hổng trong giáo lý rõ ràng xuất phát từ ngai tòa của Thánh Phêrô”.

Ngoài hình phạt vạ tuyệt thông, 10 cựu nữ tu còn bị trục xuất khỏi đời sống thánh hiến, đồng nghĩa với việc họ phải rời khỏi tu viện. Tuy nhiên, họ đã không làm vậy và bắt đầu một cuộc chiến pháp lý để được ở lại tu viện.

Vào giữa tháng 9 năm 2024, Đức Tổng Giám Mục Iceta, đặc phái viên giáo hoàng do Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm, đã đệ đơn kiện yêu cầu các cựu nữ tu ly giáo rời khỏi tu viện. Ngài đã nhiều lần tuyên bố rằng các cựu nữ tu dòng Clara Khó Nghèo không được phép tiếp tục ở lại tu viện nữa, sau khi họ bày tỏ quyết định không tiếp tục ở lại Giáo Hội Công Giáo.


Source:Catholic News Agency
 
Thắng cảnh mới của Á Căn Đình: Bức tranh tường lớn nhất thế giới tôn vinh Đức Thánh Cha Phanxicô
Đặng Tự Do
17:34 07/08/2025


Chỉ cách Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở thành phố La Plata, Á Căn Đình vài mét, là bức tranh tường lớn nhất thế giới dành tặng Đức Giáo Hoàng Phanxicô, do họa sĩ nổi tiếng Martín Ron thực hiện. Tác phẩm này là một thách thức kỹ thuật lớn và hướng đến thông điệp hòa bình, sự kết hợp “giữa đất và trời”, và là một nơi cầu nguyện và hành hương.

Sự nghiệp của Ron trải dài cả về thời gian lẫn không gian, với hơn hai thập niên vẽ tranh và các tác phẩm làm đẹp cho các thành phố trên khắp thế giới. Tại quê hương Á Căn Đình, một đất nước yêu túc cầu bậc nhất, hai trong số những bức tranh tường được bàn tán nhiều nhất của ông là những bức khắc họa hai cầu thủ ngôi sao Diego Maradona và Lionel Messi, chỉ là một vài ví dụ trong số hàng trăm bức tranh mang dấu ấn của ông.

Vào ngày 26 tháng 7, trước sự chứng kiến của các viên chức thành phố và Đức Tổng Giám Mục La Plata, Gustavo Carrara, bức tranh tường cao 50 mét mô tả Đức Thánh Cha Phanxicô, một trong những “thần tượng nổi tiếng” mà Ron được giao nhiệm vụ vẽ, đã được khánh thành và làm phép.

“Là họa sĩ vẽ tranh tường, ngoài việc vẽ các tác phẩm của riêng mình, chúng tôi còn liên tục xác định những nhân vật có lượng người theo dõi đông đảo”, bởi vì tranh tường “vẫn là nghệ thuật đại chúng”, nghệ sĩ này chia sẻ với ACI Prensa, đối tác tin tức tiếng Tây Ban Nha của CNA.

Ông cho biết: “Việc vẽ họ theo những kích thước này và góp phần nâng cao ký ức tập thể về những nhân vật này, đặc biệt là ở những nơi mà nghệ thuật không thể chạm tới, là rất quan trọng”.

Trong trường hợp của Đức Thánh Cha Phanxicô, “ngoài việc ngài là giáo hoàng, người quan trọng nhất ở Á Căn Đình, và vị trí của ngài trong Giáo Hội Công Giáo, ngài vẫn mang dấu ấn của một thần tượng nhạc pop — mặc dù từ 'thần tượng', trong trường hợp này, được đặt trong dấu ngoặc kép — bởi vì ngài có tầm ảnh hưởng đó, ngài vẫn là một thần tượng nhạc pop lành mạnh”, ông lưu ý, bởi vì có điều gì đó về những thần tượng này “liên quan đến cách họ trở thành hiện thân trong văn hóa”.

Nằm tại ngã tư đường 54 và đường 14, bức tranh tường Đức Thánh Cha Phanxicô hoàn thiện khung cảnh vốn đã hùng vĩ của Nhà thờ La Plata. Việc sơn bức tranh này là theo yêu cầu của Hội đồng Thành phố La Plata và là một thách thức kỹ thuật lớn.

Mặc dù ông có toàn quyền lựa chọn hình ảnh đại diện cho vị giáo hoàng người Á Căn Đình mới qua đời, nhưng những hạn chế liên quan đến “khía cạnh khó khăn nhất của dự án, đó là kích thước, hình dạng của bức tường và góc nhìn”.

“Trong trường hợp này, đường đi khá thông thoáng, vì nó nằm ngay cạnh nhà thờ, nhìn ra quảng trường và rất trung tâm. Nhưng hạn chế duy nhất tôi gặp phải, đôi khi lại là yếu tố lọc ra những bức ảnh đẹp nhất, chính là thiết kế đặc thù của tòa nhà này. Tuy cao, nhưng nó lại rất hẹp: 50 mét x 5 mét.”

Chi tiết này có nghĩa là ở nơi đó, “có thể bức ảnh đẹp nhất, bức ảnh có câu chuyện hay nhất để kể, lại không phù hợp về mặt bố cục với địa điểm đó”. Do đó, yêu cầu đầu tiên là “tạo ra một bố cục tăng dần chiều cao và phát triển theo chiều dọc để diễn giải nó từ dưới lên hoặc từ trên xuống”.

“Đó là Đức Giáo Hoàng. Người ta có thể rơi vào lối mòn khi nói: 'Chà, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ảnh nào cũng được, miễn là ngài trông đẹp và ăn ảnh, và tất cả chúng ta đều nhận ra ngài.' Nhưng nó phải có điều gì đó hơn thế nữa; nó phải kể một câu chuyện,” ông nói.

Hình ảnh được chọn là hình ảnh quen thuộc từ những tháng đầu tiên Đức Phanxicô nhậm chức, trong đó chúng ta có thể thấy ngài mỉm cười và ngước nhìn lên, tay cầm một chú chim bồ câu khi nó bắt đầu dang rộng đôi cánh.

“Đó là một bức ảnh rất dịu dàng. Tôi nghĩ nó là một trong những bức ảnh đẹp nhất. Nó rất nổi tiếng, và nó nói lên nhiều điều vì nó kết nối với thiên đàng, thông qua tất cả biểu tượng chim bồ câu trong đức tin Công Giáo,” ông nhận xét.

Hơn nữa, về mặt kỹ thuật, “nó đã giải quyết được vấn đề về chiều dọc đối với tôi, bởi vì nó bắt đầu bằng áo chùng, cây thánh giá Chúa Chiên Lành, rồi đến cổ, chân dung, và rồi đến cánh tay nhô ra khỏi khung hình rồi lại nhập vào, và phía trên là vương miện với chim bồ câu và bầu trời, hòa quyện với bầu trời thực. Vậy thôi. Trong tiếng lóng, chúng tôi nói rằng chúng tôi 'đã hoàn thành' nó.”

“Khi bạn có tất cả những biến số đó, bạn đã biết rằng tác phẩm sẽ vượt trội, sẽ được bàn tán và sẽ trở thành một địa danh mới của thành phố La Plata”, ông tóm tắt.

Ron cho biết ông kỳ vọng bức tranh tường sẽ trở thành một điểm nhấn trong thành phố, “bởi sức mạnh của hình ảnh, bởi vì nó nói lên con người ông, bởi vì nó là bức tranh đầu tiên, bởi vì nó nằm ở vị trí trung tâm, tại Quảng trường Moreno, ngay cạnh nhà thờ”, ông nói, đồng thời nhấn mạnh rằng “khi những điều như thế này diễn ra, bạn đang góp phần tạo nên những điểm nhấn mới. La Plata còn nhiều điều khác để chiêm ngưỡng và khám phá.”

Ron cho biết ông cảm thấy việc tác phẩm của mình “được ban phước” là một điều tích cực, bởi vì ông tin rằng “ngoài việc ai vẽ nó, điều quan trọng là cách nó tiếp cận mọi người”.

“Tôi là người chịu trách nhiệm cho một tác phẩm, nhưng khi tôi ký tên, tác phẩm thuộc về mọi người,” ông giải thích. “Tất cả chúng tôi, những nghệ sĩ vẽ tranh tường, đều buông bỏ tác phẩm,” đặc biệt là khi đi khắp thế giới, bởi vì “nơi chốn sở hữu nó, mọi người sở hữu nó, và nghệ sĩ có thể sẽ không bao giờ nhìn thấy nó nữa”. Vì vậy, mỗi tác phẩm “giống như một món quà, một sự khai sáng.”

Trong trường hợp này, “thực tế là rất nhiều điều bắt đầu xảy ra xung quanh chúng ta, liên quan đến nhân vật này, là điều tốt nhất có thể xảy ra, không chỉ đối với tôi mà còn đối với mọi người.”

“Việc công trình này được chúc phúc và trong tương lai, nơi này thậm chí có thể trở thành một địa điểm hành hương, đối với một số người, đây là cơ hội để đến gần hơn với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đến La Plata, đến nhà thờ chính tòa, cầu nguyện, xin ngài điều gì đó ở đó, sẽ thật tuyệt vời.”

Ông cho biết: “Tôi muốn ghi lại hình ảnh đó, ngoài chim bồ câu, đó còn là hình ảnh tượng trưng cho hòa bình và chúng ta cần điều đó vào thời điểm này trên thế giới”.

Bức tranh tường được khánh thành với một sự kiện long trọng có sự tham dự của thị trưởng La Plata, Julio Alak; đại diện cộng đồng Công Giáo; đại diện trường học; thành viên các đảng phái chính trị; và các tổ chức khác. Bên cạnh các tiết mục nghệ thuật, sự kiện còn có buổi ban phước lành của Tổng Giám mục địa phương, Gustavo Carrara.

“Thành phố phải là nơi gặp gỡ, nơi hội nhập, nơi những người hàng xóm giúp đỡ nhau cùng bước đi”, vị giám mục nói, hy vọng “rằng hình ảnh Đức Phanxicô sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta trong thành phố này để làm việc vì một nền văn hóa gặp gỡ và truyền cảm hứng cho chúng ta trên con đường hướng tới tình huynh đệ và tình bạn xã hội”.


Source:Catholic News Agency
 
Thượng viện xác nhận cựu Chủ tịch CatholicVote Brian Burch làm đại sứ Tòa thánh
Đặng Tự Do
17:35 07/08/2025


Thượng viện đã xác nhận cựu chủ tịch và người sáng lập CatholicVote Brian Burch sẽ làm đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa thánh.

Trong cuộc bỏ phiếu với tỷ lệ 49-44 vào ngày 2 tháng 8, Thượng viện đã xác nhận người cha Công Giáo có chín người con đến từ Chicago.

“Tôi vô cùng biết ơn Tổng thống Trump và Thượng viện Hoa Kỳ đã trao cho tôi cơ hội được phục vụ với tư cách là đại sứ Hoa Kỳ tiếp theo tại Tòa Thánh,” Burch phát biểu trong một tuyên bố được chia sẻ với CNA khi phản ứng trước tin tức về việc ông được phê chuẩn. “Là một người Mỹ Công Giáo tự hào, tôi mong muốn được đại diện cho Tổng thống Trump, Phó Tổng thống Vance và Ngoại trưởng Rubio trong cương vị ngoại giao quan trọng này.”

Ông nói thêm: “Tôi xin mọi người Mỹ, đặc biệt là những người Công Giáo, hãy cầu nguyện cho tôi để tôi có thể phục vụ một cách danh dự và trung thành trong cuộc phiêu lưu cao cả phía trước.”

Tin tức về việc xác nhận Burch xuất hiện sau khi các Thượng nghị sĩ Dân chủ ban đầu đã chặn đề cử này, cùng với hơn 50 đề cử khác, vào tháng 5 trước lễ tấn phong Đức Giáo Hoàng Lêô XIV. CatholicVote kể từ đó đã bổ nhiệm Kelsey Reinhardt làm chủ tịch mới.

Burch cho biết trong tuyên bố: “Tôi rất vinh dự và may mắn khi được phục vụ trong vai trò này sau cuộc bầu cử lịch sử của vị giáo hoàng người Mỹ đầu tiên”, đồng thời nói thêm: “Thật trùng hợp đáng chú ý, hoặc điều mà tôi muốn nói là do sự sắp đặt của Chúa, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đến từ Chicago, cũng là quê hương của tôi”.

Ông nói tiếp: “Mối quan hệ giữa Tòa thánh và Hoa Kỳ vẫn là một trong những mối quan hệ độc đáo nhất trên thế giới, với phạm vi toàn cầu và chứng tá đạo đức của Giáo Hội Công Giáo đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm mang lại hòa bình và thịnh vượng.”

Trong tuyên bố đưa ra vào thứ Bảy, Chủ tịch CatholicVote Kelsey Reinhardt cho biết tổ chức này vui mừng ăn mừng việc xác nhận của Burch.

“Trong 17 năm qua, Brian đã trung thành ủng hộ sứ mệnh của CatholicVote là truyền cảm hứng cho người Công Giáo Mỹ sống đức tin trong đời sống cộng đồng,” bà nói. “Chúng tôi tin tưởng rằng anh ta cũng sẽ xuất sắc trong vai trò mới này và mãi mãi biết ơn vì nền tảng mà anh ta đã tạo dựng và ảnh hưởng của anh ta đối với hàng triệu người Công Giáo trên toàn quốc.”

Việc xác nhận Burch đã bị trì hoãn trong nhiều tháng sau khi Thượng nghị sĩ Brian Schatz của Hawaii ra lệnh tạm dừng tất cả các đề cử cho Bộ Ngoại giao, thực hiện lời cam kết phản đối việc chính quyền Tổng thống Trump giải thể Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, gọi tắt là USAID.

Lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện John Thune, Đảng Cộng hòa-Nam Dakota, đã đệ đơn xin xác nhận Burch vào ngày 31 tháng 7, chấm dứt sự chậm trễ.

Việc đề cử Burch trước đó đã được Ủy ban Đối ngoại thông qua, với 12 Thượng nghị sĩ Cộng hòa của ủy ban bỏ phiếu thuận và 10 Thượng nghị sĩ Dân chủ bỏ phiếu chống. Trong phiên điều trần phê chuẩn, Burch đã phải đối mặt với các câu hỏi về việc cắt giảm viện trợ nước ngoài, thỏa thuận Trung Quốc-Vatican, và cuộc chiến Israel-Hamas đang diễn ra.

Vào thời điểm đó, Burch bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những nỗ lực của Rubio nhằm “nạp lại và tập trung viện trợ nước ngoài vào những nơi có thể giúp nước Mỹ an toàn hơn, mạnh mẽ hơn và thịnh vượng hơn”. Ông cũng cam kết sẽ khuyến khích Tòa thánh phản đối sự can thiệp của chính phủ Trung Quốc vào việc bầu chọn giám mục Công Giáo.

Về cuộc xung đột giữa Israel và Hamas, Burch cho biết ông tin rằng Tòa thánh “có thể đóng một vai trò rất quan trọng” trong việc chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột và mang lại sự trả tự do cho các con tin Israel còn lại


Source:Catholic News Agency
 
Tiến sĩ George Weigel: Một sự ngạc nhiên về Rahner
J.B. Đặng Minh An dịch
17:38 07/08/2025

Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “A Rahnerian Surprise”, nghĩa là “Một sự ngạc nhiên về Rahner”.

Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Linh mục Karl Rahner, Dòng Tên sinh năm 1904 và qua đời năm 1984, là một trong những nhà thần học Công Giáo có ảnh hưởng nhất của thế kỷ XX, và là đối tượng bị nhiều người Công Giáo theo truyền thống chỉ trích.

Tuy nhiên, Rahner lại là một người có tính cách phân liệt. Một phần trong vị linh mục này là một người ngoan đạo miền Swabian, là người mà ngay sau Công đồng Vatican II, đã ngồi trên sân khấu Nhà thờ Đức Bà Paris, lần chuỗi Mân Côi trong khi một học giả khác đọc bài giảng bằng tiếng Anh cho ông—và, cũng tại sự kiện đó, ông đã nói với một thanh niên hỏi làm thế nào để trở thành một nhà thần học vĩ đại rằng hãy “học thuộc lòng Denzinger” – Denzinger là toát yếu 700 trang giáo lý của Giáo hội.

Một nửa còn lại của Rahner là học trò của triết gia hiện sinh Martin Heidegger, người dẫn đường thần học cho thế hệ các nhà tư tưởng Công Giáo đã đưa “tinh thần của Công đồng Vatican II” theo hướng Catholic Lite - Công Giáo Nhạt đạo, và là người đi trước, ở một số khía cạnh, của “Tiến Trình Công Nghị” của nước Đức đương thời.

Thật thú vị khi Karl Rahner đã đưa ra một câu trả lời rất sắc bén cho một người phỏng vấn khi được hỏi vào năm 1982 tại sao ông, một người chỉ trích hướng đi của Công Giáo dưới thời Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, vẫn ở lại Giáo hội:

Thành thật mà nói, câu hỏi “Tại sao tôi vẫn ở trong Giáo hội” khiến tôi thấy thật kinh tởm. … Kitô hữu chân chính không thể nào có thái độ kẻ cả đối với Giáo hội đến mức khiến họ phải cân nhắc giữa việc ở lại và rời khỏi Giáo hội. Mối quan hệ với Giáo hội, về bản chất, là một điều tuyệt đối của đức tin Kitô. Và người ta nên nhận ra điều này khi những người tự nhận là tín hữu của Giáo hội, là thành viên của Giáo hội, lại chỉ trích Giáo hội của họ. …

Theo tôi, mọi người có thể mạnh mẽ, dữ dội, cay đắng, thậm chí điên cuồng chỉ trích nhiều điều trong Giáo hội. Nhưng nếu đó là lời chỉ trích của một người Công Giáo, người ta phải có thể thấy nơi người ấy rằng đây là người muốn tìm kiếm sự cứu rỗi vĩnh cửu với tư cách là thành viên của Giáo hội. Hãy nhớ rằng, nhà phê bình Công Giáo lập luận trong Giáo hội chống lại 'Giáo hội' trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về nó. Loại nhà phê bình này biết rằng Giáo hội, cuối cùng, không chỉ là một... tổ chức tôn giáo đáp ứng nhu cầu của mọi người mà là... một cộng đồng tin rằng Chúa Giêsu Kitô, Đấng bị đóng đinh và phục sinh, là lời hứa không thể hủy bỏ của Thiên Chúa đối với chúng ta. Có tầm quan trọng lớn lao gì khi tức giận với các linh mục, giám mục, thậm chí có thể là giáo hoàng, khi người ta biết rằng chỉ trong Giáo hội này... không còn nơi nào khác, trong cuộc sống và cái chết, người ta mới có thể bám vào Chúa Giêsu, chứng nhân đáng tin cậy của Thiên Chúa vĩnh cửu?

Là người Công Giáo từ nhỏ, tôi khẳng định rằng tôi chưa bao giờ gặp khủng hoảng đức tin, mặc dù tôi cũng phải thú nhận rằng đã có những lúc buồng máy Rôma của con tàu Phêrô đã gieo vào tôi một sự hoài nghi thoáng qua, làm khô héo tâm linh. Nhưng rồi tôi lại trở về với phần trong tôi vẫn còn ngưỡng mộ một số phần của Karl Rahner (mà tôi đã viết luận án về Kitô học của ông cách đây năm mươi năm), và nhận ra một lần nữa, cùng với Rahner, ý nghĩa của các bí tích:

…trong Giáo hội này, lời ân sủng hữu hình của Thiên Chúa đã được hứa ban qua phép rửa tội cho cả cuộc đời…trong Bí tích Thánh Thể, người ta có thể cử hành cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu như một biến cố của Thiên Chúa thánh thiện…trong Giáo hội này…người ta luôn có thể nghe được lời tinh tuyền về sự tự thông truyền vĩnh cửu của Thiên Chúa [và]…được hứa ban ơn tha thứ mọi tội lỗi trong cuộc sống.

Bản chất giáo hội cố hữu của đức tin Công Giáo đã được khẳng định cách đây 25 năm khi Bộ Giáo lý Đức tin ban hành tuyên ngôn Dominus Iesus - Tính Duy Nhất Và Cứu Độ Phổ Quát Của Chúa Giêsu Kitô Và Hội Thánh - trong Đại Năm Thánh 2000. Mục đích của tuyên ngôn là tái khẳng định niềm tin của Giáo hội – là trọng tâm trong giáo huấn của Công đồng Vatican II - rằng Chúa Giêsu Kitô là đấng cứu độ duy nhất của thế giới, chứ không chỉ là một biểu hiện của một “ý chí cứu độ” chung chung từ thần thánh được thể hiện trong lịch sử thông qua nhiều nhân vật tôn giáo khác nhau.

Trong Năm Thánh Hy Vọng năm 2025 này, và trước những điểm mơ hồ trong “Văn kiện về tình huynh đệ nhân loại” ở Abu Dhabi, những giáo huấn chính của Dominus Iesus đáng được nhắc lại:

Chỉ có một Thiên Chúa thật, và do đó chỉ có một lịch sử cứu độ.

Nếu Chúa Giêsu là Chúa, thì Ngài là Chúa của tất cả mọi người, bất kể quyền làm Chúa của Ngài có được công nhận hay không.

Thiên Chúa không từ chối bất kỳ ai ân sủng cần thiết để được cứu rỗi.

Tất cả những người được cứu, dù họ có công khai thừa nhận Chúa Kitô hay không, đều được cứu nhờ sự cứu chuộc do Chúa Kitô thực hiện.

Chỉ có một Hội Thánh duy nhất của Chúa Kitô vì Hội Thánh là Thân Thể của Chúa Kitô, và Chúa Kitô không có nhiều thân thể.

Giáo Hội Công Giáo là biểu hiện viên mãn nhất trong lịch sử với tư cách là Giáo hội duy nhất của Chúa Kitô.

Và nếu anh chị em tin tất cả những điều này, như tôi, anh chị em là một người Công Giáo truyền giáo được kêu gọi trở thành môn đệ truyền giáo, mang đến cho người khác ân sủng mà anh chị em đã nhận được: đó là tình bạn với Con Thiên Chúa nhập thể.


Source:First Things
 
Hans Feichtinger: Đức Giám Mục Barron, Giáo hội Đức và Sự Canh Tân Đức Tin
J.B. Đặng Minh An dịch
17:41 07/08/2025

Đức Ông Hans Feichtinger được thụ phong linh mục cho Giáo phận Passau vào năm 1998. Sau ba năm làm cha phó, ngài tiếp tục học lên cao, lấy bằng Thạc sĩ Cổ điển học tại Đại học Dalhousie ở Halifax thuộc Nova Scotia, Canada và bằng Tiến sĩ Thần học Giáo phụ tại Đại Học Augustinianum ở Rôma. Sau đó, ngài trở thành Viên chức tại Bộ Giáo lý Đức tin. Sau thời gian ở Vatican, ngài đã hoàn thành việc học và nghiên cứu để lấy bằng Tiến sĩ Triết học tại Khoa Triết học Dòng Tên ở Munich. Gần đây hơn, ngài phục vụ với tư cách là Tuyên úy Công Giáo tại Đại học Carleton ở St Margaret Mary ở Old Ottawa South. Tại Ottawa, ngài hiện là giáo sư thỉnh giảng trong khoa thần học tại Đại học Saint Paul và là Cha sở của Giáo xứ St George và St. Albertus Pfarrgemeinde.

Trên tờ First Things, ngài vừa có bài viết nhan đề “Bishop Barron, the German Church, and the Renewal of Faith”, nghĩa là “Đức Giám Mục Barron, Giáo hội Đức và Sự Canh Tân Đức Tin”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

Vào ngày 27 tháng 7, Đức Cha Robert Barron đã được trao Giải thưởng Josef Pieper tại Münster, Đức, gia nhập hàng ngũ của Rémi Brague và Charles Taylor. Giải thưởng được trao cho “những cơ quan truyền thông mẫu mực và công trình nghiên cứu về ý tưởng Kitô giáo về con người”, và dự án Word on Fire của Đức Cha Barron phản ánh rõ ràng tiêu chuẩn đó. Tuy nhiên, ngay khi Đức Cha Barron được công bố là người chiến thắng giải thưởng tiếp theo, các cuộc biểu tình đã nổ ra ở Münster. Những khẩu hiệu chửi thề nhắm vào Hoa Kỳ và Tổng thống Trump đã được phun bằng sơn lên tường một nhà thờ lịch sử địa phương. Những người chỉ trích, bao gồm cả tổ chức thanh niên địa phương của đảng Xanh, đã cáo buộc vị giám mục là người ủng hộ Tổng thống Trump và do đó là một kẻ cực đoan. Gây sốc hơn nữa, khoa thần học Công Giáo tại Đại học Münster đã cáo buộc Đức Cha Barron đại diện cho “một loại Công Giáo loại trừ những người như người Công Giáo LGBTQ hoặc người di cư”, và ủng hộ “chủ nghĩa độc tài ở Hoa Kỳ” và các nơi khác.

