Ngày 09-05-2024
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 10/05: Buồn vui trong hy vọng – Lm. Giuse Đỗ Tuấn Anh, CSsR
Giáo Hội Năm Châu
01:29 09/05/2024

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an,

Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Thật, Thầy bảo thật anh em: anh em sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng. Anh em sẽ lo buồn, nhưng nỗi buồn của anh em sẽ trở thành niềm vui. Khi sinh con, người đàn bà lo buồn vì đến giờ của mình; nhưng sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian. Anh em cũng vậy, bây giờ anh em lo buồn, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em, lòng anh em sẽ vui mừng; và niềm vui của anh em, không ai lấy mất được. Ngày ấy, anh em không còn phải hỏi Thầy gì nữa.”

Đó là lời Chúa
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:00 09/05/2024

4. Bình thường mà phạm tội thì Thiên Chúa sẽ phạt khi họ suy niệm, khiến họ xấu hổ khi suy niệm, nếu họ sẵn sàng chịu đau khổ vì Chúa, thì Thiên Chúa sẽ an ủi họ trong khi họ suy niệm, khiến họ suy niệm với ý vị lâu dài hơn.

(Thánh Nearus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:06 09/05/2024
51. KHĂN MẠNG TRẮNG

Có một anh học trò cũ (1) không đội mũ khi đi thi, quan khảo thí hỏi anh ta duyên cớ tại sao, anh ta nói:

- “Bởi vì nhà nghèo nên không có khăn mạng trên đầu.”

Quan khảo thí nói đùa:

- “Nhìn miệng mày râu dài cũng có thể kết thành cái khăn đầu vậy !”

Anh học trò thi không đậu ấy trả lời:

- “Cái mũ mới không hợp với khăn mạng trắng ạ.”

(Tiếu lâm)

Suy tư 51:

Ngày xưa các học trò đều đội mũ trên đầu rất nho nhã, ngày nay các học trò có những bộ đồng phục rất đẹp mắt; nhưng dù đội mũ và mặc đồng phục thì vẫn cứ thi rớt như thường, vì cái mũ hay bộ đồng phục không làm cho học trò giỏi giang hơn…

Có những người tướng dáng rất đạo mạo như ông cụ non, nhưng tâm hồn thì chứa đầy những gian xảo mưu mô muốn hạ bệ anh em vì một miếng ăn ở chỗ tốt hơn; lại có những người áo mão cân đai đường hoàng bệ vệ, nhưng trong bụng thì chứa cả bồ dao găm…

Nhà nghèo đương nhiên là không sắm được cái mũ để đội như người ta nên không đáng trách, nhưng làm linh mục mà tâm không thật, dạ không ngay thì đáng trách vạn phần, bởi vì linh mục có đủ áo mão cân đai lại giàu có hơn người khác về nghĩa đen cũng như nghĩa bóng.

Cái áo không làm nên ông thầy tu cũng như cái mũ không làm nên cho anh học trò thì đậu, nhưng cái áo chùng thâm của linh mục và áo dòng của các tu sĩ nam nữ là biểu hiệu của một tâm hồn sẵn sàng chết cho đời với cuộc sống ngay thẳng và đơn sơ của mình.

Đức Chúa Giê-su xuống thế làm người không áo mũ cân đai, nhưng trần truồng trong hang đá ở Bê-lem; Ngài cũng không được mặc áo gấm thêu hoa để liệm khi chết, nhưng chết trần trụi trên thập giá, và ơn cứu độ của Ngài thì che kín cả trên trời dưới đất...

(1) Người học trò không thi đậu tú tài.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


---------

http://www.vietcatholic.org

https://www.facebook.com/jmtaiby

http://www.nhantai.info
 
Khúc dạo đầu cho một niềm vui!’.
Lm. Minh Anh
14:05 09/05/2024
KHÚC DẠO ĐẦU CHO MỘT NIỀM VUI
“Đừng sợ! Cứ nói đi, đừng làm thinh; vì Thầy ở với anh!”.

Trong cuốn “Cuộc Nổi Loạn Thánh”, “A Holy Rebellion”, Thomas Ice & Robert Dean đặt vấn đề, “Khi nào chúng ta hành động như Satan?”. Câu trả lời đơn giản là “Khi bạn và tôi đặt lợi ích bản thân trên lợi ích của Chúa Kitô; và khi chúng ta coi khổ đau và thử thách như một thất bại, bế tắc, thay vì coi đó như là khúc dạo đầu cho một niềm vui!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu có cùng một quan điểm với hai tác giả trên. Thông điệp “Thầy ở với anh!” dành cho Phaolô - bài đọc một - cũng là thông điệp Ngài gửi cho các môn đệ mọi thời; trong đó, có bạn và tôi! Rằng, khổ đau, bắt bớ, chỉ là ‘khúc dạo đầu cho một niềm vui!’.

Khi căn dặn, “Cứ nói đi, đừng làm thinh!”, Chúa Giêsu muốn xác nhận những gì rồi đây Phaolô sẽ chịu là có thật! Việc người ta sẽ tìm cách bịt miệng Phaolô là có thật! Việc chống lại lời Phaolô rao giảng là có thật! Vì thế, Ngài trấn an, “Vì Thầy ở với anh; không ai tra tay hại anh được!”. Qua đó, Chúa Giêsu cho biết bách hại, tù đày Phaolô và các môn đệ Giêsu mọi thời sẽ gánh chịu, là những gì phải đến trước; và nó là ‘khúc dạo đầu cho một niềm vui’, niềm vui được nên giống Thầy. Và còn hơn thế, nó là niềm vui ‘Thiên Chúa được nhận biết’. Dân thành này rồi sẽ tuyên xưng cùng với dân các thành khác; rằng, “Thiên Chúa là Vua toàn cõi địa cầu” như Thánh Vịnh đáp ca xác tín!

Khẳng định của Chúa Giêsu về những gì phải đến sẽ đến càng rõ nét hơn với bài Tin Mừng. Ngài thừa nhận những gì đang ở phía trước, “Các con sẽ khóc lóc và than van, còn thế gian sẽ vui mừng”. Nhưng Ngài kịp hứa, “Thầy sẽ gặp lại các con!”; nghĩa là, “Thầy sẽ ở cùng các con, với các con, trong các con!”. Và không thể tin được! Chúa Giêsu dùng một hình ảnh sống động, thú vị, tưởng như Ngài từng trải nghiệm, “Người phụ nữ sinh con rồi, thì không còn nhớ đến cơn gian nan nữa, bởi được chan chứa niềm vui vì một con người đã sinh ra trong thế gian”. Ngài bảo đảm rằng, sự hiện diện thường xuyên của Ngài sẽ giúp chúng ta vượt qua bất cứ nghịch cảnh nào; bất cứ điều gì xảy ra cũng chỉ là ‘khúc dạo đầu cho một niềm vui’ lớn hơn, niềm vui có Ngài!

Anh Chị em,

“Vì Thầy ở với anh!”. Đó cũng là điều Thiên Chúa thường hứa với những ai Ngài gọi để trao một sứ vụ. Khi sai Môsê đi giải phóng dân, ông hỏi một đàng, “Con là ai mà dám ra trước Pharaô?”; Chúa trả lời một nẻo, “Ta sẽ ở cùng ngươi!” - một tên mới của Môsê! Trong biến cố Truyền Tin, “Mừng vui lên, Đấng đầy ân sủng, ‘Chúa ở cùng bà!’”. Mỗi Thánh Lễ, chúng ta chào nhau, “Chúa ở cùng anh chị em!”, “Và ở cùng cha!”. “Có Chúa ở cùng”, một sự thật đáng vui mừng! Ngài là Emmanuel ở cùng chúng ta như đã ở với Con Một Giêsu trọn cuộc sống dương thế. Vì thế, bao khốn khổ, đớn đau Chúa Giêsu chịu, kể cả cái chết trên thập giá… tất cả chỉ là ‘khúc dạo đầu cho một niềm vui’ lớn hơn, “Niềm Vui Phục Sinh”. Và còn hơn thế, “Niềm Vui Phúc Kiến” bên Cha đời đời, vốn đã tiềm tàng cuối chân trời mà chúng ta đang hướng về - Chúa Nhật Chúa Thăng Thiên!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con xác tín, Chúa đang cầm trên tay triều thiên long lanh của con; vì thế, mọi ‘thánh giá mềm cứng’ đời con chỉ là ‘khúc dạo đầu cho một niềm vui’ lớn hơn!”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Logo và khẩu hiệu chuyến tông du Châu Á của Đức Thánh Cha vào tháng 9/2024
Thanh Quảng sdb
00:21 09/05/2024
Logo và khẩu hiệu chuyến tông du Châu Á của Đức Thánh Cha vào tháng 9/2024

Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tông du Indonesia, Papua New Guinea, Timor Leste và Singapore, và Vatican vừa công bố logo và chủ đề cho chuyến viếng thăm này, đây là một chuyến tông du dài nhất từ trước đến nay của Đức Thánh Cha.

(Tin Vatican - Joseph Tulloch)

Văn phòng Báo chí Tòa Thánh công bố logo và chủ đề chính thức cho chuyến tông du châu Á sắp tới của Đức Thánh Cha.

Chuyến tông du bao gồm các điểm dừng chân ở Indonesia, Papua New Guinea, Timor Leste và Singapore – dự kiến diễn ra từ ngày 2 đến ngày 13 tháng 9 năm 2024.

Điểm dừng đầu tiên: Indonesia

Đức Thánh Cha sẽ đến Thủ đô Jakarta, Indonesia vào ngày 3 tháng 9, và thăm viếng đến ngày 6.

Logo của chuyến viếng thăm này có hình ảnh Đức Thánh Cha giơ tay ban phép lành, đứng trước con vật “Garuda” màu vàng, một con đại bàng linh thiêng, được mô tả để gợi nhớ đến loại vải “batik” truyền thống của Indonesia.

Tấm thảm là bản đồ Indonesia, một quần đảo được đặc trưng bởi sự đa dạng về sắc tộc và các nhóm xã hội, ngôn ngữ, văn hóa và tín ngưỡng.

Chủ đề của chuyến Tông du là ‘Đức tin – Huynh đệ – Bác ái’.

Chủ đề thăm Papua New Guinea là: “Xin dạy chúng con cầu nguyện”

Tiếp theo, Đức Thánh Cha sẽ đến Papua New Guinea, nơi ngài sẽ ở lại cho đến ngày 9 tháng 9.

Trọng tâm của logo cho chuyến thăm này là một cây thánh giá, được mô tả bằng màu sắc nhằm gợi lên cảnh bình minh và hoàng hôn ở Papua New Guinea.

Trên cây thánh giá có hình Chim thiên đường, tượng trưng cho Papua New Guinea.

Khẩu hiệu của Chuyến tông du này là “Cầu nguyện”, lấy cảm hứng từ lời cầu xin của các môn đệ với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin dạy chúng con cầu nguyện” (Lc 11:1).

Timor-Leste và giá trị của hội nhập văn hóa

Từ Papua New Guinea, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đến Timor Leste và ở lại đó cho đến ngày 11 tháng 9.

Trung tâm logo của chuyến tông du này, chúng ta thấy Đức Thánh Cha Phanxicô giơ tay ban phép lành. Đằng sau ĐTC là quả địa cầu, từ đó hiện ra bản đồ của Timor Leste.

Trên đây, được viết theo hình vòng cung, là khẩu hiệu của chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha, “Xin cho đức tin của anh em trở nên nền tảng văn hóa cho anh em”, một lời kêu gọi người dân Timor sống đức tin theo văn hóa và truyền thống của họ.

