Phụng Vụ - Mục Vụ
Thi ca suy niệm Chúa Nhật tuần 15C thường niên
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
09:29 07/07/2019
(Luca 10: 25-37)
SỐNG ĐỜI
Làm gì được sống đời đời?
Một thầy thông luật, ngỏ lời xin thưa.
Chúa rằng yêu mến luật xưa,
Hết lòng mến Chúa, cả vừa trí khôn.
Linh hồn hết sức kính tôn,
Anh em thương mến, đồng môn như mình.
Trả lời chính xác đồng tình,
Thi hành trọn vẹn, phúc vinh sống đời.
Ai là bạn hữu trên đời?
Dụ ngôn Chúa dậy, tuyệt vời lắm thay.
Một người bị cướp không may,
Dập vùi đánh đấm, nằm ngay vệ đường.
Không ai giúp đỡ dủ thương,
Tình cờ tư tế, đường trường vượt qua.
Nạn nhân khổ nạn kêu la,
Tiếp theo trợ tế, đi qua không nhìn.
Nằm yên một chỗ van xin,
Có người ngoại giáo, niềm tin không ngờ.
Giúp cho người lạ đang chờ,
Anh em của Chúa, bến bờ yêu thương.
Chúa Giêsu đã kể câu truyện về một người rơi vào tay bọn cướp bị đánh nhừ tử và đã được một người ngoại giáo thương giúp đỡ. Hành vi bác ái của người ngoại giáo là bài học tình liên đới con người với nhau. Qua việc bác ái yêu thương, mọi người trở thành anh chị em với nhau. Chúng ta là đồng loại. Một người ngoại giáo được nêu gương soi cho mọi người về việc bác ái yêu thương.
Anh chị em của tôi là ai? Có thể là những người trong gia đình, họ hàng, cùng quê hương xứ sở, cùng màu da, tiếng nói, dân tộc và cùng tôn giáo. Chúa Giêsu đi vượt qua tất cả các giới hạn đó. Chúa đi vào lòng con người, tình anh chị em được thể hiện qua chính sự yêu thương chia xẻ. Chúng ta cùng có một Cha trên trời, Đấng tạo dựng muôn loài muôn vật. Chúa cho mưa nắng thuận hòa trên hết mọi người. Chúng ta cùng nhận lãnh nguồn sống từ Thiên Chúa. Chúng ta đều mắc nợ nhau, mắc nợ tình yêu mến.
Trong cuộc sống xã hội, con người đã tự đặt ra nhiều ngăn cách với nhau. Họ phân chia lãnh thổ, tạo ra biên giới và xây tường ngăn cách. Các quốc gia dân tộc cũng thế, họ giới hạn bờ cõi, quốc tịch, quyền công dân và các đặc quyền riêng từng nước. Các tôn giáo cũng bị ảnh hưởng trong các tổ chức trần thế, có các tín điều, nghi thức, thủ tục, luật lệ và truyền thống. Con người xã hội còn rất nhiều những phân biệt về văn hóa, niềm tin, tục lệ và thêm sự kỳ thị chủng tộc, mầu da và ngôn ngữ…Tất cả những rào cản đó làm con người tự xa lạ với nhau.
Chúa Giêsu muốn nối kết tất cả mọi người trở thành một gia đình nhân loại. Chúa dậy rằng: Ai nghe và thực hành lời Chúa, người đó là anh chị em và là mẹ của Chúa. Hôm nay Chúa Giêsu mở thêm cánh cửa để mọi người kết thành anh chị em với nhau. Đó chính là việc thực hành bác ái yêu thương. Bác ái không phân biệt kẻ sang và người hèn, kẻ giầu và người nghèo. Bác ái bao trùm tất cả. Chúng ta sống chung và đồng hành với người khác. Đời của chúng ta là một chuỗi mang ơn. Đã có những lần chúng ta sa cơ lỡ bước, những lần chúng ta rơi vào cảnh không nhà, không cửa, đã có những lần chúng ta bơ vơ giữa chợ đời và đã có những bàn tay nhân ái đưa ra phụ giúp chúng ta.
Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không, hãy cho nhưng không. Hãy rộng tay giúp đỡ những kẻ kém may mắn hơn chúng ta là những trẻ mồ côi, người khuyết tật, kẻ phong cùi, người già nua góa bụa và những người không có nơi ăn chốn ở… Những người này là anh chị em của chúng ta. Chính họ đang giúp chúng ta trên đường về nước Chúa.
THỨ HAI, TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
(Mt 10, 34-11, 4).
PHẦN THƯỞNG
Đức tin phấn đấu không ngừng,
Bình an sâu thẳm, vui mừng tâm can.
Niềm tin chọn lựa gian nan,
Hy sinh đau khổ, sẻ san cuộc đời.
Hòa bình đâu mãi gọi mời,
Tâm tình phân rẽ, sống đời tranh đua.
Con trai con gái hơn thua,
Nàng dâu chống mẹ, phân bua phận mình
Gia đinh chia rẽ bất bình,
Người đi theo Chúa, kẻ rình tránh xa.
Ai yêu ba mẹ hơn Cha,
Thật là không xứng, bao la tình Ngài.
Anh em bé mọn bất tài,
Ai mà đón tiếp, lập đài trả công.
Dù là bát nước dòng sông,
Ban cho phần thưởng, xứng công Nước Trời.
THỨ BA, TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
(Mt 11, 20-24).
SÁM HỐI
Chúa vào thăm viếng các Thành,
Gọi mời sám hối, thực hành ái nhân.
Chứng nhân phép lạ nhiều lần,
Không màng hối lỗi, đường trần tách xa.
Cô-ra-zain Bét-sai-đa,
Khốn cho thành thị, vướng sa tội đời.
Nếu là phép lạ đúng nơi,
Ty-rô, Si-đón, đổi đời từ lâu.
Hỡi Ca-pha-ná-um đâu?
Vinh quang tâng bấc, chuốc sầu thương đau.
Trong ngày phán xét mai sau,
Giam cầm hình phạt, khổ đau chất chồng.
Tiên tri rao giảng không công,
Quay đầu ngoảnh mặt, mơ trông thấy gì.
Lắng nghe giáo lý thực thi,
Khoan dung xét xử, từ bi vô ngần.
THỨ TƯ, TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
(Mt 11, 25-27).
ĐƠN SƠ
Các nhà hiền triết khôn ngoan,
Tưởng mình thông suốt, thành toàn nghĩ suy.
Cậy vào tri thức tư duy,
Nhiệm mầu trời đất, phát huy được gì.
Mọi loài thụ tạo là chi?
Chỉ là bình gốm, thực thi số phần.
Chúa thương mạc khải thế nhân,
Con người nhận biết, gian trần ẩn sâu.
Nước Trời ẩn dấu nơi đâu,
Đơn sơ bé mọn, nhiệm mầu tỏa lan.
Khiêm nhường đón nhận ơn ban,
Chúa Con mạc khải, thiên nhan Ngôi Lời.
Giê-su xưng tụng Chúa Trời,
Tỏ mình cho kẻ, sống đời khiêm nhu.
Thành tâm sâu lắng luyện tu,
Tỏa lan ánh sáng, thiên thu rạng ngời.
THỨ NĂM, TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
(Mt 11, 28-30).
BỔ SỨC
Những ai khó nhọc buồn sầu,
Vai mang gánh nặng, nguyện cầu khấn ban.
Chúa thương bổ sức vạn an,
Dìu tay nâng đỡ, ủi an tháng ngày.
Thân mang lấy ách của Thầy,
Cùng Thầy theo học, giãi bày tâm tư.
Hiền lành khiêm nhượng nhân từ,
Tâm hồn thư thái, anh thư cao vời.
Bình an tâm trí rạng ngời,
Sống vui hạnh phúc, cuộc đời thánh ân.
Ách Thầy êm ái vô ngần,
Nhẹ nhàng gồng gánh, bước lần đi theo.
Theo Thầy lối sống khó nghèo,
Hy sinh buông bỏ, tim reo nhẹ nhàng.
Thanh bần nhịn nhục không màng,
Cuộc đời phó thác, mở đàng phúc vinh.
THỨ SÁU, TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
(Mt 12, 1-8).
SA-BÁT
Ngang qua đồng lúa chín vàng,
Tông đồ bứt lúa, vò sàn trong tay.
Những người Biệt Phái lạ thay,
Phạm ngày Sa-bát, lỗi này không tha.
Rình mò bắt bẻ người ta,
Chúa thương bênh đỡ, lỗi sa phạm này.
Trích lời Kinh Thánh phơi bày,
Khi vua Đa-vít, một ngày lả lơi,
Vào trong đền Chúa nghỉ ngơi,
Tùy tùng ăn bánh, không mời đó sao?
Mấy thầy tư tế đi vào,
Luật này vi phạm, cớ sao bậc thầy.
Tôn vinh Chúa Cả nơi này,
Đền thờ tôn kính, chính Thầy Giê-su.
Muôn đời hiện hữu thiên thu,
Lòng nhân Ngài muốn, khiêm nhu sống đời.
THỨ BẢY, TUẦN 15 THƯỜNG NIÊN
(Mt 12, 14-21).
KHIÊM NHU
Mấy người Biệt Phái nơi đây,
Bày mưu hãm hại, đức Thầy Giê-su.
Chúa đành rời bỏ giáo khu,
Tìm nơi thanh vắng, luyện tu lạ thường.