Với những học giả như thế này, điều gì có thể xảy ra với việc đào tạo các chủng sinh và các sinh viên thần học khác?

Trong thời đại chúng ta, và đặc biệt là ở Đức, những nỗ lực tìm kiếm sự cân bằng, trung lập hay khách quan - những phẩm chất mà Đức Cha Robert Barron thể hiện cả về mặt học thuật lẫn tính khí - bị coi là vô trách nhiệm, thậm chí là nguy hiểm. Thế giới của chúng ta là một thế giới của các đảng phái và sự phân cực, đến mức việc xây dựng cầu nối bị nhìn nhận với sự ngờ vực. Làm việc với bên kia là “giao dịch với ma quỷ”. Điều này đúng ngay cả trong Giáo hội Đức – và tình trạng này đã như vậy kể từ Công đồng Vatican II cùng những hậu quả không mong muốn của nó. Tôi đồng cảm với Đức Giáo Hoàng Lêô XIV, người mà công việc giáo hoàng của ngài thậm chí còn chưa bắt đầu.

Giáo hội cần khôi phục lại văn hóa tranh luận. Để đạt được điều đó, chúng ta cần sự hòa giải. Chúng ta cần sự phi phân cực. Nói cách khác, chúng ta cần những người như Đức Cha Robert Barron, người nhắc nhở chúng ta rằng Giáo hội, hiền thê của Chúa Kitô, là một định chế có sứ mệnh, không nên bị nhìn nhận qua lăng kính quyền lực hay chính trị. Chúng ta phải cảnh giác với chủ nghĩa tự luyến thần học và triết học, được khoác lên mình vỏ bọc “truyền thống” hay “cấp tiến”. Trong Giáo hội, Thiên Chúa phải là trung tâm, chứ không phải chúng ta—vì chính Thiên Chúa là Đấng lôi kéo chúng ta, và đôi khi thậm chí còn kéo chúng ta vượt ra khỏi chính mình, vươn lên từ chính mình, để hướng về Ngài, Đấng thánh thiện và siêu việt. Đó chính là ý nghĩa của sự giải thoát, tự do, tha thứ và cứu rỗi đích thực.

Những cuộc tranh luận luôn được ưa chuộng về phụng vụ, dù không phải lúc nào cũng có kết quả, nhưng vẫn thuộc về cốt lõi của Giáo hội, hơn hẳn chính trị thế tục. Chúng ta phải từ bỏ niềm tin rằng ơn cứu độ tùy thuộc vào loại phụng vụ mà người ta tham dự. Chúng ta cũng phải tránh gây áp lực cho các giám mục, như thể chỉ riêng các ngài mới có thể và nên chịu trách nhiệm sửa chữa mọi thứ. Tính công đồng đích thực đòi hỏi sự hợp tác có cấu trúc, hướng đến sự trung thành cao hơn và sứ mệnh hiệu quả hơn, là điều mà chỉ có thể được thực hiện cùng nhau. Đối với các giám mục và các cơ chế giáo phận của các ngài (đặc biệt là các giáo phận được tài trợ tốt), điều này có nghĩa là phải từ bỏ nhiều dự án và hoạt động thứ yếu và tập trung vào sứ mệnh chính: đó là hỗ trợ, đào tạo, giám sát, giáo dục và truyền cảm hứng cho đời sống và sứ mệnh của các giáo xứ, linh mục và nhà truyền giáo. Công cuộc truyền giáo diễn ra ở cấp cơ sở, nhưng cũng thông qua internet, như Đức Cha Barron đã chứng minh trong nhiều năm.

Công cuộc đổi mới Giáo hội đang diễn ra tốt đẹp, và các giám mục như Đức Cha Robert Barron đang dẫn đầu. Những cuộc biểu tình phản đối ngài cho thấy Giáo hội Đức còn lạc hậu đến mức nào về mặt này, vẫn còn cố thủ trong phiên bản Kitô giáo tưởng tượng của riêng mình, vốn đã không còn tồn tại. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu đổi mới: những người như Giám mục Stefan Oster của Passau, người đã ca ngợi và bảo vệ Đức Cha Barron. Những hạt giống đã có, mặc dù chúng vẫn chưa nở hoa đầy đủ. Hiện tại, Giáo hội Đức phần lớn vẫn còn xa lạ với công cuộc đổi mới và tái thiết mà Đức Cha Barron đại diện.

Ngay cả cố Giáo hoàng Phanxicô cũng không thể đạt được nhiều tiến bộ trong việc chống lại làn sóng thần học tự quy chiếu của Đức vốn đang tiếp tục nhấn chìm các thể chế của mình. Trong những năm gần đây, Tòa thánh đã phớt lờ Giáo hội Đức ở một mức độ đáng kể. Tôi bắt đầu tự hỏi liệu đây có phải là một lựa chọn chiến lược hay không. Tuy nhiên, tôi nghi ngờ rằng ảnh hưởng tích lũy của tất cả các giám mục Đức đối với Giáo hội toàn cầu nhỏ hơn nhiều so với tầm với của Đức Cha Robert Barron. Rõ ràng là Đức Cha Barron đã suy ngẫm sâu sắc hơn về những thách thức của việc truyền giáo trong thế giới đương đại và đã thể hiện sự táo bạo hơn trong việc công bố phúc âm. Bất chấp tất cả các nguồn lực tài chính và sức mạnh thần học của mình, Giáo hội Đức đã đạt được rất ít thành tựu khi nói đến việc truyền giáo thực sự. Giáo hội Đức không có khả năng thoát khỏi các phòng họp chỉ vang vọng các ý tưởng của chính mình và tháp ngà của giáo hội.

Sự thật là, công cuộc đổi mới Giáo hội đang diễn ra, bất kể hàng giáo phẩm Đức có tham gia hay không. Đã đến lúc các giám mục Đức phải thức tỉnh. Truyền giáo không phải là một nỗ lực tập trung từ trên xuống, một thứ gì đó phát triển mạnh nhờ sự quản trị kỹ trị hoặc bao gồm việc thực hiện các chương trình của giáo phận hoặc Vatican. Thay vào đó, mỗi mục vụ và cấp bậc phẩm trật—giám mục, linh mục, giáo dân—phải làm phần việc của mình. Việc thực hiện không cần phải hoàn hảo; Chúa Thánh Thần sẽ hướng dẫn. Nhưng vì tất cả chúng ta đều là những tạo vật sa ngã và dễ mắc sai lầm và tội lỗi, nên nỗ lực này sẽ cần sự giám sát, ranh giới, sự thanh tẩy—và đây chính là lúc hàng giáo phẩm và huấn quyền bước vào. Điều này sẽ đòi hỏi rất nhiều công sức, cũng như rủi ro, nhưng chúng ta không được sợ cả hai.

Triết gia Josef Pieper đã dự đoán trước thời điểm đổi mới này của Giáo hội. Hiện tại, Giáo hội đang cho thấy nhiều hứa hẹn, mang lại sự sáng suốt và khích lệ. Nếu nhận được sự đồng hành và giám sát tốt đẹp, rộng lượng, sáng suốt và tự tin từ cấp bậc lãnh đạo, rất có thể Giáo hội sẽ phát triển mạnh mẽ và đơm hoa kết trái vượt xa mong đợi của chúng ta.

Nhưng có một điều cũng rõ ràng: Sự đổi mới đang trỗi dậy trong Giáo hội mang tính truyền thống hơn nhiều so với những gì nhiều người tưởng tượng, bắt nguồn từ sự hiểu biết rằng người ta chỉ có thể thực sự “tông đồ” và “truyền thống” bằng cách trung thành và tích cực rao giảng phúc âm. Sự đổi mới đích thực nằm ở việc truyền bá tin mừng về Chúa và Đấng Cứu Thế, chứ không phải bằng cách uốn nắn người khác theo tầm nhìn cá nhân, vị kỷ của chúng ta. Pieper, và Đức Cha Barron, người kế vị của ông, nói một ngôn ngữ khác, ngôn ngữ của tình yêu Chúa Kitô. Đó là sự tiến bộ thực sự và lòng trung thành thực sự. Quỹ Josef Pieper đã đúng khi trao giải thưởng cho Đức Cha Robert Barron và không chịu khuất phục trước áp lực thế gian.


Source:First Things
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Khuôn mặt nếp sống tỉnh thức
Linh Mục Đaminh Nguyễn Ngọc Long
15:10 07/08/2025


Sống tỉnh thức là cung cách của người có tầm suy nghĩ nhìn xa trông rộng. Đó cũng là nếp sống tiên liệu dự phòng, dù không biết trước được chuyện sẽ diễn xảy đến trong tương lai.


Trong các khía cạnh đời sống tỉnh thức là cung cách sống có bảo đảm mang đến thành công, như về học hành, nghiên cứu, thí nghiệm, phát minh biến chế…nhất là ngành đòi hỏi sự làm việc với tính chất tinh vi chính xác cao độ gần như tuyệt đối có thể.Vì thế tỉnh thức luôn là tiêu chuẩn được đề cao qúi trọng, cùng căn cứ theo đó mà được chấm điểm công nhận, hay bác bỏ.

Ngược lại với tỉnh thức là cung cách nếp sống lơ là, không chính xác đúng chuẩn mực. Và như thế hậu qủa dẫn mang đến không chỉ sự thất bại mà còn có phần nguy hiểm nữa.


Ngày nay trong đời sống xã hội các ngành bảo hiểm, tối thiểu nhất là bảo hiểm y tế sức khoẻ, ngày càng thời sự, phát triển sâu rộng, như ở nhiều đất nước trở thành luật điều bắt buộc cho đời sống mỗi người. Như thế bảo hiểm cũng là một cung cách của nếp sống tỉnh thức.


Trong đời sống tinh thần đạo giáo, sự tin tưởng vào bàn tay quan phòng của Thiên Chúa là điều tối thượng, cho đời sống làm người ở trần gian, cho phần linh hồn được cứu rỗi mai sau. Nhưng không phải vì thế mà không cần có nếp sống tỉnh thức. Trái lại càng cần thiết hơn. Vì bàn tay sự quan phòng ơn Thiên Chúa ban cho con người, tuy nhưng không, nhưng rất cần sự cộng tác của con người trong đời sống. Sự cộng tác đó là nếp sống tỉnh thức tinh thần.


Như Chúa Giêsu Kitô hằng nói đến cung cách nếp sống tỉnh thức là cung cách nếp sống của người khôn ngoan: “Chúa Giêsu nói cùng các môn đệ rằng: "Phúc cho những đầy tớ nào khi chủ về còn thấy tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, chủ sẽ thắt lưng, đặt chúng vào bàn ăn, và đi lại hầu hạ chúng. Nếu canh hai hoặc canh ba, chủ trở về mà gặp thấy như vậy, thì phúc cho các đầy tớ ấy. Các con hãy hiểu biết điều này là nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm đến, ắt sẽ tỉnh thức, không để nó đào ngạch nhà mình. Cho nên các con hãy sẵn sàng: vì giờ nào các con không ngờ, thì Con Người sẽ đến" ( Lc 12, 35-40).


Ai là con người cũng mong muốn sống khoẻ mạnh cùng lâu dài như có thể. Nhưng con đường đời sống của mỗi người có giới hạn, mà không ai biết trước được sẽ kết thúc vào lúc quãng nào. Vì thế nếp sống tỉnh thức chuẩn bị tinh thần là lối sống khôn ngoan sáng suốt.


“ Cuộc ra đi của mỗi cá nhân xẩy ra hàng ngày, hàng giờ. Lá vàng, biết là mùa thu đến. Nghe tin người này gĩa từ cuộc sống, biết mình cũng thế. Gío se lạnh, đổi mầu biết lá sắp lìa cành. Nghe tin bạn bè ra đi, biết mình cũng vậy. Do đó, không có gì gọi là ngày giờ cánh chung không ai biết. Thật sự, ai cũng biết. Sự khác biệt hệ tại như sau:


-Khôn thì bớt bận rộn để sống, dại sống là bận rộn.

-Tỉnh thức, buông tay là tự do. Thiếu tỉnh thức, buông tay là mất mát

-Người sẵn sàng thì cuộc đời là trọn vẹn, không sẵn sàng thì lúc nào cũng dang dở.

-Người khôn thấy nước là biển cả, người dại thấy biển cả chỉ là nước.

-Người tỉnh thức thấy đêm là trăng sao, thiếu tỉnh thức thấy đêm dài lê thê.

-Người sẵn sàng thấy bất chợt là hân hoan, không sẵn sàng là than khóc.”

( Nguyễn tầm Thường, Phúc âm trong dụ ngôn, tập 3., 10. 06.2021, tr. 155.)


Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
 
Văn Hóa
Hôn Nhân Đồng Tính, Lý Lẽ Công Cộng, Và Ích Chung, tiếp
Vũ Văn An
01:14 07/08/2025

II. Ích Chung (tiếp theo)

2. Điều trên gợi ý một khả thể khác: chúng ta có thể muốn nói đến điều tốt là chính cộng đồng. Tất nhiên, khái niệm về ích chung này không bao giờ có thể bị coi là xa lạ với lợi ích cá nhân của các thành viên cộng đồng, nhưng nó cũng không đơn giản có thể giản lược vào họ. (18) Thực thế, đây là một cách khác để nói rằng cộng đồng là các thành viên của nó chỉ có điều các thành viên của nó không được coi là một tập hợp các cá nhân đơn thuần. Để thấy được nghĩa này về ích chung, chúng ta cần có thể nói rằng thật tốt khi chúng ta là “chúng ta” và tuyên bố này không chỉ giản lược nói rằng thật tốt khi chúng ta là hai “cái tôi” hoặc thậm chí là “tôi-anh,” trong chừng mực các khả thể sau được hiểu từ quan điểm của hai cá nhân liên hệ. Khi đó, nghĩa “chúng ta” phải vượt lên trên hai “cái tôi” hoặc “tôi-anh”, với tư cách là một cộng đồng và một điều tốt.

Giống như hai nghĩa của ích chung vừa được mô tả, nghĩa thứ ba này được gợi ý ở một số điểm trong các công thức truyền thống. Thí dụ, khi Thánh Tôma, theo Aristốt, nói về lợi ích cá nhân hoặc lợi ích đơn lẻ trong mối liên hệ với ích chung, hoặc khi ngài nói về mối liên hệ của các cá nhân với cộng đồng, ngài thường so sánh nó với mối liên hệ từng phần với toàn bộ, hoặc các biến thể của nó. (19) Giải trình này rất có ý nghĩa, vì mối liên hệ giữa các bộ phận với toàn thể có tính nội tại. Điều cũng quan trọng là, thực tại lớn hơn và có thực chất hơn toàn thể: các bộ phận lấy ý nghĩa của chúng từ toàn thể đó, vốn không thể giản lược thành các bộ phận của nó, nhưng siêu việt và hoàn thiện chúng, giống như mô thức vượt quá và hiện thực hóa chất thể. (20)

Thánh Tôma sử dụng mối liên hệ này để mô tả cả mối liên hệ của các bản thể cá nhân với vũ trụ và mối quan hệ của từng công dân với xã hội chính trị. Trong cả hai trường hợp, ngài lập luận rằng các cá nhân tự nhiên yêu thương toàn bộ hoặc lợi ích chung hơn là yêu bản thân hoặc lợi ích riêng tư của họ. Ngài cũng lập luận rằng lợi ích của toàn thể, chẳng hạn, xã hội dân sự, không lớn hơn hoặc khác biệt với lợi ích tư nhân chỉ về mặt độ lớn, mà đúng hơn về mặt thể loại. (21) Vì cả hai lý do, có vẻ như chúng ta phải nghĩ tới lợi ích chung như chủ yếu là chính cộng đồng chứ không chỉ là lợi ích tập thể của hoặc cho các thành viên của nó.

Việc các thành viên yêu toàn thể hơn chính bản thân họ thoạt nhìn có vẻ giống như việc ma thuật kéo một con thỏ ra khỏi mũ. Điều tốt là điều mà mọi vật đều tìm kiếm, vì mọi vật đều tìm kiếm sự hoàn hảo của chính nó. Điểm khởi đầu theo chủ nghĩa Platông-Aristốt-Tôma này có vẻ mang tính cá nhân chủ nghĩa hơn là mang tính cộng đồng. Ngay cả sự hy sinh mạng sống của một người cho cộng đồng cũng có thể bị giản lược thành một hình thức “tự thể hiện mình.” (22) Nếu đúng như thế, thì nghĩa này về ích chung (cũng như nghĩa thứ hai) chắc chắn sẽ rơi trở lại nghĩa thứ nhất. (23) Tuy nhiên, một điều tốt càng phổ quát thì nó càng hoàn chỉnh và bao trùm và nó càng chuyển dịch mọi sự một cách phổ quát hơn. Một mặt, nếu chúng ta có sự thống nhất lớn nhất và do đó dường như yêu bản thân mình nhất, mặt khác, toàn thể mang lại sự hoàn hảo ngày càng lớn hơn và sự thống nhất phổ quát và do đó thậm chí đáng yêu hơn. Do đó, một điều tốt càng phổ quát thì tính tốt của nó càng lan tỏa, tính nhân quả của nó càng phổ quát và tối hậu thì nó càng phải đáng yêu hơn. (24) Như thế, từ quan điểm này, nếu mối liên hệ giữa toàn bộ và bộ phận ngụ ý rằng toàn thể “hoàn thiện” bộ phận, (25) khi hiện thực hóa tiềm năng tham gia vào toàn thể của nó, và nếu các thành viên của một cộng đồng ít nhất có thể được coi là bộ phận theo một nghĩa nào đó, thì trên thực tế họ cũng phải yêu toàn thể— tức cộng đồng —thậm chí còn hơn cả chính họ.

Một cách để thấy điều này là lưu ý rằng chỉ có toàn thể mới cho phép bộ phận hiện hữu hoặc trở thành chính nó một cách trọn vẹn. Bởi vì các bộ phận hoàn hảo hơn của toàn thể cho phép toàn thể trở thành toàn thể, và bằng cách đó hoàn chỉnh “tính thành phần” của mình, nên chúng cũng tự nhiên yêu toàn thể hơn bản thân mình. Hoặc có lẽ, khi yêu bản thân, họ phải yêu toàn bộ hơn bản thân mình để được là chính mình. Vì vậy, tình yêu của các bộ phận đối với toàn thể của chúng không phải là tình yêu “vị tha”, nhưng cũng không phải là tình yêu đơn thuần mang tính tự qui chiếu, chưa nói đến ích kỷ. Đúng hơn, nó được gài chặt vào mối liên hệ hỗ tương giữa các bộ phận và toàn thể, mặc dù ưu tiên với toàn thể. (26) Do đó, bộ phận yêu mến toàn thể không phải “để quy chiếu thiện ích của toàn thể vào chính nó, mà đúng hơn qui chiếu bản thân nó vào thiện ích của toàn thể.” (27)

Việc có một cộng đồng gồm nhiều người, và nó có lý lẽ hoặc trật tự của một cộng đồng, tự trong nó và xét như trong nó đã là một điều tốt khác biệt và nói chung cao hơn những điều tốt đẹp cho hoặc tính tốt đẹp của mỗi thành viên trong cộng đồng đó như các cá nhân. Tất nhiên, Thánh Tôma đặc biệt nghĩ đến Thiên Chúa, Đấng là ích chung của mọi tạo vật. (28) Do đó, Thánh Tôma cũng nói với chúng ta rằng người có nhân đức nhưng không có đức ái thì thực sự có nhân đức, nhưng không có tính viên mãn của nó, bởi vì, trong khi một người như vậy có thể chiến đấu với lòng can đảm thực sự để bảo vệ kinh thành, lòng can đảm của họ không có hình thức bác ái, tức tình yêu Thiên Chúa. (29) Là thiện ích cao nhất, và do đó cũng là điều phổ quát nhất, Thiên Chúa là chung nhất. Nhân đức của một người như vậy, chính là một nhân đức tự nhiên, do đó không được sắp xếp một cách đầy đủ và đúng đắn. Điều đó có nghĩa là ngay cả tình yêu của họ dành cho kinh thành cũng không phải là mọi sự họ nên là. Mặc dù họ có thể yêu cộng đồng hoặc ích chung hơn bản thân mình, nhưng họ không yêu ích chung cao nhất hơn chính mình. Việc họ được sắp xếp cho “ích chung” vẫn chưa “chung” đủ.

Điểm cuối cùng này nêu lên một sự khác biệt quan trọng khác. Thánh Tôma phân biệt giữa các ích chung nằm bên ngoài cộng đồng đúng nghĩa với những ích chung không thể thiếu đối với cộng đồng. Một lần nữa, thí dụ hàng đầu là Thiên Chúa. Thiên Chúa là thiện ích chung của mọi cộng đồng thụ tạo và của vũ trụ bao lâu tất cả đều có cùng đích của họ nơi Thiên Chúa. Nghĩa này về ích chung dường như phản ảnh một phạm trù khác với ích chung được hiểu như chính cộng đồng, vì theo một nghĩa nào đó, Thiên Chúa có thể được coi là một mục tiêu “ngoại tại”. Mặt khác, không giống như các loại mục tiêu khác, Thiên Chúa là điều tốt lành phổ quát nhất bởi vì Người là điều tốt lành của toàn thể bằng cách hiệp thông với toàn thể (trong khi chính Người không phải là một “bộ phận” của toàn thể theo bất cứ nghĩa nào; “Thiên Chúa cộng với thế giới” không hơn gì Thiên Chúa); (30) Người là thiện ích không chỉ như một thiện ích khác có thể so sánh với những thiện ích khác, mà là thiện ích cho phép mọi thiện ích hiện hữu.

Mặt khác, nghĩa toàn diện của ích chung tập chú vào chính trật tự của một cộng đồng, sự sắp xếp các bộ phận với nhau như trật tự vốn là toàn thể. Bằng cách này, dường như chúng ta đã tìm được đường quay trở lại nghĩa thứ hai của ích chung, đã được thảo luận trước đó. Nhưng nghĩa đó liên quan đến tính tốt của các thành viên mang trật tự lại cho cộng đồng; ở đây chúng ta đang nói tới thiện ích là chính cộng đồng, như một trật tự của các mối quan hệ bản thân về mặt hữu thể học có trước các hành vi có ý thức hoặc đạo đức của các thành viên trong cộng đồng đó. (31) Trật tự của tính đa dạng nơi các bộ phận cùng nhau tạo nên toàn thể tự nó đã là một loại hoàn thiện hay một điều tốt. Khi cố gắng giải thích tính đa dạng, Thánh Tôma nói với chúng ta rằng tính đa dạng của các tạo vật khiến cho toàn bộ vũ trụ phản ảnh vẻ huy hoàng của Thiên Chúa. (32) Một cách hiển nhiên, cần có rất nhiều loại tạo vật khác nhau mới phản ảnh được sự thống nhất-trùng hợp-với-tính đa dạng ngôi vị của Thiên Chúa.

Mà điều quan trọng cần lưu ý ở đây là tính đa dạng này chống lại khả thể thay thế lẫn nhau. Trong khi mỗi vị đều là một yếu tính thần linh, Chúa Cha và Chúa Con khác biệt rõ ràng ở chỗ không thể giản lược vào nhau; Chúa Cha là Chúa Cha vì Người không phải là Chúa Con, và Chúa Con là Chúa Con vì Người không phải là Chúa Cha, và v.v. với các mối quan hệ Ba Ngôi khác: thật vậy, chúng ta có thể nói rằng các ngôi vị của Ba Ngôi là tính không thể thay thế cho nhau [non-interchangeability]. Trong sáng thế có nhiều loại sự vật. Ở đây, chính sự đa dạng về loại sự vật đã cho phép toàn thể trở thành một toàn thể tích hợp [integrated], nghĩa là, nó cho phép toàn thể trở thành một toàn thể theo đúng nghĩa. Một cách có thực chất, chính sự kết hợp hài hòa của những điều này làm cho toàn thể trở thành một toàn thể và cho phép nó phản ảnh vẻ huy hoàng của Thiên Chúa. Quả thực, chính sự phù hợp của các loại sự vật khác nhau cho phép toàn thể, trên thực tế, trở thành một toàn thể, thay vì chỉ đơn giản là một tập hợp những sự vật song hành có liên quan ngẫu nhiên một cách thờ ơ. Nhưng điều này cũng hàm ý rằng mỗi bộ phận đều cho phép những bộ phận khác trở thành bộ phận của toàn thể. Do đó, điều tốt là chính cộng đồng là một điều tốt có trật tự và toàn diện, điều mà chúng ta có thể gọi là “tính ở với nhau một cách ăn khớp” [fitting-togetherness]. Vì vậy, tính hỗ tương đã đề cập ở trên trong mối liên hệ bộ phận-toàn thể đòi hỏi không những toàn thể cho phép các bộ phận là các bộ phận và các bộ phận cho phép toàn thể trở thành một toàn thể thống nhất, mà mỗi bộ phận cũng phải cho phép các bộ phận khác là các bộ phận và thực sự là các loại bộ phận đó. Các bộ phận thực sự “khớp” với nhau chứ không chỉ đơn giản là ghép lại với nhau. Đây là sự khác biệt giữa một đống và một toàn thể.