Singapore: Niềm hy vọng cho các Kitô hữu trong khu vực

Điểm dừng chân cuối cùng của Đức Thánh Cha là đảo quốc Singapore mà ngài sẽ viếng thăm từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 9.

Logo cho chuyến tông du này là một cây thánh giá tỏa sáng, lấy cảm hứng từ ngôi sao dẫn đường cho các đạo sĩ, nhờ Bí tích Thánh Thể và năm cánh sao biểu tượng cho cờ Singapore.

Hai bên Thánh Giá là khẩu hiệu của chuyến Tông du: “Hiệp Nhất – Hy Vọng”.

“Sự hiệp nhất” diễn tả sự hiệp thông và hài hòa giữa các tín hữu, cả trong Giáo hội lẫn trong bối cảnh các mối quan hệ xã hội và gia đình.

Trong khi đó, “Hy vọng” gợi ý rằng Chuyến tông du sẽ là ngọn hải đăng hy vọng cho các Kitô hữu trong khu vực, đặc biệt cho những người đang trải qua sự phân biệt đối xử và bách hại.
 
Tuyên úy đại học về các cuộc biểu tình: Những người này đang tìm kiếm ý nghĩa
Vũ Văn An
14:41 09/05/2024

Tạp chí The Pillar ngày 7 tháng 5 năm 2024 cho đăng bài phỏng vấn linh mục tuyên úy đại học Wisconsin, về các cuộc biểu tình phò Palestine tại đại học Hoa Kỳ trong những ngày gần đây (https://www.pillarcatholic.com/p/college-chaplain-on-protests-these):



Trên khắp nước Mỹ, các trường đại học đã gây chú ý khi sinh viên và người biểu tình dựng trại ở những địa điểm nổi bật, kêu gọi các trường đại học thoái vốn khỏi các khoản đầu tư liên quan đến Israel hoặc tách khỏi các mối liên hệ với Israel để phản đối hành động quân sự đang diễn ra của Israel ở Gaza.

Khi các cuộc biểu tình diễn ra và một số trường đại học dường như không biết phải phản ứng thế nào, The Pillar đã liên hệ với các linh mục, tuyên úy địa phương tại Trung tâm Newman hoặc các trung tâm sinh viên Công Giáo. Một số vị cho biết các cuộc biểu tình không thu hút nhiều sự chú ý trong khuôn viên trường hoặc những người biểu tình hầu hết không phải là sinh viên.

Nhưng tại Đại học Wisconsin - Madison, Cha Eric Sternberg có một cái nhìn độc đáo về các cuộc biểu tình, khi một khu trại ủng hộ Palestine được dựng lên rất gần Trung tâm Sinh viên Công Giáo St. Paul, nơi Sternberg là mục tử.

Vào ngày 6 tháng 5, khu cắm trại đã tăng lên khoảng 50 lều và các giảng viên tại trường đại học đang lên kế hoạch đi bộ để thể hiện tình đoàn kết với những người biểu tình.

Về phần mình, cha Sternberg đã nói chuyện với The Pillar vào ngày 2 tháng 5 về những gì ngài đã thấy tại các cuộc biểu tình, những gì những người biểu tình đang tìm kiếm và việc truyền giáo ở Đại học Wisconsin-Madison trông như thế nào.

Cuộc phỏng vấn này đã được chỉnh sửa vì độ dài và sự rõ ràng.

Thưa cha, cha đã thấy những gì khi các cuộc biểu tình diễn ra khắp khuôn viên trường Đại học Wisconsin-Madison? Cha đã quan sát được điều gì đang xảy ra?

Chúng tôi có tầm nhìn từ cửa trước nổi tiếng vì địa điểm biểu tình [rất gần] với cửa của chúng tôi.

Khi họ mới đến, có lẽ là khoảng 100 người, và 24 giờ sau, họ tổ chức một cuộc biểu tình lớn, với khoảng 150 hoặc 175 người ở đó, Và sau đó họ bắt đầu cắm trại, và đó là khoảng 15 hoặc 20 chiếc lều. Và rồi vào thứ Tư [ngày 1 tháng 5], cảnh sát ập đến và dỡ bỏ tất cả các lều, và một số người đã bị bắt.

Vào ngày 2 tháng 5, có ít hơn 10 lều được dựng lên, có thể chỉ có 50 người trong hầu hết thời gian trong ngày.

Theo quan sát của tôi, tất cả mọi người đều rất im lặng. Họ rất hòa bình - Thành thật mà nói, rất Trung Tây; họ đang nấu ăn. Họ vào thư viện tìm phòng tắm, uống bia.

Đó thực sự là một sự kết hợp giữa sinh viên và các nhà tranh đấu địa phương, giống như những kiểu hippie đang già đi, đúng như vậy.

Sáng nay tôi đã ở một trường trung học Công Giáo địa phương, nơi có các giáo viên từng ở trường đại học vào những năm 60 và 70, và họ nói rằng lúc ấy họ biểu tình với hàng ngàn người, với cảnh sát chống bạo động và hơi cay, và con số này nhỏ hơn thế nhiều. Không có nhiều người ở đây.

Nhưng tất nhiên, trong 24 giờ qua, tôi đã nhận được khoảng chục cú điện thoại từ các bậc phụ huynh có liên quan. Chúng tôi có nhà ở sinh viên, sinh viên sống trong tòa nhà của chúng tôi, vì vậy phụ huynh muốn biết liệu các cô gái có ổn không và những điều tương tự.

Và tất nhiên, một số cô gái đó đã ra ngoài ăn trưa và cố gắng trò chuyện với những người biểu tình, vì vậy, vâng, họ không sao.

Với những người biểu tình ở rất gần tòa nhà của Cha, điều đó có nghĩa là cha đã tỏ ra hiếu khách với họ phải không? Việc này diễn tiến ra sao?

Vâng, chúng tôi đã được trường đại học khuyên là không nên tiếp cận chính thức với sinh viên. Và chúng tôi đã phải nói không với việc sử dụng phòng tắm, vì chỉ trong một số trường hợp, điều đó không phải là điều tốt. Nhưng chúng tôi có một quán cà phê nhỏ ở tầng một của tòa nhà và có những sinh viên ở đây đang làm những việc họ thường làm.

Nếu có các sinh viên ở bên ngoài Trung tâm Thư viện, học sinh của chúng tôi sẽ trò chuyện với họ. Ý tôi là, chúng tôi có những người truyền giáo của FOCUS ở đây và chúng tôi có một tinh thần truyền giáo thực sự to lớn. Các lãnh đạo sinh viên ở đây biết rất nhanh rằng mục tử của họ muốn họ ra ngoài gặp gỡ người ta.

Chính tôi, cha sở và nhân viên của tôi dạy các khóa đào tạo và cung cấp các bí tích. Nhưng các sinh viên lại ra ngoài đó và gặp gỡ những sinh viên khác. Và cuộc biểu tình này thực sự không thay đổi được điều đó. Nhưng điều đó không có gì chính thức cả, chỉ là chúng tôi là chúng tôi mà thôi.

Bây giờ đúng là hầu hết những người phản đối - tôi sẽ hoàn toàn thành thật - không quan tâm. Tôi đã đi bộ tới đó và không ai tỏ ra khó chịu với tôi, nhưng họ không muốn nói chuyện với một linh mục. Người ta không quan tâm tới Tin tức, và những người biểu tình cũng không quan tâm.

Vậy cuộc biểu tình có nêu vấn nạn với các học sinh của cha không? Họ có muốn nói chuyện về một số vấn đề này không?

Khi ngày 7 tháng 10 xảy ra, chúng tôi đã dạy cho học sinh của mình điều mà tôi coi là câu chuyện tiêu chuẩn của Công Giáo: Đó là một cuộc tấn công khủng bố. Các quốc gia có quyền hợp pháp để tự bảo vệ mình. Tình hình ở vùng lãnh thổ Palestine không tốt, rất khó khăn. Cá nhân tôi đã đến đó, cha phó của tôi cũng đã đích thân đến đó, chúng tôi đã có sáu sinh viên tham gia các chương trình mùa hè với Tổ chức Phanxicô vì Đất Thánh. Và vì vậy họ có thể khẳng định rằng mọi chuyện đang không tốt ở những vùng lãnh thổ Palestine này. Nhưng chúng tôi nói với sinh viên rằng, đừng bị cuốn vào một quan điểm giản lược, rằng có rất nhiều lý do khiến nó không tốt.

Nhưng ở đây - chạy vòng quanh, la hét và say xỉn là không tốt. Và đó chính là ý nghĩa của những cuộc biểu tình ở đây: họ hát và la hét vào lúc bảy hoặc tám giờ tối, và sau đó một nửa trong số họ bỏ đi trong tình trạng say khướt. Nhiều người còn lại say khướt ở đó, sau đó ngủ đến chín giờ sáng.

Sáng sớm hôm nay, lẽ ra đã có một cuộc tuần hành do người Hồi giáo tổ chức và có khoảng chín người tham gia.

Cha dành nhiều thời gian với các sinh viên đại học trong nhiệm vụ của cha. Cha nhận xét gì về những sinh viên đang tham gia biểu tình tại Đại học Wisconsin-Madison?

Quan sát của tôi về những người ngoài kia là những người đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của họ. Đây không phải là những người theo đạo - tôi đã bước ra đó hai lần và không có người theo đạo Hồi nào ở đó cả, không một ai. Trên thực tế, tôi đã nói chuyện với hai giáo sĩ địa phương và họ nói rằng người của họ không liên quan gì đến chuyện này cả - không ai trong số họ ở ngoài đó cả.

Theo ước tính của tôi, đây là những người đang tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống của họ, họ đang tìm cách cống hiến cuộc đời mình cho một điều gì đó. Và vì bất cứ lý do gì, họ đã từ chối tôn giáo, và phần lớn là từ chối Thiên Chúa.

Và đối với họ, chính nghĩa của người Palestine gần như bị gộp chung với quan điểm nhân văn thế tục về mọi điều. Và tôi không muốn là người giản lược các cuộc biểu tình. Tôi nghĩ có rất nhiều người ngoài kia thực sự tin vào điều đó. Tôi không nhận thấy họ đã suy nghĩ nhiều về vấn đề này, nhưng họ giữ quan điểm của mình với lòng nhiệt thành gần như tôn giáo. Họ thực sự làm vậy.

Một yếu tố của những cuộc biểu tình này là cáo buộc chống chủ nghĩa bài Do Thái hoặc quấy rối sinh viên Do Thái. Cha có thấy điều đó ở Đại học Wisconsin-Madison và giữa những người biểu tình không?

Đại học Wisconsin-Madison có dân số Do Thái khá lớn.

Lần duy nhất trong bốn ngày biểu tình này trong đó tôi thấy có ai nói bất cứ điều gì xúc phạm người Do Thái, người Hồi giáo hoặc người Palestine là khi có máy quay TV ở đây. Đó là một anh chàng mới thấy có một lần, bị mắc kẹt trên máy tính của mình, hét lên “Đ.M. Do Thái” khi có máy quay TV hướng vào anh ta.

Khi máy quay TV biến mất, mọi người đều về nhà. Lúc ấy, không ai la hét hay chửi bới gì cả. Rất nhiều những chuyện này là để trình diễn.

Vâng, tôi nghĩ những người tổ chức nó thực sự tin tưởng vào những gì họ đang tổ chức. Nhưng tất cả những người theo dõi khác với những dấu hiệu và tiếng la hét của họ - họ đến cùng với những người làm truyền hình, khi những người làm truyền hình rời đi, họ cũng rời đi.