Chữa lành bệnh hoạn trên đường,
Âm thầm ẩn náu, yêu thương chúc lành.
Dịu hiền công chính lòng thanh,
Khiêm nhu rao giảng, thực hành ái nhân.
Tiên tri loan báo toàn dân,
Mọi lời ứng nghiệm, tinh vân sáng ngời.
Giê-su sứ giả từ trời,
Người không dức lác, ở nơi phố phường,
Cũng không nghe tiếng ngoài đường,
Dung hòa khiêm nhượng, hiền lương với người.
Công minh chính đại trong đời,
Mang niềm hy vọng, rạng ngời thế gian.
Yêu thương mọi người
Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
18:16 07/07/2019
Chúa Nhật XV Thường Niên, năm C
Lc 10,25-37
Sống trên đời nếu ai đó không sống, không cảm nghiệm tình yêu thì khó lòng có thể hiểu tình yêu là gì ! Thường người ta thích, cảm tình với người yêu mình, với người thiện cảm hay quan tâm tới mình.Tuy nhiên đối với người môn đệ của Chúa, người Kitô hữu, Chúa đòi hỏi con người chúng ta phải đi xa hơn nữa.Chúa bảo chúng ta phải yêu hết mọi người, chính bản thân mình.yêu thương ngay cả thù địch. Đức Giêsu nói :” Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn…”, đối với người lân cận, chúng ta hãy xem Chúa đưa ra dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu để trả lời vị thông luật cũng như cho mọi người qua muôn thế hệ là “ hãy yêu mến người thân cận như chính bản thân mình “ ! Đúng là một đòi hỏi đầy tình nghĩa, một sự đáp trả đầy tình thương, đầy tình người…
Dụ ngôn về người Samaria nhân hậu mang ý nghĩa cao vời,nhân văn sâu xa và đầy tình yêu thương, bác ái. “ Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp đánh ?”- Chúa đặt câu hỏi với người thông luật và ông đã mau mắn thưa lại với Chúa Giêsu:” Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót “. Chúa Giêsu bảo ông :”…Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy “ ( Lc 10,37 ).
Người Samaritanô nhân hậu đã không chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi, nói mà không làm. Ông đã thi hành đức ái và tình thương tuyệt vời đối với người bị cướp đánh dở sống dở chết. Ông đã nói và hành đông. Ngôn hành đi đôi.Người Pharisêu, người Do Thái đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Họ bóp méo giới luật yêu thương của Thiên Chúa. Đối với họ, họ đã bóp méo luật bác ái, yêu thương, họ đã quá tỉ mỉ, cố bóp méo tình yêu thương. Họ chỉ yêu phe họ, những người yêu họ, thiện cảm với họ. Chúa Giêsu qua dụ ngôn này đã phá đổ rào cản mà các Kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu núp bóng để tránh thực thi luật bác ái yêu thương.
Trong đoạn Tin Mừng này cho chúng ta thấy cái trớ trêu của các thầy Tư tế và Lêvi, những thầy dạy sống yêu thương lại tránh lối khác mà đi khi đối diện với người bị nạn. Sở dĩ các thầy Tư tế và Lêvi tránh người bị nạn ví họ chỉ nói mà không làm, họ sợ bị lây nhiễm, phiền hà, sợ đụng vào xác chết, sợ bọn cướp và nhất là chỉ nói ngoài môi miệng, sống giả hình vv…Còn người Samaritanô dù là người ngoại giáo, không phải là chức sắc, chức việc , nhưng ông đã biết dừng lại để làm cái điều mà tiếng lương tâm đòi buộc là thực thi tình nhân loại, đức thương người.Hành động của người Samaritanô thật cao quý biết bao, vì ông đã vượt qua giới hạn mà các thầy Tư tế và Lêvi phải làm nhưng đã không làm. Vâng, người Samaritanô đã trở nên bạn với người bị nạn. Bởi vì, người ta có thể trở nên huynh đệ, anh em với nhau khi con người biết cảm thông, quảng đại, tha thứ …Vì yêu thương không có nghĩa là cho tha nhân tiền của, vật chất nhưng là sống bác ái với nhau. Thầy Tư tế và Lêvi đã sống hoàn toàn xa lạ đối với người đồng loại, họ đã làm ngơ với người bị nan khi hằng ngày họ vẫn rao giảng sống bác ái yêu thương. Ngôn hành của họ thực bất nhất. Họ nói mà không làm đúng như lời Chúa nói.
Chính vì thế, có sống yêu thương, con người mới hiểu được hai chữ yêu thương. Người Samaritanô nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giêsu.Vì yêu thương nhân loại, Người đã hóa kiếp làm người để sống vì, sống cho nhân loại, sống cho con người. Người đã hủy mình ra không, sống khó nghèo, làm tất cả mọi sự, thậm chí làm những việc vượt quá sự mong đợi của con người miễn sao con người được hạnh phúc.Chúa Giêsu chính là quà tặng tình yêu vô giá Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, cho con người.Tình yêu của Chúa chính là sự tự hiến chết cho ngươi mình yêu :” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15,13 ).
Đạo Công Giáo là Đạo tình yêu. Người Kitô hữu phải thể hiện Đạo Tình Yêu bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình theo gương Đức Giêsu. Mỗi Kitô hữu phải sống tình yêu thương bác ái bằng những việc làm cụ thể, bằng những hành động tỏa sáng. Nếu không, họ chỉ là Kitô hữu giả hiệu như thầy Tư tế và Lêvi đã rao giảng tình thương nhưng không sống tình thương. Yêu thương là tự hiến, hy sinh chết đi cho người yêu được sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã làm gương cho chúng con bằng chính sự hy sinh tự nguyện, dám chết cho nhân loại, cho chúng con để cho tất cả người Chúa yêu được sống. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết sống như Chúa để mọi người khi gặp chúng con họ cũng nhận ra Chúa đang hiện diện trong chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Người Samaritanô nhân hậu là ai ?
2.Tại sao Thầy Tư Tế và Lêvi lại tránh người bị nạn mà đi đường khác ?
3.Yêu thương đối với Chúa Giêsu là gì ?
4.Tại sao không cảm nghiệm yêu thì lại không hiểu được thế nào là yêu ?
5.Đạo Công Giáo là Đạo gì ?
Lc 10,25-37
Sống trên đời nếu ai đó không sống, không cảm nghiệm tình yêu thì khó lòng có thể hiểu tình yêu là gì ! Thường người ta thích, cảm tình với người yêu mình, với người thiện cảm hay quan tâm tới mình.Tuy nhiên đối với người môn đệ của Chúa, người Kitô hữu, Chúa đòi hỏi con người chúng ta phải đi xa hơn nữa.Chúa bảo chúng ta phải yêu hết mọi người, chính bản thân mình.yêu thương ngay cả thù địch. Đức Giêsu nói :” Ngươi phải yêu mến Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn…”, đối với người lân cận, chúng ta hãy xem Chúa đưa ra dụ ngôn về người Samaritanô nhân hậu để trả lời vị thông luật cũng như cho mọi người qua muôn thế hệ là “ hãy yêu mến người thân cận như chính bản thân mình “ ! Đúng là một đòi hỏi đầy tình nghĩa, một sự đáp trả đầy tình thương, đầy tình người…
Dụ ngôn về người Samaria nhân hậu mang ý nghĩa cao vời,nhân văn sâu xa và đầy tình yêu thương, bác ái. “ Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp đánh ?”- Chúa đặt câu hỏi với người thông luật và ông đã mau mắn thưa lại với Chúa Giêsu:” Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót “. Chúa Giêsu bảo ông :”…Hãy đi, và cũng hãy làm như vậy “ ( Lc 10,37 ).
Người Samaritanô nhân hậu đã không chỉ nói trên đầu môi chóp lưỡi, nói mà không làm. Ông đã thi hành đức ái và tình thương tuyệt vời đối với người bị cướp đánh dở sống dở chết. Ông đã nói và hành đông. Ngôn hành đi đôi.Người Pharisêu, người Do Thái đã qui định tình yêu thương đối với người khác. Họ bóp méo giới luật yêu thương của Thiên Chúa. Đối với họ, họ đã bóp méo luật bác ái, yêu thương, họ đã quá tỉ mỉ, cố bóp méo tình yêu thương. Họ chỉ yêu phe họ, những người yêu họ, thiện cảm với họ. Chúa Giêsu qua dụ ngôn này đã phá đổ rào cản mà các Kinh sư, Luật sĩ, Pharisêu núp bóng để tránh thực thi luật bác ái yêu thương.
Trong đoạn Tin Mừng này cho chúng ta thấy cái trớ trêu của các thầy Tư tế và Lêvi, những thầy dạy sống yêu thương lại tránh lối khác mà đi khi đối diện với người bị nạn. Sở dĩ các thầy Tư tế và Lêvi tránh người bị nạn ví họ chỉ nói mà không làm, họ sợ bị lây nhiễm, phiền hà, sợ đụng vào xác chết, sợ bọn cướp và nhất là chỉ nói ngoài môi miệng, sống giả hình vv…Còn người Samaritanô dù là người ngoại giáo, không phải là chức sắc, chức việc , nhưng ông đã biết dừng lại để làm cái điều mà tiếng lương tâm đòi buộc là thực thi tình nhân loại, đức thương người.Hành động của người Samaritanô thật cao quý biết bao, vì ông đã vượt qua giới hạn mà các thầy Tư tế và Lêvi phải làm nhưng đã không làm. Vâng, người Samaritanô đã trở nên bạn với người bị nạn. Bởi vì, người ta có thể trở nên huynh đệ, anh em với nhau khi con người biết cảm thông, quảng đại, tha thứ …Vì yêu thương không có nghĩa là cho tha nhân tiền của, vật chất nhưng là sống bác ái với nhau. Thầy Tư tế và Lêvi đã sống hoàn toàn xa lạ đối với người đồng loại, họ đã làm ngơ với người bị nan khi hằng ngày họ vẫn rao giảng sống bác ái yêu thương. Ngôn hành của họ thực bất nhất. Họ nói mà không làm đúng như lời Chúa nói.