Thực thế, như một ích chung “ngoại tại” của một cộng đồng, Thiên Chúa là thiện ích giúp cộng đồng thực sự trở nên toàn vẹn; Thiên Chúa quả là nguồn gốc căn bản của tính chung của ích chung. (33) Ích chung, như toàn thể và do đó, như thực tại trong mối quan hệ với các bộ phận, do đó, như D.C. Schindler nói, phải được cho đi hoặc được tiếp nhận. (34) Nó phải mang trong nó cấu trúc của một quà tặng. Một điểm có tương quan quan trọng ở đây. Nghĩa nội tại của ích chung, tức ích chung là chính cộng đồng, phải có tính tự nhiên, vì nó phải là một điều gì đó, vì nó liên quan đến các bộ phận như mô thức với chất thể. Một đống không phải là một bản chất, nhưng toàn thể là một bản chất. Vì nó là bản chất, vì nó là nguyên nhân mô thức của một sự vật nào đó, nên nó cũng là điều đã được ban cho.

3. Đúng là Thánh Tôma đã đưa ra sự phân biệt quan trọng này là các xã hội gia đình và chính trị là những toàn thể xét theo trật tự và mối quan hệ của chúng, trong khi các thành viên cá nhân là những toàn thể như những hữu thể bản thể. (35) Vì vậy, việc so sánh toàn thể, đặc biệt là một toàn thể hữu cơ hoặc tự nhiên, với các thành phần của nó cũng là cách sử dụng loại suy. Vậy thì cộng đồng con người giống một đống hay giống một toàn thể hơn? Loại suy là một hình thức khẳng định đúng hoặc có thực. Sự khác biệt vô tận cùng lúc với sự tương đồng trong định tính của Thánh Tôma có nghĩa muốn chứng tỏ rằng những người là thành viên của một cộng đồng không chỉ đơn giản là những bộ phận, một điều cũng có nghĩa là toàn bộ cộng đồng đó không chỉ đơn giản là một toàn thể. (36) Hoặc nói một cách khác là: các bộ phận không bao giờ đơn giản bị mất đi hoặc gộp lại [subsumed] trong toàn thể, nhưng như các ngôi vị, các bộ phận vừa là những toàn thể tự trong họ vừa là thành viên một cách khác biệt và yếu tính của toàn thể. Như những toàn thể trong chính họ, các bản vị không lạc mất trong ích chung mà tự mình là các thiện ích trong chính họ. Đây là cái nhìn sâu sắc quan trọng về hai ý nghĩa đầu tiên của “lợi ích chung”.

Thật vậy, chính vì ở đây chúng ta đang đề cập đến những bản vị, và do đó là sự hiệp thông bản vị, nên sự hỗ tương giữa toàn thể cộng đồng và bản vị được nâng cao về ý nghĩa, và ích chung tức cộng đồng không hề đơn giản khác với các sự hoàn hảo của các thành viên của nó. Do đó, nghĩa thứ ba của ích chung hiểu như điều tốt vốn là chính cộng đồng, bao hàm sự thật của cả nghĩa thứ nhất hướng đến thành viên [member-diredted sense] của ích chung và nghĩa thứ hai thành viên-như- chính tính tốt [member-as-goodness sense]. Một lần nữa, sự kiện ích chung cao hơn không có nghĩa là các bộ phận chỉ đơn giản bị chìm lỉm trong toàn thể, như bản sắc bản vị bị chìm lỉm trong biển hiện hữu của một số tôn giáo phương Đông. Mối liên hệ này cũng không chỉ đơn giản là song hành với cách, chẳng hạn, các bộ phận của một sinh vật có thể được cho là chìm lỉm trong hữu thể sống động vốn là toàn thể, đến nỗi, chẳng hạn, một bộ phận có thể đơn giản bị hy sinh vì lợi ích của toàn thể, giống như một con thằn lằn có thể hy sinh cái đuôi của mình để thoát khỏi kẻ săn mồi. Nếu bộ phận phải yêu cái toàn thể hơn chính nó, thì toàn thể, theo một cách khác, cũng phải yêu sự toàn vẹn của bộ phận, thậm chí đôi khi gây tổn hại cho chính nó, nếu nó vẫn là loại toàn thể đúng đắn. Một cách đoán chừng, khi chúng ta nghĩ về vấn đề này, một số cộng đồng có thể giống như một sinh vật hơn những cộng đồng khác: trong bối cảnh hiện đại của tổ chức chính trị dựa vào nhà nước, với tất cả những tách biệt với cộng đồng địa phương và các hữu thể nhân bản có kinh nghiệm, ích chung gia đình và ích chung của giáo hội dường như giống như những toàn thể hữu cơ hơn là lợi ích chung chính trị.

Hình ảnh trở nên khó khăn hơn ở điểm này. Thánh Tôma sử dụng chính loại suy này để biện minh cho việc xử tử tội phạm, những kẻ được so sánh với các bộ phận cơ thể bị hoại tử [gangrenous]. (37) Tuy nhiên, có lẽ ngài do dự khi áp dụng loại suy quá nghiêm ngặt, ít nhất là đối với xã hội chính trị. Là những bộ phận mà “tính bộ phận” cũng đòi hỏi sự trọn vẹn của chúng, những hữu thể nhân bản cá nhân phần nào vượt lên trên xã hội gia đình và dân sự. Những lợi ích chung này không thể nắm bắt được tất cả những gì là chung của thiện ích. Việc cá nhân không chỉ chìm đắm trong đời sống gia đình hay dân sự là vì lợi ích chung cao cả hơn là Thiên Chúa. Chẳng hạn, công dân không chỉ là một công dân, họ còn là thành viên của một gia đình, của Giáo hội, Thân thể Chúa Kitô, của một vũ trụ vốn có một ích chung riêng của nó, v.v. Chưa hết, thậm chí con người không chỉ chìm ngập trong Thiên Chúa, mà còn được ban cho “không gian” để trở thành một toàn thể. Hữu thể nhân bản và tự do, dù tham dự vào hữu thể tuyệt đối và tự do vô hạn của Thiên Chúa, tuy nhiên, đối với tất cả những điều đó, vẫn là hữu thể và tự do được tạo dựng và tham gia. Tiếng “xin vâng” của Đức Maria cùng một lúc được ban cho Mẹ nhưng thực sự là của riêng Mẹ. Mặt khác, có lẽ chỉ vì cộng đồng, theo một nghĩa khác, là một thiện ích cao hơn nên việc loại suy mới có một ý nghĩa nào đó. Vì vậy, ngay cả ở đây, chúng ta cũng thấy luận lý không thể tránh khỏi của tình yêu bản thân đối với cộng đồng nói chung hơn là tình yêu của bản thân dành cho chính mình. Có lẽ cách duy nhất để hiểu điều này là phải hiểu rằng các bộ phận không chỉ đơn giản là bộ phận-bản vị-đồng thời-với-việc là-toàn thể-bản vị [personal-parts-simultaneously-with-being-personal-wholes], mà toàn thể, như là sự hiệp thông nhân bản và là sự hiệp thông với Thiên Chúa, nghĩa là sự hiệp thông giữa các bản vị, tự nó là một toàn thể có tính bản vị.

Thánh Tôma thường sử dụng loại suy từng phần với toàn thể để giải thích cơ sở thuận lý cho việc một công dân hy sinh tài sản hoặc mạng sống của mình vì thiện ích chung. Vì vậy, người sẵn sàng hy sinh mạng sống của mình vì toàn thể là một người tử vì đạo hoặc một anh hùng, hơn là một kẻ lập dị phi lý. Đức ái được biểu lộ nơi người hy sinh mạng sống mình vì người khác là minh chứng cho ích chung mà họ có chung, chính là sự hiệp thông giữa các bản vị. (38) Nếu chúng ta nghe nói về một người mẹ hy sinh mạng sống vì đứa con thơ của mình, có lẽ chúng ta nghĩ rằng hành động đó đã bị hiểu sai một cách nghiêm trọng nếu nó được mô tả là “cử chỉ yêu thương phi lý”. Ngược lại, chúng ta sẽ trả lời rằng hành động như vậy là hết sức hợp lý. Mặt khác, nếu nhận xét rằng hành động đó chắc hẳn do người mẹ mong muốn tự thể hiện mình, thì có lẽ chúng ta sẽ nghĩ rằng hành động đó đã bị hiểu sai một cách nghiêm trọng, ngay cả khi chúng ta không muốn phủ nhận rằng một người phụ nữ như vậy không những cứu vãn thiện ích của đứa con thơ của mình mà còn hành động theo cách thể hiện cả thiện ích riêng của mình. Nếu người mẹ và đứa con chỉ được coi là những toàn thể song song, thì sự hy sinh của người này cho người kia vẫn chưa đạt tới cốt lõi thuận lý của tình mẹ. Thực thế, ẩn ngay bên dưới bề mặt là một điều tốt không thể giản lược cả vào đứa con được coi như một đứa con lẫn vào người mẹ được coi như một người mẹ. Không hề làm suy giảm chút nào tình yêu mà người mẹ dành riêng cho con mình, trái lại còn xác nhận nó nữa, tình yêu của người mẹ cũng và đồng thời hướng đến thiện ích là sự hiệp thông mà mẹ và con cùng chia sẻ, những gì mẹ và con cùng có với nhau. Khi hành động như vậy, trên thực tế bà đang hoàn thiện cộng đồng đó. Điều này gợi ý rằng luôn có cái “nhiều hơn” trong các cộng đồng bản vị và cái “nhiều hơn” này luôn được đặt trong một phẩm trật vốn là một phần của cấu trúc sáng thế. Sự ưa thích của một người đối với gia đình, thành phố, quốc gia hoặc văn hóa chỉ được sắp xếp tốt nếu tất cả những tình yêu này được đặt bên trong và sắp xếp bởi tình yêu toàn bộ thực tại tạo dựng và cuối cùng là Thiên Chúa.

Thật vậy, điều kiện tiên quyết cơ bản để tham gia vào ích chung thực sự theo nghĩa toàn diện là nó phải là ích chung của một cộng đồng đáng được chết cho; nếu không, thì đó không thực sự là một ích chung, và do vậy đó không thực sự là một cộng đoàn theo nghĩa chặt chẽ nhất, bởi vì nó không có khả năng được yêu thương hơn chính mình. Điều ngược lại cũng đúng: chỉ có ích chung theo nghĩa toàn diện mới đáng chết cho vì chỉ là ích chung đích thực khi cho phép chúng ta khao khát và yêu mến một sự hoàn hảo vừa của chúng ta vừa vượt quá chúng ta.

Những điều đã nói ở trên chỉ ra lý do tại sao ý nghĩa “cao hơn” trong ích chung về bản chất không thể mang tính cộng [additive] hoặc số học; nếu các bản vị, theo một nghĩa nào đó, là “những vô hạn” dựa trên cơ sở họ capax Dei [có khả năng biết Thiên Chúa], (39) thì việc cộng bao nhiêu “vô hạn”, trong nguyên tắc, cũng không thể bằng nhiều hơn một vô hạn. Vì vậy, ý nghĩa “cao hơn” phải thực sự siêu việt, nhưng đồng thời nó cũng tuyệt đối nội tại trong các thành viên của cộng đồng. Do đó, tất cả các cách giải thích “duy tập thể” đều bị loại trừ, vì những cách giải thích này luôn sai lầm ở bên này hoặc bên kia (hoặc cả hai cùng một lúc). Chúng hoặc đơn giản đánh mất cảm thức về bản vị hoặc đánh mất cảm thức về cộng đồng, nhưng chúng xử lý mối quan hệ giữa bộ phận với toàn thể theo một cách thức định lượng đơn thuần. (40) Do đó, chẳng hạn, cả chủ nghĩa cộng sản lẫn chủ nghĩa cá nhân mặc ai nấy làm đều có chung sự kiện là “chủ nghĩa duy tập thể”.

Tính hỗ tương của toàn bộ và thành phần cũng có giá trị đối với mối quan hệ giữa các cộng đồng phổ quát hơn và ít phổ quát hơn. Do đó, nếu ở một trật tự nào đó, cộng đồng dân sự phổ quát và trọn vẹn hơn cộng đồng gia đình, thì cộng đồng gia đình vẫn có tính cơ bản hay “nguyên thủy” hơn và do đó, theo cách riêng của nó, có một ưu tiên nhất định. Xã hội dân sự là vì lợi ích của các gia đình, ngay cả khi gia đình cũng vì lợi ích của xã hội dân sự. Hôn nhân là vì gia đình, ngay cả khi gia đình là kết quả của hôn nhân và bằng cách đó nó hoàn thiện gia đình và cho phép gia đình là chính nó. Tuy nhiên, cấu trúc phân cấp sắc nét này một phần mang tính phối cảnh [perspectival], theo các trật tự có liên quan một cách nội tại nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Do đó, Thánh Tôma nói với chúng ta rằng vợ của một tên tội phạm có quyền hy vọng anh ta trốn thoát, ngay cả khi thẩm phán ra hình phạt cho anh ta một cách chính đáng. (41) Mỗi người đều tìm kiếm một ích chung, nhưng chúng là những ích chung khác biệt. Bởi vì, giống như bản vị, gia đình không chỉ là một thực tại dân sự, nó cũng không đơn giản chìm lỉm trong ích chung dân sự.

Điều này cuối cùng đưa chúng ta đến những câu hỏi được nêu ra bởi định nghĩa về ích chung được đưa ra tại Vatican II và những nơi khác. Trong khi nó nói về ích chung trong mối tương quan với cá nhân, nó cũng liên kết thiện ích đó với ý tưởng về ơn gọi, làm nổi bật cảm thức về tính nguồn gốc của nó trong tư cách tạo vật của con người. “Ơn gọi” hàm ngụ ý tưởng về một ơn gọi nguyên thủy và yếu tính và do đó là yêu cầu những người khác (và cuối cùng là yêu cầu Những Vị Khác trong Ba Ngôi) vốn bắt nguồn từ, và thực ra cấu thành nên, chính hữu thể con người. Nói cách khác, nó bao hàm ích chung nền tảng của cộng đồng nơi ơn gọi bắt nguồn. Điều cần thiết cho một ý nghĩa chân chính của “ích chung” là sự thừa nhận hữu thể của nhân vị, theo lời của Ratzinger, cả “từ” [from] và “cho” [for] (hoặc “cho” vì “từ”). Như thế, theo cách này, trên thực tế, định nghĩa của Vatican II về ích chung là sự hiện thân của ích chung toàn diện như là thiện ích vốn là toàn thể.

Còn tiếp
 
Hôn Nhân Đồng Tính, Lý Lẽ Công Cộng, Và Ích Chung, tiếp theo
Vũ Văn An
22:25 07/08/2025

II. Ích Chung, tiếp theo

4. Ở điểm này có thể đưa ra một số điểm tóm tắt. Đầu tiên, và mang tính hoàn cầu hơn cả, ý thức toàn diện thứ ba về ích chung này không chỉ đơn giản là một trong những loại thiện ích khác nhau; nó không phải là một loại thiện ích. Nếu lý luận cho đến nay vẫn đúng, thì xét cho cùng, đó là điển hình của thiện ích nhân bản đúng nghĩa. Thực vậy, theo nghĩa đầy đủ nhất, đó là một cách nhìn chính sự thiện vốn là Thiên Chúa.

Điều này liên quan với một điều khác. Các thiện ích chung theo nghĩa mà chúng ta đang nói đến nhất thiết phải là tự nhiên đối với các hữu thể nhân bản. Nếu chúng không có nguồn gốc tự nhiên thì chúng thực sự không phải là các thiện ích chung và do đó không phải là các cộng đồng. Do đó, từ bản chất của chúng, chúng không thể được xây dựng một cách đơn giản. Nếu toàn thể là sự hoàn hảo của bộ phận, nếu nó giống như hành động đối với tiềm năng, thì toàn thể phải có trước về mặt hữu thể học, ngay cả khi theo thứ tự thực hiện, bộ phận có thể có trước nhất. Đúng là một nhóm có thể thành lập, trên cơ sở một thỏa thuận, một câu lạc bộ hoặc một hiệp hội nào đó nhằm mục đích thực hiện x, y hoặc z. Chúng ta có thể gọi nhóm này là “được xây dựng” theo nghĩa nó là kết quả của những lựa chọn và hành động nhất định của các thành viên. Nhưng trong chừng mực nó thực sự là một “cộng đồng” như chúng ta đã hiểu chữ đó ở đây, và trong chừng mực việc ở trong cộng đồng đó thực sự đang hoàn thiện, thì về nguyên tắc, nó phải đi trước các thành viên. Nếu không thì đó không thực sự là một cộng đồng theo nghĩa đầy đủ mà giống một nhóm gồm những cá nhân tìm kiếm những lợi ích song song. (42) Và quả thực, nếu lý do duy nhất khiến một nhóm đến với nhau là vì x, y hoặc z, sao cho nhóm không đồng thời hình thành một loại tình bạn, sao cho x, y và z chỉ hoàn thiện các thành viên chứ không phải bản thân nhóm, thì ở mức độ đó nó thực sự không phải là một cộng đồng.

Có một hệ luận khác. Nếu ích chung đích thực và cộng đồng không phải là những thứ có thể được xây dựng, nhưng theo nghĩa nó là tự nhiên và “đi trước” các thành viên của chúng, thì “sự lựa chọn” gia nhập một cộng đồng luôn là một sự lựa chọn trong một trật tự đã được đưa ra, “được xây dựng vào chính sự vật,” có thể nói như thế. Gia nhập cộng đồng là gia nhập trật tự đã được xây dựng vào các hữu thể nhân bản theo cách thức giúp cho trật tự đó được hoàn thiện hoặc sinh hoa trái. Một lần nữa, ích chung theo nghĩa đầy đủ nhất luôn phải đi trước một phần hành vi tự do của các thành viên; hành vi của các thành viên phải được tự do trong một trật tự đã được khắc ghi trong thực tại một cách nào đó.

Tiếp theo, nghĩa toàn diện thứ ba của chúng ta về ích chung có tác dụng bao trùm cả giá trị và phúc lợi của cá nhân cũng như các nguyên tắc sắp xếp nhân đức của cộng đồng, trong khi làm cho cả hai trở nên cụ thể hơn. Không có ít nhất sự hiện diện ngầm và sự ưu tiên của ý nghĩa toàn diện này, những điều khác được thảo luận ở trên có xu hướng đi theo hướng giản lược của các thiện ích cá nhân. Khi điều này xảy ra, nghĩa đầu tiên của ích chung có xu hướng mang màu sắc của sự hiểu biết mang tính công cụ về các xã hội cả lớn lẫn nhỏ, chỉ coi các cộng đồng dưới góc độ những gì chúng sản xuất cuối cùng như các loại thiện ích cá nhân khác nhau. Khi đó, ngay cả ích chung như tính thiện ích của các thành viên trong cộng đồng cũng có thể bị giản lược thành một ý nghĩa công cụ: chẳng hạn, người ta muốn tín thác các đối tác kinh doanh của mình nếu có thể tối đa hóa lợi nhuận.

Quan trọng đối với mục đích của chúng ta còn một điểm nữa. Trong chừng mực con người bị tách khỏi các ích chung đích thực và toàn diện, thì con người trên thực tế có xu hướng biến mất, như quan điểm phiến diện coi cộng đồng như một “toàn bộ” nhấn chìm các “bộ phận” của nó đã làm. Để hiểu tại sao lại như vậy, tại sao việc nhấn mạnh một chiều vào tính cá nhân và quyền tự chủ trên thực tế lại làm mất đi con người (một cách nghịch lý), có thể được nhận thấy dễ dàng hơn nếu chúng ta xem xét các hậu quả của xu hướng công cụ vừa được đề cập.

Đầu tiên, các thiện ích có tính dụng cụ quan trọng đối với những gì chúng sản xuất ra chứ không phải đối với bản thân dụng cụ. Nhưng điều này cũng có nghĩa là về nguyên tắc những thiện ích đó có thể trao đổi được với bất cứ thứ gì khác có thể tạo ra thiện ích mà thiện ích công cụ đó là công cụ. Do đó, trong chừng mực một thiện ích công cụ được coi là công cụ thì tính chất tốt của nó không quan hệ. Do đó, chủ nghĩa công cụ khiến chúng ta không tập chú vào bản thân sự vật, ngoại trừ trong chừng mực sự vật đó có thể là một công cụ tốt hoặc không, tức là hoạt động tốt. Vì vậy, trong chừng mực chúng ta có thể nhận được cùng một kết quả hoặc một kết quả tương tự từ một công cụ khác, chúng ta sẽ dửng dưng đối với việc phải sử dụng công cụ nào. Trong chừng mực ai đó quan tâm đến việc phải sử dụng thiện ích công cụ này, thay vì một thứ tương đương thực sự, thì chính đến mức đó, người này không coi thiện ích đó thuần túy là công cụ. Đúng hơn, họ quan tâm đến thiện ích là chính sự vật đó.

Thứ hai, “tính có thể hoán đổi” [exchangeability] này mở rộng một cách hợp lý đến các bộ phận của các thiện ích công cụ. Trong chừng mực một bộ phận được coi đơn giản là một bộ phận của một thiện ích công cụ và không quan trọng bằng vì những lý do khác, thì về nguyên tắc, bộ phận đó cũng có thể hoán đổi với một thứ khác có thể phục vụ tương tự cho toàn bộ thiện ích công cụ. Nói cách khác, nếu một bộ phận khác có thể được phát hiện hoạt động gần giống như bộ phận hiện có thì bộ phận sau cũng có thể được hoán đổi cho bộ phận trước. Nếu một doanh nghiệp chỉ được xem như một phương tiện để kiếm lợi nhuận và nếu một nhân viên chỉ được xem như một nhân viên thì nhân viên đó có thể được hoán đổi như một “bộ phận” với một nhân viên tiềm năng khác (hoặc thực tế là với một chiếc máy) có khả năng tương đương hoặc tốt hơn. Do đó, các bộ phận của một toàn thể công cụ là chính chúng, trong chừng mực chúng được coi là các bộ phận của toàn thể công cụ, tất yếu bị giản lược thành thiện ích công cụ và có thể hoán đổi. Tất nhiên, cùng một luận lý học này mở rộng một cách tự nhiên đến “các bộ phận” của “các bộ phận”, ad infinitum (đến vô tận).

Sự thiếu vắng tính hỗ tương này trong mối liên hệ bộ phận-toàn bộ trong luận lý của chủ nghĩa công cụ cũng mở rộng sang mối liên hệ bộ phận với bộ phận. Nếu các bộ phận hoặc thành viên của một cộng đồng chỉ được coi như thiện ích công cụ, thì mỗi người sẽ xem những người bạn đồng hành của mình (và chính mình) theo cách này: như những phương tiện để cộng đồng tạo ra phúc lợi. Do đó, một “cộng đồng” như vậy chỉ có thể được hiểu là sự theo đuổi song song lợi ích tư riêng hoặc cá nhân, và mối liên hệ với những người khác trong doanh nghiệp—ý nghĩa về “cộng đồng” mà họ sở hữu với nhau—sẽ nhất thiết phải được xem xét một cách công cụ. Để tiếp tục thí dụ của chúng ta, mỗi nhân viên sẽ coi việc đồng nghiệp của mình theo đuổi lợi ích cá nhân của họ chỉ là sự trợ giúp cho việc anh ta theo đuổi lợi ích cá nhân của mình. Do đó, nếu không có ý nghĩa toàn diện của ích chung, chúng ta không những chỉ đánh mất yếu tố “tính chung” trong ý niệm ích chung, mà như đã lưu ý trước đó, chúng ta còn bắt đầu coi “tính chung” như cạnh tranh với “tính thiện ích”.

Tất nhiên, điều cũng đúng là một bộ phận, chẳng hạn như một nhân viên, thường không được coi chỉ là một bộ phận mà còn được coi là một toàn thể hoặc một phần của ích chung khác. Có lẽ gần như không thể quy các thành viên của một nhóm thành những sản phẩm công cụ thuần túy. Người ta tự nhiên tốt hơn thế. Nhưng việc điều ấy đúng có nghĩa là chúng ta không thể cư trú bền vững trong luận lý của thiện ích công cụ. Nếu Thánh Tôma đúng, thì điều tự nhiên đối với chúng ta là tìm kiếm ích chung đích thực, vốn là chính cộng đồng, cho dù chúng ta có thể bẻ cong và bóp méo sự thật nhân bản nguyên thủy này ra sao.