Cha nói về những người biểu tình đang tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống của họ và giữ vững quan điểm của họ với lòng nhiệt thành tôn giáo. Điều đó có làm cho cuộc biểu tình trở thành mảnh đất màu mỡ cho việc truyền giảng tin mừng không?

Điểm kết nối khá khó khăn.

Lễ Phục sinh vừa qua, chúng tôi đã cử hành thêm sức cho 77 người và chúng tôi sẽ cử hành thêm sức cho bốn người nữa vào Chúa nhật. Vậy là có 81 người, và 64 người trong số họ đã trở lại từ một tôn giáo khác hoặc là một số Ki-tô hữu khác.

Chúng tôi có ba người trước đây theo đạo Hồi, họ xuất thân từ những gia đình có đạo đức, nhưng lại từ bỏ lòng đạo đức của đạo Hồi, trong khi họ bị lôi kéo vào phong trào Palestine tự do, thấy nó trống rỗng, và sau đó kết nối với các sinh viên của chúng tôi khi họ gặp nhau trong lớp học.

Và có sáu người khác tích cực tham gia một số phong trào LGBTQ tích cực hơn, hoặc là một phần của phong trào BLM (Sự sống Da Đen Quan trọng), phát sinh ở Madison nhưng gần như lụi tàn, vì BLM trên toàn quốc không đầu tư vào nó. Và rất nhiều người trong số họ vẫn đang tìm kiếm ý nghĩa, và họ đến với Giáo hội vì họ gặp gỡ các sinh viên ở lớp, ở nơi làm việc, ở phòng tập thể dục.

Tất cả những gì chúng tôi giảng sâu sắc ở đây là để sinh viên làm những việc bình thường, sống cuộc sống bình thường, và đó là nơi họ gặp gỡ mọi người, đưa họ đến đây đến lớp học, bữa tối, buổi thuyết trình và giới thiệu họ với bạn bè. Đó là 95% số người gia nhập Giáo hội.

Những gì họ đang làm thật đẹp.

Hồi giáo và Mác-xít cực đoan

The Pillar cũng cho đăng ý kiến của một độc giả khi đọc bài phỏng vấn trên:

“Tôi đang ở Madison và những người cộng sản địa phương bắt đầu treo áp phích (dán áp phích, tôi nghĩ họ dùng keo xịt để khó gỡ chúng xuống) và nói rằng "chỉ có một giải pháp duy nhất: cuộc cách mạng intifada" cách đây không lâu. Rõ ràng chúng đã được treo lên bởi cùng một người hoặc những người cũng treo những tấm áp phích có mặt Karl Marx và dòng chữ "Bạn có phải là người Cộng sản không?" và mã QR để kết nối bạn với họ. Tôi thực sự đã nhìn thấy một cặp nhân viên thành phố gỡ bỏ một số áp phích intifada được treo lên, điều mà họ chưa bao giờ gỡ áp phích xuống nhưng điều đó chắc chắn đã thực sự vượt quá giới hạn và khiến các quyền lực lo lắng. Tôi gỡ bỏ từng tấm áp phích cộng sản mà tôi từng đi qua, dành thời gian để cạo bỏ càng nhiều càng tốt. Tôi không nghi ngờ gì rằng phong trào chống Israel ở Madison, cũng như ở những nơi khác, phần lớn được thúc đẩy bởi những người theo chủ nghĩa Marx cách mạng (có thể là) những người có một thế giới quan hoàn toàn khác với những người cấp tiến Hồi giáo nhưng lại quan tâm đến việc người Palestine sẵn sàng nổi dậy bằng bạo lực. Về cơ bản họ muốn kích thích sự sẵn sàng đó. Rõ ràng không dễ để họ thuyết phục mọi người đi theo hướng đó nên việc khiến mọi người coi Hamas là chính nghĩa có thể là do điều đó. Tôi nghĩ rằng tôi đã thấy Dân biểu Maxine Waters tuyên bố rằng những người ủng hộ Trump đang chuẩn bị cho cuộc cách mạng bạo lực nếu ông ta thua cuộc, không biết bất cứ bằng chứng nào ủng hộ tuyên bố đó nhưng mức độ tổ chức của phe cánh tả và một số mong muốn hoạt động quân sự tích cực của họ là như vậy rõ ràng và hiện tại hơn nhiều, điều mà tôi cho là lý do khiến một người như bà ấy buộc tội phía bên kia có ý định bạo lực cách mạng. Tôi thấy mọi người xung quanh Madison đeo khăn keffiyah, một trong số họ đạp xe xuống State Street hô vang "chúng ta sẽ giải phóng Palestine trong cuộc đời của mình" và giáo sĩ Chabad đang trên vỉa hè với chiếc xe đẩy trẻ em của mình và tôi thấy ông ấy băng qua công viên và về nhà khi anh chàng đó xuất hiện. Tôi hét lên "Đồ chó ỉa [B.S.]!" vào anh chàng đi xe đạp. Tôi không nghĩ ở đây trở nên nguy hiểm nhưng nó làm tôi lo lắng. Nhân tiện, tôi không nghi ngờ gì rằng những người cánh tả nhắm vào Hillel (trung tâm sinh viên Do Thái cải cách) nhiều hơn Chabad vì họ thực sự muốn gây áp lực cho các sinh viên Do Thái cấp tiến tham gia cùng họ, điều mà tôi cho rằng và họ cũng phải cho rằng những đứa trẻ Do Thái Chính thống hoàn toàn không thể làm”.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Rước kiệu Đức Mẹ tháng Hoa, Gx. ĐMLV, Miami
LongK Nguyễn
02:34 09/05/2024
Rước kiệu Đức Mẹ tháng Hoa, Gx. ĐMLV, Miami

Xem Hình
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Chúa Thăng Thiên
Đinh văn Tiến Hùng
17:23 09/05/2024
*** CHÚA THĂNG THIÊN ***
( Lễ Mừng trọng thể 9/5/24 )

Ngài được cất lên ngay trước mặt các ông và có đám mây quyện lấy Ngài, khiến các ông không còn thấy Ngài nữa. Và lúc ấy các ông còn đăm đăm nhìn lên trời phía Ngài đi, thì bỗng có người đàn ông mặc áo trắng đứng bên và nói : “Hỡi các ngưới Galilê sao còn đứng nhìn trời? Đức Giêsu Đấng vừa bỏ các ông và được rước lên trời, cũng sẽ ngự đến y như các ông đã thấy Ngài lên trời” ( Cv.1 : 9- 11 )

ĐK : Chúa ngự lên giữa tiếng tưng bừng- Chúa ngự lên giữa tiếng kèn vang.
-Vỗ tay đi nào ngàn muôn dân Chúa ! Tán tụng Chúa Trời nào hãy reo, vì Chúa Đấng Tối Cao khả úy.
Ngài là Đại Đế Đấng thống trị trần gian.

-Chúa tiến lên trong ngàn câu hoan chúc. Chúa ngự lên hàng vạn tiếng kèn vang. Nào ta hãy ca mừng Thiên Chúa, Mừng Ngài là Chúa khắp vua trần gian.

-Đức Vua cai trị thế giới. Xướng lên ca vinh Chúa là Vua. Mừng Chúa Đấng thống trị vạn quốc. Ngàn đời rực rỡ Chúa hiển trị ngàn thu.
( Thánh Vịnh 46 )

’Ngài lên tận ngai vàng vĩnh cửu,
Cõi thiên đình bên hữu Chúa Cha,
Uy phong ngự chốn thiên tòa,
Quyền năng Thánh Phụ trao qua tay Ngài.’ (*)

-Theo Thày lên núi Ô-liu,
Mây giăng đỉnh núi hắt hiu gợi buồn,
Môn đệ khắc khoải tâm hồn,
Nghe sầu ly biệt bồn chồn biết bao !

Thiên Tử Thần Thánh đón chào,
Kiệu mây nhè nhẹ nâng vào không trung,
Hào quang tỏa sáng uy hùng,
Mây bao quanh núi chập chùng trôi đi,
Lâng lâng khúc nhạc diệu kỳ,
Vang vang hiệu lệnh thiên đình mở ra,
Đất trời bừng tỉnh giao hòa,
Đón mừng Thánh Tử hoan ca khải hoàn,
Tinh cầu vạn vật rộn ràng,
Màn đêm tan biến, huy hoàng vầng đông,
Ánh hồng lan tỏa mênh mông,
Bừng lên sức sống muôn lòng ngất ngây.

-Như Thày đã hứa rồi đây,
Thánh Thần sẽ đổ tràn đầy hồng ân,
Giáo Hội Thiên Chúa thế trần,
Niềm tin sức mạnh vững tâm tuyệt vời,
Môn đệ đi khắp nơi nơi,
Tin Mừng rao giảng lòng người say mê,
Thần Khí trùm phủ bốn bề,
Nhận biết chân lý tìm về đường ngay.
Tà quyền tội ác tràn đầy,
Vô thần ác quỉ đến ngày tận vong.
Từ đây muôn nước chờ mong,
Vinh quang Thiên quốc, hòa đồng thế gian.

-Thân hèn cuộc sống vội vàng,
Tiền tài danh vọng con hằng đắm mê,
Xin Chúa đem con trở về,
Để chỉ khao khát nơi quê Nước Trời.
Bụi trần bao phủ khắp nơi,
Cho con hoán cải cuộc đời đẹp tươi.

Chúa Giê-su đã về trời,
Dọn cho ta chỗ trên nơi Vĩnh Hằng.
Đời người quán trọ bẽ bàng,
Phút giây bừng tỉnh lại càng đợi trông.

*‘Tiến dâng Vua Cả Nước Trời,
Cùng Đấng Thánh Phụ ngàn lời chúc vinh,
Thánh Thần đồng trị uy linh,
Muôn ngàn Thiên Sứ đồng thanh hát mừng’ (*)

*Lời nguyện :
Lạy Chúa Giê-su ! Chúa đã nói với các môn đệ : ‘ Thày đi để dọn chỗ cho các con, và khi Thày đã ra đi dọn chỗ cho các con rồi, Thày sẽ trở lại để đón các con đi với Thày, để Thày ở đâu các con ở đó.’

Lạy Chúa Giêsu ! Chúa về trời đã không bỏ chúng con, nhưng vẫn yêu thương và nuôi dưỡng chúng con trong Bí tích Thánh Thể và dìu dắt chúng con qua Lời Chúa truyền dạy trong Tin Mừng. Chúng con mong chờ mai ngày Chúa đến sẽ đem chúng con về hưởng phúc trường sinh cùng Chúa.

Xin giúp chúng con biết làm chứng cho Chúa bằng lối sống vị tha luôn nghĩ đến tha nhân.
Xin cho chúng con biết chiếu ánh sáng tình yêu của Chúa ra trước mặt người đời để xứng đáng được lãnh nhận hồng ân Chúa trên Nước Hằng Sống trong ngày vĩnh biệt thế trần
- Amen.


(*) Trích Thánh Thi Phụng Vụ.
 