Chính vì thế, có sống yêu thương, con người mới hiểu được hai chữ yêu thương. Người Samaritanô nhân hậu chính là hình ảnh của Chúa Giêsu.Vì yêu thương nhân loại, Người đã hóa kiếp làm người để sống vì, sống cho nhân loại, sống cho con người. Người đã hủy mình ra không, sống khó nghèo, làm tất cả mọi sự, thậm chí làm những việc vượt quá sự mong đợi của con người miễn sao con người được hạnh phúc.Chúa Giêsu chính là quà tặng tình yêu vô giá Thiên Chúa trao tặng cho nhân loại, cho con người.Tình yêu của Chúa chính là sự tự hiến chết cho ngươi mình yêu :” Không có tình yêu nào cao vời cho bằng tình yêu của người hiến mạng sống vì người mình yêu “ ( Ga 15,13 ).
Đạo Công Giáo là Đạo tình yêu. Người Kitô hữu phải thể hiện Đạo Tình Yêu bằng chính đời sống bác ái yêu thương của mình theo gương Đức Giêsu. Mỗi Kitô hữu phải sống tình yêu thương bác ái bằng những việc làm cụ thể, bằng những hành động tỏa sáng. Nếu không, họ chỉ là Kitô hữu giả hiệu như thầy Tư tế và Lêvi đã rao giảng tình thương nhưng không sống tình thương. Yêu thương là tự hiến, hy sinh chết đi cho người yêu được sống.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã làm gương cho chúng con bằng chính sự hy sinh tự nguyện, dám chết cho nhân loại, cho chúng con để cho tất cả người Chúa yêu được sống. Xin cho mỗi người chúng con cũng biết sống như Chúa để mọi người khi gặp chúng con họ cũng nhận ra Chúa đang hiện diện trong chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Người Samaritanô nhân hậu là ai ?
2.Tại sao Thầy Tư Tế và Lêvi lại tránh người bị nạn mà đi đường khác ?
3.Yêu thương đối với Chúa Giêsu là gì ?
4.Tại sao không cảm nghiệm yêu thì lại không hiểu được thế nào là yêu ?
5.Đạo Công Giáo là Đạo gì ?
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Chú Dẫn của Tông Tòa Xá Giải về Ấn Tích Bí Tích
Vũ Văn An
21:35 07/07/2019
Ấn tòa giải tội vốn là cái gai đối với phong trào thế tục hóa. Lịch sử Giáo Hội cho thấy nhiều vị giải tội bị bách hại chỉ vì cái gai này. Nhưng cũng như việc quá khóa đối với các tử đạo người Việt thuở nào, các ngài vẫn một lòng trung tín đối với tín lý bất khả xâm phạm của ấn tín này.
Cái gai ấy càng sắc hơn bao giờ hết với việc bùng nổ nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục. Phong trào thế tục hóa hung hãn hẳn lên đòi phải huỷ bỏ cái thứ thực hành bị họ coi không những lỗi thời mà còn nguy hại đến việc bài trừ nạn giáo sĩ lạm dụng tình dục, như thể việc lạm dụng tình dục trẻ em chỉ là chuyện của các linh mục Công Giáo và trực tiếp do ấn tín tòa giải tội gây ra.
Dù sao, phong trào hung hãn trên cũng làm bối rối một số hàng giáo phẩm. Có những nơi không dám đánh lại, đành đánh bài trì hoãn bằng cách hứa sẽ tham khảo Tòa Thánh.
Dĩ nhiên, Tòa Thánh phải lên tiếng và đầu tháng Bẩy này, Tông Tòa Xá Giải (Apostolic Penitentiary) đã ra một Chú Dẫn (Note) tựa tiếng Ý là Nota della Penitenzieria Apostolica sull’importanza del foro interno e l’inviolabilità del sigillo sacramentale (Chú Dẫn của Tông Tòa Xá Giải về Tầm Quan Trọng của Tòa Trong và Tính Bất Khả Xâm Phạm của Ấn Tín Bí Tích), tái xác nhận tính bất khả xâm phạm tuyệt đối của ấn tín toà giải tội, không có luật trừ.
Ấn tích bí tích, tuyệt đối bất khả xâm phạm
Trong buổi công bố Chú Dẫn trên, ngày 1 tháng 7 năm 2019, tại Vatican, Đức Hồng Y Mauro Piacenza, cầm đầu Tông Tòa, thuật lại chính chỉ thị của Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong diễn văn với các tham dự viên Khóa Tòa Trong do Tông Tòa Xá Giải tổ chức ngày 29 tháng Ba năm 2019. Dịp này Đức Phanxicô liên tiếp nhấn mạnh hai chủ đề hết sức quan trọng đối với thần học, giáo luật và thực hành của Giáo Hội, rất xa lạ với công luận hiện thời: tính thánh thiêng của tòa trong và tính bất khả xâm phạm của ấn tín bí tích.
Ở đầu bài diễn văn, Đức Giáo Hoàng, trước hết, nhắc nhở bản chất thánh thiêng của tòa trong, lãnh vực thân mật của mối tương quan giữa Thiên Chúa và tín hữu, một điều không luôn được hiểu biết và bảo vệ thích đáng, cả trong chính cộng đồng Giáo Hội. Ngài nói:
“Và tôi xin nói thêm, bên ngoài bản văn, một lời về hạn từ ‘tòa trong’. Đây không phải là kiểu nói tầm phào: nó được phát biểu một cách nghiêm túc: tòa trong là tòa trong,và nó không thể tiết lộ ra “bên ngoài”. Và sở dĩ tôi nói điều này vì tôi đã để ý một số nhóm trong Giáo Hội, các đại biểu, các bề trên, ta hãy nói như thế này, trộn lẫn hai điều và căn cứ vào tòa trong mà đưa ra các quyết định ở toà ngoài. Xin vui lòng, đấy là một tội! Đấy là một tội chống lại phẩm giá của người tin tưởng vị linh mục, và giãi bầy tình huống của họ để xin ơn tha thứ, thế mà sau đó, điều này được sử dụng để tổ chức các vấn đề cho nhóm hay có lẽ cho phong trào... Tôi không biết, tôi chỉ đoán thế, thậm chí có lẽ cho cả một hội dòng mới. Tôi không biết. Nhưng tòa trong là tòa trong. Và nó là điều thánh thiêng. Tôi muốn nói điều này vì tôi lo lắng đối với nó”.
Sau đó, Đức Thánh Cha nhắc lại tính bất khả xâm phạm của ấn tín bí tích, một bảo thảm không thể miễn chấp của bí tích hòa giải:
“Hòa giải chính là một ơn phúc mà sự khôn ngoan của Giáo Hội luôn bảo vệ bằng mọi khả năng tinh thần và luật pháp của mình, với ấn tín bí tích. Dù không luôn được não trạng hiện đại hiểu rõ, nó là điều không thể miễn chước đối với tính thánh thiêng của bí tích và đối với tự do lương tâm của hối nhân là người bất cứ lúc nào cũng phải nắm chắc rằng cuộc đàm luận bí tích sẽ mãi được giữ bí mật của tòa giải tội, giữa lương tâm mở ra của họ để đón nhận ơn thánh, và Thiên Chúa, qua sự trung gian cần thiết của vị linh mục. Ấn tín bí tích là điều không thể miễn chước và không quyền lực nhân bản nào có quyền tài phán đối với nó, cũng như không thể đưa ra bất cứ đòi hỏi nào đối với nó”.
Theo Đức Hồng Y, Tông Tòa Xá Giải, vì trong suốt 8 thế kỷ nay vốn là Tòa chịu trách nhiệm các vấn đề liên quan đến tòa trong, nên biết rất rõ giá trị khôn dò của tính bí mật bí tích, tính kín đáo, và tính bất khả xâm phạm của lương tâm. Khi viết Chú Dẫn này, Tòa muốn tự đặt mình vào thế phục vụ Đức Thánh Cha, Giáo Hội và mọi người thiện chí, tái khẳng định tầm quan trọng của chúng và cổ vũ việc hiểu rõ hơn các ý niệm này, các ý niệm mà hiện nay xem ra bị hiểu lầm cách rộng rãi, thậm chí còn bị chống đối nữa.
Tài liệu này bắt đầu với việc nhận xét rằng trong xã hội ngày nay, một xã hội có tính cậy nhờ trung gian cao độ, việc phát triển kỹ thuật và việc thực thi các phương tiện truyền thông, nói chung, không tương ứng với cam kết tương tự để tìm sự thật, nhưng đúng hơn, chỉ tương ứng với ý muốn bệnh hoạn là phổ biến tin tức, bất kể đúng sai, được khuếch đại hay giảm thiểu tùy theo sở thích. Ngày nay, mọi sự đều được phơi bày, mọi điều phải được biết đến. “Thực vậy, bằng cách nại đến phán đoán của công luận như tòa án cuối cùng, việc thông tin đủ loại, kể cả thuộc các phạm vi tư riêng nhất và kín đáo nhất, một thông tin nhất định (...) sẽ xúi giục, hoặc ít nhất ủng hộ các phán đoán khinh suất, thứ thông tin này quả đã gây hại một cách bất hợp pháp và không tài nào sửa chữa được danh thơm tiếng tốt của người khác”. Thái độ phổ quát hóa này cũng đã được phản ảnh lên Giáo Hội đến nỗi có người mong trật tự luật lệ của Giáo Hội phải phù hợp theo trật tự nhà nước nơi họ sinh sống nhân danh điều được coi là chính xác và minh bạch.