Tuy nhiên, khi những bóp méo này xảy ra, thì thiện ích của toàn thể, như việc “ăn khớp với nhau” toàn diện hoặc trật tự của các bộ phận, được hiểu như sự ăn khớp với nhau của các bộ phận có tiềm năng hoặc trong nguyên tắc có thể hoán đổi được. Do đó, sự ăn khớp với nhau về nguyên tắc không phải là sự ăn khớp với nhau chỉ của một số loại sự vật nào đó có sự sắp xếp nội tâm với nhau. Tính hỗ tương giữa toàn bộ với các bộ phận và giữa bộ phận với bộ phận khi đó trở thành một sự hỗ tương duy cơ học. Nếu miếng sắt ít nhất có thể tạo nên một cái chặn cửa tốt như một vật được chế tạo để làm cái chặn cửa, thì miếng sắt cũng có thể dễ dàng trở thành một cái chặn cửa. Cánh cửa và miếng sắt, theo nghĩa này, chỉ có một mối liên hệ toàn vẹn về mặt cơ học hoặc chức năng hoặc “ăn khớp với nhau”. Trong trường hợp này, các chặn cửa và các miếng sắt có thể được hoán đổi một cách đơn giản. Tương tự như vậy, sự ăn khớp với nhau một cách chặt chẽ giữa các bộ phận của một doanh nghiệp được hình thành chỉ vì lợi nhuận là một sự kết hợp thuần túy về mặt chức năng. (43)

Khi áp dụng nguyên tắc có thể hoán đổi này vào các cộng đồng con người, chúng ta có thể thấy rằng, trong chừng mực một “cộng đồng” hay “ích chung” được quan niệm thuần túy theo cách này, trong chừng mực nó chỉ được quan niệm một cách công cụ, thì nó không thể được coi là “tự nhiên." Điều này là do nó không được quan niệm theo hình thức như một toàn thể mà theo chức năng và khả thể hoán đổi với các vật tương đương khác, cả ở bình diện toàn thể lẫn bình diện các bộ phận. Nhưng sự ăn khớp với nhau này là sự ăn khớp của một đồ tạo tác chứ không phải của bản chất. (44)

5. Trong khi Kitô giáo suy nghĩ rằng mọi người không thể bị giản lược vào vai trò của họ trong trật tự dân sự (vì nguồn gốc và số phận của họ nằm ở ích chung lớn hơn), bao lâu một cộng đồng địa phương, hay một thành phố, hoặc một quốc gia, một nhà nước, hoặc một nền văn hóa, hay toàn bộ nhân loại là một cộng đồng của những bản vị, dù được định nghĩa một cách lỏng lẻo hay cứng ngắc, thì nó cũng phải tạo nên một thiện ích trong chính nó. (45) Thật vậy, nếu không, thì nó thực sự không thể được coi là một cộng đồng đúng nghĩa. (46) Do đó, trong nguyên tắc, ngay cả xã hội dân sự, bao lâu còn là một cộng đồng, đại diện cho ích chung theo nghĩa đầy đủ nhất này. Tuy nhiên, tập chú cuối cùng của chúng ta là vào ích chung của cộng đồng hôn nhân và gia đình.

Khi nghĩ tới khái niệm ích chung đã được phác thảo cho đến thời điểm này, chúng ta có thể thấy ngay rằng nó không hiển thị ở đâu cho bằng ở ý tưởng hôn nhân và gia đình được lấy cảm hứng từ Kitô giáo. Tôi nói “được linh hứng bởi Kitô giáo” bởi vì, như đã lưu ý ở trên, trong việc phân định sự độc quyền của gia đình về bản sắc bản vị đôi khi hiện hữu ở các xã hội khác nhau, Kitô giáo cũng thâm hậu hóa một cách triệt để các nền tảng gia đình. Với tư cách là cộng đồng nhân loại nguyên thủy và là tế bào nhỏ nhất của xã hội dân sự, hôn nhân và sự phát triển của nó trong gia đình là những điển hình căn bản trong trật tự tạo dựng vì ích chung. (47) Việc hôn nhân và gia đình là mô hình vì ích chung của mọi cộng đồng tạo dựng là chân thực bởi vì chúng nhân bản từ nền tảng: vợ chồng và các thành viên trong gia đình chỉ có thể tham gia vào ích chung của họ vì trật tự của nó cũng là trật tự của con người họ. Giờ đây, trật tự này như một trật tự hữu thể, được làm cho hiển thị trong cơ thể con người, không những ở dạng lưỡng hình [dimorphism] giới tính mà còn ở sự khởi đầu hợp tử [zyotic] của nó và toàn bộ quá trình hướng tới tuổi già. Việc các thành viên trong gia đình có chung phong cách, tính cách và ngoại hình thể lý rất có ý nghĩa ở đây. Nam và nữ có mối tương quan với nhau và với cuộc sống của trẻ sơ sinh, mối tương quan này đầy hứa hẹn. Tuổi tác, như biểu lộ vị trí của chúng ta trong sự đến và đi của các thế hệ, rõ ràng đặt chúng ta trong mối quan hệ với toàn thể. Khi một người phụ nữ nhìn thấy chồng và bố mẹ chồng hòa quyện hoàn hảo với chính mình và với cha mẹ mình trong con cái mình, nàng hiểu rất cụ thể ý tưởng trong Kinh thánh về việc người đàn ông và người phụ nữ trở thành “một xương một thịt”. Khi một người nhìn vào gương soi và nhìn thấy cha mẹ mình, trải nghiệm hiện sinh đơn giản sẽ giúp anh ta nhớ lại mình là ai, những hạn chế, điểm yếu, điểm mạnh của mình. Trên hết, nó giúp anh ta nhìn thấy số phận của mình cũng như tầm quan trọng và ý nghĩa của cuộc sống.

Vì thế, hôn nhân và gia đình là sự ăn khớp với nhau tạo nên ích chung theo nghĩa toàn diện nhất. Chúng tốt theo đúng bản chất của chúng, nghĩa là, như một hình thức, một điều gì đó, một bản chất. Các mối quan hệ là những thí dụ hàng đầu về việc không có tính công cụ, không có tính hoán đổi. Do đó, đây cũng là loại toàn thể mà thiện ích của nó vừa siêu việt vừa mang tính nội tại nơi các thành viên.

Ở điểm này, có lẽ sẽ hữu ích nếu đưa ra một thí dụ về cách điều này “lợi dụng thời cơ” (cahes out) ra sao trong một vấn đề văn hóa quan trọng. Những gì đã nói cho đến nay cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về lý do tại sao “các kỹ thuật sinh sản nhân tạo” (artificial reproductive techniques viết tắt là ART) lại vi phạm ích chung và trên cơ sở đó, vi phạm điều phải có để là một bản vị. ART muốn nói với cha mẹ, đứa con và toàn bộ cộng đồng rằng đứa con có được sự hiện hữu của nó nhờ một lựa chọn, trong nguyên tắc, tách khỏi hành vi yêu thương vốn thuộc trật tự được khắc ghi trong cơ thể của người mẹ và người cha, một trật tự đi trước bất cứ hành vi tự do nào từ phía họ. Do đó, ART gợi ý rằng sự khởi đầu của đứa con bắt nguồn từ kỹ thuật và sự lựa chọn. Nhưng việc này buộc sự hiện hữu của đứa con phải lệ thuộc những hành vi tự do của cha mẹ, theo luận lý học sản xuất. Đây là một loại “luận lý” rất khác so với loại “luận lý” của ích chung như chúng ta đã mô tả. Trong quan niệm thông thường, đứa con không thể bị giản lược vào một hành vi lựa chọn. Mặc dù cha mẹ chắc chắn có thể và chọn sinh con khi họ thụ thai theo cách thông thường, theo nghĩa khi việc thụ thai một đứa trẻ diễn ra trong bối cảnh của một loạt các hành vi tự do, họ thực hiện việc đó theo trật tự đã được ấn định và ghi khắc trong cơ thể họ. Do đó, các hành vi tự do, không hề mất đi tính cách tự do của chúng chút nào, là những hành vi mà Gestalt hoặc “hình thức” của chúng đã được ban cho một phần. Điểm này có xu hướng bị mất hút trong các dạng lý thuyết hành động quá “duy ý hướng” [intentionalist].

Theo nghĩa này, đứa con được thụ thai tự nhiên đã tiềm ẩn trong hành vi yêu thương vốn của riêng hôn nhân. Trật tự gia đình có trước đứa con và thậm chí còn có trước cả cha mẹ. Thực thế, “sự lựa chọn” của cha mẹ chỉ có thể xảy ra dưới hình thức “đồng ý” với những gì đã tiềm ẩn trong họ. Do đó, nguồn của đứa con đã được chứa đựng bên trong và thực sự có trước hữu thể của cha mẹ như cha và mẹ. Do đó, đứa trẻ là kết quả của sự kết hợp giữa cha và mẹ, sự kết hợp vốn đã là một hình thức mà họ bị lôi kéo vào trong các hành vi tự do của mình. Điều này có nghĩa là ngay khi họ “chọn” có con - chẳng hạn như vì họ hiện ở điều kiện tốt hơn để có con, hoặc thậm chí vì họ chỉ có con trai và họ muốn có con gái - họ luôn ở vị trí tiếp nhận đứa con được ban cho theo trật tự này, trong đó các hành vi tự do của họ được hình thành và cấu thành câu thưa “có”. Nếu họ muốn một con gái nhưng lại có được một con trai nữa, họ có thể thất vọng, nhưng thất vọng không đồng nhất với việc cho rằng đã xảy ra sai lầm. Chẳng hạn, nó không dẫn đến kết luận một cách hợp lý rằng “các phương pháp” của họ cần được cải thiện. Sự sẵn có [givenness] của hình thức hành vi của họ, như sự kết hợp cơ thể của họ với nhau, có nghĩa là họ chỉ có thể hiểu đứa con như một ân ban, nghĩa là như một hoa trái chứ không phải như một “sản phẩm” của tình yêu nơi họ. Họ không hề từ chối đứa con mà không đồng thời từ chối trật tự đã cung ứng hình thức cho những hành vi diễn tả và cụ thể hóa tình yêu của họ. Nói cách khác, họ không thể từ chối đứa con mà đồng thời không từ chối bản thân, tình yêu và cuộc hôn nhân của họ. Một cách nào đó, họ phải nghĩ rằng đây luôn là đứa con của tình yêu họ, ngay cả trước hành động tự do cho phép việc thụ thai xảy ra. Vì lý do này, nếu đứa con hóa ra là con trai chứ không phải con gái, hoặc một đứa trẻ ốm yếu thay vì khỏe mạnh, thì họ đã có tương quan và là một phần của toàn thể - nghĩa là ích chung - với đứa con đó, bởi vì theo nghĩa này họ đã luôn như vậy. Và như thế, vì đứa con này “luôn luôn” là con của họ nên họ phải đón nhận đứa con theo những điều kiện đó, giống như họ sẽ tiếp tục yêu thương và chăm sóc—nghĩa là họ sẽ tiếp tục tham gia vào ích chung mà họ cùng chia sẻ—một đứa con sau này mắc bệnh bạch cầu. Khi đó, ích chung của gia đình được “xây dựng vào” trật tự đi trước các hành vi tự do của vợ chồng và là nền tảng cho tình yêu của họ cũng như các hành vi riêng của nó. Sự ăn khớp với nhau của vợ chồng cũng đã và đang (ngầm) là sự ăn khớp với nhau giữa mẹ-cha-con. Nó là sự ăn khớp với nhau vốn không thể hoán đổi, không mang tính công cụ. Nó là ích chung đi trước (ngầm) bất cứ hành vi tự do nào, nhưng tất nhiên đòi hỏi những hành vi tự do để thực hiện đầy đủ (trong trật tự thực hiện).

ART tuân theo một “luận lý” hoàn toàn khác, một luận lý sản xuất hơn là tiếp nhận. Luận lý sản xuất gợi ý rằng đứa con trên thực tế có thể bị giản lược theo sự lựa chọn của cha mẹ. Đúng là ngay cả ở đây, hành động cũng phải diễn ra theo một trình tự nhất định: ART thường sử dụng tế bào giao tử [gametic] của cặp vợ chồng để “thai nghén” một đứa con “có liên hệ về sinh học” với cả cha lẫn mẹ; thiết bị và kỹ thuật của phòng khám hoặc phòng thí nghiệm không thể là bất cứ tập hợp vật phẩm ngẫu nhiên nào, v.v. Tuy nhiên, điều này chỉ chứng tỏ rằng con người không thể tạo ra ex nihilo [từ hư không]. Họ luôn phải bắt đầu với một cái gì đó được ban sẵn. Thực thế, điều nó chứng tỏ là chúng ta không thể bước hoàn toàn ra ngoài trật tự của ích chung theo nghĩa đầy đủ nhất. Nhưng ART trên thực tế là sự lựa chọn để thực hiện một bước quan trọng trong quá trình thụ thai một đứa con ngoài trật tự đã được ban cho như gắn liền với việc thụ thai một đứa con cách tự nhiên. Làm như vậy có nghĩa là muốn nói rằng đứa con không bắt đầu từ bên trong nó, nghĩa là muốn nói mối quan hệ về nguyên tắc có thể tách rời giữa việc đứa trẻ chào đời và trật tự riêng của tình yêu vợ chồng. Ngay cả khi cha mẹ trên thực tế sử dụng IVF với động cơ yêu thương, thì hành động của họ - và của các bác sĩ và kỹ thuật viên khác nhau có liên quan - trong nguyên tắc là một loại hành động tách biệt với trật tự tình yêu đã được ghi khắc trong cơ thể họ và những hành vi riêng của họ. Do đó, đứa con không thể truy cứu ngược lại trật tự phát sinh những hành vi yêu thương đặc trưng của hôn nhân. Do đó, không thể coi đứa con như đã tiềm ẩn trong những hành động yêu thương đó ngay cả trước khi cha mẹ có sự lựa chọn tự do. Do đó, đứa con cũng được truy cứu trở lại từ việc lựa chọn trao đổi một món của trật tự đó để lấy thứ mà họ tin là tương đương. Nhưng sự lựa chọn sử dụng ART và các hành động xảy ra sau đó chỉ tốt hoặc có giá trị như những hành động sản xuất - như poiesis [sản xuất] hơn là praxis [hành động] (*). ART là loại hành vi chỉ được thực hiện vì sản phẩm chứ không phải vì chính hành động là một thiện ích trong chính nó. Đây là lý do tại sao, khi vì lý do này hay lý do khác không thể sử dụng cả hai hoặc thậm chí một trong hai tế bào giao tử của cặp vợ chồng, thì ART khác loại [heterologous ART] là một bước tiếp theo hoặc sự nhượng bộ tự nhiên. Con đường của khả thể hoán đổi là một con đường khó rời bỏ. Dù sao, món đặc thù bị loại bỏ là trật tự hoặc tính ăn khớp với nhau của vợ chồng, trật tự vốn được ghi khắc trong thân xác họ và những hành vi yêu thương riêng của thân xác họ với tư cách vợ chồng. Vì thế đứa con không được tiếp nhận; đúng hơn là “nguyên liệu thô” (những thứ nhất thiết được ban cho) được sử dụng trong diễn trình sản xuất. (48)

Các hệ luận của “luận lý” này lớn hơn nhiều so với những gì người ta thường đánh giá. Đầu tiên là khả năng trao đổi của cơ thể và các hành vi tự nhiên của nó với các hành vi và phương pháp kỹ thuật. Nhưng nếu cơ thể và các hoạt động của nó có thể được thay thế bằng các kỹ thuật và dụng cụ của phòng thí nghiệm thì phòng thí nghiệm đã được quan niệm như một tương đương với cơ thể và các hành vi của nó. Nói một cách tượng hình hơn, điều này không những nói lên ý tưởng cho rằng phòng thí nghiệm có thể đóng vai trò như một tử cung, vì ở một mức độ nào đó, nó tương đương với một tử cung, mà nó còn nói rằng về nguyên tắc tử cung có thể giản lược thành một loại cơ chế máy móc, mặc dù kém chính xác hơn và dễ sai sót hơn những công cụ mà chúng ta có thể phát triển bằng cách sử dụng tính hợp lý về mặt kỹ thuật.

Thứ hai, có khả thể hoán đổi thiết yếu giữa đứa trẻ và một tập hợp các “loại” trẻ em khác có thể có, như đã được hình dung trong các diễn trình ngụ ý bởi sản xuất. Khi chúng ta lấy một hoặc nhiều mảnh ra khỏi trật tự riêng của chúng vốn được khắc ghi trong cơ thể và các hành động phù hợp với nó, chúng ta biến mảnh đó thành một vật thể mà bây giờ có thể thao túng được. Do đó, nếu chúng ta định sử dụng vật liệu để tạo ra một đứa trẻ với trang thiết bị của phòng thí nghiệm hoặc phòng khám, chúng ta có thể dễ dàng nghĩ đến loại đứa trẻ mà chúng ta mong muốn có. Như thế, không có gì đáng ngạc nhiên khi ART dễ dàng rơi vào một hệ luận sâu xa hơn của hoạt động sản xuất: tức là “kiểm soát phẩm chất [quality control].” Một đặc tính cố hữu của hoạt động kỹ thuật hoặc sản xuất được thực hiện tốt hay xấu là vấn đề về chất lượng của sản phẩm. Bao lâu chúng ta còn xem hành vi chính như một loại hành động sản xuất chứ không chỉ đơn giản là một điển hình của praxis [hoạt động], thì điều khiến chúng ta quan tâm nhất - theo định nghĩa - là đạt được kết quả có đủ phẩm chất một cách hiệu năng nhất có thể. Do đó, việc tập chú vào thành quả này mời gọi, không những chỉ mong đứa con sắp chào đời, mà còn muốn một đứa trẻ theo một cách nào đó, một đứa trẻ với những phẩm chất nào đó. Nhưng điều này gần như có nghĩa là chiếm đoạt quyền thống trị tuyệt đối của mình đối với bản chất và hiện hữu của một người khác, như được hàm ý trong ý niệm sản xuất. Một lần nữa, kết quả này tương quan qua lại với cách hiểu về sự ăn khớp với nhau của gia đình như một trong những tiện ích cơ học, chứ không phải là một toàn thể toàn diện.

Tương tự như vậy, hôn nhân in fieri (đang thành hình) chỉ có thể được hiểu như một hành vi tự do trong tính ân ban của trật tự thân xác, một trật tự do đó mang lại cho vợ chồng khả năng “chọn” nói lời đồng ý. Sự ăn khớp với nhau toàn diện giữa hôn nhân và gia đình như ích chung chỉ có thể được trao ban như một trật tự đi trước và cho phép hành vi yêu thương. Chắc chắn các phúc lợi và sự thỏa mãn sẽ đến với từng thành viên cá thể của gia đình, do việc là thành phần của gia đình, cũng như đối với toàn thể xã hội dân sự và giáo hội: con trẻ được sinh ra, được nuôi dưỡng và giáo dục; vợ chồng hỗ trợ lẫn nhau; người già được bảo vệ và chăm sóc. Chắc chắn những mối liên hệ này cũng được sắp xếp bởi tình yêu, công lý, vân vân. Không có những điều này, một cuộc hôn nhân hay một gia đình sẽ không có giá trị gì nhiều, mà thay vào đó sẽ trở nên vô trật tự, và đến mức độ đó sẽ thất bại với tư cách là một cộng đồng. Nhưng chính tính tốt lành nội tại của chính cộng đồng đã khiến cho những nghĩa khác của ích chung này phát ra từ chúng và tránh rơi vào chủ nghĩa công cụ, cũng như chỉ có toàn thể mới cho phép các bộ phận của nó được là điều tự chúng vốn là.

Còn tiếp
 
VietCatholic TV
Rubio: 24 đến 36 giờ nữa sẽ có biến cố lớn. Nga đã siểng niểng nhưng không dám nhảy xuống lưng cọp
VietCatholic Media
03:12 07/08/2025


1. Putin, Witkoff kết thúc cuộc họp tại Mạc Tư Khoa khi thời hạn trừng phạt của Tổng thống Trump đang đến gần

Putin đã gặp đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, Steve Witkoff, tại Mạc Tư Khoa vào hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám, trong cuộc đàm phán cao cấp khi thời hạn chót của Tổng thống Trump cho một thỏa thuận về Ukraine đang đến gần.

Hãng thông tấn nhà nước TASS đưa tin, trích dẫn từ Điện Cẩm Linh, rằng cuộc họp kết thúc sau khoảng ba giờ, nhưng không cung cấp chi tiết về cuộc thảo luận.

Các nguồn tin giấu tên cho biết với CNN rằng giới lãnh đạo Nga đã yêu cầu cuộc họp với Witkoff vì hy vọng tránh được các lệnh trừng phạt mới mà Tổng thống Trump đe dọa áp đặt trước ngày 8 tháng 8 trừ khi Mạc Tư Khoa đồng ý chấm dứt các hành động thù địch.

Máy bay của Witkoff đã hạ cánh xuống Sân bay Vnukovo ở Mạc Tư Khoa vào đầu ngày, đánh dấu chuyến thăm chính thức thứ năm của ông tới Nga trong cuộc chiến tranh toàn diện. Sau cuộc hội đàm với Putin, Witkoff đã rời Điện Cẩm Linh đến Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Mạc Tư Khoa, RBK-Ukraine đưa tin.

Trước cuộc gặp với nhà lãnh đạo Nga, Witkoff đã gặp Kirill Dmitriev, nhà lãnh đạo quỹ đầu tư quốc gia của Nga, người trước đây được giao nhiệm vụ thúc đẩy đối thoại với chính quyền Tổng thống Trump, theo hãng truyền thông thân chính phủ Nga RBC đưa tin.

“Đối thoại sẽ thắng thế”, Dmitriev nói sau cuộc gặp giữa Witkoff và Putin, theo truyền thông Nga.

Tổng thống Trump đã cảnh báo rằng nếu không đạt được thỏa thuận, Hoa Kỳ sẽ áp đặt thuế quan thứ cấp đối với Nga, trên thực tế nhắm vào các quốc gia mua dầu của nước này, chẳng hạn như Ấn Độ hoặc Trung Quốc.

Chính quyền Tổng thống Trump cũng đang xem xét các biện pháp trừng phạt mới đối với cái gọi là “đội tàu chở dầu ngầm” của Nga nếu Putin không đồng ý ngừng bắn, những người quen thuộc với các cuộc thảo luận tại Tòa Bạch Ốc nói với tờ Financial Times.

Putin đã nhiều lần bác bỏ lệnh ngừng bắn và tiếp tục thúc đẩy các yêu sách tối đa, bao gồm việc chiếm giữ toàn bộ các vùng Donetsk, Luhansk, Zaporizhzhia và Kherson đang bị tạm chiếm một phần.

Phát biểu trước khi Witkoff đến Mạc Tư Khoa, Tổng thống Trump cho biết ông sẽ chờ các cuộc đàm phán kết thúc trước khi quyết định về các lệnh trừng phạt. Tổng thống Mỹ ngày càng bày tỏ sự thất vọng với Nga khi nước này tiếp tục bác bỏ thỏa thuận hòa bình và tăng cường các cuộc không kích chống lại Ukraine.

“Chúng tôi có một cuộc họp với Nga vào ngày mai. Chúng tôi sẽ xem điều gì sẽ xảy ra”, Tổng thống Trump phát biểu tại Tòa Bạch Ốc.

Witkoff, một cựu môi giới bất động sản và không có kinh nghiệm ngoại giao trước đây, đã phải đối mặt với những lời chỉ trích vì có lập trường được tường trình có lợi cho Nga.

[Kyiv Independent: Putin, Witkoff conclude meeting in Moscow as Trump's sanctions deadline looms]

2. Tổng thống Trump sẽ đưa ra quyết định về lệnh trừng phạt Nga trong vòng 24-36 giờ tới, Rubio nói

Hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Marco Rubio cho biết Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump sẽ quyết định có áp đặt các lệnh trừng phạt thứ cấp đối với các đối tác thương mại của Nga hay không trong vòng 24 đến 36 giờ tới.

Sau cuộc gặp giữa Đặc phái viên Hoa Kỳ Steve Witkoff với Putin vào đầu ngày, Tòa Bạch Ốc hiện đã “hiểu rõ hơn” về các điều kiện mà Nga sẽ phải tuân theo để chấm dứt chiến tranh, Rubio cho biết.

Tổng thống Trump đã đe dọa sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt thứ cấp đối với các đối tác thương mại của Nga nếu Mạc Tư Khoa không đồng ý ngừng bắn trước ngày 8 tháng 8. Biện pháp này có thể áp đặt mức thuế lên tới 100% đối với các quốc gia mua dầu của Nga.

Rubio cho biết vẫn chưa rõ liệu cuộc gặp giữa Tổng thống Trump và Putin có diễn ra hay không, trong bối cảnh có thông tin cho rằng Tổng thống Trump và Putin đã sẵn sàng gặp nhau.

Rubio nói với các phóng viên rằng việc hai nhà lãnh đạo có gặp nhau hay không phụ thuộc vào tiến triển đạt được trong việc đạt được lệnh ngừng bắn trong cuộc chiến giữa Nga và Ukraine.

Ông cho biết Tổng thống Trump và Putin có thể nói chuyện qua điện thoại trong vài ngày tới, nhưng không có cuộc gọi nào được lên lịch giữa hai người.

Nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có kế hoạch gặp Putin sớm nhất là vào tuần tới và dự định tổ chức cuộc họp ba bên với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy và Putin ngay sau đó, tờ New York Times, gọi tắt là NYT đưa tin vào ngày 6 tháng 8.

Nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt mức thuế 50% đối với Ấn Độ vì nước này tiếp tục mua dầu của Nga, tăng mức thuế ban đầu từ 25% được công bố vào ngày 31 tháng 7.

Trong khi Tổng thống Trump gây áp lực buộc Nga phải ngừng bắn, Điện Cẩm Linh đang cân nhắc một “lệnh ngừng bắn trên không” có giới hạn, bao gồm việc tạm dừng các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn nếu Ukraine đồng ý làm như vậy, Bloomberg đưa tin vào ngày 5 tháng 8, trích dẫn các nguồn tin giấu tên có liên quan đến vấn đề này.

Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy đã có cuộc điện đàm sau chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Witkoff. Một số nhà lãnh đạo Âu Châu, bao gồm Thủ tướng Anh Keir Starmer, đã tham gia cuộc gọi.

[Kyiv Independent: Trump to make decision on Russia sanctions within next 24-36 hours, Rubio says]

3. Iran tuyên bố điệp viên bị hành quyết vì chuyển giao bí mật hạt nhân cho Mossad

Iran cho biết họ đã hành quyết một người đàn ông bị bắt quả tang làm gián điệp cho cơ quan tình báo Mossad của Israel, cáo buộc anh ta tiết lộ bí mật - bao gồm thông tin về một nhà khoa học hạt nhân Iran đã thiệt mạng trong các cuộc tấn công gần đây của Israel.

Vụ hành quyết được báo cáo phản ánh nỗ lực ngày càng tăng của Iran nhằm loại bỏ các nghi phạm gián điệp sau “cuộc chiến 12 ngày” hồi tháng 6, khi Israel và Mỹ tấn công các cơ sở hạt nhân của Iran. Amir Hatami, Tổng tư lệnh quân đội Iran, hôm Chúa Nhật cảnh báo rằng các mối đe dọa từ Israel vẫn còn và lực lượng Iran “đã sẵn sàng cho các hoạt động”, theo truyền thông nhà nước Iran đưa tin.

Iran đã hành quyết ba người đàn ông bị buộc tội làm gián điệp cho Israel vào ngày 24 tháng 6, một phần của chiến dịch đàn áp toàn diện. Các nhóm nhân quyền đã lên án làn sóng bắt giữ hàng trăm người và cảnh báo rằng chính phủ đang lợi dụng cuộc xung đột tháng 6 làm cái cớ để leo thang đàn áp. Các nhóm nhân quyền cũng nêu lên lo ngại về việc ép cung.

Hãng thông tấn Iran SNN hay Student News Network đưa tin một người đàn ông tên là Roozbeh Vadi đã bị kết tội “làm gián điệp và hợp tác tình báo có lợi cho chế độ Zionist” và bị treo cổ vào ngày 5 tháng 8.

Theo bản dịch không chính thức của báo cáo, SNN đưa tin: “Theo các tài liệu vụ án và tuyên bố của Roozbeh Vadi, người đàn ông này hoàn toàn nhận thức được sự hợp tác của mình với cơ quan tình báo khủng bố Mossad và cố tình hợp tác với đối phương theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái”.

Báo cáo cho biết: “Bị cáo hoạt động trong một trong những tổ chức quan trọng và nhạy cảm của đất nước và với mức độ tiếp cận như vậy, bị cáo đã trở thành đối tượng hấp dẫn đối với cơ quan tình báo của chế độ Do Thái”.

Hãng thông tấn này không nêu rõ Vadi làm việc cho tổ chức nào nhưng cho biết anh đã tới Vienna năm lần, bao gồm cả để đào tạo, nơi anh gặp các điệp viên Mossad.

Trong quá trình “hợp tác sâu rộng với chế độ Zionist”, người đàn ông này đã “cung cấp thông tin cho cơ quan tình báo Mossad về một trong những nhà khoa học hạt nhân của đất nước chúng tôi đã tử vì đạo trong cuộc xâm lược gần đây của Israel”, SNN đưa tin.

Lực lượng Phòng vệ Israel và phương tiện truyền thông Iran đưa tin Israel đã tấn công và giết chết một số nhân vật quân sự và nhà khoa học hạt nhân nổi tiếng của Iran trong các cuộc không kích vào tháng 6.

SNN cho biết Vadi đã bị giám sát sau khi anh trở về từ một trong những chuyến đi nước ngoài và bị bắt “khi mối liên hệ và sự hợp tác của anh với kẻ thù theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái bị phát hiện”.

[Newsweek: Iran Says Spy Executed for Passing Nuclear Secrets to Mossad]

4. Tổng thống Trump từ chối mô tả cuộc gặp giữa Witkoff và Putin là đột phá, cho biết có khả năng sẽ có thêm các lệnh trừng phạt thứ cấp

Hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám, Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã từ chối mô tả cuộc gặp trước đó giữa Đặc phái viên Steve Witkoff và Putin là một bước đột phá, lưu ý rằng các lệnh trừng phạt thứ cấp bổ sung của Hoa Kỳ đối với các đối tác thương mại của Nga có thể sẽ được áp dụng.

“Tôi không gọi đó là bước đột phá”, Tổng thống Trump trả lời khi được hỏi về cuộc gặp của Witkoff với Putin tại Mạc Tư Khoa.

Trước đó, Tổng thống Trump đã đặt hạn chót là ngày 8 tháng 8 để Nga đạt được thỏa thuận ngừng bắn trong cuộc chiến với Ukraine. Khi thời hạn này đang đến gần, nhà lãnh đạo Hoa Kỳ đã áp đặt mức thuế 50% đối với Ấn Độ vì mua dầu của Nga.

Khi được một phóng viên hỏi liệu Putin có lợi dụng ông không, Tổng thống Trump nói rằng ông sẽ biết sau vài tuần nữa.

Tổng thống Trump lưu ý rằng các lệnh trừng phạt thứ cấp bổ sung sẽ được áp dụng đối với các đối tác thương mại của Nga, nói rằng “Các bạn sẽ thấy nhiều hơn nữa... các bạn sẽ thấy rất nhiều lệnh trừng phạt thứ cấp.”

Khi được hỏi liệu có thể áp dụng thêm thuế quan đối với Trung Quốc hay không, Tổng thống Trump trả lời rằng điều đó “có thể xảy ra”.

Tổng thống Trump mô tả giai đoạn đàm phán hiện tại với Nga là “rất nghiêm trọng” khi thời hạn ngày 8 tháng 8 để Nga đạt được lệnh ngừng bắn với Ukraine đang đến gần.

Trong khi Tổng thống Trump gây áp lực buộc Nga phải ngừng bắn, Điện Cẩm Linh đang cân nhắc một “lệnh ngừng bắn trên không” có giới hạn, bao gồm việc tạm dừng các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa và hỏa tiễn nếu Ukraine đồng ý làm như vậy, Bloomberg đưa tin vào ngày 5 tháng 8, trích dẫn các nguồn tin giấu tên có liên quan đến vấn đề này.

Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy đã có cuộc điện đàm vào ngày 6 tháng 8 sau chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Witkoff. Một số nhà lãnh đạo Âu Châu, bao gồm Thủ tướng Anh Keir Starmer, đã tham gia cuộc gọi.

Trước đó, Tổng thống Trump đã mô tả cuộc gặp giữa Witkoff và Putin là “rất hiệu quả”.

Nhà lãnh đạo Hoa Kỳ có kế hoạch gặp Putin sớm nhất là vào tuần tới và dự định tổ chức cuộc họp ba bên với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy và Putin ngay sau đó, tờ New York Times, gọi tắt là Tờ New York Times đưa tin vào ngày 6 tháng 8.

Vài tháng trước đó, nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm làm trung gian cho một thỏa thuận hòa bình giữa Ukraine và Nga đã thất bại. Kyiv và Mạc Tư Khoa sau đó đã tổ chức ba vòng đàm phán hòa bình trực tiếp tại Istanbul, nhưng phần lớn không đạt được kết quả.

Trong các cuộc đàm phán trực tiếp, Ukraine và Nga đã đồng ý trao đổi một số tù nhân, nhưng vẫn chưa đạt được tiến triển hướng tới lệnh ngừng bắn do Nga đưa ra những yêu cầu tối đa.

[Kyiv Independent: Trump declines to describe Witkoff-Putin meeting as breakthrough, says more secondary sanctions are likely]

5. Lính Nga bắn thường dân gần Pokrovsk; công tố viên mở cuộc điều tra tội ác chiến tranh

Hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám, Văn phòng Tổng công tố Ukraine cho biết một binh sĩ Nga đã bắn chết một thường dân đang cố gắng di tản khỏi làng Udachne ở tỉnh Donetsk.

Cơ quan này đã mở một cuộc điều tra về tội ác chiến tranh, đánh dấu vụ việc thứ ba được ghi nhận trong năm nay về việc lực lượng Nga giết hại thường dân ở Tỉnh Donetsk.

Theo các công tố viên, một đoạn video được chia sẻ trên một kênh Telegram của Nga cho thấy cảnh một thường dân đang đi bộ dọc theo lề đường với một chiếc vali đựng đồ dùng cá nhân thì bị bắn hạ.

“Một quân nhân của Quân đội Nga đã cố tình nổ súng từ một nơi phục kích trong một tòa nhà đổ nát và giết chết người qua đường bằng một khẩu súng tự động”, tuyên bố viết.

Người đàn ông này được tường trình đang cố gắng rời khỏi Udachne, một thị trấn tiền tuyến nằm cách thị trấn Pokrovsk đang bị bao vây 12 km về phía tây.

Nhà chức trách cho biết vụ giết người đã chính thức được đưa vào Sổ ghi danh Thống nhất về Điều tra Trước khi Xét xử với các cáo buộc liên quan đến tội ác chiến tranh dẫn đến tử vong. Các nhà điều tra đang nỗ lực xác định tất cả các tình tiết của vụ việc và xác định danh tính người lính liên quan.

Tỉnh Donetsk vẫn là một trong những khu vực giao tranh hoạt động mạnh nhất kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022. Việc di tản dân thường khỏi các khu vực tranh chấp hoặc bị tạm chiếm vẫn cực kỳ nguy hiểm, khi lực lượng Nga liên tục bị cáo buộc tấn công vào những người không tham chiến.

Ukraine và các đối tác quốc tế đã ghi nhận nhiều trường hợp bị cáo buộc là tội ác chiến tranh của lực lượng Nga, bao gồm giết người trái luật, tra tấn và tấn công vào cơ sở hạ tầng dân sự.

[Kyiv Independent: Russian soldier shoots civilian near Pokrovsk, video shows; prosecutors launch war crimes probe]

6. Tổng thống Trump nói với các nhà lãnh đạo Âu Châu rằng ông sẽ tiếp tục đàm phán với Nga thông qua các cuộc gặp trực tiếp với Putin

Tổng thống Trump nói với các nhà lãnh đạo Âu Châu hôm thứ Tư rằng ông dự định gặp trực tiếp nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin và sau đó tổ chức cuộc họp ba bên với Putin và Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy - cho thấy Tổng thống Trump vẫn nhìn thấy khả năng chấm dứt xung đột thông qua ngoại giao. Tổng thống Zelenskiy cho biết như trên hôm Thứ Năm, 07 Tháng Tám.

Tổng thống Mỹ đã thông báo cho các nhà lãnh đạo Âu Châu về kế hoạch này trong cuộc điện đàm hôm thứ Tư sau cuộc gặp giữa Putin và phái viên của Tổng thống Trump tại Mạc Tư Khoa. Tham gia cuộc điện đàm này có Thủ tướng Đức Friedrich Merz, Tổng thống Zelenskiy và các nhà lãnh đạo khác.

Không có tổng thống Hoa Kỳ nào gặp Putin kể từ khi Nga phát động cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022, mặc dù Tổng thống Trump đã có một số cuộc điện đàm với nhà lãnh đạo Nga kể từ khi nhậm chức.

Tờ New York Times trước đó đã đưa tin về kế hoạch cho cuộc họp, được tờ Times cho biết sẽ diễn ra sớm nhất vào tuần tới. Tổng thống Zelenskiy cho hay chưa có bất kỳ chi tiết nào về thời gian diễn ra các cuộc họp dự kiến.

Tòa Bạch Ốc chưa xác nhận đề xuất như vậy đã được nêu ra với các nhà lãnh đạo Âu Châu. Trước đó vào thứ Tư, phát ngôn nhân Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt cho biết Tổng thống Trump vẫn để ngỏ khả năng gặp Putin, nhưng từ chối cho biết liệu đề xuất đó có được nêu trong cuộc điện đàm hay không.

Tại một sự kiện ở Tòa Bạch Ốc hôm thứ Tư, Tổng thống Trump nói rằng “có một triển vọng rất tốt” rằng sẽ có một cuộc gặp giữa Tổng thống Zelenskiy và Putin. Tuy nhiên, ông không đồng tình với ý kiến cho rằng đó là một “bước đột phá”.

Ngoại trưởng Marco Rubio cho biết thêm trong một cuộc phỏng vấn với Fox Business hôm thứ Tư rằng “sẽ sớm có cơ hội để tổng thống gặp cả Vladimir Putin và Tổng thống Zelenskiy tại một thời điểm nào đó ở đây, hy vọng là trong tương lai gần”. Tuy nhiên, Rubio nói thêm rằng “còn nhiều việc phải làm trước khi điều đó có thể xảy ra”.

Trước đó vào thứ Tư, Tổng thống Trump đã mô tả cuộc họp kéo dài ba giờ giữa đặc phái viên Steve Witkoff và Putin tại Điện Cẩm Linh là “rất hiệu quả”, nhưng không cung cấp thêm thông tin chi tiết.

Không rõ cuộc gặp dự kiến với Putin có ý nghĩa gì đối với thời hạn chót vào thứ Sáu của Tổng thống Trump để áp đặt lệnh trừng phạt đối với các quốc gia mua năng lượng của Nga - điều mà ông đã tuyên bố sẽ làm để trừng phạt Mạc Tư Khoa nếu nước này không đạt được nhiều tiến triển hơn nữa hướng tới một kết thúc hòa bình cho cuộc chiến ở Ukraine.

Trước đó vào thứ Tư, một quan chức cao cấp của chính quyền, giấu tên để có thể thoải mái phát biểu về quá trình ra quyết định của chính quyền, cho biết “vẫn kỳ vọng” Tổng thống Trump sẽ tôn trọng thời hạn vào thứ Sáu.

Tòa Bạch Ốc không trả lời ngay lập tức yêu cầu bình luận.

Tổng thống Trump đã cam kết chấm dứt chiến tranh ở Ukraine “ngay ngày đầu tiên” trong nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của mình. Tuy nhiên, Nga đã cản trở các cuộc đàm phán hòa bình, khiến cả các nhà đàm phán Ukraine và Mỹ phẫn nộ khi tiếp tục không kích các mục tiêu dân sự ở Ukraine. Vào tháng 7, Tổng thống Trump đã đe dọa áp đặt các lệnh trừng phạt mới và các biện pháp trừng phạt thứ cấp để trừng phạt nền kinh tế Nga, nhắm vào hoạt động bán dầu mỏ vốn đã giúp Nga duy trì được nền kinh tế bất chấp việc bị thế giới ruồng bỏ kể từ cuộc xâm lược.

[Politico: Trump tells European leaders he’ll continue Russia talks through in-person meetings with Putin]

7. Tổng thống Trump nói rằng ông ‘có lẽ sẽ không’ tìm kiếm nhiệm kỳ thứ ba

Tổng thống Trump hôm thứ Ba cho biết ông “có lẽ sẽ không” ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba.

“Tôi muốn ra tranh cử”, ông nói khi được hỏi về khả năng này trên chương trình Squawk Box của CNBC. “Tôi đang có số phiếu thăm dò tốt nhất từ trước đến nay.”

Tu chính án thứ 22 cấm không cho ai được bầu làm tổng thống quá hai lần. Điều này cũng áp dụng cho Tổng thống Trump, mặc dù hai nhiệm kỳ của ông không liên tiếp.

Tuy nhiên, các đồng minh của tổng thống — và cả chính Tổng thống Trump — đã nhiều lần đề xuất ông tiếp tục nhiệm kỳ nữa bất chấp lệnh cấm hiến pháp đó. Có nhiều cách Tổng thống Trump có thể tìm cách lách luật này, bao gồm bãi bỏ tu chính án hoặc tranh cử phó tổng thống và lên nắm quyền tổng thống, theo POLITICO.

Trước đó, Tổng thống Trump đã từ chối loại trừ khả năng tái tranh cử nhiệm kỳ thứ ba, khi trả lời phỏng vấn NBC vào tháng 3 rằng “có những phương pháp” để ông tiếp tục nắm quyền nếu muốn.

“Người Mỹ hoàn toàn ủng hộ và đồng tình với Tổng thống Trump và các chính sách Nước Mỹ Trên Hết của ông. Như tổng thống đã nói, còn quá sớm để nghĩ đến điều đó và ông ấy đang tập trung vào việc khắc phục mọi tổn thương mà Tổng thống Biden đã gây ra và Đưa Nước Mỹ Vĩ đại Trở lại”, giám đốc truyền thông Tòa Bạch Ốc Steven Cheung cho biết trong một tuyên bố vào thời điểm đó.

Trên cửa hàng bán đồ lưu niệm chính thức của mình, các sản phẩm Tổng thống Trump 2028 đã được bày bán.

“Tương lai tươi sáng! Hãy viết lại luật lệ với chiếc mũ chóp cao Tổng thống Trump 2028”, một mô tả sản phẩm viết.

[Politico: Trump says he will ‘probably not’ seek a third term]

8. Witkoff có cuộc họp ‘rất hiệu quả’ với Putin trước thời hạn ngừng bắn vào thứ Sáu

Tổng thống Trump đã ra hiệu về “tiến triển lớn” trong các cuộc đàm phán với Nga sau khi Đặc phái viên Steve Witkoff có cuộc họp vào phút chót với Putin tại Mạc Tư Khoa vào thứ Tư, trong bối cảnh Tổng thống Trump đưa ra tối hậu thư ngừng bắn vào thứ Sáu.

“Đặc phái viên của tôi, Steve Witkoff, vừa có một cuộc gặp rất hiệu quả với Putin”, Tổng thống Trump viết trong bài đăng trên Truth Social. “Đã đạt được tiến triển lớn! Sau đó, tôi đã cập nhật cho một số đồng minh Âu Châu của chúng ta. Mọi người đều đồng ý rằng cuộc chiến này phải kết thúc, và chúng ta sẽ nỗ lực hướng tới điều đó trong những ngày và tuần tới. Cảm ơn sự quan tâm của các bạn đối với vấn đề này!”

Trong một tuyên bố vào chiều thứ Tư, Thư ký báo chí Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt nhắc lại rằng “đã đạt được tiến triển lớn” trong cuộc gặp giữa Witkoff và Putin, đồng thời nói thêm rằng Tổng thống Trump “sẵn sàng” gặp cả Putin và Tổng thống Zelenskiy.

“Phía Nga đã bày tỏ mong muốn gặp Tổng thống Trump, và Tổng thống cũng sẵn sàng gặp cả Tổng thống Putin và Tổng thống Zelenskiy. Tổng thống Trump muốn chấm dứt cuộc chiến tàn khốc này”, ông Leavitt nói.

Thông tin tích cực từ Tòa Bạch Ốc được đưa ra sau một tuyên bố không mấy lạc quan của Ngoại trưởng Marco Rubio vào đầu giờ sáng thứ Tư. Phát biểu với các phóng viên tại Washington, Rubio cho biết ông đã trao đổi với Witkoff sau cuộc gặp nhưng vẫn còn mơ hồ về triển vọng đạt được thỏa thuận với Điện Cẩm Linh trước hạn chót vào thứ Sáu.

Rubio cho biết: “Chúng tôi sẽ có một số cuộc thảo luận khác trong ngày và hy vọng sẽ sớm có một số thông báo được đưa ra - có thể là tích cực, có thể không”.

Thông điệp lạc quan của Tổng thống Trump cũng bị ảnh hưởng bởi tuyên bố trước đó của ông rằng ông đã ký một sắc lệnh hành pháp áp thuế bổ sung 25% lên Ấn Độ đối với các giao dịch mua dầu của Nga, nâng tổng mức thuế quan của nước này lên 50%.

Động thái này, được Tổng thống Trump công bố vài giờ trước khi công bố biên bản cuộc họp của Witkoff, cho thấy cam kết của Tổng thống Trump trong việc thực hiện lời đe dọa sử dụng thuế quan làm đòn bẩy để thúc đẩy thỏa thuận Nga-Ukraine. Tổng thống Trump đã nhiều lần đe dọa sẽ áp thuế cao hơn lên Ấn Độ để trừng phạt việc nước này tiếp tục mua dầu của Nga.

Và nếu Điện Cẩm Linh không đáp ứng được thời hạn ngừng bắn vào thứ Sáu, Tổng thống Trump đã đe dọa sẽ áp đặt lệnh trừng phạt mạnh tay lên đất nước này, mặc dù những lời đe dọa liên tục của ông vẫn chưa khiến Putin có động thái gì.

Theo truyền thông nhà nước Nga, trợ lý Điện Cẩm Linh Yuri Ushakov mô tả cuộc hội đàm hôm thứ Tư là mang tính xây dựng, cho biết cả hai bên đã trao đổi “tín hiệu” trong cuộc thảo luận về chiến tranh. Ushakov cũng cho biết Putin và Witkoff đã thảo luận về các hướng phát triển chiến lược tiềm năng giữa Mỹ và Nga, nhưng không cung cấp thêm chi tiết.

Cuộc họp hôm thứ Tư diễn ra trong bối cảnh Tổng thống Trump ngày càng tỏ ra thất vọng với nhà lãnh đạo Nga, người mà ông đã công khai thể hiện sự ngờ vực trong những tuần gần đây khi Điện Cẩm Linh từ chối tham gia vào các cuộc đàm phán nghiêm chỉnh để chấm dứt cuộc chiến kéo dài nhiều năm.

Sau khi ban đầu cho Nga thời hạn 50 ngày để đạt được thỏa thuận ngừng bắn với Ukraine vào tháng 7, tuần trước Tổng thống Trump đã rút ngắn thời hạn xuống còn ngày 8 tháng 8, với lý do thất vọng vì người đồng cấp Nga không sẵn lòng hợp tác.

Cuộc gặp cũng diễn ra chỉ một ngày sau khi Tổng thống Trump có cuộc điện đàm với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, được nhà lãnh đạo Ukraine mô tả là “hiệu quả” trong một bài phát biểu đăng trên mạng xã hội của mình. Theo Tổng thống Zelenskiy, hai nhà lãnh đạo đã thảo luận về việc chấm dứt chiến tranh, trừng phạt Nga và hoàn thiện dự thảo thỏa thuận Mỹ-Ukraine về máy bay điều khiển từ xa.

Đường lối của Tổng thống Trump đối với cuộc chiến đã thay đổi mạnh mẽ trong nửa đầu nhiệm kỳ thứ hai. Sau khi liên tục ca ngợi Putin trong khi công khai chỉ trích Tổng thống Zelenskiy và tạm thời ngừng viện trợ quân sự cho Ukraine đang bị bao vây, Tổng thống Trump đã thay đổi lập trường trong những tuần gần đây, chỉ trích Putin vì đã chậm trễ trong các cuộc đàm phán hòa bình và nói rằng ông “thất vọng” về nhà lãnh đạo Nga.

[Politico: Witkoff has ‘highly productive’ meeting with Putin ahead of Friday ceasefire deadline]

9. Duffy công bố lò phản ứng hạt nhân trên mặt trăng

Tuần này, Bộ trưởng Giao thông Sean Duffy công bố kế hoạch khẩn cấp xây dựng lò phản ứng hạt nhân trên mặt trăng, là hành động lớn đầu tiên của cựu người dẫn chương trình Fox News với tư cách là người quản lý tạm thời của NASA.

NASA đã thảo luận về việc xây dựng một lò phản ứng trên bề mặt Mặt Trăng, nhưng điều này sẽ đặt ra một mốc thời gian cụ thể hơn — theo các tài liệu mà POLITICO có được — và diễn ra ngay khi cơ quan này đang phải đối mặt với một đợt cắt giảm ngân sách lớn. Động thái này cũng nhấn mạnh việc Duffy, người đã phải đối mặt với sự phản đối từ các nhà lập pháp về việc đảm nhiệm hai công việc, muốn đóng một vai trò trong việc hoạch định chính sách của NASA.

“Mục đích của việc này là giành chiến thắng trong cuộc đua không gian lần thứ hai”, một quan chức cao cấp của NASA cho biết, người này xin được giấu tên để thảo luận về các tài liệu trước khi chúng được công bố rộng rãi.