Văn Hóa
Truyền thống Trí thức Công Giáo trong Thế kỷ Hai mươi, Chương Năm 4
Vũ Văn An
22:23 09/05/2024

Chương 5: Nền thần học đổi mới và nền văn hóa hiện đại, tiếp theo



Joseph Ratzinger (Bênêđictô XVI)

Cả thế giới giờ đây biết đến Joseph Ratzinger với tư cách là Giáo hoàng Bênêđíctô XVI. Nhưng ít ai biết rằng trước đó ngài đã có hai hy sinh bản thân—đầu tiên, đồng ý với lời yêu cầu của Đức Phaolô VI để trở thành tổng giám mục của Munich và Freising (thánh địa lịch sử ở Bavaria, quê hương của ngài, do Thánh Boniface thành lập năm 739) và sau đó, chấp nhận lời mời của Đức Gioan Phaolô II để trở thành bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin ở Rôma—Ratzinger là một nhà thần học có năng khiếu và là một người tự nhiên yêu thích đời sống trí thức. Ngay cả sau nhiều năm giữ các chức vụ hành chánh đầy đòi hỏi trong Giáo hội, các giảng khóa, bài phát biểu và bài viết của ngài đều mang dấu ấn không thể nhầm lẫn của một bộ óc mạnh mẽ và có tầm nhìn rộng dài. Mặc dù nhiều người chỉ công nhận nhà thần học đáng chú ý này khi các tác phẩm đồ sộ và có phạm vi rộng của ngài xuất hiện kể từ khi được bầu làm giáo hoàng, nhưng vị trí của ngài trong cung thần học của thế kỷ 20 sẽ chỉ trở nên rõ ràng và được bảo đảm hơn khi thời gian trôi qua.



Nhà thần học và vị giáo hoàng tương lai sinh ngày 16 tháng 4 năm 1927, và đã trải qua những năm đầu đời đắm chìm trong tôn giáo và văn hóa đại chúng của xứ Bavaria cổ kính. Ngài từng viết một cách cảm động về các lễ hội tôn giáo mà ngài đã trải qua khi còn nhỏ, kết nối một trong số chúng với một dòng trong bài thánh ca của Thánh Tôma, Quantum potes, tantum aude (“Có thể bao nhiêu hãy dám bấy nhiêu”):

“Tôi vẫn có thể ngửi thấy mùi của những thảm họa đó và sự tươi mát của những cây bạch dương; tôi có thể thấy tất cả những ngôi nhà được trang trí, những biểu ngữ, ca hát; tôi vẫn có thể nghe thấy ban nhạc của làng, trong dịp này, đôi khi thực sự dám nhiều hơn những gì nó có thể! Tôi nhớ niềm vui sống của những chàng trai địa phương, họ nổ súng chào — đó là cách họ chào đón Chúa Kitô với tư cách là nguyên thủ quốc gia, với tư cách là Nguyên thủ quốc gia, Chúa tể của thế giới, hiện diện trên đường phố và làng mạc của họ. Vào ngày này, người ta cử hành sự hiện diện vĩnh viễn của Chúa Kitô như thể đó là một chuyến viếng thăm cấp nhà nước trong đó ngay cả ngôi làng nhỏ nhất cũng không bị làm ngơ.” (59)

Đối với nhiều người vào thời đó, những thực hành tôn giáo bình dân này sẽ được coi là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, chúng đã thâm nhập sâu sắc vào vị giáo hoàng tương lai, và sự gắn bó của ngài với phụng vụ rõ ràng bắt nguồn từ những năm đầu đời: “Đương nhiên, đứa trẻ mà khi đó tôi là không nắm bắt được mọi khía cạnh của điều này, nhưng tôi đã bắt đầu bước vào con đường phụng vụ, và điều này đã trở thành một diễn trình phát triển liên tục thành một thực tại vĩ đại vượt quá tất cả các cá nhân và thế hệ đặc thù, một thực tại đã trở thành cơ hội cho tôi khám phá và kinh ngạc luôn mới mẻ.” (60)

Mặt tương đối điền viên thôn dã này của tuổi trẻ ngài đã sớm bị phá vỡ bởi các thế lực bắt đầu len lỏi vào Bavaria với sự trỗi dậy của Chủ nghĩa xã hội quốc gia. Ratzinger nhập ngũ năm mười sáu tuổi và miễn cưỡng phục vụ hai năm trong quân đội Đức cho đến khi bị quân Mỹ xâm lược bắt giữ. Kể từ đó, ngài thường nói rằng ngài đã học được rất nhiều điều từ việc Đức Quốc xã tiếp quản nước Đức, đặc biệt là sự bất lực của thần học cấp tiến Kitô giáo trong việc phản kháng những cuộc tấn công dữ dội như vậy. Ngài mô tả cách một giáo viên Đức Quốc xã ở quê hương ngài từng dựng một Cây nêu ngày 1 tháng Năm (Maypole)

“như biểu tượng của một lực sống không ngừng đổi mới chính nó. Cây Nêu này được cho là sẽ mang trở lại một phần tôn giáo Đức và do đó giúp dần dần trục xuất Kitô giáo, hiện bị tố cáo là khiến người Đức xa lánh nền văn hóa Đức vĩ đại của họ. Ông cũng tổ chức các lễ hội mặt trời giữa mùa hè, một lần nữa như một sự quay trở lại với tính thánh thiêng của thiên nhiên và nguồn gốc của người Đức, để thay thế các ý niệm xa lạ như tội lỗi và cứu chuộc đã được tôn giáo Do Thái và La Mã ngoại nhập áp đặt lên chúng ta. Ngày nay, khi tôi nghe rằng ở nhiều nơi trên thế giới, Kitô giáo bị chỉ trích là phá hủy bản sắc văn hóa cá nhân và áp đặt các giá trị châu Âu, tôi ngạc nhiên về mức độ giống nhau của các kiểu lập luận và mức độ quen thuộc của nhiều cụm từ.” (61)

Những biến cố sớm sủa này đã để lại dấu ấn đối với ngài, cho thấy khả năng kỳ diệu của ngài trong việc tích hợp suy nghĩ và kinh nghiệm thành một tổng thể. Trong chủng viện, ngài bị thu hút mạnh mẽ nhất bởi tác phẩm của Romano Guardini, Josef Pieper, Theodor Häcker và Peter Wust. Ngài cũng bình luận về sự hiện diện đạo đức của Đức Hồng Y Faulhaber ở Munich, một trong những giáo phẩm vĩ đại chống lại chủ nghĩa Quốc xã. Không phải chỉ có công trình triết học và thần học của Đức Gioan Phaolô II đã bị ảnh hưởng bởi những tội ác của thế kỷ XX.

Một số sợi chỉ xuyên suốt đã xuất hiện sớm trong suy nghĩ của Ratzinger. Thần học thực hiện trong Giáo hội cần phải giữ cho thần học lịch sử và thần học hệ thống liên kết với nhau, theo đuổi việc xem xét cẩn thận hồ sơ lịch sử, đặc biệt là sự trở lại với các Giáo phụ. Và ngay từ đầu, ngài đã biểu lộ một khuynh hướng mạnh mẽ đối với khía cạnh Augustinô và chủ nghĩa nhân vị trong thần học Công Giáo. Như ngài đã viết vài năm sau đó vào năm 1969: “Thánh Augustinô đã bầu bạn với tôi hơn hai mươi năm. Tôi đã khai triển nền thần học của mình trong cuộc đối thoại với Thánh Augustinô, mặc dù theo lẽ tự nhiên, tôi đã cố gắng tiến hành cuộc đối thoại này như một sinh viên và sau đó như một giáo sư cách là một con người của ngày hôm nay.” (62) Đây là đường hướng căn bản được ngài theo đuổi như một sinh viên và sau đó như một giáo sư tại Bonn, Münster, Tübingen và Regensburg —và quá những nơi này.

Người ta thường nói rằng Ratzinger khởi đầu là một người cấp tiến, nhưng sau Công đồng Vatican II, ngày càng trở nên bảo thủ. Điều này đóng khung tư tưởng của ngài trong các loại phạm trù chính trị không đặc biệt hữu ích trong việc hiểu một bộ óc tinh tế như vậy và xuyên tạc tính liên tục sâu xa trong tư tưởng cũng như bản chất căn bản của ngài. Không hề là “Rottweiler [chó săn] của Thiên Chúa” hay der Panzer-Kardinal [Hồng Y xe tăng quốc xã], như đôi khi ngài bị các nhà phê bình mô tả, Ratzinger hầu như, ở mọi nơi, đều biểu lộ một tính khí rất ôn hòa sẵn sàng đối thoại với những quan điểm khác, như ngay cả những sinh viên đại học cấp tiến nhất của ngài cũng đã chứng thực. Ngài rất nhiệt tình về việc đổi mới trước và trong Công đồng vì những thiện cảm căn bản, suốt đời của ngài với một đạo Công Giáo mục vụ bắt nguồn từ Kinh thánh và các Giáo phụ hơn là học thuyết Tôma đôi khi cứng ngắc của các chủng viện. Nhưng ngài trở nên thất vọng với nhiều điều - mặc dù không phải tất cả - từng xuất hiện sau Công đồng Vatican II; đây là vấn đề ngài đánh giá thực nghiệm những gì lúc ấy đang xảy ra trong Giáo hội, một điều hoàn toàn khác với sự thay đổi trong lập trường thần học của ngài. Thật vậy, như trong nhận xét của ngài về cuộc đối thoại của ngài với Thánh Augustinô đã trích dẫn ở trên, điều đáng chú ý nhất trong tác phẩm của Ratzinger là sự kiên định trung thành với một số trào lưu thần học và việc áp dụng chúng một cách khéo léo vào các vấn đề và tranh cãi đương thời.

Giống như nhiều nhà thần học đổi mới khác trong tiền bán thế kỷ 20, Ratzinger nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện thần học trong thực tại lịch sử sống động của Kitô giáo, tức Giáo hội, đồng thời theo dõi những phát triển hiện đại trong nền học thuật Kinh thánh. Ngài đã sớm bác bỏ cách tiếp cận được ngài gọi là “chủ nghĩa cấp tiến bị tín điều hạn chế”, (63) theo chân Guardini và các nhà tư tưởng đổi mới khác trước Công đồng rất lâu trong việc cố gắng tìm kiếm trong chính tín điều một nguyên tắc sống động, năng động: “Tín điều được quan niệm, không phải như một gông cùm bên ngoài, mà là nguồn sống làm cho nhận thức trở nên khả hữu.” (64)

Cuốn sách đầu tiên của ngài (1954) là Volk und Haus Gottes in Augustus Lehre von der Kirche (Dân và nhà Thiên Chúa trong học thuyết của Thánh Augustinô về Giáo hội), tựa đề do giáo sư Gottlieb Söhngen đề xuất cho một cuộc thi giải thưởng học thuật. Ratzinger háo hức hưởng ứng chủ đề này. Sự nhấn mạnh tới việc chính Thiên Chúa lập ra Giáo hội cho thấy việc đặt một Ratzinger “cấp tiến” thời kỳ đầu kình chống một Ratzinger bảo thủ sau này không phù hợp với bản chất thực sự của các lập trường trước công đồng của ngài. Ngài tìm thấy nơi Thánh Augustinô buổi đầu một mô hình suy nghĩ bên trong đời sống chung của Giáo hội như trái ngược với những suy đoán của một tâm trí đơn độc nào đó về thế giới hiện đại. Theo quan điểm của ngài, khiêm tốn và thừa nhận thẩm quyền thích đáng là hai đức tính không thể không có nơi mọi Kitô hữu chân chính, cả hai đức tính này đều đến với chúng ta dưới hình thức lịch sử, y như cuộc sống bản thân thuở ban đầu của chúng ta được thành hình bởi những điều thực sự xẩy ra cho các gia đình cá thể của chúng ta. Khi đọc về Thánh Augustinô, Ratzinger coi các cơ cấu có thẩm quyền của Giáo hội hữu hình là một với Thánh Thần bên trong, cũng như người dân và giáo sĩ. Ở đây, Ratzinger người xứ Bavaria gặp Ratzinger nhà tư tưởng lỗi lạc.