Trong bối cảnh ấy, Tông Tòa Xá Giải thấy khẩn cấp phải nhắc nhớ, trước nhất, tính bất khả xâm phạm tuyệt đối của ấn tín bí tích, dựa trên thiên luật và không chấp nhận bất cứ ngoại lệ nào. Linh mục giải tội, hành động in persona Christi capitis (trong con người làm đầu là Chúa Kitô), biết tội lỗi của hối nhân “không phải trong tư cách con người, mà trong tư cách Thiên Chúa”, theo kiểu nói thời danh của Thánh Tôma Aquinô ('non ut homo sed ut Deus'). Vì lý do này, linh mục được kêu gọi bảo vệ tính bí mật của nội dung của việc Xưng Tội không những qua việc “trung thành” với hối nhân, mà, hơn nữa, vì tôn trọng tính thánh thiêng của bí tích.
Theo nghĩa này, điều chủ yếu là phải nhấn mạnh đến tính khôn sánh của ấn tín giải tội so với bí mật nghề nghiệp của một số nhóm chuyên nghiệp (bác sĩ, dược sĩ, luật sư, v.v.) để ngăn chặn luật pháp thế tục áp dụng vào ấn tín này, vốn có tính bất khả xâm phạm, các ngoại lệ được áp dụng một cách hợp pháp vào việc giữ bí mật nghề nghiệp.
Việc giữ bí mật giải tội không phải là một nghĩa vụ được áp đặt từ bên ngoài, mà đúng ra là một yêu cầu nội tại của bí tích và, như thế, không thể bị hủy tiêu dù là bởi hối nhân. Hối nhân không nói với vị giải tội như một con người, nhưng nói với Thiên Chúa, do đó, yêu sách một điều chính đáng chỉ thuộc về Thiên Chúa quả là một phạm thánh. Nó liên quan đến việc bảo vệ chính bí tích, được Chúa Kitô thiết lập làm bến bờ an toàn cho việc cứu rỗi những con người tội lỗi. Nếu niềm tin vào ấn tín bị phản bội, tín hữu sẽ không được khuyến khích tiếp cận bí tích Hòa giải, điều này rõ ràng sẽ dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng cho các linh hồn. Mặt khác, chính mối quan tâm đối với salus animarum (phần rỗi các linh hồn) này đã khiến Giáo hội phải thiết lập ra các hình phạt nghiêm khắc nhất đối với những người vi phạm ấn tín (xem điều 1388 Bộ Giáo Luật 728, § 1, số 1 và điều 1456 Bộ Giáo Luật các Giáo Hội Đông Phương). Thứ hai, Chú Dẫn này xem xét phạm vi pháp lý-luân lý của những hành vi của tòa trong diễn ra ở bên ngoài bí tích Giải tội. Ví dụ cổ điển là việc linh hướng. Cả trong những trường hợp này, giáo luật bảo đảm một sự kín đáo đặc biệt cho cuộc trò chuyện linh hướng, liên quan đến phạm vi riêng tư và thân mật nhất của tín hữu để lắng nghe và biện phân thánh ý Thiên Chúa. Vì vậy, chẳng hạn, vào dịp được nhận chịu chức thánh, không những cấm không được hỏi ý kiến vị giải tội mà cả ý kiến của vị linh hướng của ứng viên, để tránh bất cứ sự lạm quyền khả hữu nào.
Sau cùng, điểm cuối cùng của Chú Dẫn liên quan đến các “loại” khác của bí mật nằm ngoài phạm vi của tòa trong. Theo nghĩa này, nguyên tắc của quyền tự nhiên được giữ bí mật đã được tái khẳng định, “trừ các trường hợp ngoại lệ trong đó việc giữ bí mật chắc chắn sẽ gây tổn hại rất nghiêm trọng cho người đã thổ lộ nó, với người đã tiếp nhận nó hoặc với người thứ ba và trong đó, việc tổn hại rất nghiêm trọng chỉ có thể tránh được bằng cách tiết lộ sự thật (Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, số 2491). Nói chung hơn, khi truyền đạt hoặc che giấu sự thật, Chú Dẫn đề xuất như một tiêu chuẩn chung “cuộc sống của một người phải phù hợp với luật yêu thương anh em, để ý tới điều tốt và an ninh, tôn trọng cuộc sống riêng tư và lợi ích chung”. Cần lưu ý rằng bản văn của Chú Dẫn không thể và không hề tìm cách trở thành một biện minh hay một hình thức khoan dung đối với các trường hợp bỉ ổi lạm dụng do các thành viên của hàng giáo sĩ vi phạm. Không có sự thỏa hiệp nào được chấp nhận khi đụng đến vấn đề cổ vũ việc bảo vệ các vị thành niên và những người dễ bị tổn thương, và ngăn chặn và chống lại mọi hình thức lạm dụng, theo tinh thần của điều Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không ngừng nhắc lại và gần đây đã quy định bằng Tự Sắc Vos estis lux mundi (Các con là ánh sáng thế gian, ngày 7 tháng 5 năm 2019).
Bằng cách công bố một Chú Dẫn về tầm quan trọng của tòa trong và tính bất khả xâm phạm của ấn tín bí tích, Tòa Xá Giải có niềm xác tín tuyệt đối rằng “việc bảo vệ ấn tín bí tích và tính thánh thiêng của việc xưng tội không bao giờ có thể cấu thành một hình thức đồng lõa với tội ác; ngược lại, nó đại diện cho thuốc giải độc thực sự duy nhất chống lại tội ác đang đe dọa con người và toàn thế giới, chúng là khả thể thực sự để phó thác cho tình yêu của Thiên Chúa, để mình được biến đổi và được biến đổi bởi tình yêu này, học hỏi để tương ứng với nó một cách cụ thể bằng chính mạng sống của mình.
Nội dung
Tòa Thánh mới chỉ công bố Chú Dẫn bằng tiếng Ý, chưa có bản tiếng Anh để chúng tôi có thể trưng dẫn. Tuy nhiên theo Catholic News Service, thì vì “thiên kiến tiêu cực đáng lo ngại” chống lại Giáo Hội Công Giáo, Đức Giáo Hoàng đã truyền phải công bố bản Chú Dẫn, để kêu gọi các linh mục bảo vệ ấn tín bí tích dù phải hy sinh mạng sống.
Lời kêu gọi ấy không quá đáng khi ở California và Úc đã có những đạo luật buộc các linh mục vi phạm ấn tín này.
Theo Catholic News Service, Chú Dẫn viết rằng “việc vị giải tội bảo vệ ấn tín bí tích, nếu cần, thậm chí tới chỗ phải đổ máu, không phải chỉ là một hành vi bắt buộc phải trung thành với hối nhân nhưng còn hơn thế nữa: đây là một chứng tá cần thiết, một việc tử đạo, đối với quyền cứu rỗi độc đáo và phổ quát của Chúa Kitô và Giáo Hội của Người”.
Bản văn đặt vấn đề giữ ấn tín bí tích vào bối cảnh rộng lớn hơn của sự “thoái hóa (involution) văn hóa và luân lý” khiến người ta hết khả năng “nhận ra và tôn trọng” các yếu tố có tính yếu tính của nhân sinh và đời sống trong Giáo Hội.
Bản văn cũng nói rằng, quá nhiều khi, “phán đoán của công luận” được nại ra làm tòa án cao cấp nhất và người ta cảm thấy tự do được công bố hay phát tuyến bất cứ điều gì, lấy cớ là để công chúng làm thẩm phán mà không quan tâm chi tới lương tâm, danh tiếng hay quyền của người ta được tự bênh vực mình.
Bản Chú Dẫn viết: “Trong bối cảnh ấy, dường như có sự xác nhận thiên kiến tiêu cực đáng lo ngại nào đó chống lại Giáo Hội Công Giáo” cả vì “các căng thẳng có thể thấy bên trong hàng giáo phẩm lẫn do hậu quả các tai tiếng gần đây về lạm dụng do một số thành viên hàng giáo sĩ vi phạm một cách ghê tởm”.
Nó cho rằng thiên kiến trên “đôi khi diễn dịch thành ‘đòi hỏi’ vô lý buộc Giáo Hội, trong một số vấn đề, phải bắt hệ thống pháp luật của riêng mình phù hợp với dân luật của nhà nước trong đó Giáo Hội sinh hoạt như là cách duy nhất ‘để bảo đảm sự trung thực và liêm chính’”.
Giáo Hội Công Giáo, thực sự, “lúc nào cũng bảo vệ an toàn ấn tích bí tích với hết sức mạnh tinh thần và pháp chế của mình. Nó thiết yếu đối với tính thánh thiêng của bí tích và tự do lương tâm của hối nhân”.