Tổng thống Trump đã bổ nhiệm Duffy làm quản trị viên tạm thời vào tháng 7 sau khi đột ngột rút lại đề cử tỷ phú Jared Isaacman trong bối cảnh xảy ra bất đồng với đồng minh của người được đề cử, Elon Musk.

Duffy cũng đưa ra chỉ thị về việc thay thế Trạm Vũ trụ Quốc tế, gọi tắt là ISS nhanh hơn, một mục tiêu khác của NASA. Hai động thái này có thể giúp đẩy nhanh nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc tiếp cận Mặt Trăng và Sao Hỏa — một mục tiêu mà Trung Quốc cũng đang theo đuổi.

Các kế hoạch này phù hợp với trọng tâm của chính quyền Tổng thống Trump về các chuyến bay vũ trụ có người lái. Tòa Bạch Ốc đã đề xuất một ngân sách sẽ tăng ngân sách cho các chuyến bay vũ trụ có người lái vào năm 2026, ngay cả khi họ ủng hộ việc cắt giảm mạnh các chương trình khác — bao gồm cắt giảm gần 50% ngân sách cho các sứ mệnh khoa học.

Chỉ thị về lò phản ứng yêu cầu cơ quan này phải mời các đề xuất từ ngành công nghiệp cho một lò phản ứng hạt nhân 100 kilowatt để đưa vào hoạt động vào năm 2030, một yếu tố quan trọng để các phi hành gia quay trở lại bề mặt Mặt Trăng. Trước đây, NASA đã tài trợ cho nghiên cứu về một lò phản ứng 40 kilowatt để sử dụng trên Mặt Trăng, với kế hoạch đưa lò phản ứng vào hoạt động vào đầu những năm 2030.

Chỉ thị nêu rõ quốc gia đầu tiên có lò phản ứng có thể “tuyên bố vùng cấm, điều này sẽ gây cản trở đáng kể cho Hoa Kỳ”, một dấu hiệu cho thấy mối quan ngại của cơ quan này về một dự án chung mà Trung Quốc và Nga đã khởi động.

Chỉ thị cũng yêu cầu NASA chỉ định một người lãnh đạo cho nỗ lực này và xin ý kiến đóng góp của ngành trong vòng 60 ngày. Cơ quan này đang tìm kiếm các công ty có khả năng phóng lò phản ứng vào năm 2030, vì đó cũng là thời điểm Trung Quốc dự định đưa phi hành gia đầu tiên lên Mặt Trăng.

Sáng kiến hạt nhân có nghĩa là NASA sẽ tiếp tục tham gia vào quá trình phát triển hạt nhân ngay cả sau khi Ngũ Giác Đài gần đây hủy bỏ chương trình chung về động cơ hỏa tiễn chạy bằng năng lượng hạt nhân.

Một quan chức của NASA cho biết: “Mặc dù ngân sách không ưu tiên cho hệ thống đẩy hạt nhân, nhưng không phải vì hệ thống đẩy hạt nhân bị coi là công nghệ không xứng đáng”.

Chỉ thị về trạm vũ trụ nhằm mục đích thay thế Trạm vũ trụ quốc tế cũ kỹ và rò rỉ bằng các trạm vũ trụ do thương mại vận hành bằng cách thay đổi cách cơ quan này trao hợp đồng.

NASA dự kiến sẽ trao hợp đồng cho ít nhất hai công ty trong vòng sáu tháng kể từ khi nhận được yêu cầu đề xuất. Các quan chức hy vọng sẽ đưa một trạm mới vào không gian vào năm 2030. Nếu không, chỉ có Trung Quốc mới có thể có một trạm vũ trụ có người lái thường trực trên quỹ đạo.

Một số công ty đã vươn lên đáp ứng nhu cầu về trạm vũ trụ, bao gồm Axiom Space, Vast và Blue Origin. Tuy nhiên, trong những tháng gần đây, các nhà lập pháp đã bày tỏ lo ngại rằng cơ quan này không hành động đủ nhanh để cung cấp cho họ nguồn vốn cần thiết.

[Politico: Duffy to announce nuclear reactor on the moon]

10. Tổng thống Zelenskiy, Tổng thống Trump gọi điện sau chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Witkoff

Tổng thống Volodymyr Zelenskiy và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã có cuộc điện đàm với các nhà lãnh đạo Âu Châu sau chuyến đi tới Mạc Tư Khoa của đặc phái viên của Tổng thống Trump là Steve Witkoff, Tổng thống Zelenskiy cho biết vào ngày 6 tháng 8.

“Cuộc trò chuyện này diễn ra sau khi đại diện của Tổng thống Trump, Steve Witkoff, đến thăm Mạc Tư Khoa”, Tổng thống Zelenskiy nói. Ông cho biết các nhà lãnh đạo Âu Châu cũng tham gia cuộc gọi. “Lập trường chung của chúng tôi với các đối tác hoàn toàn rõ ràng — chiến tranh phải chấm dứt. Và điều đó phải được thực hiện một cách trung thực”, Tổng thống Zelenskiy nói thêm.

Theo Sky News, Thủ tướng Anh Keir Starmer là một trong những nhà lãnh đạo Âu Châu tham gia lời kêu gọi.

Theo hãng thông tấn nhà nước Nga TASS, Putin đã gặp Witkoff vào ngày 6 tháng 8 trong khoảng ba giờ.

Điện Cẩm Linh không tiết lộ nội dung cuộc họp, nhưng các nguồn tin giấu tên nói với CNN rằng Mạc Tư Khoa đã yêu cầu các cuộc đàm phán với hy vọng tránh được các lệnh trừng phạt bổ sung của Hoa Kỳ.

Trước đó, Tổng thống Trump đã cảnh báo rằng trừ khi Nga đồng ý ngừng các hoạt động thù địch ở Ukraine trước ngày 8 tháng 8, Washington sẽ tiến hành áp thuế quan thứ cấp, nhắm vào các quốc gia mua dầu của Nga.

Trước cuộc gặp với Putin, Witkoff đã có cuộc hội đàm với Kirill Dmitriev, nhà lãnh đạo quỹ đầu tư quốc gia của Nga và là nhân vật trước đây từng tham gia vào hoạt động ngoại giao bí mật với chính quyền Tổng thống Trump.

Sau cuộc họp ở Điện Cẩm Linh, Witkoff đã tới Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Mạc Tư Khoa, RBK-Ukraine đưa tin.

Trợ lý chính sách đối ngoại của Putin, Yuri Ushakov, mô tả cuộc trò chuyện với Witkoff là “hữu ích và mang tính xây dựng”, lưu ý rằng cuộc trò chuyện đề cập đến cuộc chiến ở Ukraine và triển vọng “hợp tác chiến lược” giữa Washington và Mạc Tư Khoa.

“Một số tín hiệu đã được gửi đi từ phía chúng tôi”, Ushakov nói. “Chúng tôi cũng nhận được tín hiệu tương ứng từ Tổng thống Trump.”

Một nguồn tin giấu tên cho biết với Reuters rằng Tòa Bạch Ốc dự kiến sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt mới đối với Nga vào ngày 8 tháng 8 sau khi cuộc họp giữa Witkoff và Putin kết thúc.

Tổng thống Trump sau đó cho biết cuộc gặp giữa Witkoff và Putin “rất hiệu quả”.

“Đã đạt được tiến triển lớn! Sau đó, tôi đã cập nhật cho một số đồng minh Âu Châu của chúng ta. Mọi người đều đồng ý rằng cuộc chiến này phải kết thúc, và chúng ta sẽ nỗ lực hướng tới điều đó trong những ngày và tuần tới”, Tổng thống Trump nói.

[Kyiv Independent: Zelensky, Trump hold call following Witkoff Moscow visit]

11. Lithuania yêu cầu NATO giúp tăng cường phòng không sau khi máy bay điều khiển từ xa thứ hai vượt biên giới

Lithuania đang kêu gọi NATO giúp tăng cường khả năng phòng không sau khi một máy bay điều khiển từ xa chở 2 kg thuốc nổ xâm nhập vào nước này từ Belarus và rơi xuống khu vực huấn luyện quân sự.

Bộ trưởng Quốc phòng Dovilė Šakalienė và Ngoại trưởng Kęstutis Budrys đã gửi thư cho Tổng thư ký NATO Mark Rutte để yêu cầu điều động thêm các năng lực “thậm chí là thử nghiệm” trên lãnh thổ của mình để giải quyết các mối đe dọa trên không, Šakalienė cho biết hôm thứ Ba.

Bà cho biết: “Vì những sự việc tương tự có thể sẽ tiếp diễn chừng nào cuộc chiến giữa Nga và Ukraine còn tiếp diễn, điều đó có nghĩa là chúng ta phải thực hiện các biện pháp bổ sung”.

Chiếc máy bay điều khiển từ xa đã vượt biên giới vào ngày 28 tháng 7 và quân đội Lithuania phải mất gần một tuần để xác định vị trí.

Giả thuyết chính, theo các nhà chức trách, là Nga đã điều khiển máy bay điều khiển từ xa hướng về Kyiv nhưng nó bị mất phương hướng và vô tình xâm phạm không phận Lithuania. Mặc dù hiện tại “không có lý do gì để tin rằng máy bay điều khiển từ xa đã được cố tình phóng vào lãnh thổ Lithuania, nhưng chúng tôi nhất định phải phản ứng hết sức mình”, Šakalienė nói. Cuộc điều tra vẫn đang được tiến hành.

Với việc các cuộc không kích nhằm vào Ukraine gia tăng trong những tháng gần đây, nguy cơ xảy ra những sự việc tương tự dọc biên giới phía đông của NATO đang gia tăng. Những sự việc tương tự đã được báo cáo ở Ba Lan, Rumani và Latvia.

Budrys mô tả tình hình này là “mối quan ngại của toàn thể NATO”, kêu gọi nỗ lực chung để giải quyết “các loại mối đe dọa mới”.

Budrys cho biết: “Đây không chỉ là không phận của Lithuania, không chỉ là an ninh của Lithuania mà còn là không phận của NATO, an ninh của NATO và cả an ninh của Liên Hiệp Âu Châu”.

Chiếc máy bay điều khiển từ xa này là chiếc thứ hai bay vào Lithuania vào tháng trước. Vào ngày 10 tháng 7, một chiếc máy bay điều khiển từ xa Gerbera của Nga đã rơi xuống khu vực cách lãnh thổ Lithuania khoảng một km sau khi bay từ Belarus.

[Kyiv Independent: Lithuania requests NATO help boost its air defenses after second drone crosses border]
 
Bất ngờ: Tuần tới TT Trump gặp Putin. Kyiv đánh dữ dội trên đất Nga: Dầu mỏ, căn cứ, nhà ga bốc cháy
VietCatholic Media
16:20 07/08/2025


1. Nga cho biết Putin và Tổng thống Trump sẽ gặp nhau trong những ngày tới

Chiều Thứ Năm, 07 Tháng Tám, trợ lý chính sách đối ngoại của Nga Yuri Ushakov cho biết Putin và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump dự kiến sẽ có cuộc gặp trong những ngày tới.

Theo hãng thông tấn nhà nước Nga TASS, Ushakov cho biết thêm rằng công tác chuẩn bị cho cuộc họp đang được tiến hành và địa điểm tổ chức đã được thống nhất.

Đây sẽ là cuộc gặp đầu tiên giữa hai tổng thống kể từ khi Tổng thống Trump nhậm chức vào ngày 20 tháng Giêng

Ushakov cho biết: “Theo đề xuất của phía Mỹ, về nguyên tắc đã đạt được thỏa thuận tổ chức hội nghị thượng đỉnh song phương trong những ngày tới”.

“Ngày dự kiến diễn ra là tuần tới, nhưng các bên đã bắt đầu chuẩn bị cho cuộc họp quan trọng này và khó có thể nói trước sẽ mất bao nhiêu ngày để chuẩn bị.”

Thông báo này được đưa ra sau cuộc gặp giữa Putin và đặc phái viên Hoa Kỳ Steve Witkoff vào ngày 6 tháng 8, chỉ hai ngày trước thời hạn chót mà Tổng thống Trump yêu cầu Nga phải đồng ý ngừng bắn ở Ukraine.

Tờ New York Times đưa tin rằng Tổng thống Trump không chỉ đang chuẩn bị cho cuộc gặp riêng với Putin mà còn cho cuộc gặp ba bên tiềm năng với Tổng thống Volodymyr Zelenskiy ngay sau đó.

Ushakov tuyên bố rằng Witkoff “đã nêu ý tưởng về một cuộc gặp ba bên giữa Putin, Tổng thống Trump và Tổng thống Zelenskiy”, mặc dù Mạc Tư Khoa vẫn chưa chính thức bình luận về đề xuất này.

Tổng thống Zelenskiy nhấn mạnh vào ngày 7 tháng 8 rằng một cuộc họp ở cấp lãnh đạo là bước đi quan trọng hướng tới “hòa bình thực sự lâu dài”.

Tổng thống Ukraine phát biểu trên X rằng: “Chúng tôi ở Ukraine đã nhiều lần nói rằng việc tìm ra các giải pháp thực sự có thể thực sự hiệu quả ở cấp độ lãnh đạo”.

“Cần phải xác định thời điểm áp dụng định dạng này và phạm vi các vấn đề cần giải quyết.”

Ban đầu, Tổng thống Trump đã cho Mạc Tư Khoa 50 ngày để tuân thủ sáng kiến hòa bình khi ông công bố tối hậu thư vào ngày 14 tháng 7, nhưng kể từ đó, ông đã bày tỏ sự thất vọng ngày càng tăng với việc Nga từ chối chấm dứt chiến tranh.

Lần gần nhất Ukraine và Nga gặp nhau để đàm phán trực tiếp là vào ngày 23 tháng 7 tại Istanbul. Cuộc họp kéo dài chưa đầy một giờ đã kết thúc mà không đạt được tiến triển nào trong việc chấm dứt các hoạt động thù địch vì đại diện Nga một lần nữa bác bỏ lệnh ngừng bắn hoàn toàn.

Tổng thống Zelenskiy đã nhiều lần bày tỏ sự cởi mở với các cuộc đàm phán trực tiếp, bao gồm cả hình thức ba bên với sự tham gia của Tổng thống Trump. Putin cho đến nay vẫn từ chối gặp mặt trực tiếp, thay vào đó chỉ cử các quan chức cấp thấp hơn.

Để gây áp lực lên Mạc Tư Khoa, Tổng thống Trump đã leo thang việc sử dụng các biện pháp kinh tế. Vào ngày 6 tháng 8, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp áp đặt mức thuế 25% đối với hàng nhập khẩu từ Ấn Độ, với lý do nước này vẫn tiếp tục mua dầu của Nga.

Chiến lược này nhắm vào ngành dầu mỏ của Nga, nơi cung cấp khoảng một phần ba ngân sách liên bang và vẫn là nguồn tài chính chính cho cuộc chiến chống lại Ukraine.

Các cuộc đàm phán sẽ đánh dấu một thời khắc ngoại giao quan trọng đối với Tổng thống Trump, người luôn tự hào về khả năng chấm dứt chiến tranh và đàm phán các thỏa thuận hòa bình của mình.

[Politico: Putin, Trump to meet in the coming days, Moscow says]

2. Mỹ sẽ tăng thuế đối với Ấn Độ lên 50% vì mua dầu của Nga

Tổng thống Trump đã ký một sắc lệnh hành pháp vào hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám, áp đặt thêm 25 phần trăm thuế quan đối với Ấn Độ do nước này mua dầu của Nga, thực hiện lời đe dọa tăng cường áp lực lên Mạc Tư Khoa để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.

Theo sắc lệnh hành pháp, mức thuế quan này sẽ có hiệu lực trong vòng 21 ngày và sẽ được áp dụng ngoài mức phạt 25% mà Tổng thống Trump áp dụng cho Ấn Độ trong tháng này.

Sắc lệnh này được đưa ra vài giờ sau cuộc họp kéo dài khoảng ba giờ giữa các quan chức Nga và Mỹ mà không đạt được đột phá nào. Nó diễn ra vài ngày trước thời hạn chót mà Tòa Bạch Ốc đặt ra cho Nga để đạt được thỏa thuận hòa bình với Ukraine hoặc phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt kinh tế nghiêm trọng.

Tổng thống Trump đã đe dọa sẽ áp đặt “thuế quan thứ cấp” lên tới 100 phần trăm đối với các quốc gia mua hàng hóa - chủ yếu là năng lượng - từ Nga nếu nhà độc tài Vladimir Putin không nhanh chóng chấm dứt các hành động thù địch ở Ukraine.

Nhưng ông cũng chỉ ra Ấn Độ, một trong số nhiều quốc gia mua dầu của Nga, khi các cuộc đàm phán thương mại giữa hai nước đã bị đình trệ trong tháng qua.

Nga sản xuất khoảng 12% nguồn cung dầu thô thế giới vào năm 2024, mang lại cho nước này sức mạnh thị trường đáng kể. Bất chấp các lệnh trừng phạt của phương Tây, bao gồm cả việc áp đặt giá trần đối với xuất khẩu dầu của Nga, Nga vẫn sở hữu một “đội tàu ngầm” khổng lồ, cho phép tiếp tục vận chuyển dầu.

Chính phủ Ấn Độ chỉ trích sắc lệnh hành pháp này là “bất công, vô lý và ấm ớ”.

“Việc nhập khẩu của chúng tôi dựa trên các yếu tố thị trường và được thực hiện với mục tiêu chung là bảo đảm an ninh năng lượng cho 1,4 tỷ người dân Ấn Độ”, một phát ngôn viên của chính phủ cho biết trong một tuyên bố. “Do đó, thật vô cùng đáng tiếc khi Hoa Kỳ lại chọn áp đặt thêm thuế quan đối với Ấn Độ vì những hành động mà một số quốc gia khác cũng đang thực hiện vì lợi ích quốc gia của họ.”

New Delhi cho biết thêm: “Ấn Độ sẽ thực hiện mọi hành động cần thiết để bảo vệ lợi ích quốc gia của mình”.

Ngành dầu khí chiếm khoảng 30 phần trăm doanh thu của chính phủ Nga mỗi năm, giúp duy trì nền kinh tế nước này.

Theo Robin Brooks, nghiên cứu viên cao cấp của Viện Brookings và Phó chủ tịch phụ trách kinh tế Ben Harris trong một phân tích do Trung tâm Khoa học và Quan hệ Quốc tế Belfer thuộc Trường Harvard Kennedy công bố, Trung Quốc là nước nhập khẩu dầu lớn nhất của Nga, với giá trị mua vào là 62,5 tỷ đô la vào năm ngoái, theo sát là Ấn Độ với giá trị mua vào là 52,7 tỷ đô la.

Brooks và Harris viết rằng nếu lệnh trừng phạt thứ cấp khiến lượng dầu xuất khẩu của Nga giảm 10 phần trăm thì giá dầu thô Brent có thể tăng 6 đô la từ mức hiện tại là khoảng 71 đô la một thùng, trong khi mức giảm 20 phần trăm có thể khiến giá tăng vọt 11 đô la.

Họ viết: “Bất kỳ mức tăng nào trong số này cũng sẽ làm tăng đáng kể nguy cơ suy thoái ở Hoa Kỳ và nhiều nền kinh tế khác trên toàn cầu”.

Trung Quốc cũng là nước nhập khẩu lớn nhất tất cả hàng hóa của Nga, với tổng giá trị mua hàng năm ngoái đạt 128,3 tỷ đô la. Các nước mua hàng lớn khác bao gồm Ấn Độ (65,7 tỷ đô la), Thổ Nhĩ Kỳ (44,0 tỷ đô la), Belarus (34,1 tỷ đô la), Kazakhstan (17,0 tỷ đô la) và Brazil (11,6 tỷ đô la).

Cố vấn của Tổng thống Trump, Stephen Miller, thừa nhận rằng Trung Quốc cũng mua dầu của Nga nhưng cho biết trọng tâm hiện tại của Tổng thống Trump là Ấn Độ.

“Ấn Độ đã có phần cứng đầu trong các cuộc đàm phán thương mại với Hoa Kỳ, nhưng tôi cũng nghĩ rằng tổng thống đã quyết định rằng Ấn Độ không nên là van cho Nga xả,” Miller nói. “Và một lý do khiến chiến tranh Nga-Ukraine có thể kéo dài lâu như vậy là vì Nga có một van xả thông qua Ấn Độ, nơi họ có thể bán hàng của mình.”

Trong một cuộc phỏng vấn hôm thứ Ba trên CNBC, Tổng thống Trump đã hạ thấp bất kỳ tác động tiềm tàng nào đến giá dầu từ các lệnh trừng phạt thứ cấp do những nỗ lực của ông nhằm tăng sản lượng dầu của Hoa Kỳ. “Tôi không lo lắng về giá cả vì chúng tôi đang khoan ở mức chưa từng thấy trước đây”, ông nói.

Ngược lại, nếu các nước tiếp tục mua dầu của Nga [và các hàng hóa khác] sau khi Tổng thống Trump áp đặt mức thuế 100%, điều đó sẽ tạo ra lệnh cấm vận hiệu quả của Hoa Kỳ đối với hàng nhập khẩu từ các nước đó, điều này sẽ làm tăng “giá của nhiều hàng hóa khác”, làm tăng nguy cơ suy thoái và làm mất ổn định thị trường tài chính, Brooks và Harris viết.

Trong một tuyên bố của chính phủ hôm thứ Hai, Ấn Độ gọi lời đe dọa của Tổng thống Trump về việc áp đặt lệnh trừng phạt thứ cấp là “vô lý và không có căn cứ” và ám chỉ sẽ trả đũa.

Nước này cũng bảo vệ việc mua hàng là cần thiết “để bảo đảm chi phí năng lượng có thể dự đoán được và phải chăng cho người tiêu dùng Ấn Độ” và cáo buộc Hoa Kỳ và Liên Hiệp Âu Châu đạo đức giả khi tiếp tục mua hàng từ Nga trong khi chỉ trích Ấn Độ.

[Politico: US to hike tariffs on India to 50 percent over Russian oil purchases]

3. Dầu mỏ, căn cứ, nhà ga bốc cháy khi 82 máy bay điều khiển từ xa tấn công nước Nga

Các vụ nổ và hỏa hoạn đã làm rung chuyển khu vực Krasnodar của Nga vào đêm Thứ Năm, 07 Tháng Tám, sau một cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa quy mô lớn được tường trình đã tấn công một nhà máy lọc dầu và một đơn vị quân đội.

Theo kênh Telegram Ostorozhno, Novosti của Nga, một vụ nổ mạnh đã xảy ra tại làng Afipsky. Các nhân chứng cho biết họ nhìn thấy một cột khói đen bốc lên từ khu công nghiệp của thành phố.

Các báo cáo sơ bộ cho thấy nhà máy lọc dầu Afipsky đã bị máy bay điều khiển từ xa tấn công, dẫn đến hỏa hoạn. Các đoạn phim lan truyền trên mạng xã hội cho thấy khói dày bốc lên từ khu vực này.

“Có vẻ như đơn vị lọc dầu chính đang bốc cháy. Điều này có nghĩa là nhà máy sẽ phải ngừng hoạt động trong một thời gian dài”, kênh Telegram Exilenova Plus viết, kèm theo video ghi lại vụ cháy lớn.

Ở nơi khác, máy bay điều khiển từ xa được tường trình đã bay qua Slavyansk-on-Kuban, nơi xảy ra hỏa hoạn tại đơn vị quân đội 61661 sau vụ tấn công.

Tại vùng Volgograd, máy bay điều khiển từ xa đã tấn công vào thị trấn Surovikino. Nhà ga xe lửa được tường trình đã bị trúng đạn, và một đám cháy đã bùng phát sau khi mảnh vỡ từ máy bay điều khiển từ xa rơi xuống gần đó.

Kênh Shot Telegram đưa tin những dấu hiệu đầu tiên của vụ tấn công vào khoảng 1 giờ sáng giờ Kyiv, khi các nhân chứng nghe thấy tiếng máy bay điều khiển từ xa tiếp theo là khoảng 10 vụ nổ mạnh.

Kênh Astra Telegram sau đó đã làm rõ rằng nhà ga xe lửa Surovikino đã bị trúng hỏa tiễn trực tiếp, gây ra hỏa hoạn.

Các hạn chế chuyến bay tạm thời đã được áp dụng tại phi trường Volgograd ngay trước khi vụ tấn công bắt đầu.

Thống đốc khu vực Andrey Bocharov tuyên bố hệ thống phòng không đã đẩy lùi cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa, không có thương vong nào được báo cáo. Tuy nhiên, ông xác nhận thiệt hại tại hai nhà ga hỏa xa.

Ông cho biết một vụ hỏa hoạn đã xảy ra tại tòa nhà hành chính của nhà ga Surovikino, trong khi lực lượng công binh đang dọn dẹp các mảnh vỡ máy bay điều khiển từ xa tại nhà ga Maksym Gorky, nơi được tường trình vẫn chưa bị hư hại.