Ngay từ đầu, caritas [đức ái] (chủ đề của thông điệp đầu tiên của ngài trong tư cách giáo hoàng) được coi là có mối quan hệ chặt chẽ với chân lý và tình huynh đệ giáo hội trong phần trình bày của Ratzinger về Thánh Augustinô. Thật vậy, Ratzinger đi xa đến mức cho thấy chúng ta bỏ lỡ điều gì đó nếu chúng ta coi những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo chỉ là một cuộc đối thoại giữa Kinh thánh và văn hóa Hy Lạp. Rôma, với ý thức tổ chức thực tế và tầm quan trọng của thông luật [common laws], cũng có ý nghĩa trí thức liên tục. Nhưng caritas vượt trội tất cả.

Mối quan tâm duy trì bản chất lịch sử cụ thể của Kitô giáo này trong tiếp xúc trực tiếp với thần học suy lý được tiếp tục trong cuốn sách tiếp theo của Ratzinger, The Theology of History in St. Bonaventura [Thần học Lịch sử trong Thánh Bonaventura], (65) tập chú vào các bài giảng của Thánh Bonaventura về sáu ngày sáng thế (Collationes in Hexaemeron [Các Bài nói về Sáu ngày]). Mặc dù ngài cố gắng giải quyết vấn đề trí thức về việc tích hợp lịch sử cứu độ và siêu hình học, nhưng ngài cũng có thể nhìn thấy trước trong việc Thánh Bonaventura xử lý nền linh đạo triệt để của những tu sĩ Phanxicô đệ tử của Joachim thành Fiore, một cách giải quyết các trào lưu đương thời chỉ mới xuất hiện đầy đủ với Công đồng Vatican II. Các đệ tử của Joachim có tiếng tin rằng Giáo hội và thế giới đang bước vào Thời đại Thứ ba của Chúa Thánh Thần, một kiểu hiện hữu không tưởng hoàn toàn mới sẽ biểu thị sự đoạn tuyệt triệt để với quá khứ. Thay vì đơn thuần bác bỏ những anh em Phanxicô này, Thánh Bonaventura đã thực hiện một động thái khéo léo là chấp nhận rằng một thời đại mới của Chúa Thánh Thần đã bắt đầu với các Thánh Phanxicô và Đaminh, nhưng Thánh Bonaventura nói, điều này thể hiện một sự liên tục, chứ không phải là một sự đoạn tuyệt với những gì đã xuất hiện trước đó. Viết vào năm 1959, Ratzinger mô tả một viễn kiến về những gì ngài tìm thấy nơi Thánh Bonaventura sẽ làm ngài hữu ích trong suốt thời kỳ công đồng và lâu dài sau đó:

“Kinh thánh chỉ về tương lai; nhưng chỉ người đã hiểu quá khứ mới có thể hiểu được cách giải thích tương lai bởi vì toàn bộ lịch sử phát triển theo một dòng ý nghĩa không gián đoạn trong đó điều sắp đến có thể được nắm bắt trong hiện tại trên cơ sở của quá khứ.... Bằng cách này, việc chú giải Thánh Kinh trở thành một thần học về lịch sử; việc làm sáng tỏ quá khứ dẫn đến lời tiên tri liên quan đến tương lai.” (66)

Và, trong cách hiểu của Ratzinger, sự nhấn mạnh về tính liên tục này cũng được kết hợp với việc đánh giá cao Thánh Phanxicô một cách đặc biệt như một người nghèo khó khiêm tốn, người hiểu biết về những điều thiêng liêng hơn các tiến sĩ uyên bác nhất vì tình yêu lớn lao của ngài đối với Thiên Chúa. Ratzinger sau đó đã bày tỏ sự ngưỡng mộ của mình đối với Thánh Tôma Aquinô, nhưng điều rõ ràng là bản thân ngài đồng điệu hơn với các phương thức Phanxicô và Bonaventura và hoan nghênh các nghiên cứu lịch sử đã phục hồi các chiều kích Tân Platông và Augustinô của tất cả các tác giả Kinh viện, kể cả Tiến sĩ Thiên thần. Sẽ không quá lời khi nói rằng Ratzinger đang khám phá cách suy nghĩ bên trong Giáo hội mà ngài nghĩ là cần thiết nhất. Việc suy nghĩ nên tập chú vào Chúa Kitô, hơn là vào triết học và thần học được thực hiện theo lối hiện đại thông thường sử dụng suy lý độc lập, một điều sau đó, bằng cách nào đó phải tìm cách phù hợp với lịch sử cứu độ và thực tế sống động của Giáo hội.

Tất nhiên, tại Công đồng Vatican II, nhiều chủ đề trong số này đã trở thành tâm điểm trong Giáo hội nói chung. Ratzinger là một peritus, một chuyên gia thần học, được Hồng Y Josef Frings, tổng giám mục Cologne, mời tham dự - mặc dù ngài mới ba mươi lăm tuổi khi Công đồng khai mạc. Sau mỗi buổi họp, ngài viết các tiểu luận có tính phân tích cung cấp một cửa sổ dẫn vào suy nghĩ của ngài về những gì đã xảy ra, và tất nhiên ngài quay lại chủ đề này nhiều lần trong những năm sau đó. Phiên họp đầu tiên ngài nghĩ rất thích hợp dành cho phụng vụ, một yếu tố cũng rất trung tâm trong tư tưởng của Ratzinger, đến nỗi vào năm 2008, khi toàn bộ tác phẩm của ngài bắt đầu được xuất bản, tập đầu tiên đã cố ý thu thập nhiều bài viết khác nhau về phụng vụ. Quay trở lại năm 1963, ngài đã mô tả phụng vụ là “suối nguồn thực sự của Giáo hội và do đó là điểm khởi đầu đích thực của mọi sự đổi mới”. (67) Mặc dù sau đó, ngài thường bày tỏ sự thất vọng không biết việc “đổi mới” phụng vụ sẽ kết cục ở đâu, nhưng thoạt đầu ngài rất nhiệt tình đối với cách tiếp cận tổng thể, dường như ít tập trung vào việc chỉ đơn thuần chống lại “thuyết duy hiện đại” như trước đây và tự tin hơn trong việc tìm kiếm những cách mới để trình bày các chân lý cũ, thậm chí đôi khi không tuyệt đối tuân giữ tiếng Latinh trong cả trong phụng vụ lẫn học hành.

Ngài cũng có quan điểm tương tự đối với cuộc thảo luận về mạc khải, một mối quan tâm lâu đời khác đã dẫn đến bài bình luận (68) của ngài về văn kiện Dei Verbum và đáng chú ý nhất là cuốn Chúa Giêsu thành Nadarét (Jesus of Nazareth) năm 2007 của ngài. Nhưng ở cả hai chỗ, ngài cũng tỏ ra cảnh giác đối với xu hướng để cho sự lạc quan lướt thắng cảm thức cũ hơn, thực tế hơn của Công Giáo đối với mặt tối của cuộc sống con người. Trong một số nhận xét có tính tiên tri trong bài bình luận năm 1969 về Dei Verbum, ngài ghi nhận sự thiếu chú ý tới khái niệm “cơn giận” của Thiên Chúa, một sự đúc khuôn lại toàn bộ lịch sử cứu độ thời hiện đại khiến người ta khó hiểu tại sao cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô trên Thập giá lại cần phải xảy ra và chuyển toàn bộ bi kịch của con người ra khỏi những chân lý trung tâm của Kitô giáo vốn đã có mặt ngay từ những ngày đầu. Ngài vẫn nghĩ rằng văn kiện này khá có giá trị, nhưng kết luận rằng—như với thần học tự do mà chúng ta đã lưu ý ở trên—trừ khi Kinh thánh được đọc trong Giáo hội, nó sẽ có xu hướng rơi vào các cực đoan của chủ nghĩa văn tự hoặc, trong những cuộc tranh luận học thuật không bao giờ kết thúc, rơi vào một thuyết duy hiện đại trống rỗng.

Và có một vấn đề căn bản, có lẽ ít với Dei Verbum cho bằng với ấn tượng mà cách nào đó, Công đồng đã để lại, cho rằng không nên dạy điều gì “mà không được minh nhiên chứa đựng trong Kinh thánh”:

“Trên thực tế, lý thuyết mới này có nghĩa là khoa chú giải giờ đây phải trở thành thẩm quyền cao nhất trong Giáo hội; và vì, theo bản chất của lý trí con người và công trình lịch sử, không thể mong đợi sự đồng thuận giữa những nhà giải thích trong trường hợp có những bản văn khó hiểu như vậy (vì ở đây những định kiến được thừa nhận hoặc không được thừa nhận luôn hoạt động), tất cả những điều này có nghĩa là đức tin phải rút lui vào khu vực thay đổi bất định và liên tục, vốn là đặc trưng của các giả thuyết lịch sử hoặc có thể trở thành có tính lịch sử. Nói cách khác, giờ đây tin tưởng đồng nghĩa với việc có ý kiến và cần được xem xét lại liên tục.” (69)

Tính chừng mực và cảm thức quân bình tự nhiên của Ratzinger biểu lộ rõ ràng trong các nhận xét của ngài về phiên họp thứ hai của Công đồng, phần lớn đề cập đến Hiến chế Tín lý về Giáo hội, Lumen Gentium. Ngài đánh giá cao vai trò của các giám mục, đặc biệt là trong sự hiệp thông với giám mục Rôma, và tầm quan trọng của giám mục Rôma trong việc giúp bảo vệ quyền tự do của các giám mục khác, đặc biệt là khi các điều kiện địa phương hoặc quốc gia đè nặng lên Giáo hội—một hiện tượng hiện nay khá quen thuộc với chúng ta trong cả các quốc gia độc tài lẫn dân chủ tự do. Các phiên họp sau đó của Công đồng dường như đã truyền cảm hứng cho ngài ở mức độ thấp hơn, có lẽ vì một số thế lực chẳng bao lâu nữa sẽ gây ra tình trạng hỗn loạn trong Giáo hội đã bắt đầu lộ diện. Thật vậy, ngài phàn nàn về Gaudium et Spes, văn kiện về Giáo hội trong thế giới hiện đại, cho rằng nó mơ hồ đến mức gần giống với bất cứ suy tư chung nào về đạo đức, “trong khi những gì thích đáng đối với thần học, với diễn ngôn về Chúa Kitô và công việc của Người, đã bị bỏ lại phía sau trong tình trạng đóng băng sâu xa về mặt khái niệm, và như vậy được phép xuất hiện, trái ngược với phần dễ hiểu, thậm chí bất khả niệm và lỗi thời hơn”. (70) Ngài viết tiếp, ơn cứu rỗi dường như dư thừa bởi vì, theo cách trình bày như thế, con người dường như hoàn toàn có khả năng sống một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc mà không cần bận tâm đến những vấn đề như vậy. Thật vậy, văn kiện có thể để lại ấn tượng cho rằng người ta có thể nghi ngờ các vấn đề tôn giáo, trong khi chắc chắn về cách giải quyết các vấn đề thế gian. Thái độ này không thể không làm giảm đi lòng nhiệt thành truyền giáo cũ và làm cho các giá trị thế tục hiện đại trở thành thước đo của Kitô giáo chân chính. Thật vậy, vết rạn nứt đã mở ra vào cuối Công đồng, đặt Giáo Hội tiền công đồng chống lại Giáo hội hậu công đồng. Ratzinger từng cảnh cáo: “Chúng ta không được quên rằng Giáo hội vẫn là Giáo hội của mọi thời đại. Trong tất cả các thế hệ, con đường của Tin Mừng có thể được tìm thấy nơi Giáo Hội, và quả đã được tìm thấy ở đó.” (71)

Tuy nhiên, ngay trước khi Công đồng kết thúc, Ratzinger đã bắt đầu thực hiện một loạt giảng khóa tại Tübingen về Kinh Tin Kính, mà cuối cùng biến thành cuốn Einführung in das Christentum: Vorlesungen über das apostolische Glaubensbekenntnis (Dẫn nhập vào Kitô giáo). (72) Không chỉ là một bài trình bày đơn thuần, cuốn sách còn là một cuốn hộ giáo xuất sắc, khéo léo trình bày các lập luận hiện đại chống lại các điều khoản chuyên biệt của Kinh Tin kính—và chống lại bất cứ niềm tin nào—và thậm chí còn trả lời chúng một cách khéo léo hơn. (Đây chỉ là phần “dẫn nhập” theo cùng một nghĩa cao siêu như Tổng Luận Thần Học [Summa Theologiae] của Thánh Tôma Aquinô vốn được tác giả dự định dành cho “những người mới bắt đầu”.) Ngài nhận ra tai tiếng của tính “tích cực” mà Kitô giáo đưa ra so với các nền linh đạo mơ hồ của phương Đông (bảo vệ một điều chuyên biệt là điều khó khăn hơn). Và ngài ghi nhận xu hướng, trong trường hợp thiếu tin tưởng vào lịch sử cứu độ, thiên về những điều sẽ trở thành một dự án của đời này, cho dù có bản chất bảo thủ hay cấp tiến.