Khi cử hành bí tích hoà giải, linh mục hành động không phải như chính ngài mà “trong con người của Chúa Kitô”, nên không những không được tự do phổ biến bất cứ điều gì trong tòa giải tội cho bất cứ ai, kể cả hối nhân bên ngoài toà giải tội, mà còn “buộc phải dẹp bỏ bất cứ hoài niệm bất chợt nào về nó”.
Nói đến việc hối nhân xưng với linh mục một tội ác (crime), bản văn Chú Dẫn cho hay vị giải tội nên nói cho hối nhân biết các quyền của họ và các bước thực tế họ có thể làm với cả các thẩm quyền dân sự lẫn Giáo Hội trong việc báo cáo tội ác này. Đối với những trường hợp xưng một tội ác như thế này, bản văn nói rằng “không bao giờ được đặt lên hối nhân, như một điều kiện để được tha tội, nghĩa vụ phải tường trình với nền công lý dân sự”.
Bản Chú Dẫn nói rất rõ: “bất cứ hành động chính trị nào của sáng kiến lập pháp nhằm vi phạm tính bất khả xâm phạm của ấn tín bí tích đều là một cuộc tấn công không thể nào chấp nhận được chống lại quyền tự do của Giáo Hội, một thực thể không tiếp nhận tính hợp pháp của nó từ các nhà nước cá thể, mà từ Thiên Chúa”.
Phát xuất từ xếp lớn
Nhận định về bản Chú Dẫn, John Allen cho hay thông thường khi nói đến một thứ đe dọa từ bên ngoài như áp lực đòi hủy bỏ ấn tín bí tích, Vatican nhắm hai cử tọa. Cử tọa đầu tiên dĩ nhiên là các tác giả của đe dọa kia; cử tọa thứ hai không ai khác mà là chính các Giám Mục Công Giáo và các nhà lãnh đạo khác, cho họ thấy xếp lớn mong họ giữ vững lập trường.
Allen giải thích rằng năm 2014, khi Đức Phanxicô chấm dứt tư cách bộ trưởng Bộ Giáo Sĩ của Đức Hồng Y Mauro Piacenza, ai cũng nghĩ ngài tách mình ra khỏi đường hướng của Đức Gioan Phaolô II và Đức Bênêđíctô XVI. Vì Đức Hồng Y Piacenza vốn được đào tạo nơi lò duy truyền thống của Đức Hồng Y Giuseppe Siri, người từng thời danh được gọi là “vị giáo hoàng không bao giờ được bầu” vì duy truyền thống so với Đức Gioan XXIII năm 1958.
Lui vào bóng tối một thời gian, nay tái xuất mạnh mẽ với một Chú Dẫn rất thẳng rất thực để bảo vệ ấn tín bí tích giữa lúc có những cuộc tấn công vũ bão chống lại nó ở California và Úc Châu do cuộc khủng hoảng giáo sĩ lạm dụng tình dục, Đức Hồng Y hẳn phải dựa vào uy thế của xếp lớn, người vốn nổi danh trong tư cách “Giáo Hoàng của Lòng Thương Xót”, hết sức đề cao bí tích xưng tội, nơi lòng thương xót có ý nghĩa hơn cả. Chính vì thế, việc đầu tiên của Đức Hồng Y Piacenza là trích dẫn lời Đức Phnaxicô nói trong khóa học về Tòa Trong do Tòa Xá giải tổ chức đầu năm nay. Nhiều người vẫn trách cứ Đức Phnaxicô cố tình nói mơ hồ, nhất là trong Amoris Laetitia để ai muốn hiểu thế nào thì hiểu, nhưng ở đây, lời ngài hết sức rõ ràng và cương quyết, không thể giải thích cách nào khác hơn là: ấn tín bí tích là điều không thể vi phạm do bất cứ quyền lực nào của con người. Những người muốn thử gân cốt Giáo Hội không ai có thể giải thích cách khác hơn thế, nên nếu họ buộc các linh mục phải vi phạm ấn tín này, là họ chống lại cả một Giáo Hội, đúng hơn, theo quan điểm Công Giáo, họ phản lại Thiên Chúa như công thức “Non ut homo sed ut Deus” của Thánh Tôma Aquinô đã chứng tỏ. Họ cũng độc tài không kém các hoàng đế xưa của Rôma hay của Việt Nam trong việc bách hại tôn giáo, vẫn là dưới một chiêu bài: hoàng đế Rôma là tư cách thần thánh của chính ngôi vị họ, hoàng dế Việt Nam là đạo lý Khổng Mạnh, họ bây giờ là “bảo vệ vị thành niên”.
Nhưng ở một bình diện khác, theo Allen, đây cũng là một bài học cho những đầu gối đang run rẩy trước áp lực thế tục muốn vi phạm điều vốn là cốt lõi để người ta chạy tới với lòng thương xót của Thiên Chúa trong bí tích hòa giải. Vì đây không hẳn là lời của Đức Hồng Y Piacenza mà chính là lời của xếp lớn.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Thánh Lễ Và Cuộc Rước Kiệu Lớn Của Giáo Phận Münster
Trầm Hương Thơ
21:10 07/07/2019
Thánh Lễ Và Cuộc Rước Kiệu Lớn Của Giáo Phận Münster
Sáng hôm nay vào lúc 10.00 Đức Giám Mục chính tòa Felix Genn với đôi lời chào mừng tất cả các giáo dân trong cũng như ngoài Giáo Phận đang hiện diện nơi đây. Từ nhà thờ thánh Lamberti này, Linh mục Tuyên Úy Phêrô Nguyễn Quân của người Việt Nam năm nay cũng hân hạnh được gởi đôi lời chào trước cuộc rước kiệu đến mọi người trong vai trò Cộng đoàn Việt Nam năm nay được cộng tác một phần trong Ban Tổ Chức.
Cuộc rước kiệu lớn tại Giáo Phận Münster này đã có truyền thống từ năm 1382. Vào thời điểm đó một trận dịch hạch khủng khiếp đã gây ra cho hơn 8.000 người tử vong ở Münster. Rồi lại thêm một cuộc hỏa hoạn lớn đã tàn phá mất một phần của thành phố.
Sau hai biến cố kinh hoàng đó đã xảy ra cho thành phố Münster Đức Giám Mục, giáo sĩ và tất cả giáo dân chỉ còn chạy đến với Thiên Chúa để cầu xin sự bình an đến cho con người.
Từ đó Đức Giám Mục sở tại và giáo dân đã sám hối và hứa rằng hằng năm có một ngày cầu đặc biệt cho sự bình an của con người. Khởi đầu những cuộc rước luôn vào thứ hai trước ngày kính thánh Margareti 13 tháng 7 hàng năm, nhưng từ năm 1993 giáo phận Münster mừng đại lễ kỷ niệm kỷ niệm 1200 năm, ĐGM Giáo phận đã quyết định dời sớm hơn vào Chúa Nhật đầu tiên của tháng bảy.
Xem hình
Cuộc rước luôn bắt đầu từ nhà thờ giáo xứ thánh Lamberti đi bộ xuyên qua trung tâm thành phố, đến Nhà thờ thánh Phaolô là thánh Bổn Mạng của nhà thờ chính tòa Giáo Phận. Đức Giám Mục luôn có mặt trong đoàn rước để dâng thánh lễ và kết thúc bằng việc chầu Thánh Thể.
Năm nay Cộng đồng Công Giáo Việt Nam được tham dự mộ bài đọc thánh thư, Dâng của lễ và đóng góp một bản nhạc sau khi rước lễ. Ca đoàn tổng hợp của Việt Nam năm nay rất hùng hậu với bản nhạc "Tán Tụng Hồng Ân" rất hay đã được Đức Giám Mục và mọi người khen ngợi và rất chú ý. Đây là một niềm hãnh diện cho Cộng đồng Công Giáo Việt Nam chúng ta.
Trong bài giảng năm nay Đức Giám Mục chính tòa Felix Genn chia sẻ Lời Chúa. Ngài nhấn mạnh về "Lòng Tin Tưởng". Làm sao tạo được lòng tin tưởng nếu chúng ta không sống chân thật như lời Chúa dậy. Làm sao tạo được lòng tin tưởng nếu trong Giáo hội còn xảy ra nhiều sự lạm dụng như, tài chánh, tính dục, chức vụ, và cách sống của ta sai giáo lý của Chúa. v.v...
Thánh lễ kết thúc sau khi Đức Giám Mục chủ sự chầu Thánh Thể.
Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam hôm nay đi rất đông. Sau thánh lễ một số bận công việc phải về, số còn lại theo lời mời trong Thông Tin Mục Vụ đến hội trường Nhà thờ St. Gottfried, để cùng nhau dùng bữa và sinh hoạt chung. Một ngày thật nhiều ý nghĩa và tốt đẹp.
Ngày lễ và rước lớn này là một truyền thống đạo đức tốt đẹp, mong rằng ngày một đông đảo hơn lên trong việc tham dự của cộng đồng người Việt Nam chúng ta.
Mong rằng trong tương lai người Công Giáo Việt Nam sẽ ngày một tham gia đông đảo hơn.
Trầm Hương Thơ
Sáng hôm nay vào lúc 10.00 Đức Giám Mục chính tòa Felix Genn với đôi lời chào mừng tất cả các giáo dân trong cũng như ngoài Giáo Phận đang hiện diện nơi đây. Từ nhà thờ thánh Lamberti này, Linh mục Tuyên Úy Phêrô Nguyễn Quân của người Việt Nam năm nay cũng hân hạnh được gởi đôi lời chào trước cuộc rước kiệu đến mọi người trong vai trò Cộng đoàn Việt Nam năm nay được cộng tác một phần trong Ban Tổ Chức.