Trong khi đó, Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố rằng từ 23:30 ngày 6 tháng 8 đến 6:10 ngày 7 tháng 8, hệ thống phòng không đã chặn hoặc phá hủy 82 máy bay điều khiển từ xa của Ukraine trên khắp nước Nga:

31 trên Biển Azov

11 trên Crimea bị tạm chiếm

10 trên khu vực Rostov

9 trên khu vực Krasnodar

8 trên Hắc Hải

7 trên khu vực Volgograd

4 trên vùng Belgorod

1 mỗi vùng Kursk và Oryol

Kể từ đầu tháng 8, Ukraine đã tăng cường các cuộc tấn công bằng máy bay điều khiển từ xa tầm xa vào sâu trong lãnh thổ Nga, nhắm vào các nhà máy lọc dầu, tàu chở nhiên liệu và cơ sở lưu trữ.

Chiến dịch này, thường có sự tham gia của hàng chục máy bay điều khiển từ xa kamikaze tại mỗi địa điểm, đã làm gián đoạn đáng kể cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga và dẫn đến giá nhiên liệu trong nước tăng vọt.

Một trong những cuộc tấn công có phạm vi ảnh hưởng rộng nhất xảy ra vào ngày 1-2 tháng 8, khi Ukraine phóng hơn 100 máy bay điều khiển từ xa, tấn công các nhà máy lọc dầu quan trọng như Ryazan (nhà máy lớn thứ tư của Nga) và Novokuibyshevsk.

Người ta đã báo cáo về các vụ nổ và hỏa hoạn lớn, dữ liệu vệ tinh xác nhận thiệt hại, bất chấp nỗ lực giảm nhẹ tác động của Mạc Tư Khoa.

Trung đoàn Máy bay Điều khiển từ xa Độc lập số 14 của Ukraine đã nhận trách nhiệm về một số vụ tấn công, bao gồm các cơ sở ở Tatsinskaya, Adler, Sochi và Voronezh. Các cuộc tấn công đã buộc phải ngừng hoạt động tại các địa điểm quan trọng và làm gián đoạn hoạt động hỏa xa và phi trường.

Theo Kommersant, các cuộc tấn công đã làm giảm sản lượng nhiên liệu của Nga tới 40.000 tấn mỗi ngày. Giá xăng bán buôn tăng vọt lên mức cao kỷ lục, buộc Điện Cẩm Linh phải ban hành lệnh cấm xuất khẩu nhiên liệu từ ngày 30 tháng 7 đến ít nhất là ngày 31 tháng 8.

[Kyiv Post: Oil, Bases, Railway Stations Ablaze as 82 Drones Pummel Russia]

4. Người Nga càng chờ đợi lâu để hạ vũ khí, cái giá phải trả càng cao

Cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine đã diễn ra hơn ba năm nay, và mỗi ngày trôi qua, cái giá mà Nga phải trả lại ngày càng cao. Đại Tá Markus Reisner, chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia Áo Theresian, ở Wiener Neustadt đưa ra lập trường trên hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám.

Người Nga càng chọn chiến đấu lâu dài, cái giá họ phải trả càng lớn - không chỉ bằng sinh mạng con người, mà còn là những hậu quả sâu sắc, không thể đảo ngược, sẽ ám ảnh đất nước họ qua nhiều thế hệ.

Vấn đề không chỉ nằm ở tổn thất chiến trường và những thiệt hại kinh tế hiện tại. Việc bồi thường cho sự tàn phá to lớn mà Nga đã gây ra sẽ rất lớn. Ukraine sẽ không thể một mình xây dựng lại các thành phố bị tàn phá và cơ sở hạ tầng bị phá hủy. Nga sẽ phải chịu trách nhiệm tài chính cho mọi trường học, bệnh viện, khu chung cư, cầu, nhà máy điện và các cơ sở hạ tầng quan trọng mà họ đã phá hủy.

Nhưng chi phí còn vượt xa hơn cả các tòa nhà. Toàn bộ cánh đồng nông nghiệp, rừng, sông ngòi, và thậm chí cả Hắc Hải đều bị ô nhiễm bởi mìn và vật liệu chưa nổ, khiến chúng trở nên nguy hiểm cho dân thường và không thể sử dụng cho mục đích phục hồi kinh tế. Nga sẽ buộc phải tài trợ cho các hoạt động rà phá bom mìn quy mô lớn, một quá trình sẽ mất hàng thập niên và tiêu tốn hàng tỷ đô la.

Việc bồi thường cũng sẽ bao gồm bồi thường cho ngũ cốc và khoáng sản bị đánh cắp của Ukraine, bị cướp bóc một cách có hệ thống trên khắp các vùng lãnh thổ bị tạm chiếm để nuôi sống nền kinh tế của Nga trong khi gây ra thiệt hại nặng nề cho nền kinh tế của Ukraine.

Nhưng cuộc chiến kinh tế của Nga chống lại Ukraine còn đi xa hơn thế. Họ cố tình phá hủy tàu thuyền, bến hàng hóa và kho chứa ngũ cốc cùng các nguyên liệu xuất khẩu khác, nhắm vào khả năng giao thương của Ukraine và cắt đứt các nguồn thu quan trọng cần thiết cho hoạt động thường nhật của đất nước. Những cuộc tấn công này được thiết kế để làm tê liệt nền kinh tế Ukraine và đe dọa an ninh lương thực toàn cầu, và Nga sẽ phải chịu trách nhiệm tài chính về thiệt hại không chỉ đối với Ukraine mà còn đối với các thị trường quốc tế phụ thuộc vào xuất khẩu của nước này.

Trong khi đó, Nga càng trì hoãn việc hạ vũ khí, các lệnh trừng phạt và sự cô lập quốc tế mà họ phải đối mặt sẽ càng nghiêm trọng hơn. Ví dụ, Phần Lan đã cấm công dân Nga mua bất động sản trong lãnh thổ nước này, báo hiệu một mức độ loại trừ kinh tế mới. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi các quốc gia khác làm theo, mở rộng lệnh cấm du lịch và áp đặt các hạn chế khắc nghiệt hơn nhắm vào toàn bộ các ngành công nghiệp.

Công lý sẽ không phải là tùy chọn; nó sẽ do Ukraine yêu cầu và được cộng đồng quốc tế thực thi.

Những biện pháp leo thang này sẽ tàn phá nền kinh tế Nga hơn nữa và làm sâu sắc thêm sự cô lập ngoại giao, khiến cái giá phải trả cho hành động xâm lược liên tục càng trở nên không thể chịu đựng nổi. Con đường trở lại cộng đồng quốc tế ngày càng trở nên hẹp hòi và đầy rẫy nguy hiểm sau mỗi ngày chiến tranh.

Ngoài ra, các vụ kiện sẽ được tiến hành chống lại tội phạm chiến tranh ở mọi cấp độ, từ những người lính bình thường cướp bóc nhà cửa, đánh cắp đồ đạc của dân thường và thực hiện các hành vi bạo lực và tra tấn, cho đến các sĩ quan và chỉ huy ra lệnh tấn công vào cơ sở hạ tầng dân sự và nhắm vào sinh mạng vô tội.

Không giống như việc truy tố Đức Quốc xã sau Thế chiến II, vốn mất nhiều năm để ghi chép và xây dựng bằng chứng cho mỗi vụ án, lần này công lý sẽ đến nhanh hơn nhiều. Những tội ác ngày nay được ghi lại theo thời gian thực. Chúng ta có những thứ mà trước đây không có: dấu vết kỹ thuật số, hình ảnh vệ tinh, các cuộc gọi bị chặn, và vô số cảnh quay từ máy bay điều khiển từ xa và điện thoại thông minh. Việc thu thập bằng chứng vẫn đang tiếp diễn, và việc tránh né phán quyết và hình phạt của tòa án sẽ gần như bất khả thi đối với những người liên quan. Mỗi gia đình Nga có thành viên đang phục vụ trong quân đội nên suy nghĩ về điều này.

Và việc bồi thường sẽ không dừng lại ở cơ sở hạ tầng bị phá hủy, đất đai bị khai thác, hay tài nguyên bị cướp bóc. Nga cũng sẽ buộc phải trả lại hàng ngàn trẻ em Ukraine đã bị bắt cóc. Những đứa trẻ này đã bị cưỡng bức rời khỏi nhà, bị tước đoạt danh tính và bị đưa vào các chương trình cải tạo nhằm xóa bỏ nguồn gốc Ukraine của chúng. Việc trả lại các em cho gia đình và cộng đồng sẽ là điều kiện tiên quyết không thể thương lượng cho bất kỳ cuộc đàm phán hoặc bình thường hóa nào trong tương lai.

Những kẻ tham gia vào tội ác diệt chủng này, từ các quan chức tổ chức các vụ bắt cóc cho đến các gia đình đã nhận nuôi và che giấu những đứa trẻ này, cũng sẽ bị truy tố. Trách nhiệm giải trình sẽ được áp dụng cho mọi cá nhân và tổ chức liên quan đến việc xóa bỏ có hệ thống bản sắc và tuổi thơ của người Ukraine. Công lý sẽ không phải là tùy chọn; nó sẽ do Ukraine yêu cầu và được cộng đồng quốc tế thực thi.

Và tại sao Nga phải gánh chịu những chi phí khổng lồ này? Bởi vì họ sẽ không còn lựa chọn nào khác nếu muốn tái gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Họ phải chứng minh được trách nhiệm thực sự. Chỉ khi đó, thế giới mới có thể dần trở lại bình thường, xây dựng lại niềm tin và cân nhắc khả năng tha thứ, một quá trình sẽ mất rất nhiều thời gian và nỗ lực chân thành. Việc kinh doanh với Nga sẽ không chỉ được khôi phục chỉ vì tiếng súng im bặt; mà còn đòi hỏi bằng chứng rõ ràng về bồi thường, hồi hương trẻ em và công lý cho những tội ác chiến tranh đã gây ra.

Cuối cùng, người Nga nhận thức rõ rằng họ đang sống dưới sự áp bức. Nền kinh tế của họ đang suy thoái, tham nhũng có hệ thống len lỏi vào mọi cấp quản lý, và nghèo đói lan rộng tiếp tục trầm trọng hơn mà chưa thấy dấu hiệu cải thiện. Bất kỳ mong muốn chân thành nào nhằm xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn – cải cách đất nước, áp dụng các thông lệ tốt nhất toàn cầu, và tạo ra các hệ thống phục vụ người dân thay vì bóc lột họ – sẽ vẫn là bất khả thi chừng nào cuộc xâm lược Ukraine còn tiếp diễn. Bước đầu tiên và duy nhất hướng tới sự thay đổi có ý nghĩa là hạ vũ khí, rút khỏi Ukraine, và bắt đầu quá trình bồi thường, giải trình và tái thiết lâu dài cả trong và ngoài nước.

[Kyiv Post: The Longer Russians Wait to Lay Down Their Weapons, the Higher the Price]

1. Hoa Kỳ bật đèn xanh cho việc bán vũ khí trị giá 200 triệu đô la cho Ukraine để hỗ trợ trọng pháo M777 và hậu cần

Hôm Thứ Tư, 06 Tháng Tám, Bộ trưởng Quốc phòng Denys Shmyhal tuyên bố rằng Hoa Kỳ đã chấp thuận các hợp đồng bán vũ khí quân sự trị giá hơn 200 triệu đô la cho Ukraine để hỗ trợ pháo binh, vận tải và hậu cần.

Shmyhal cho biết: “Gói đầu tiên bao gồm thiết bị, sửa chữa và hỗ trợ kỹ thuật cho lựu pháo M777, trị giá 104 triệu đô la”.

Thông báo này được đưa ra trong bối cảnh chính sách của chính quyền Tổng thống Trump có sự thay đổi, được đánh dấu bằng các thỏa thuận vũ khí mới với Ukraine khi nước này đang phải đối mặt với sự xâm lược liên tục của Nga.

Cơ quan Hợp tác An ninh Quốc phòng Hoa Kỳ, gọi tắt là DSA đã công bố thỏa thuận vào ngày 5 tháng 8, cho biết Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã bật đèn xanh cho khoản tài trợ này. Khoản hỗ trợ bao gồm hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo, xuất bản cơ quan truyền thông và các hỗ trợ hậu cần khác, với BAE Systems tại Barrow-in-Furness, Anh, là nhà thầu chính.

Theo cơ quan này, thỏa thuận sẽ tăng cường khả năng của Ukraine trong việc thực hiện các nhiệm vụ tự vệ và an ninh khu vực mà không làm thay đổi cán cân quân sự cơ bản, và sẽ không yêu cầu điều động thêm nhân sự của chính phủ Hoa Kỳ hoặc nhà thầu.

Shmyhal cho biết gói thứ hai có giá trị 99,5 triệu đô la và bao gồm vận tải, hợp nhất hàng hóa và hậu cần.

Bộ trưởng Quốc phòng lưu ý: “Các gói viện trợ này được tài trợ hoàn toàn bởi các quốc gia đối tác, nhằm thúc đẩy quốc phòng và an ninh khu vực của Ukraine”, đồng thời cho biết thêm rằng các gói viện trợ này là kết quả của thỏa thuận giữa Tổng thống Volodymyr Zelenskiy và Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump.

Thông báo này được đưa ra sau khi Bộ Ngoại giao Mỹ phê duyệt hai hợp đồng bán vũ khí tiềm năng khác cho Ukraine trị giá ước tính 330 triệu đô la vào ngày 24 tháng 7.

Gói đầu tiên, trị giá khoảng 150 triệu đô la, bao gồm thiết bị và dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng lựu pháo tự hành M109. Gói thứ hai, trị giá khoảng 180 triệu đô la, cung cấp hỗ trợ duy trì và nâng cấp cho các hệ thống phòng không, bao gồm cả hệ thống Patriot do Mỹ sản xuất.

Các thỏa thuận này là một phần trong nỗ lực rộng lớn hơn nhằm tăng cường khả năng của Ukraine trong việc duy trì và bảo dưỡng các hệ thống quân sự quan trọng khi nước này tiếp tục phòng thủ trước cuộc xâm lược đang diễn ra của Nga.

[Kyiv Independent: US greenlights $200 million Ukraine arms sales for M777 howitzer support, logistics]

5. ‘Chiến tranh phải kết thúc’ – Tổng thống Zelenskiy đàm phán với Tổng thống Trump, khẳng định lập trường của Hoa Kỳ sau cuộc gặp Witkoff-Putin

Tổng thống Volodymyr Zelenskiy xác nhận ông đã nói chuyện qua điện thoại với Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vào thứ Tư, trong đó Tòa Bạch Ốc nhắc lại lập trường rằng chiến tranh “phải chấm dứt”.

Cuộc gọi này diễn ra ngay sau khi đặc phái viên Nga Steve Witkoff có cuộc họp kéo dài ba giờ với nhà lãnh đạo Nga Vladimir Putin tại Mạc Tư Khoa vào đầu ngày, trước thời hạn chót ngày 8 tháng 8 của Tổng thống Trump về tiến trình hướng tới hòa bình.

“Lập trường chung của chúng tôi với các đối tác hoàn toàn rõ ràng – chiến tranh phải chấm dứt. Và điều đó phải được thực hiện một cách trung thực”, Tổng thống Zelenskiy đăng trên X.

Chỉ còn hai ngày nữa là đến thời hạn do Tổng thống Trump tự đặt ra, ông đã công bố mức thuế mới 25% đối với một trong những đối tác thương mại lớn nhất của Nga - Ấn Độ - như một hình phạt cho việc tiếp tục kinh doanh với ngành công nghiệp dầu mỏ bị Điện Cẩm Linh trừng phạt.

Áp lực quốc tế gia tăng đối với Nga và các đồng minh kinh tế của nước này được coi là dấu hiệu ủng hộ đáng hoan nghênh tại Ukraine, quốc gia đang phải đối mặt với số lượng các cuộc tấn công ngày càng tăng trên khắp cả nước trong những tháng gần đây.

Một trạm xăng trên tuyến đường mới, vừa được đưa vào hoạt động vào tháng trước để cung cấp khí đốt từ Hoa Kỳ và Azerbaijan, đã bị máy bay điều khiển từ xa của Nga tấn công ở Orlivka thuộc khu vực Odesa.

“Ukraine chắc chắn sẽ bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả chúng ta đều cần một nền hòa bình lâu dài và đáng tin cậy”, Tổng thống Zelenskiy viết. “Nga phải chấm dứt cuộc chiến mà chính họ đã khơi mào.”

Ông cũng cảm ơn các đối tác Âu Châu cũng tham gia cuộc trò chuyện.

“Các nhà lãnh đạo Âu Châu đã tham gia cuộc gọi, và tôi rất biết ơn sự ủng hộ của từng người trong số họ”, ông viết. “Chúng tôi đã thảo luận về những gì đã được nêu rõ ở Mạc Tư Khoa.”

Khi được hỏi vào thứ Hai liệu Nga có thể làm gì để tránh các lệnh trừng phạt sắp tới hay không, Tổng thống Trump trả lời các phóng viên: “Chúng ta phải đạt được thỏa thuận để mọi người không còn bị giết nữa.”

“Bạn biết đấy, họ là những nhân vật xảo quyệt và khá giỏi trong việc né tránh các lệnh trừng phạt”, ông nói thêm về Điện Cẩm Linh. “Vì vậy, chúng ta hãy chờ xem điều gì sẽ xảy ra.”

Chuyến thăm Mạc Tư Khoa của Witkoff diễn ra vài ngày sau khi Tổng thống Trump viết trên TruthSocial rằng hai tàu ngầm hạt nhân của Hoa Kỳ đã được điều động “đến khu vực” sau cuộc trao đổi trực tuyến căng thẳng với người trong Điện Cẩm Linh Dmitry Medvedev.

“Lời nói rất quan trọng, và thường có thể dẫn đến những hậu quả không mong muốn”, Tổng thống Trump phát biểu hôm thứ Sáu. “Tôi hy vọng đây sẽ không phải là một trong những trường hợp như vậy”.

Tuần trước, Tổng thống Trump đã chỉ trích nền kinh tế “chết” của Nga và đe dọa hậu quả nếu tiếp tục chiến tranh ở Ukraine khi các quan chức Mỹ xác nhận thời hạn do Tổng thống Trump áp đặt là ngày 8 tháng 8 để Điện Cẩm Linh đạt được tiến triển hướng tới các cuộc đàm phán hòa bình.

“Tôi không quan tâm Ấn Độ làm gì với Nga. Họ có thể cùng nhau vực dậy nền kinh tế đang suy yếu của mình, tôi cũng chẳng quan tâm”, ông viết hôm thứ Năm. “Nga và Hoa Kỳ hầu như chẳng hợp tác làm ăn gì với nhau.”

“Chúng ta hãy cứ giữ nguyên như vậy, và hãy nói với Medvedev, cựu Tổng thống Nga thất bại, kẻ vẫn nghĩ mình là Tổng thống, rằng hãy cẩn thận lời nói. Ông ta đang bước vào một vùng đất rất nguy hiểm!” ông nói thêm.

Medvedev dường như coi thông điệp này là một lời khiêu khích trong phản hồi của ông sau đó cùng ngày. “Về 'nền kinh tế chết' của Ấn Độ và Nga và 'việc bước vào vùng nguy hiểm'“, Medvedev cho biết.

“Được rồi, hãy để ông ta nhớ lại bộ phim yêu thích của mình về 'Người Chết Biết Đi', cũng như việc 'bàn tay chết' vốn không tồn tại trong tự nhiên có thể nguy hiểm như thế nào”, ông cảnh báo.

[Kyiv Post: ‘The War Must End’ – Zelensky Talks to Trump, Confirms US Position After Witkoff-Putin Meeting]

6. Pháp tước giấy phép cư trú của người đàn ông châm thuốc lá tại đài tưởng niệm chiến tranh

Bộ trưởng Nội vụ Pháp Bruno Retailleau đã đưa ra hình phạt nghiêm khắc đối với một người đàn ông bị camera ghi lại cảnh đang châm thuốc lá tại đài tưởng niệm chiến tranh ở Paris.

Bộ Nội vụ thông báo người đàn ông nhập cư Maroc 47 tuổi này sẽ bị tước giấy phép cư trú tại Pháp sau khi bị bắt vì cáo buộc vi phạm đài tưởng niệm chiến tranh.

Hình phạt nghiêm khắc này được đưa ra trong bối cảnh sự cạnh tranh ngày càng gay gắt ở phe cánh hữu, khi Retailleau, Bộ trưởng Tư pháp Gerald Darmanin và những người khác đang tranh giành quyền lãnh đạo tại Pháp trong bối cảnh chính trị do Đảng Quốc gia cực hữu thống trị.

Video tuần này ghi lại cảnh một người đàn ông cúi xuống châm thuốc lá tại Đài tưởng niệm Chiến sĩ vô danh ở Paris đã gây phẫn nộ và được chia sẻ rộng rãi trên internet.

Retailleau chỉ trích hành động của người đàn ông này là “thiếu đứng đắn và đáng xấu hổ”, trong khi Bộ trưởng Cựu chiến binh và Tưởng niệm Patricia Miralles viết trực tuyến rằng “Nước Pháp sẽ không bao giờ để bất kỳ ai làm hoen ố ký ức về những người đã hy sinh vì đất nước. Không bao giờ.”

Retailleau, một chính trị gia bảo thủ cứng rắn với tham vọng chính trị hướng đến cuộc bầu cử tổng thống năm 2027, đã có lập trường cứng rắn về an ninh và nhập cư kể từ khi được bổ nhiệm vào tháng 9 năm ngoái. Ông muốn Pháp có đường lối cứng rắn hơn đối với Algeria trong các nỗ lực giảm thiểu di cư, chẳng hạn như trục xuất thêm người nhập cư bất hợp pháp.

Đài tưởng niệm Chiến sĩ vô danh có ngọn lửa và ngôi mộ của một người lính đã hy sinh trong Thế chiến thứ nhất dưới vòm Khải Hoàn Môn, nơi thu hút nhiều du khách.

Người đàn ông bị quay phim đang châm thuốc tại đài tưởng niệm đã bị bắt vào thứ Ba và thừa nhận hành vi phạm tội, một số hãng tin đưa tin. Theo tờ Le Figaro của Pháp, cảnh sát biết anh ta và đã từng phạm tội trong quá khứ.

Quyết định tước quyền cư trú của người đàn ông này tại Pháp sẽ là bước đầu tiên hướng tới việc trục xuất ông ta trở về Maroc.

[Politico: France strips residence permit of man who lit cigarette at war memorial]

7. Mỹ sẽ đấu giá du thuyền trị giá 300 triệu đô la của nhà tài phiệt Nga bị tịch thu sau cuộc xâm lược toàn diện Ukraine

Một siêu du thuyền hạng sang bị tịch thu từ một tỷ phú Nga bị trừng phạt sẽ được bán đấu giá vào tháng tới, với thời hạn đấu giá kín là ngày 10 tháng 9, theo trang web đấu giá chính thức.

Du thuyền Amadea, trị giá hơn 300 triệu đô la, đã bị tịch thu từ tỷ phú Nga đang bị trừng phạt Suleiman Kerimov, người có quan hệ mật thiết với Điện Cẩm Linh, vào tháng 4 năm 2022 sau cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine.

Cuộc đấu giá này là một trong những giao dịch bán tài sản của giới tài phiệt Nga lớn nhất và có giá trị nhất bị tịch thu theo lệnh trừng phạt của phương Tây.

Chiếc Amadea dài 106 mét, được đóng bởi nhà máy đóng tàu Đức Lürssen vào năm 2017, có sân đáp trực thăng, hồ bơi, bồn sục, phòng tập thể dục, spa, thẩm mỹ viện và tám phòng ngủ. Du thuyền trải dài sáu tầng và có thể chứa tối đa 22 khách và 36 thành viên thủy thủ đoàn.

Theo trang web chính thức của cuộc đấu giá, du thuyền hiện đang neo đậu tại San Diego, California và sẽ được bán “nguyên trạng, tại chỗ” cho người trả giá cao nhất.

Tòa án Quận Hoa Kỳ tại New York đã ra lệnh tịch thu du thuyền vào tháng 3 năm 2025, và Cơ quan Cảnh sát Tư pháp Hoa Kỳ đã phê duyệt việc bán du thuyền vào tháng 7.

Cuộc đấu giá do National Maritime Services phối hợp với Fraser Yachts điều hành, theo trang web chính thức.

Theo quy định của cuộc đấu giá, người đấu giá phải nộp khoản đặt cọc 10 triệu đô la và cung cấp các tài liệu cần thiết trước ngày 5 tháng 9. Người đấu giá thắng cuộc phải trả thêm 10 triệu đô la trong vòng 10 ngày kể từ khi được thông báo, sau đó thanh toán toàn bộ số tiền còn lại trong vòng 28 ngày.

Theo Forbes, chủ sở hữu trước đây, Suleiman Kerimov, người đã xây dựng khối tài sản của mình thông qua cổ phần tại công ty sản xuất vàng Polyus của Nga, có giá trị tài sản ròng ước tính khoảng 10,7 tỷ đô la.