Và đặc biệt, ngài nhấn mạnh việc Kitô giáo không phải là một tập hợp các học thuyết mà là một “con đường” mang tính cộng đồng—và tính Giáo hội—:

“Cộng đồng với đồng loại của mình là một thực tại nằm trên một bình diện khác với bình diện của “ý niệm” đơn thuần. Nếu chủ nghĩa Platông cung cấp một ý tưởng về sự thật, thì niềm tin Kitô giáo cung ứng sự thật như một con đường, và chỉ bằng cách trở thành một con đường, nó mới trở thành sự thật của con người. Sự thật như một tri nhận đơn thuần, như một ý tưởng đơn thuần, mãi mãi không có sức mạnh; nó chỉ trở thành chân lý của con người như một con đường đòi họ nên và phải bước đi trên đó.” (73)

Mọi thực tại, bao gồm cả Chúa Ba Ngôi, đều có một yếu tố tương quan. Đồng thời, Thiên Chúa Ba Ngôi siêu việt, mà nhiều người cho rằng nằm ngoài tầm nhận thức và quan tâm của chúng ta, cung cấp một con đường không phải là một dự án chính trị thuộc bất cứ hình thức nào, thực sự như thế, đứng phán xét mọi mệnh lệnh chính trị. Ratzinger quả quyết rằng chúng ta phải thực thi một sự khiêm tốn cần thiết khi nói về mầu nhiệm này nhưng cũng phải tin tưởng rằng Thiên Chúa Cha đã tự tỏ mình ra cho chúng ta qua mạc khải theo những cách mà chính chúng ta không tự mình đạt tới được, một điểm giống như những chủ trương tương tự nơi von Balthasar, như chúng ta đã thấy trên đây. Nhưng phương thức tự biểu lộ đó - Chúa Giêsu trong tư cách vừa là người mang thông điệp vừa là chính thông điệp - đã kết hợp, trong con người của Người, lịch sử và đức tin. Và Chúa Thánh Thần mãi hiện diện trong Giáo hội – bất chấp Chúa Thánh Thần có thể bất toàn theo cách hiểu của con người - thực sự, tự tỏ mình ra trong cuộc sống hàng ngày của dân Chúa Kitô hơn là trong các dự án cải cách và đổi mới lớn lao của Giáo hội.

Đằng sau quan điểm này, người ta dễ phát hiện ra sự thất vọng của Ratzinger trước những diễn biến vào khoảng năm 1968 trong Giáo hội, đại học và thế giới. Một số điểm khác biệt trước đây của ngài với những nhân vật như Karl Rahner trở nên sắc nét hơn khi bản thân Rahner chuyển từ thần học của Bultmann và triết học của Heidegger - lập trường duy hiện sinh của giữa thế kỷ - sang chính trị cấp giáp giới với chủ nghĩa Mácxít. Ratzinger phàn nàn về việc biết bao người vẫn giữ lòng nhiệt thành tôn giáo của họ nhưng giờ đây lại bắt nó xa rời khỏi Thiên Chúa và hướng nó tới hoạt động chính trị của con người:

“Cung cách phạm thượng trong đó Thập giá giờ đây bị coi thường như một dấu hiệu của chủ nghĩa thông ác dâm [sadomasochism], thói đạo đức giả mà với nó một số người vẫn tự cho mình là tín hữu khi điều này hữu ích, để không gây nguy hiểm cho các công cụ phục vụ mục đích riêng tư của họ: tất cả những điều này có thể và không nên bị coi là vô hại hoặc được coi chỉ như một cuộc tranh cãi học thuật khác.” (74)

Đây là những phán xét khắc nghiệt khác thường từ một người thường tìm kiếm con đường đối thoại, nhưng bất cứ ai từng sống qua cơn sốt dư luận vào thời đó, và không chỉ trong các vấn đề tôn giáo, sẽ nhận ra sự công bằng của những lời buộc tội.

Năm 1972, Ratzinger được mời tham gia Ủy ban Thần học Quốc tế, nơi ngài, de Lubac, von Balthasar, Louis Bouyer, và những người khác đã làm việc để chống lại việc chính trị hóa thần học. Yves Congar đã cố gắng trở thành một người hòa giải, nhưng đó là một nhiệm vụ bất khả và chẳng mấy chốc đã thất bại: “Những cuộc tranh luận về những gì chúng ta, trong tư cách các nhà thần học, buộc phải làm trong giờ phút quan trọng này đã trở nên cực kỳ sôi nổi và chúng cũng đòi hỏi tất cả năng lực thể chất mà một người có thể sử dụng. [Karl] Rahner và Feiner, nhà đại kết người Thụy Sĩ, cuối cùng đã rời khỏi Ủy ban bởi vì, theo ý kiến của họ, nó vô giá trị vì phần lớn các thành viên của Ủy ban không sẵn sàng ủng hộ các luận điểm cấp tiến.” (75) Thật đáng mừng, nhiều người trong nhóm vẫn ở lại đã thành lập Communio, một tạp chí học thuật hàng tam cá nguyệt được xuất bản bằng mười tám thứ tiếng.

Đáng buồn thay cho Ratzinger, phụng vụ của Giáo hội trước đó đã trải qua một sự thay đổi đột ngột và triệt để với việc xuất bản Sách lễ của Đức Phaolô VI năm 1969 và việc cấm sử dụng Sách lễ trước đó. Ngài coi đây không phải là một diễn trình cải cách phụng vụ thông thường, vốn thường xảy ra trong lịch sử Giáo hội, mà là một sự đoạn tuyệt với quá khứ, một đoạn tuyệt đã truyền tải một thông điệp sai lầm. Nó mang lại một số lợi ích so với đạo Công Giáo thời Baroque mà Ratzinger đã chỉ trích từ lâu, “nhưng đặt nó như một công trình xây dựng mới chống lại những gì đã phát triển trong lịch sử, ngăn cấm các kết quả của sự phát triển lịch sử này, do đó làm cho phụng vụ dường như không còn là một sự phát triển sống động mà là sản phẩm của công việc học thuật và thẩm quyền pháp lý; điều này đã gây ra cho chúng ta thiệt hại to lớn. Vì lúc đó người ta có ấn tượng rằng phụng vụ là một điều gì đó được ‘làm ra’, chứ không phải là điều được ban cho trước.” Và ngài viết tiếp: “Tôi tin chắc rằng cuộc khủng hoảng trong Giáo hội mà chúng ta đang trải qua ngày nay phần lớn là do sự tan rã của phụng vụ, một tan rã đôi khi thậm chí khiến người ta tưởng tượng etsi Deus non daretur [như thể Thiên Chúa không hiện hữu], rằng việc Thiên Chúa có hiện hữu hay không cũng như việc Người có nói với chúng ta và nghe chúng ta hay không cũng không quan trọng.” (76)

Tất nhiên, theo quan điểm của Ratzinger, định hướng đó biểu thị một sự nhấn mạnh quá mức vào Giáo hội như dân Thiên Chúa, một điều, theo một số kiểu tư tưởng hiện đại, đủ dễ dàng rơi vào chỗ coi nhiệm vụ chính của Giáo hội là chính trị. Nhưng đối với Ratzinger, điều này khiến mọi sự trở nên thụt lùi một cách sâu xa. Như ngài viết trong Lễ Đức Tin (Feast of Faith), “Chỉ khi nào con người, mọi người, đứng trước mặt Thiên Chúa và chịu trách nhiệm trước mặt Người, thì con người mới có thể được bảo đảm trong phẩm giá của mình như một hữu thể nhân bản. Do đó, mối quan tâm đến hình thức thờ phượng thích hợp không phải là ngoại vi mà là trung tâm đối với mối quan tâm của chúng ta về chính con người.” (77) Bằng những cụm từ gợi nhớ đến một số quan điểm căn bản của von Balthasar, Ratzinger đã nói về việc học ngôn ngữ phụng vụ từ Mẹ của chúng ta là Giáo hội. Và ngài đã theo Romano Guardini khi nói rằng phụng vụ phải luôn là sự pha trộn giữa các yếu tố vũ trụ, lịch sử và mầu nhiệm. Việc làm cho phụng vụ trở nên quá bình dân không chỉ làm hỏng các chiều kích của phụng vụ, chẳng hạn như âm nhạc – luôn là mối quan tâm lớn đối với Ratzinger và anh trai của ngài, Georg, một linh mục và nhạc sĩ của Giáo hội – mà còn làm tắt tiếng các chiều kích cấu trúc, sâu sắc đó. Nói quá nhiều, quỳ gối biến mất, và linh mục bị coi thường vì cho là “quay lưng lại với giáo dân”—thực ra là một sự hiểu sai về mặt xã hội học đối với tập tục lâu đời là để tất cả những người tham dự Thánh Thể quay mặt về phía Đông như hình ảnh về sự trở lại của Chúa Phục sinh—là những phương thức mà việc bình dân hóa sai lầm này đã tự biểu lộ. Và hậu quả tổng thể là đánh đổi chiều kích siêu việt của con người, điều mà rất nhiều người trong thế giới hiện đại tìm kiếm, để lấy một cảm thức nông cạn về cộng đồng.

Ratzinger được Đức Phaolô VI yêu cầu trở thành tổng giám mục của Munich-Freising vào năm 1977 và bốn năm sau được Đức Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin - Văn phòng Thánh, như đã từng được gọi - với trách nhiệm định chế giám sát những gì thuộc về bên trong và bên ngoài niềm tin Công Giáo. Điều này đòi hỏi rất nhiều sự khéo léo từ phía ngài, nhưng cũng có những ứng dụng của giáo hội học rất phức tạp mà ngài đã phát triển trong nhiều năm, một giáo hội học tôn trọng cả chiều kích dân Chúa cũng như vai trò không thể thiếu của các giám mục trong các Giáo Hội địa phương và vị trí hoàn cầu của Đức Giáo Hoàng trong việc đại diện và giảng dạy chân lý của Chúa Kitô. Chẳng hạn, Ratzinger nhắc nhở mọi người rằng Lumen Gentium, những từ đầu tiên của Hiến chế công đồng về Giáo hội, không biến Giáo hội thành ánh sáng thế gian, mà là Chúa Kitô (Lumen gentium cum sit Christus [vì Chúa Kitô là ánh sáng muôn dân]). Để ánh sáng đó tỏa sáng, chúng ta phải nhìn thấy nguồn gốc lịch sử của nó nhưng cũng phải tính đến sự phát triển của nó theo thời gian cho đến hiện tại và tương lai. Đó không phải chỉ là tín lý mà còn là định chế sống—các giám mục là giám mục vì các ngài sống và giảng dạy liên tục với những người đã hoàn thành cùng vai trò trước các ngài.