Cuộc rước kiệu lớn tại Giáo Phận Münster này đã có truyền thống từ năm 1382. Vào thời điểm đó một trận dịch hạch khủng khiếp đã gây ra cho hơn 8.000 người tử vong ở Münster. Rồi lại thêm một cuộc hỏa hoạn lớn đã tàn phá mất một phần của thành phố.
Sau hai biến cố kinh hoàng đó đã xảy ra cho thành phố Münster Đức Giám Mục, giáo sĩ và tất cả giáo dân chỉ còn chạy đến với Thiên Chúa để cầu xin sự bình an đến cho con người.
Từ đó Đức Giám Mục sở tại và giáo dân đã sám hối và hứa rằng hằng năm có một ngày cầu đặc biệt cho sự bình an của con người. Khởi đầu những cuộc rước luôn vào thứ hai trước ngày kính thánh Margareti 13 tháng 7 hàng năm, nhưng từ năm 1993 giáo phận Münster mừng đại lễ kỷ niệm kỷ niệm 1200 năm, ĐGM Giáo phận đã quyết định dời sớm hơn vào Chúa Nhật đầu tiên của tháng bảy.
Xem hình
Cuộc rước luôn bắt đầu từ nhà thờ giáo xứ thánh Lamberti đi bộ xuyên qua trung tâm thành phố, đến Nhà thờ thánh Phaolô là thánh Bổn Mạng của nhà thờ chính tòa Giáo Phận. Đức Giám Mục luôn có mặt trong đoàn rước để dâng thánh lễ và kết thúc bằng việc chầu Thánh Thể.
Năm nay Cộng đồng Công Giáo Việt Nam được tham dự mộ bài đọc thánh thư, Dâng của lễ và đóng góp một bản nhạc sau khi rước lễ. Ca đoàn tổng hợp của Việt Nam năm nay rất hùng hậu với bản nhạc "Tán Tụng Hồng Ân" rất hay đã được Đức Giám Mục và mọi người khen ngợi và rất chú ý. Đây là một niềm hãnh diện cho Cộng đồng Công Giáo Việt Nam chúng ta.
Trong bài giảng năm nay Đức Giám Mục chính tòa Felix Genn chia sẻ Lời Chúa. Ngài nhấn mạnh về "Lòng Tin Tưởng". Làm sao tạo được lòng tin tưởng nếu chúng ta không sống chân thật như lời Chúa dậy. Làm sao tạo được lòng tin tưởng nếu trong Giáo hội còn xảy ra nhiều sự lạm dụng như, tài chánh, tính dục, chức vụ, và cách sống của ta sai giáo lý của Chúa. v.v...
Thánh lễ kết thúc sau khi Đức Giám Mục chủ sự chầu Thánh Thể.
Cộng đoàn Công Giáo Việt Nam hôm nay đi rất đông. Sau thánh lễ một số bận công việc phải về, số còn lại theo lời mời trong Thông Tin Mục Vụ đến hội trường Nhà thờ St. Gottfried, để cùng nhau dùng bữa và sinh hoạt chung. Một ngày thật nhiều ý nghĩa và tốt đẹp.
Ngày lễ và rước lớn này là một truyền thống đạo đức tốt đẹp, mong rằng ngày một đông đảo hơn lên trong việc tham dự của cộng đồng người Việt Nam chúng ta.
Mong rằng trong tương lai người Công Giáo Việt Nam sẽ ngày một tham gia đông đảo hơn.
Trầm Hương Thơ
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 8/7/2019: Niềm vui của Công Giáo Anh - Đức Hồng Y Newman được tuyên thánh
Giáo Hội Năm Châu
20:28 07/07/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Thông cáo của Phòng Báo Chí Tòa Thánh ngày 1 tháng Bẩy cho biết như sau:
Lúc 10 giờ sáng thứ Hai 01 tháng Bẩy, trong buổi đọc kinh giờ Ba, Đức Thánh Cha đã chủ sự Công nghị Hồng Y tại sảnh đường Clementine trong dinh Tông Tòa về việc tuyên thánh cho cá Chân Phước sau.
Chân Phước John Henry Newman, Hồng Y của Giáo Hội Công Giáo, đấng sáng lập dòng thuyết giảng thánh Philiphê Neri tại Anh.
Chân phước Giuseppina Vannini, (nhủ danh Giuditta Adelaide Agata), đấng sáng lập dòng Nữ tử thánh Camillo.
Chân phước Maria Teresa Chiramel Mankidiyan, đấng sáng lập dòng nữ tu Thánh Gia.
Chân phước Dulce Lopes Pontes (nhũ danh Maria Rita), thuộc dòng Nữ Thừa Sai Đức Mẹ Vô Nhiễm nguyên tội Mẹ Thiên Chúa.
Chân phước Marguerite Bays, trinh nữ, dòng Ba thánh Phanxicô Assisi.
Trong Công Nghị này, Đức Thánh Cha đã truyền ghi tên các Chân Phước nêu trên vào sổ bộ các Thánh vào ngày 13 tháng Mười tới đây.
2. Phê chuẩn các phép lạ nhờ lời cầu bầu của Chân Phước Hồng Y John Newman
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Tưởng cũng nên biết thêm trước đó, hôm thứ Tư 13 tháng Hai, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn sắc lệnh công nhận phép lạ do lời cầu bầu của Đức Hồng Y John Henry Newman. Biến cố này dọn đường cho việc nâng vị Chân Phước Hồng Y lên hàng Hiển thánh.
Nói cách khác, Đức Hồng Y John Henry Newman sẽ là một vị thánh mới cho nước Anh kể từ khi Thánh John Ogilvie được Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục tuyên thánh vào năm 1976.
Đức Hồng Y Newman, sinh vào năm 1801, đã được Đức Giáo Hoàng Benedictô XVI tuyên Chân Phước vào năm 2010. Ngài vốn là một linh mục Anh giáo, đã thành lập Hiệp hội sống tinh thần Chúa Kitô tại Đại học Oxford, và sau này Ngài đã tuyên xưng Đức tin Công Giáo và hiệp thông hoàn toàn với Giáo Hội Công Giáo vào năm 1845.
Chân Phước John Henry Newman là một trong những người cải đạo từ Anh Giáo sang Công Giáo rất nổi bật vào thế kỷ 19.
Ngài đã là một nhà thần học Anh giáo nổi tiếng và có thế giá trước khi quyết định thành lập Phong trào Oxford để đưa Anh Giáo về với nguồn gốc Công Giáo của mình. Chính ngài cũng đã cải đạo sang Công Giáo vào năm 1845 ở tuổi 44. Việc cải đạo từ Anh Giáo sang Công Giáo của ngài làm nhiều người bàng hoàng. Ngài mất đi rất nhiều bạn và người chị gái của ngài từ đó cho đến chết đã không nhìn mặt ngài nữa.
Đức Giáo Hoàng Lêô thứ 13 đã tấn phong Hồng Y cho linh mục Newman vào ngày 121879, mặc dù ngài không phải là một giám mục và không bao giờ trở thành giám mục. Theo như thông lệ, một vị không phải là giám mục sẽ được tấn phong giám mục trước khi được phong Hồng Y. Nhưng theo thỉnh cầu của ngài, ngài không muốn được tấn phong giám mục.
Ngài qua đời ở tuổi 89. Trong lễ an táng của ngài, hơn 15,000 người đã xếp hàng dài trên đường phố để tiễn đưa ngài đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Các tác phẩm phong phú của ngài đã khiến nhiều người kêu gọi các vị Giáo Hoàng tuyên bố ngài là một Tiến sĩ Hội Thánh.
Hồ sơ phong thánh cho ngài được bắt đầu vào năm 1958 và ngài được Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô tuyên dương là vị Tôi tớ Chúa vào năm 1991 sau khi nhìn nhận các nhân đức anh hùng của ngài.
3. Hai phép lạ của Đức Hồng Y John Henry Newman
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Tháng 12 năm ngoái 2108, Tổng Giáo Phận Chicago và Bộ Tuyên Thánh đã công nhận định một phép lạ do lời cầu bầu của Chân Phước Hồng Y John Henry Newman. Biến cố này dọn đường cho việc tuyên thánh dành cho ngài như vừa xảy ra trong Công Nghị ngày 1 tháng Bẩy.
Phép lạ được công nhận liên quan đến một phụ nữ trẻ vừa tốt nghiệp Đại Học Luật Khoa tại Chicago và vừa kết hôn trong một cuộc hôn nhân thật mỹ mãn với người mà cô rất thương mến. Trước viễn ảnh của một sự nghiệp tươi sáng, và một mái gia đình hạnh phúc, năm 2015, cô rơi vào một tình cảnh đáng âu lo khi bác sĩ báo cho cô biết cái thai của cô có vấn đề rất nghiêm trọng đến tính mạng.
Cô và gia đình chạy đến kêu cầu cùng Chân Phước Hồng Y Newman. Sau những lời cầu xin thật sốt sắng của cô và gia đình, các bác sĩ đang điều trị cho cô nhận thấy cô hoàn toàn hồi phục và báo cáo rằng họ không có lời giải thích nào về mặt y khoa trước sự phục hồi đột ngột và kỳ diệu của cô.