Doanh nhân này đã bị Bộ Tài chính Hoa Kỳ trừng phạt vào năm 2014 và 2018 vì các hoạt động của Nga tại Ukraine và Syria.

Nhà tài phiệt, người có quan hệ mật thiết với Putin, là một trong những mục tiêu chính của các nỗ lực của phương Tây nhằm tịch thu tài sản của Nga sau cuộc xâm lược Ukraine.

Các công tố viên Hoa Kỳ đã đệ đơn kiện tịch thu tài sản dân sự đối với Amadea vào tháng 10 năm 2023, cáo buộc Kerimov đã mua du thuyền thông qua các công ty vỏ bọc vào năm 2021.

Trước đó, vào tháng 7 năm 2022, Bộ Tài chính đã chặn một công ty có trụ sở tại Delaware tên là Heritage Trust, trị giá hơn 1 tỷ đô la và có liên quan đến Kerimov. Các quan chức cho biết công ty này được sử dụng để chuyển tiền vào Hoa Kỳ thông qua các công ty bình phong và các quỹ Âu Châu.

[Kyiv Independent: US to auction $300 million Russian oligarch yacht seized after full-scale invasion of Ukraine]

8. Điện Cẩm Linh: Putin, Witkoff thảo luận về Ukraine, khả năng hợp tác

Theo trợ lý tổng thống Nga Yuriy Ushakov, Putin và đặc phái viên của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, Steve Witkoff, đã thảo luận về Ukraine và tiềm năng hợp tác trong cuộc điện đàm kéo dài ba giờ tại Mạc Tư Khoa vào thứ Tư.

Cuộc nói chuyện diễn ra trước thời hạn ngừng bắn của Tổng thống Trump đối với Mạc Tư Khoa vào thứ Sáu, ngày 8 tháng 8, sau đó tổng thống Hoa Kỳ đã đe dọa sẽ áp đặt lệnh trừng phạt đối với Mạc Tư Khoa nếu nước này không đưa ra được kết quả hướng tới lệnh ngừng bắn.

Ushakov cho biết hai bên đã đề cập đến Ukraine và tiềm năng hợp tác giữa Washington và Mạc Tư Khoa.

“Nếu chúng ta nêu tên các chủ đề, thì trước hết, tất nhiên, đó là cuộc khủng hoảng Ukraine. Và chủ đề thứ hai là triển vọng phát triển hợp tác chiến lược giữa Hoa Kỳ và Nga”, ông nói, theo hãng thông tấn nhà nước Nga Ria Novosti.

Nhưng Ushakov vẫn giữ im lặng về các chi tiết, nói rằng ông sẽ chỉ chia sẻ thêm sau khi Witkoff chuyển kết quả cho Tổng thống Trump.

“ Tình hình hiện tại là tổng thống của chúng tôi đã có đầy đủ thông tin, tức là những tín hiệu của chúng tôi, những tín hiệu từ Tổng thống Trump. Và Tổng thống Trump vẫn chưa được thông báo về kết quả của cuộc họp này”, ông Usahkov nói.

“Vì vậy, tôi sẽ không đưa ra bình luận chi tiết hơn. Chúng ta hãy chờ xem khi nào Witkoff có thể tường thuật lại cuộc trò chuyện diễn ra hôm nay với Tổng thống Trump. Sau đó, rõ ràng là chúng ta sẽ có thể bổ sung những bình luận của tôi bằng một nội dung cụ thể hơn”, ông nói thêm.

Tổng thống Trump cho biết đặc phái viên Steve Witkoff đã có cuộc gặp “rất hiệu quả” với Putin, khẳng định có “tiến triển lớn”, mặc dù ông không đưa ra thông tin chi tiết về các chủ đề được thảo luận.

Ushakov và Kirill Dmitriev, nhà lãnh đạo Quỹ đầu tư trực tiếp của Nga, được tường trình đã có mặt trong các cuộc đàm phán.

Witkoff và Putin đã gặp nhau nhiều lần trước đây, và trước đó Witkoff từng bị chỉ trích vì khuếch đại tuyên truyền của Nga.

Các cuộc gặp trước đó của Witkoff với Putin đã bị chỉ trích là quá hòa giải với Mạc Tư Khoa, nhưng vẫn chưa rõ liệu động thái thay đổi quan điểm gần đây của Tổng thống Trump về Ukraine và lời lẽ cứng rắn hơn đối với Putin có ảnh hưởng đến giọng điệu hay lập trường của phái viên của ông trong các cuộc đàm phán hay không.

Tại thời điểm xuất bản, cả Tổng thống Trump và Tòa Bạch Ốc đều không đưa ra tuyên bố nào sau cuộc gặp giữa Witkoff và Putin vào thứ Tư.

[Kyiv Post: Kremlin: Putin, Witkoff Talk Ukraine, Possible Cooperation]
 
Gay go: Nhóm nữ tu ly giáo chiếm tu viện, thề tử thủ. Bức tranh tường Đức Phanxicô lớn nhất thế giới
VietCatholic Media
17:31 07/08/2025


1. Tòa án Tây Ban Nha ra phán quyết có lợi cho Giáo hội trong vụ kiện trục xuất các nữ tu ly giáo

Một tòa án Tây Ban Nha đã ra phán quyết có lợi cho Giáo Hội Công Giáo trong vụ kiện trục xuất các nữ tu dòng Thánh Clara Khó Nghèo ở Belorado, ra lệnh cho các sơ rời khỏi tu viện mà họ đang chiếm giữ bất hợp pháp.

“Phán quyết này giữ nguyên toàn bộ đơn kiện trục xuất được đệ trình vào ngày 16 tháng 9 năm 2024, bởi Đặc Sứ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô với tư cách là bề trên cao cấp, quản trị viên và đại diện pháp lý của tu viện Belorado”, tuyên bố từ Đức Tổng Giám Mục Mario Iceta, cũng là tổng giám mục của Burgos, nơi tu viện tọa lạc, cho biết như trên.

Văn bản nêu rõ rằng phán quyết tuyên bố “việc trục xuất bị đơn, tức là các nữ tu ly giáo, khỏi tài sản nói trên là hợp lý, quyền sở hữu tài sản này phải được trả lại cho nguyên đơn và ra lệnh cho bị đơn phải rời đi, để lại tài sản nói trên được sử dụng tự do và theo ý muốn của nguyên đơn, kèm theo lời đe dọa trục xuất nếu họ không tự nguyện làm như vậy”.

Phán quyết của tòa án cấp dưới, có trụ sở tại thị trấn Briviesca, được đưa ra sau phiên tòa ngày 29 tháng 7 và tuyên bố rằng “bị đơn đã không chứng minh được, như trách nhiệm của họ, rằng họ sở hữu bất kỳ quyền sở hữu nào để biện minh và hợp pháp hóa việc sử dụng tài sản” chống lại yêu cầu rời khỏi của người nắm giữ quyền sở hữu thực tế, “điều này phải dẫn đến việc duy trì hoàn toàn yêu cầu bồi thường.”

Phán quyết cũng nhấn mạnh rằng các nữ tu ly giáo không thể có được tài sản mà họ đang nắm giữ vì đó chỉ là “một tập hợp các cá nhân khác với một pháp nhân không có thẩm quyền” để làm như vậy.

Carlos Azcona thuộc Tòa Giám Mục Burgos cho biết về vụ việc rằng “điều quan trọng cần lưu ý là phán quyết này đề cập đến bản chất của vấn đề”, nêu rõ rằng “cái gọi là hội đồng tu viện” của các cựu nữ tu không gì hơn là “một cuộc tụ họp của những cá nhân không có thẩm quyền để họp như một hội đồng như vậy”.

Do đó, ông lưu ý rằng “thỏa thuận đạt được bởi các nữ tu ly giáo liên quan đến việc chuyển đổi tu viện thành một hiệp hội dân sự sẽ vô hiệu và không thể dùng làm lý do biện minh cho quyền tiếp tục chiếm giữ tu viện”.

Cuối cùng, Azcona làm rõ rằng “phán quyết mà chúng ta được biết hôm qua ra lệnh trục xuất các cựu nữ tu ly giáo không thuộc cộng đồng tu viện. Các nữ tu lớn tuổi vẫn hiệp thông với Rôma là những người duy nhất cấu thành cộng đồng tu viện Belorado, và hiện tại chúng ta không nên đưa ra bất kỳ tuyên bố nào liên quan đến bất kỳ hành động nào liên quan đến họ.”

Trong phán quyết trước đó, tòa án Briviesca đã ấn định ngày 12 tháng 9 là ngày trục xuất.

Các nữ tu dòng Clara Khó Nghèo của Belorado đã bị khai trừ khỏi Giáo Hội Công Giáo vì tội ly giáo vào tháng 6 năm 2024 sau khi tuyên bố vào tháng 5 năm 2024 rằng họ sẽ rời khỏi Giáo Hội Công Giáo và đặt mình dưới sự giám hộ của một giám mục giả đã bị khai trừ.

Vào ngày 13 tháng 5, khi họ tuyên bố rời khỏi Giáo Hội Công Giáo, các nữ tu đã nêu trong một lá thư và một tuyên bố rằng họ công nhận “Đức Giáo Hoàng Piô XII là giáo hoàng tối cao hợp lệ cuối cùng”, một quyết định được giải thích thông qua một văn bản đính kèm dài 70 trang có tựa đề “Tuyên ngôn Công Giáo” tuyên bố rằng “ngai tòa của Thánh Phêrô đang bị bỏ trống và bị chiếm đoạt”.

Vào thời điểm đó, các nữ tu tuyên bố rằng cộng đồng của họ “đang rời khỏi Giáo hội Công đồng mà họ từng thuộc về để trở thành một phần của Giáo Hội Công Giáo chính thống”. Họ phàn nàn rằng trong những năm gần đây đã có “những mâu thuẫn, ngôn ngữ khó hiểu, mơ hồ và lỗ hổng trong giáo lý rõ ràng xuất phát từ ngai tòa của Thánh Phêrô”.

Ngoài hình phạt vạ tuyệt thông, 10 cựu nữ tu còn bị trục xuất khỏi đời sống thánh hiến, đồng nghĩa với việc họ phải rời khỏi tu viện. Tuy nhiên, họ đã không làm vậy và bắt đầu một cuộc chiến pháp lý để được ở lại tu viện.

Vào giữa tháng 9 năm 2024, Đức Tổng Giám Mục Iceta, đặc phái viên giáo hoàng do Đức Giáo Hoàng Phanxicô bổ nhiệm, đã đệ đơn kiện yêu cầu các cựu nữ tu ly giáo rời khỏi tu viện. Ngài đã nhiều lần tuyên bố rằng các cựu nữ tu dòng Clara Khó Nghèo không được phép tiếp tục ở lại tu viện nữa, sau khi họ bày tỏ quyết định không tiếp tục ở lại Giáo Hội Công Giáo.


Source:Catholic News Agency

2. Di tích mới của Á Căn Đình: Bức tranh tường lớn nhất thế giới tôn vinh Đức Thánh Cha Phanxicô

Chỉ cách Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở thành phố La Plata, Á Căn Đình vài mét, là bức tranh tường lớn nhất thế giới dành tặng Đức Giáo Hoàng Phanxicô, do họa sĩ nổi tiếng Martín Ron thực hiện. Tác phẩm này là một thách thức kỹ thuật lớn và hướng đến thông điệp hòa bình, sự kết hợp “giữa đất và trời”, và là một nơi cầu nguyện và hành hương.

Sự nghiệp của Ron trải dài cả về thời gian lẫn không gian, với hơn hai thập niên vẽ tranh và các tác phẩm làm đẹp cho các thành phố trên khắp thế giới. Tại quê hương Á Căn Đình, một đất nước yêu túc cầu bậc nhất, hai trong số những bức tranh tường được bàn tán nhiều nhất của ông là những bức khắc họa hai cầu thủ ngôi sao Diego Maradona và Lionel Messi, chỉ là một vài ví dụ trong số hàng trăm bức tranh mang dấu ấn của ông.

Vào ngày 26 tháng 7, trước sự chứng kiến của các viên chức thành phố và Đức Tổng Giám Mục La Plata, Gustavo Carrara, bức tranh tường cao 50 mét mô tả Đức Thánh Cha Phanxicô, một trong những “thần tượng nổi tiếng” mà Ron được giao nhiệm vụ vẽ, đã được khánh thành và làm phép.

“Là họa sĩ vẽ tranh tường, ngoài việc vẽ các tác phẩm của riêng mình, chúng tôi còn liên tục xác định những nhân vật có lượng người theo dõi đông đảo”, bởi vì tranh tường “vẫn là nghệ thuật đại chúng”, nghệ sĩ này chia sẻ với ACI Prensa, đối tác tin tức tiếng Tây Ban Nha của CNA.

Ông cho biết: “Việc vẽ họ theo những kích thước này và góp phần nâng cao ký ức tập thể về những nhân vật này, đặc biệt là ở những nơi mà nghệ thuật không thể chạm tới, là rất quan trọng”.

Trong trường hợp của Đức Thánh Cha Phanxicô, “ngoài việc ngài là giáo hoàng, người quan trọng nhất ở Á Căn Đình, và vị trí của ngài trong Giáo Hội Công Giáo, ngài vẫn mang dấu ấn của một thần tượng nhạc pop — mặc dù từ 'thần tượng', trong trường hợp này, được đặt trong dấu ngoặc kép — bởi vì ngài có tầm ảnh hưởng đó, ngài vẫn là một thần tượng nhạc pop lành mạnh”, ông lưu ý, bởi vì có điều gì đó về những thần tượng này “liên quan đến cách họ trở thành hiện thân trong văn hóa”.

Nằm tại ngã tư đường 54 và đường 14, bức tranh tường Đức Thánh Cha Phanxicô hoàn thiện khung cảnh vốn đã hùng vĩ của Nhà thờ La Plata. Việc sơn bức tranh này là theo yêu cầu của Hội đồng Thành phố La Plata và là một thách thức kỹ thuật lớn.

Mặc dù ông có toàn quyền lựa chọn hình ảnh đại diện cho vị giáo hoàng người Á Căn Đình mới qua đời, nhưng những hạn chế liên quan đến “khía cạnh khó khăn nhất của dự án, đó là kích thước, hình dạng của bức tường và góc nhìn”.

“Trong trường hợp này, đường đi khá thông thoáng, vì nó nằm ngay cạnh nhà thờ, nhìn ra quảng trường và rất trung tâm. Nhưng hạn chế duy nhất tôi gặp phải, đôi khi lại là yếu tố lọc ra những bức ảnh đẹp nhất, chính là thiết kế đặc thù của tòa nhà này. Tuy cao, nhưng nó lại rất hẹp: 50 mét x 5 mét.”

Chi tiết này có nghĩa là ở nơi đó, “có thể bức ảnh đẹp nhất, bức ảnh có câu chuyện hay nhất để kể, lại không phù hợp về mặt bố cục với địa điểm đó”. Do đó, yêu cầu đầu tiên là “tạo ra một bố cục tăng dần chiều cao và phát triển theo chiều dọc để diễn giải nó từ dưới lên hoặc từ trên xuống”.

“Đó là Đức Giáo Hoàng. Người ta có thể rơi vào lối mòn khi nói: 'Chà, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, ảnh nào cũng được, miễn là ngài trông đẹp và ăn ảnh, và tất cả chúng ta đều nhận ra ngài.' Nhưng nó phải có điều gì đó hơn thế nữa; nó phải kể một câu chuyện,” ông nói.

Hình ảnh được chọn là hình ảnh quen thuộc từ những tháng đầu tiên Đức Phanxicô nhậm chức, trong đó chúng ta có thể thấy ngài mỉm cười và ngước nhìn lên, tay cầm một chú chim bồ câu khi nó bắt đầu dang rộng đôi cánh.

“Đó là một bức ảnh rất dịu dàng. Tôi nghĩ nó là một trong những bức ảnh đẹp nhất. Nó rất nổi tiếng, và nó nói lên nhiều điều vì nó kết nối với thiên đàng, thông qua tất cả biểu tượng chim bồ câu trong đức tin Công Giáo,” ông nhận xét.

Hơn nữa, về mặt kỹ thuật, “nó đã giải quyết được vấn đề về chiều dọc đối với tôi, bởi vì nó bắt đầu bằng áo chùng, cây thánh giá Chúa Chiên Lành, rồi đến cổ, chân dung, và rồi đến cánh tay nhô ra khỏi khung hình rồi lại nhập vào, và phía trên là vương miện với chim bồ câu và bầu trời, hòa quyện với bầu trời thực. Vậy thôi. Trong tiếng lóng, chúng tôi nói rằng chúng tôi 'đã hoàn thành' nó.”

“Khi bạn có tất cả những biến số đó, bạn đã biết rằng tác phẩm sẽ vượt trội, sẽ được bàn tán và sẽ trở thành một địa danh mới của thành phố La Plata”, ông tóm tắt.

Ron cho biết ông kỳ vọng bức tranh tường sẽ trở thành một điểm nhấn trong thành phố, “bởi sức mạnh của hình ảnh, bởi vì nó nói lên con người ông, bởi vì nó là bức tranh đầu tiên, bởi vì nó nằm ở vị trí trung tâm, tại Quảng trường Moreno, ngay cạnh nhà thờ”, ông nói, đồng thời nhấn mạnh rằng “khi những điều như thế này diễn ra, bạn đang góp phần tạo nên những điểm nhấn mới. La Plata còn nhiều điều khác để chiêm ngưỡng và khám phá.”

Ron cho biết ông cảm thấy việc tác phẩm của mình “được ban phước” là một điều tích cực, bởi vì ông tin rằng “ngoài việc ai vẽ nó, điều quan trọng là cách nó tiếp cận mọi người”.

“Tôi là người chịu trách nhiệm cho một tác phẩm, nhưng khi tôi ký tên, tác phẩm thuộc về mọi người,” ông giải thích. “Tất cả chúng tôi, những nghệ sĩ vẽ tranh tường, đều buông bỏ tác phẩm,” đặc biệt là khi đi khắp thế giới, bởi vì “nơi chốn sở hữu nó, mọi người sở hữu nó, và nghệ sĩ có thể sẽ không bao giờ nhìn thấy nó nữa”. Vì vậy, mỗi tác phẩm “giống như một món quà, một sự khai sáng.”

Trong trường hợp này, “thực tế là rất nhiều điều bắt đầu xảy ra xung quanh chúng ta, liên quan đến nhân vật này, là điều tốt nhất có thể xảy ra, không chỉ đối với tôi mà còn đối với mọi người.”

“Việc công trình này được chúc phúc và trong tương lai, nơi này thậm chí có thể trở thành một địa điểm hành hương, đối với một số người, đây là cơ hội để đến gần hơn với Đức Giáo Hoàng Phanxicô, đến La Plata, đến nhà thờ chính tòa, cầu nguyện, xin ngài điều gì đó ở đó, sẽ thật tuyệt vời.”

Ông cho biết: “Tôi muốn ghi lại hình ảnh đó, ngoài chim bồ câu, đó còn là hình ảnh tượng trưng cho hòa bình và chúng ta cần điều đó vào thời điểm này trên thế giới”.

Bức tranh tường được khánh thành với một sự kiện long trọng có sự tham dự của thị trưởng La Plata, Julio Alak; đại diện cộng đồng Công Giáo; đại diện trường học; thành viên các đảng phái chính trị; và các tổ chức khác. Bên cạnh các tiết mục nghệ thuật, sự kiện còn có buổi ban phước lành của Tổng Giám mục địa phương, Gustavo Carrara.

“Thành phố phải là nơi gặp gỡ, nơi hội nhập, nơi những người hàng xóm giúp đỡ nhau cùng bước đi”, vị giám mục nói, hy vọng “rằng hình ảnh Đức Phanxicô sẽ truyền cảm hứng cho chúng ta trong thành phố này để làm việc vì một nền văn hóa gặp gỡ và truyền cảm hứng cho chúng ta trên con đường hướng tới tình huynh đệ và tình bạn xã hội”.


Source:Catholic News Agency

3. Thượng viện xác nhận cựu Chủ tịch CatholicVote Brian Burch làm đại sứ Tòa thánh

Thượng viện đã xác nhận cựu chủ tịch và người sáng lập CatholicVote Brian Burch sẽ làm đại sứ Hoa Kỳ tại Tòa thánh.

Trong cuộc bỏ phiếu với tỷ lệ 49-44 vào ngày 2 tháng 8, Thượng viện đã xác nhận người cha Công Giáo có chín người con đến từ Chicago.

“Tôi vô cùng biết ơn Tổng thống Trump và Thượng viện Hoa Kỳ đã trao cho tôi cơ hội được phục vụ với tư cách là đại sứ Hoa Kỳ tiếp theo tại Tòa Thánh,” Burch phát biểu trong một tuyên bố được chia sẻ với CNA khi phản ứng trước tin tức về việc ông được phê chuẩn. “Là một người Mỹ Công Giáo tự hào, tôi mong muốn được đại diện cho Tổng thống Trump, Phó Tổng thống Vance và Ngoại trưởng Rubio trong cương vị ngoại giao quan trọng này.”

Ông nói thêm: “Tôi xin mọi người Mỹ, đặc biệt là những người Công Giáo, hãy cầu nguyện cho tôi để tôi có thể phục vụ một cách danh dự và trung thành trong cuộc phiêu lưu cao cả phía trước.”

Tin tức về việc xác nhận Burch xuất hiện sau khi các Thượng nghị sĩ Dân chủ ban đầu đã chặn đề cử này, cùng với hơn 50 đề cử khác, vào tháng 5 trước lễ tấn phong Đức Giáo Hoàng Lêô XIV. CatholicVote kể từ đó đã bổ nhiệm Kelsey Reinhardt làm chủ tịch mới.

Burch cho biết trong tuyên bố: “Tôi rất vinh dự và may mắn khi được phục vụ trong vai trò này sau cuộc bầu cử lịch sử của vị giáo hoàng người Mỹ đầu tiên”, đồng thời nói thêm: “Thật trùng hợp đáng chú ý, hoặc điều mà tôi muốn nói là do sự sắp đặt của Chúa, Đức Giáo Hoàng Lêô XIV đến từ Chicago, cũng là quê hương của tôi”.

Ông nói tiếp: “Mối quan hệ giữa Tòa thánh và Hoa Kỳ vẫn là một trong những mối quan hệ độc đáo nhất trên thế giới, với phạm vi toàn cầu và chứng tá đạo đức của Giáo Hội Công Giáo đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm mang lại hòa bình và thịnh vượng.”

Trong tuyên bố đưa ra vào thứ Bảy, Chủ tịch CatholicVote Kelsey Reinhardt cho biết tổ chức này vui mừng ăn mừng việc xác nhận của Burch.

“Trong 17 năm qua, Brian đã trung thành ủng hộ sứ mệnh của CatholicVote là truyền cảm hứng cho người Công Giáo Mỹ sống đức tin trong đời sống cộng đồng,” bà nói. “Chúng tôi tin tưởng rằng anh ta cũng sẽ xuất sắc trong vai trò mới này và mãi mãi biết ơn vì nền tảng mà anh ta đã tạo dựng và ảnh hưởng của anh ta đối với hàng triệu người Công Giáo trên toàn quốc.”

Việc xác nhận Burch đã bị trì hoãn trong nhiều tháng sau khi Thượng nghị sĩ Brian Schatz của Hawaii ra lệnh tạm dừng tất cả các đề cử cho Bộ Ngoại giao, thực hiện lời cam kết phản đối việc chính quyền Tổng thống Trump giải thể Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ, gọi tắt là USAID.

Lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện John Thune, Đảng Cộng hòa-Nam Dakota, đã đệ đơn xin xác nhận Burch vào ngày 31 tháng 7, chấm dứt sự chậm trễ.

Việc đề cử Burch trước đó đã được Ủy ban Đối ngoại thông qua, với 12 Thượng nghị sĩ Cộng hòa của ủy ban bỏ phiếu thuận và 10 Thượng nghị sĩ Dân chủ bỏ phiếu chống. Trong phiên điều trần phê chuẩn, Burch đã phải đối mặt với các câu hỏi về việc cắt giảm viện trợ nước ngoài, thỏa thuận Trung Quốc-Vatican, và cuộc chiến Israel-Hamas đang diễn ra.

Vào thời điểm đó, Burch bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với những nỗ lực của Rubio nhằm “nạp lại và tập trung viện trợ nước ngoài vào những nơi có thể giúp nước Mỹ an toàn hơn, mạnh mẽ hơn và thịnh vượng hơn”. Ông cũng cam kết sẽ khuyến khích Tòa thánh phản đối sự can thiệp của chính phủ Trung Quốc vào việc bầu chọn giám mục Công Giáo.

Về cuộc xung đột giữa Israel và Hamas, Burch cho biết ông tin rằng Tòa thánh “có thể đóng một vai trò rất quan trọng” trong việc chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột và mang lại sự trả tự do cho các con tin Israel còn lại


Source:Catholic News Agency