Và mặc dù Giáo hội sẽ không hoàn hảo và cho đến ngày tận thế mới bước vào Giêrusalem Mới, nhưng Giáo hội nắm giữ những khả thể rộng mở sẽ không được thể hiện trong bất cứ trật tự trần thế nào, dù thánh thiêng hay trần tục. Chính lập trường thần học này, ít nhất đã có từ thời Augustinô, đã đặt Ratzinger Tổng Trưởng chống lại các nền thần học giải phóng trong thập niên 1980. Theo một nghĩa nào đó, ngài đã nhận ra sớm hơn trong tư cách một giáo sư và viên chức đại học vào thập niên 1960: “Tôi đã học được rằng không thể thảo luận với khủng bố và về khủng bố, vì không có tiền đề cho một cuộc thảo luận — và một cuộc thảo luận như vậy trở thành sự hợp tác với khủng bố.... Tôi nghĩ rằng trong những năm đó [thập niên 1960], tôi đã học được việc cuộc thảo luận phải dừng lại ở chỗ nào vì nó đang biến thành dối trá, và phản kháng phải bắt đầu để duy trì tự do”, như ngài nói với Tạp chí New York Times năm 1985. (78) Sự phân biệt lâu đời giữa những điều thuộc Xêda và những điều thuộc Thiên Chúa cũng rất quan trọng bởi vì “nơi nào thiếu tính nhị nguyên như vậy, thì tính toàn bộ, tức là, hệ thống toàn trị là không thể tránh khỏi.” (79)

Trong Giáo hội, hành động cân bằng khó khăn luôn phản ảnh tính đa dạng của các quan điểm—một tính đa dạng được xây dựng trong Tân Ước bởi chính bốn sách Tin Mừng cũng như bởi nhiều cách giải thích tiên tiến về chúng kể từ thời các Giáo phụ-và sự hiệp nhất cần thiết do Chúa Kitô mong muốn. Ngoài ra, trong hoàn cảnh hiện đại, các yếu tố chủ quan và khách quan, lịch sử và vĩnh cửu, tạo nên nhiều thách thức khác nhau mà Giáo hội phải đón nhận mà không đánh mất năng lực truyền giáo của mình như người mang chân lý của Chúa Kitô. Đối với Ratzinger, sau Công đồng Vatican II, chẳng hạn, mối quan hệ nhất thiết giữa việc trở về nguồn (sự trở lại với các nguồn trong Kinh thánh và các Giáo phụ) và cập nhật (aggiornamento, tức việc trình bày lại truyền thống cho thời đại đặc thù của chúng ta) phần lớn đã bị cắt đứt để ủng hộ điều sau, với kết quả là Giáo hội thấy mình hiện diện trên thế giới, nhưng với rất ít điều để nói rằng đó chưa phải là một phần của nền văn hóa xung quanh.

Điều này thể hiện khá rõ ràng trong Báo cáo Ratzinger, một cuộc phỏng vấn dài sau xuất bản thành sách cùng với Vittorio Messori, một cuốn sách đã gây được tiếng vang trên toàn thế giới vào thập niên 1980. Vị tổng trưởng Bộ Giáo lý Đức tin khi đó đã nói khá thẳng thắn về nhiều vấn đề mà Giáo hội đang phải đối diện, nhất là sự xáo trộn nội bộ của chính Giáo hội và nhu cầu “tái khám phá” Công đồng Vatican II - nghĩa là đọc nó một cách trung thực hơn. Một phần của khám phá lại đó là nhu cầu đọc lại nhiều quan niệm đương thời về thần học và giáo hội học đã dẫn đến sự rối loạn về thẩm quyền, tín điều thần học và nền luân lý căn bản của Kitô giáo. Ngài cũng có một số quan sát sắc bén về phong trào duy nữ, phụng vụ, đại kết, thần học giải phóng và nhu cầu loan báo Chúa Kitô một lần nữa. Đối với những người đánh giá cao Ratzinger, đây là một luồng gió mới trong thời kỳ khủng hoảng. Đối với những người không thích ngài, điều đó xác nhận điều họ tin là ngài đã từ một người cấp tiến trở thành một người bảo thủ độc đoán.

Nhưng lời tố cáo sau không hoàn toàn công bằng. Trong một số cuốn sách sau đó, đôi khi được tổng hợp từ các bài giảng mà ngài được yêu cầu thực hiện, ngài đã tự biểu lộ như một nhà bình luận sâu rộng và nhạy cảm về mọi điều, từ sinh thái học đến khủng hoảng văn hóa của phương Tây. (80) Ngay một cái nhìn lướt qua vào các bản văn này – vốn tạo nên thành quả kỳ diệu từ một con người lúc đó đang đảm nhận một công việc đòi hỏi khắt khe trong cơ cấu giáo triều Rôma—cho thấy rằng ngài không phải là người bảo thủ theo nghĩa chỉ tìm cách bảo vệ hiện trạng trong Giáo hội hoặc thế giới. Thật vậy, lối suy nghĩ của ngài hoàn toàn trái ngược với kiểu luyến tiếc quá khứ mà một số người Công Giáo bảo thủ vốn biểu lộ. Ratzinger đã thực sự cố gắng suy nghĩ về ý nghĩa của đạo Công Giáo Tin Mừng trong điều kiện hiện đại và hậu hiện đại. Trong những cuộc đối thoại với các nhà trí thức giáo dân như Jürgen Habermas và Marcello Pera, (81) Ratzinger đã cho thấy mình ngang hàng với bất cứ nhà trí thức châu Âu nghiêm túc nào vào thời của ngài. Ngài sở hữu một bộ óc cố gắng suy nghĩ, không thụt lùi mà hướng tới một mùa hưng thịnh mới về văn hóa và tôn giáo.

Khi trở thành giáo hoàng, lập trường này càng rõ rệt hơn. Ngay trước cuộc bầu cử ngài, ngài đã có một bài giảng cho các Hồng Y tập hợp tại mật nghị, trong đó ngài tóm tắt phần lớn những gì ngài đã nói trong hai mươi năm trước. Người ta chú ý nhiều nhất đến một cụm từ duy nhất: “chế độ độc tài duy tương đối”. (82) Năm 2005, vài ngày trước khi Đức Gioan Phaolô II qua đời, Ratzinger đã có một bài giảng tại tu viện Biển Đức ở Subiaco, trong đó ngài đã khá cởi mở đối với nhiều điều ngoài việc thời hiện đại hiển nhiên thiếu khả năng để tự tin về sự thật và các phán đoán luân lý. Thực thế, ngài đã bắt đầu bằng cách mô tả thời điểm hiện tại như “một thời điểm của những mối nguy hiểm lớn lao và những cơ hội lớn lao cho con người và thế giới”. (83) Khi nói điều này, ngài muốn nói rằng khoa học và kỹ thuật đã mang lại cho chúng ta những sức mạnh to lớn, cho cả điều tốt lẫn điều xấu. Và xa hơn nữa, cách mà nhận thức đơn thuần có tính kỹ thuật đã tiến tới chỗ thống trị mọi điều khác, tự nó đủ gây lo ngại: “Như vậy, nét huy hoàng được làm hình ảnh của Thiên Chúa không còn tỏa sáng trên con người, vốn là điều ban cho con người phẩm giá và quyền bất khả xâm phạm, và con người bị để mặc với sức mạnh của các năng lực nhân bản của chính mình. Họ không hơn gì hình ảnh của con người – của con người nào?” (84) Có một “thuyết duy luân lý mới” nói về tự do và phẩm giá, nhưng trong thực hành cụ thể, nó thường dẫn đến việc các quốc gia chà đạp con người một cách thô bạo:

“Chủ nghĩa duy luân lý chính trị, như chúng ta đã sống và vẫn đang sống, không mở đường cho sự tái sinh, thậm chí còn cản trở nó. Do đó, điều y hệt cũng đúng cho một Kitô giáo và một nền thần học chuyên giản lược tâm điểm thông điệp của Chúa Giêsu, “vương quốc của Đức Chúa Trời,” chỉ còn là “các giá trị của vương quốc”, đồng nhất hóa các giá trị này với những từ ngữ chủ chốt của chủ nghĩa duy luân lý chính trị, và đồng thời tuyên bố chúng như một tổng hợp của các tôn giáo.

“Tuy nhiên, Thiên Chúa bị bỏ quên theo cách này, bất chấp sự kiện chính Người là chủ thể và nguyên nhân của vương quốc Thiên Chúa. Thay vào đó, những lời nói (và giá trị) vĩ đại vẫn còn đó, nhưng phục vụ mọi hình thức lạm dụng.” (85)

Theo Đức Bênêđíctô, gốc rễ của vấn đề này là sự thống trị của một loại lý tính phi lý ở chỗ nó coi phương pháp khoa học hiện đại là phương thức duy nhất của chân lý: “Vì luân lý thuộc về một lĩnh vực hoàn toàn khác, nên nó biến mất như một phạm trù vào chính nó và phải được nhận diện cách khác, trong chừng mực phải thừa nhận rằng luân lý là thiết yếu, trong bất cứ trường hợp nào.” (86)

Việc loại trừ tôn giáo khỏi văn hóa châu Âu – và nói rộng hơn, khỏi mọi nền văn hóa lấy lý trí của Phong trào Ánh sáng làm tiêu chuẩn – xem ra giống như một sự mở đầu cho một nền văn hóa trung lập và phổ quát. Nhưng thực ra, nó chỉ dung thứ và bao gồm các cách suy nghĩ và lý luận khác trong chừng mực phải tuân theo các tiêu chuẩn của Phong trào Ánh sáng – điều mà các nhà tư tưởng hậu hiện đại cũng như Ratzinger biết là không trung lập cũng không phổ quát, mà là sản phẩm của văn hóa châu Âu tại một thời điểm đặc thù. Có những yếu tố phổ quát trong nền văn hóa Ánh sáng đó, cũng như trong tất cả các nền văn hóa của loài người, nhưng chúng thường bắt nguồn từ những quan điểm tiền hiện đại về thế giới và con người. Chúng dường như không tuôn chảy một cách tự nhiên từ tính hợp lý khá hạn hẹp của khoa học và kỹ thuật hiện đại:

“Nói như vậy, không phải người ta phủ nhận tất cả những gì tích cực và quan trọng của nền triết học này, mà ngược lại, người ta khẳng định việc nó cần tự hoàn thiện, một việc nó thiếu sót một cách sâu xa. Và vì vậy, một lần nữa chúng ta phải giải quyết hai điểm gây tranh cãi trong Lời nói đầu của Hiến pháp Châu Âu. Việc loại bỏ nguồn gốc Kitô giáo không tự biểu lộ như biểu thức của lòng khoan dung cao hơn, nhằm tôn trọng mọi nền văn hóa cùng một cách, không muốn đặc ân cho bất cứ nền văn hóa nào, mà đúng hơn như một tuyệt đối hóa một kiểu suy nghĩ và lối sống hoàn toàn trái ngược với các nền văn hóa lịch sử khác của nhân loại.” (87)