Đức Cha Philip Egan, Giám Mục Portsmouth hân hoan loan báo tin này và bày tỏ niềm tin của ngài rằng “Chân Phước Newman sẽ được tuyên thánh chậm lắm là vào cuối năm tới vì tất cả mọi chuyện đều diễn ra tốt đẹp.”
Năm 2010, sau khi Bộ Tuyên Thánh công nhận phép lạ thứ nhất của ngài chữa lành cho phó tế Jack Sullivan, một người Mỹ, bị liệt cột sống, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã tuyên phong Chân Phước cho Đức Hồng Y Newman ở Birmingham.
4. Vatican khẳng định: Các linh mục không được tiết lộ ấn tín Tòa Giải Tội trong bất kỳ tình huống nào
Vatican đã tuyên bố rằng các linh mục không bao giờ có thể được tiết lộ những gì các ngài nghe được trong tòa giải tội.
Phản ứng với các đề xuất pháp lý yêu cầu các linh mục báo cáo về các lạm dụng tình dục nghe được trong tòa giải tội, Tòa Ân Giải Tối Cao đã ra thông báo chính thức vào hôm thứ Hai 1 tháng Bẩy, nói rằng trong khi Giáo hội cam kết chống lại lạm dụng, ấn tín Tòa Giải Tội không thể được đánh đồng với các bí mật nghề nghiệp khác, như các bí mật nghề nghiệp của luật sư và khách hàng, là những điều có thể được tiết lộ trong một số trường hợp.
Tuyên bố của Vatican khẳng định rằng Giáo hội sẽ làm mọi cách “để ngăn chặn luật pháp thế tục được áp dụng lên ấn tín tòa giải tội, là điều bất khả xâm phạm.”
Thông báo của Tòa Ân Giải Tối Cao, đã được ký bởi Đức Hồng Y Mauro Piacenza, Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao, nhấn mạnh rằng “Bí mật [trong tòa giải tội] không phải là một nghĩa vụ được áp đặt từ bên ngoài, nhưng là một yêu cầu nội tại của bí tích và, do đó, không thể bị giải thể ngay cả bởi hối nhân.” Nói cách khác, cho dù chính người xưng tội đồng ý cho cha giải tội nói ra những gì nghe được trong tòa giải tội, ngài vẫn bị buộc phải giữ bí mật không được tiết lộ những gì đã nghe được.
5. Giáo Hội tại Mễ Tây Cơ bày tỏ sự bất mãn trước đường hướng của tân chính phủ
Ðức Hồng Y Carlos Aguiar Retes, Tổng Giám Mục Mexico City cho biết: “Chúng tôi bày tỏ sự phẫn nộ về nạn bạo lực và tình trạng bất an đang đè nặng trên đất nước”.
Ngài kêu gọi tân chính phủ tại nước này thay đổi đường hướng trong cuộc chiến chống nạn tội phạm và các băng đảng ma túy. Chính phủ mới của Mễ Tây Cơ do tổng thống tả phái Andres Manuel Lopez Obrador lãnh đạo đã điều hành đất nước từ 6 tháng qua.
Tổng thống Lopez Obradoer, trong cuộc tranh cử, đã tuyên bố sẽ thi hành một chính sách mới trong cuộc chiến bài trừ nạn tội phạm. Ông Lopez hứa rất nhiều trong thời kỳ tranh cử, nhưng thực tế cho thấy ông không làm được bao nhiêu. Các thống kê trong xã hội dân sự do các tổ chức phi chính phủ thực hiện và cả các thống kê chính thức của nhà cầm quyền đều cho thấy những tội ác như bắt cóc, tấn công, bạo lực và tống tiền, tiếp tục gia tăng.
Ðức Hồng Y Carlos Aguiar Retes nhấn mạnh rằng: “Chính phủ cần phải thay đổi và thích ứng chiến lược để chống lại các tổ chức bất lương và nạn tội phạm.”
Va chạm mới nhất giữa tổng giáo phận và nhà cầm quyền Mễ Tây Cơ là vụ một linh mục bị bắt vì nhà cầm quyền cáo buộc ngài tội giết người chỉ một tuần sau khi chính ngài đã cử hành thánh lễ an táng cho người quá cố.
Các quan chức tư pháp ở thủ đô Mexico City bắt giữ Cha Francisco Javier Bautista vào ngày 19 tháng Sáu và buộc tội ngài đã giết chết anh Leonardo Avendano Chavez, 29 tuổi, vừa tốt nghiệp thạc sĩ tại một trường đại học Công Giáo.
Chiều ngày 11 tháng Sáu, anh Avendano đã đến giáo xứ Cristo Salvador, nghĩa là Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, để gặp cha Bautista trong một chương trình tìm hiểu về đời sống thánh hiến.
Hai ngày sau đó, anh Avendano được tìm thấy đã chết trong chiếc xe hơi của mình.
Trong cuộc họp báo công tố viện giải thích rằng nhà chức trách tình nghi cha Bautista vì những lời khai của ngài với cảnh sát thiếu nhất quán.
Anh chị em giáo dân đã phản ứng rất mạnh, và đã tổ chức nhiều cuộc biểu tình tại thủ đô Mexico City vì cho rằng với những lý do mong manh như thế mà kết tội cha Bautista giết người thì quá vô lý. Cha Bautista được tin là mới gặp gỡ anh Chavez lần đầu tiên và chẳng có động lực nào để giết anh ta.
Anh chị em giáo dân cho biết họ rất quý mến cha Bautista vì sự tận tụy trong sứ vụ của ngài. Ngoài công việc coi sóc giáo xứ, ngài cũng là một nhà trừ quỷ của tổng giáo phận Mexico City.
Tổng giáo phận đã ra một tuyên bố vào ngày 19 tháng 6, nói rằng giới hữu trách của Giáo Hội đang theo dõi chặt chẽ các sự kiện này.
6. Chính phủ Maurice tài trợ cuộc viếng thăm của Ðức Thánh Cha.
Ðức Thánh Cha sẽ viếng thăm 4 nước Mozambique, Madagascar, đảo Maurice và La Réunion từ ngày 4 đến 11 tháng 9 năm 2019.
Chính phủ đảo Maurice đã quyết định tài trợ 1 triệu 400 ngàn mỹ kim cho cuộc viếng thăm của Ðức Thánh Cha Phanxicô tại nước này vào thượng tuần tháng 9 năm 2019.
Thủ tướng kiêm bộ trưởng tài chánh Pravind Jugnauth, cho biết như trên khi trình bày ngân sách dự chi 2019-2020. Một nửa ngân khoảng nói trên sẽ được dùng để thực hiện con lộ mới nối liền La Butte, Port-Louis với Ðền thánh Maria Nữ Vương Hòa Bình, nơi ngài sẽ cử hành thánh lễ ngày 9 tháng 9 năm 2019. Nếu con đường này được thực hiện đúng tiến độ, Ðức Thánh Cha có thể dùng chiếc popamobile đi thẳng tới Quảng trường Ðức Mẹ Nữ Vương Hòa Bình từ cảng tu bổ.
Số tiền tài trợ cũng được dùng để tu bổ mộ của chân phước Linh Mục Jacques-Désiré Laval (1803-1864), dòng Thừa Sai Chúa Thánh Linh, tông đồ tại đảo Maurice, được phong chân phước ngày 29 tháng 4 năm 1979 tại Quảng trường Thánh Phêrô ở Roma.
Theo chương trình sơ khởi, ngày 9 tháng 9 năm 2019, Ðức Thánh Cha Phanxicô sẽ viếng thăm phần mộ của Chân phước Laval.
7. Tòa Thánh ban hành đường hướng mục vụ cho Trung Quốc.
Tòa Thánh đã ban hành đường hướng mục vụ cho Trung Quốc. Bản đường hướng này được Tòa Thánh ban hành vì trong thời gian qua, nhiều Giám Mục tại Trung Quốc đã xin Tòa Thánh chỉ dẫn về điều này, đặc biệt vì khi đăng ký với chính quyền, các giáo sĩ Công Giáo phải ký một văn kiện tuyên bố chấp nhận nhiều điều trong đó có nguyên tắc độc lập, tự trị và tự quản lý của Giáo Hội tại Trung Quốc, mặc dù Nhà Nước Trung Quốc đã cam kết tôn trọng đạo lý Công Giáo.
Tòa Thánh cho biết sẽ tiếp tục yêu cầu Nhà Nước Trung Quốc làm sao để việc đăng ký dân sự này diễn ra trong sự bảo đảm tôn trọng lương tâm và xác tín sâu xa về Công Giáo của những người liên hệ. Chỉ như thế mới có thể tạo điều kiện cho sự hiệp nhất Giáo Hội cũng như để các tín hữu Công Giáo góp phần vào thiện ích của xã hội Trung Quốc.
Sự độc lập của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc không tách rời khỏi Ðức Giáo Hoàng và Giáo Hội hoàn vũ
Văn kiện của Tòa Thánh nhắc lại sự kiện Hiến pháp Cộng hòa nhân dân Trung Quốc, trong điều khoản số 36, chính thức tuyên bố bảo vệ tự do tôn giáo. Tiếp đến, Hiệp định tạm thời ký kết ngày 22 tháng 9 năm 2018 giữa Tòa Thánh và Trung Quóc nhìn nhận vai trò đặc thù của Người Kế vị Thánh Phêrô, nên điều hợp lý là Tòa Thánh hiểu và giải thích sự độc lập của Giáo Hội Công Giáo tại Trung Quốc không theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa là không tách rời khỏi Ðức Giáo Hoàng và Giáo Hội hoàn vũ, nhưng chỉ có nghĩa tương đối về lãnh vực chính trị, như đang xảy ra tại các nơi trên thế giới trong các quan hệ giữa Ðức Giáo Hoàng và một Giáo Hội địa phương, hoặc giữa các Giáo Hội địa phương với nhau.
Ðàng khác, khi khẳng định rằng trong căn tính Công Giáo không thể có sự tách biệt với Người Kế Vị Thánh Phêrô, không có nghĩa là biến một Giáo Hội địa phương thành một thực thể xa lạ với xã hội và văn hóa của một nước trong đó Giáo Hội sống và hoạt động.
Một sự kiện khác nữa là trong những năm qua, nhiều Giám Mục Trung Quốc thụ phong không có sự ủy nhiệm của Tòa Thánh đã xin và được hòa giải với Người Kế Vị Thánh Phêrô, vì thế ngày nay tất cả các Giám Mục Trung Quốc đều được hiệp thông với Tòa Thánh, và họ ước muốn ngày càng hội nhập với các Giám Mục Công Giáo trên thế giới.
Văn kiện cho biết Tòa Thánh mong đợi thái độ mới từ tất cả mọi người trong việc đối phó với những vấn đề thực hành của Giáo Hội. Tòa Thánh tiếp tục đối thoại với chính quyền Trung Quốc về vấn đề đăng ký dân sự của các Giám Mục và Linh Mục để tìm ra một công thức, khi đăng ký dân sự, không những tôn trọng luật pháp Trung Quốc nhưng cả đạo lý Công Giáo nữa.
Dưới ánh sáng những điều nói trên, Tòa Thánh khẳng định rằng nếu một Giám Mục hoặc Linh Mục quyết định đăng ký dân sự nhưng văn bản tuyên ngôn phải ký khi đăng ký với nhà nước không tôn trọng đức tin Công Giáo, thì giáo sĩ ấy minh xác trên giấy tờ rằng khi ký tuyên ngôn này, mình sẽ không hề sai lỗi với các nguyên tắc đạo lý Công Giáo. Nếu không thể ghi những điều đó trên giấy tờ vì giáo sĩ ấy chỉ tuyên bố bằng miệng, và nếu có thể thì làm trước một chứng nhân. Dầu sao đi nữa, giáo sĩ ấy nên minh xác với vị Bản quyền ý hướng của mình khi đăng ký. Ðiều này phải được hiểu với mục đích duy nhất là hỗ trợ thiện ích của cộng đoàn giáo phận và làm tăng trưởng trong tinh thần hiệp nhất, cũng như việc loan báo Tin Mừng thích hợp với những đòi hỏi mới của xã hội Trung Quốc và việc quản lý tài sản của Giáo Hội trong tinh thần trách nhiệm.
Ngoài ra, Tòa Thánh tuyên bố tôn trọng những người không thể đăng ký với nhà nước theo những đòi hỏi nói trên. Tòa Thánh gần gũi với họ và xin Chúa giúp đỡ họ bảo tồn tình hiệp thông với các anh chị em đồng đạo, và kể cả khi đứng trước những thử thách mà mỗi người có thể phải đương đầu”.
8. Thư Ðức Thánh Cha gửi Hội Ðồng Giám Mục Ðức về “con đường công nghị”.
Ðức Thánh Cha Phanxicô ủng hộ con đường công nghị của Hội Ðồng Giám Mục Ðức nhưng nhắn nhủ Giáo Hội tại nước này đừng tiến hành một mình, trái lại quan tâm đến Giáo Hội hoàn vũ và duy trì sự hiệp nhất của Giáo Hội.
Hồi tháng 3 năm 2019, sau nhiều tranh luận sôi nổi, 66 Giám Mục chính tòa và Giám Mục Phụ Tá của 22 giáo phận tại Ðức, trong khóa họp tại thành phố Lingen đã quyết định thực hiện một “con đường công nghị có tính chất bó buộc”. Trong tiến trình này sẽ có nhiều diễn đàn về các đề tài như quyền bính, luân lý tính dục, và lối sống của các linh mục.
Trong thời gian qua ở Ðức, trước bối cảnh những vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục trẻ vị thành niên trong quá khứ, nhiều người lên tiếng yêu cầu bãi bỏ luật độc thân giáo sĩ, bãi bỏ chức linh mục dành riêng cho nam giới, thay đổi luân lý tính dục cho đến nay của Giáo Hội Công Giáo. Cũng có một diễn đàn về vấn đề vai trò của phụ nữ trong Giáo Hội.
Với sự cộng tác của các giáo dân và chuyên gia, các Giám Mục muốn minh định và làm sáng tỏ lập trường về vấn đề này.
Trong thư gửi Hội Ðồng Giám Mục Ðức công bố hôm 29 tháng 06 năm 2019, Ðức Thánh Cha cho biết ngài muốn lá thư này là một đóng góp vào hành trình công nghị do các Giám Mục đề ra, nhưng ngài không trả lời những câu hỏi cụ thể mà các Giám Mục nêu lên. Ðức Thánh Cha không cống hiến các giải pháp, không cấm thảo luận, nhưng theo đường lối của Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm, ngài nhắc nhở vị trí trung tâm của Chúa Thánh Linh.
Thư của Ðức Thánh Cha có đoạn viết:
“Mỗi khi một cộng đoàn Giáo Hội tìm cách tự mình ra khỏi các vấn đề của mình, và chỉ tín thác vào sức riêng, vào các phương pháp và trí thông minh của mình, thì rốt cuộc Giáo Hội ấy chỉ gia tăng và nuôi dưỡng những tai ương mà họ muốn vượt qua”.
Cùng với các Giám Mục Ðức, Ðức Thánh Cha đau buồn nhận thấy có sự gia tăng hao mòn và suy giảm đức tin với tất cả những gì kèm theo cho về mặt tinh thần, xã hội và văn hóa, sự suy đồi ấy không dễ dàng tìm ra giải pháp mau lẹ.
Ðức Thánh Cha nhắc nhở Giáo Hội Công Giáo Ðức hãy can đảm, đồng thời đừng rơi vào những cạm bẫy dọc đường, mà ngài gọi là cám dỗ, trong đó có cám dỗ căn cội là tin rằng câu trả lời tốt nhất cho nhiều vấn đề và những thiếu sót trong cuộc sống là tổ chức lại sự việc, thay đổi nó, điều chỉnh lại để làm cho đời sống Giáo Hội dễ dàng hơn, bằng cách thích ứng với những tiêu chuẩn thời đại hoặc của một nhóm nào đó..
Trong thời gian qua, Hội Ðồng Giám Mục Ðức bắt đầu tiến trình hoạch định những bước trên “Con đường công nghị” nhắm cải tổ Giáo Hội Công Giáo tại nước này.
Hôm 24 tháng 6 năm 2019, các Giám Mục của 27 giáo phận toàn quốc đã nhóm họp tại thủ đô Berlin với mục đích vừa nói.
Tuyên bố hôm 20 tháng 6 năm 2019, Ðức Cha Heiner Koch, Tổng Giám Mục Berlin, nói với khoảng 6 ngàn tín hữu rằng thật là điều tốt khi các Giám Mục họp tại một thành phố tượng trưng cho sự can đảm bắt đầu lại và lên đường.
Theo thời khóa biểu dự tính: các đại diện của Hội Ðồng Giám Mục Ðức và của Ủy ban trung ương giáo dân Công Giáo Ðức sẽ nhóm họp vào đầu tháng 7 năm 2019 để bàn luận về chương trình nghị sự, về con số và đề tài các diễn đàn.
Cuộc họp lớn đầu diện sẽ diễn ra vào trung tuần tháng 9 năm 2019 với khoảng 60 tham dự viên, để xác định chung kết chi tiết thời khóa biểu, các đề tài, các tham dự viên. Tiến trình công nghị sẽ chính thức bắt đầu vào Chúa Nhật 1 tháng 12 năm 2019.
TV Thời Sự Giáo Hội và Thế Giới Ngày Nay, ngày 7/7/2019: Sứ mạng của Giáo hội là mang niềm vui, bình an và chữa lành.
VietCatholic Network
21:18 07/07/2019
Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:
1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật ngày 7/7/2019
2- Ý cầu nguyện trong Bảy của Đức Thánh Cha Phanxicô: Sự Chính trực của Công lý.
3- Đức Thánh Cha nói, vai trò của Giáo Hội Ukraine là đưa ra lời chứng về niềm hy vọng Kitô giáo.
4- Đức Thánh Cha tiếp Tổng Thống Putin của Nga.
5- Thỏa thuận hợp tác giữa bệnh viện Bambino Gesù và Bộ Y tế của Nga.
6- Làn sóng các Linh Mục di cư giữa các Châu Lục.
7- Các Linh mục suy tư về thánh Phanxicô và Tháng Truyền giáo.
8- Một nghiên cứu cho thấy: Những người đi lễ nhà thờ thì sống lâu hơn.
9- Các Giám Mục Hoa Kỳ phản ứng về cuộc điều tra dân số.
10- Ngày Giới Trẻ Toàn Quốc của Cuba được tổ chức tại các Giáo Phận.
11- Tổng Hội Nghị dòng Đa Minh được tổ chức tại Xuân Lộc.
12- Việt Nam phản đối báo cáo Tự do Tôn giáo của Hoa Kỳ.
13- Giới thiệu Thánh Ca: Nguyện Cầu Mẹ Việt Nam.