Đây là bối cảnh mà chế độ độc tài của chủ nghĩa duy tương đối xuất hiện. Mục tiêu của Ratzinger là một “chủ nghĩa duy lý” cao hơn: “Đây có phải là một sự bác bỏ đơn giản đối với Phong trào Ánh sáng và tính hiện đại không? Tuyệt đối không. Ngay từ đầu, Kitô giáo đã tự hiểu mình là tôn giáo của 'Lời’ [Logos], là tôn giáo phù hợp với lý trí... Đề xuất một lần nữa các giá trị nguyên thủy này của Kitô giáo và trả lại cho lý trí tiếng nói của chính nó đã là và vẫn còn là công lao của Phong trào Ánh sáng.” (88) Và thậm chí còn sâu xa hơn, điều này nêu ra một câu hỏi mà với nó, thế giới hiện đại khó lòng thấu hiểu: “thế giới bắt nguồn từ điều phi lý, và do đó, lý trí không phải là gì khác hơn là một 'sản phẩm phụ', thậm chí đôi khi có hại cho sự phát triển của nó, hay thế giới bắt nguồn từ lý trí, và như một hệ quả, là tiêu chuẩn và mục tiêu của nó?.” (89) Ngài không tiếc lời nói về ý nghĩa của điều này, ngay cả khi ít người nhìn thấy nó: “Một lý do bắt nguồn từ sự phi lý, và xét cho cùng, bản thân nó cũng phi lý, không tạo thành một giải pháp cho vấn đề của chúng ta. Chỉ có lý trí sáng tạo, được biểu lộ nơi Thiên Chúa chịu đóng đinh như tình yêu, mới có thể thực sự chỉ đường cho chúng ta. Trong cuộc đối thoại hết sức cần thiết giữa những người duy thế tục và người Công Giáo, các Kitô hữu chúng ta phải hết sức cẩn thận để trung thành với đường lối căn bản này: sống một đức tin phát xuất từ ‘Lời’ [Logos], từ lý trí sáng tạo, và nhờ đó, cũng cởi mở đối với tất cả những gì thực sự hợp lý.” (90)

Ngài kết thúc với lời kêu gọi cuối cùng. Immanuel Kant muốn thiết lập một nền luân lý từ lý trí, một nền luân lý sẽ nói lên điều gì là đúng etsi Deus non daretur: “ngay cả khi Chúa không hiện hữu”. Ratzinger đưa ra một đề nghị hơi khác:

“Nỗ lực, được thực hiện đến mức cực đoan, để quản lý các công việc của con người, hoàn toàn coi thường Thiên Chúa, ngày càng dẫn chúng ta đến bờ vực thẳm, đến việc con người càng ngày càng bị cô lập khỏi thực tại. Chúng ta phải đảo ngược tiên đề của Phong trào Ánh sáng và nói: Ngay cả một người không thành công trong việc tìm ra con đường chấp nhận Thiên Chúa, tuy nhiên, nên tìm cách sống và định hướng cuộc sống của mình “veluti si Deus daretur,” như thể Thượng đế hiện hữu. Đây là lời khuyên mà Pascal đã đưa ra cho những người bạn không tin của mình. Bằng cách này, không ai bị giới hạn trong quyền tự do của mình, nhưng tất cả các công việc của chúng ta đều tìm được sự hỗ trợ và tiêu chuẩn mà chúng đang cần một cách cấp thiết.” (91)

Khi Ratzinger trở thành Đức Bênêđictô XVI, ngài tiếp tục nhấn mạnh chủ đề này, mặc dù ngài cũng dẫn nhập, thông qua các thông điệp đầu tiên của ngài, một cảm thức cấp bách hơn về nhu cầu cần có caritas, đức ái theo nghĩa thần học, để cung cấp thông tin cho toàn bộ cuộc sống con người từ các mối quan hệ liên bản vị đến các điểm đặc thù của đời sống kinh tế. Ở một số khía cạnh, điều này phản ảnh cảm thức liên đới mạnh mẽ hơn, thường được giải thích như chủ nghĩa duy nhà nước [statism] theo truyền thống của học thuyết xã hội Công Giáo, một sự kiện làm khó chịu không ít người Công Giáo bảo thủ. Nhưng lời khuyến nghị của Đức Bênêđictô về sự liên đới công cộng đã không quên một số bài học thu được từ kinh nghiệm của Chủ nghĩa Cộng sản và những cởi mở mà Đức Gioan Phaolô II đã dành cho nền kinh tế dựa trên thị trường. Dường như ngài chủ yếu muốn nhìn thấy các vấn đề của con người ở bình diện quốc gia và quốc tế được thông tri đầy đủ hơn bởi một lý trí đầy đủ hơn, một lý trí bắt nguồn từ Logos cũng là Caritas.

Theo nghĩa đó, bài thuyết trình gây tranh cãi năm 2006 của ngài tại Đại học Regensburg—nơi ngài từng giảng dạy nhiều thập niên trước đó trong tư cách một giáo sư trẻ—đã che đậy phần lớn cuộc tranh luận thần học vào cuối thế kỷ XX. (92) Đức Bênêđíctô đã đề cập sơ qua đến Manuel II Palaeologus, một hoàng đế Byzantine thời trung cổ, khi trò chuyện với “một người Ba Tư có học thức” (một người Hồi giáo không được nêu tên trong lịch sử), đã lập luận rằng tôn giáo là vấn đề của lý trí chứ không phải vũ lực. Trong mối quan hệ mong manh Kitô giáo-Hồi giáo hiện hữu sau ngày 11 tháng 9 năm 2001, nhiều người coi đây là một sự xúc phạm chống lại Hồi giáo, những người này dường như cũng muốn sử dụng một thí dụ được thừa nhận là khiêu khích để tấn Công Giáo hoàng nói chung hơn. Nhưng điểm chính trong bài giảng của ngài không phải là về đạo Hồi – hay ít nhất không phải chỉ nói về đạo Hồi– mà là về điều gì sẽ xảy ra khi tôn giáo và lý trí bị tách rời nhau. Đó là về diễn trình phi Hy Lạp hóa Kitô giáo, điều đã dẫn đến sự tách rời đức tin khỏi lý trí — và những cách thức mà, như ngài từng nói tại Subiaco, nền văn minh phương Tây đang phải gánh chịu một phiên bản hạn hẹp của lý trí, chứ không phải phiên bản đầy đủ hơn bắt nguồn từ việc nắm lấy Logos nguyên khởi, sáng tạo.

Theo quan điểm của ngài, quá trình phi Hy Lạp hóa diễn ra theo ba giai đoạn. Đầu tiên, Luther nhấn mạnh vào sola Scriptura, vốn có một số biện minh như là một phản ứng đối với Chủ nghĩa Kinh viện bị thổi phồng quá mức—nhưng đã đi quá xa. Sau đó, có Adolf Harnack và trường phái thần học duy lý ở thế kỷ 19 tuyên bố ảnh hưởng của Hy Lạp là sự bồi đắp sau này và muốn quay trở lại với một “Chúa Giêsu đơn giản”, người thực sự được đúc khuôn lại dưới hình thức “tính duy lý” của thế kỷ 19. Điều đó đã bỏ qua phần lớn Kitô giáo lịch sử. Cuối cùng, có quan điểm hiện đại cho rằng sự hội nhập văn hóa ban đầu ở Hy Lạp chỉ là một hình thức—nhiều hình thức khác cũng có giá trị như nhau—của thông điệp Tin Mừng nguyên thủy. Đức Bênêđíctô kiên quyết bác bỏ tất cả những điều này như sai lầm về mặt trí thức và coi thường kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa trong việc Kitô giáo xuất hiện dưới hình thức như vậy:

“Và vì vậy tôi đi đến kết luận của tôi. Nỗ lực này, được vẽ bằng những nét vẽ rộng, nhằm phê phán lý trí hiện đại từ bên trong không liên quan gì đến việc đưa đồng hồ quay ngược thời gian trước thời Phong trào Ánh sáng và bác bỏ những hiểu biết sâu sắc của thời hiện đại. Những khía cạnh tích cực của thời hiện đại cần được thừa nhận một cách không dè dặt: tất cả chúng ta đều biết ơn về những khả năng kỳ diệu mà nó đã mở ra cho nhân loại và về sự tiến bộ của nhân loại đã được ban cho chúng ta. Hơn nữa, đặc tính khoa học là... ý chí vâng theo chân lý, và như vậy, nó hiện thân một thái độ vốn thuộc về những quyết định thiết yếu của tinh thần Kitô giáo. Mục đích ở đây không phải là cắt giảm hay chỉ trích tiêu cực, mà là mở rộng khái niệm của chúng ta về lý trí và ứng dụng của nó. Trong khi chúng ta vui mừng trước những khả năng mới mở ra cho nhân loại, chúng ta cũng thấy những mối nguy hiểm phát sinh từ những khả năng này và chúng ta phải tự hỏi mình làm thế nào để vượt qua chúng. Chúng ta sẽ chỉ thành công khi làm như vậy nếu lý trí và đức tin kết hợp với nhau theo một cách mới, nếu chúng ta vượt qua giới hạn tự áp đặt của lý trí đối với điều có thể sai lệch về mặt thực nghiệm, và nếu chúng ta một lần nữa tiết lộ những chân trời rộng lớn của nó. Theo nghĩa này, thần học xứng đáng thuộc về trường đại học và trong cuộc đối thoại rộng rãi của các khoa học, không những trong tư cách một bộ môn lịch sử và một trong những khoa học về con người, mà chính trong tư cách thần học, trong tư cách cuộc điều tra tính hợp lý của đức tin. Chỉ như vậy chúng ta mới có khả năng đối thoại chân thực giữa các nền văn hóa và tôn giáo hết sức cần thiết ngày nay.” (93)

Những lời cuối cùng của ngài trong bài giảng xác nhận kiểu theo đuổi lý trí mà ngài coi là một nhiệm vụ thế tục và tôn giáo: “Chính vì logos vĩ đại này, với bề rộng của lý trí này, mà chúng ta mời các đối tác của mình tham gia vào cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa.” (94) Kết hợp với những nghiên cứu của ngài về truyền thống Kitô giáo và đặc biệt những cuốn sách sau này về Tân Ước (sẽ được xem xét trong chương sau), Đức Bênêđíctô đã cung cấp một loại tổng kết về tư tưởng Công Giáo hiện đại và cung cấp cho thần học một số nhiệm vụ trong lãnh vực đức tin và lý trí không thể không trở thành một động lực, không những trong Giáo Hội Công Giáo mà còn trong cuộc đối thoại hoàn cầu hiện nay của các tôn giáo và các nền văn hóa.

Ghi Chú

1 Karl Rahner, S.J., “Towards a Fundamental Theological Interpretation of Vatican II” [Hướng tới một lối giải thích thần học cơ bản về Vatican II], Theological Studies 40, no. 4 (1979): 716-27.

2 Mark Lowery, “Retrieving Rahner for Orthodox Catholicism” [Truy tìm Rahner cho Đạo Công Giáo Chính thống], Faith & Reason (Fall 1991), 251-72.

3 Ví dụ, hãy xem, Karen Kilby, Karl Rahner: A Brief Introduction [Kark Rahner: Một Dẫn nhập ngắn](New York: Crossroad, 2007), 75-78. Cuốn sách của Kilby trình bày các lập luận của Rahner một cách công bằng, nhưng cô cũng cân nhắc điểm mạnh, điểm yếu và tính hợp lý của chúng, dựa trên khía cạnh “hối lỗi” của Rahner.

4 Joseph Ratzinger, radio interview with Stephanscom [cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh với Stephanscom], March 3, 2004.

5 Philip Endean, Karl Rahner and Ignatian Spirituality [Karl Rahner và Linh đạo I-Nhã] (New York: Oxford University Press, 2001).

6 Karl Rahner, S.J., Theological Investigations [Điều tra thần học] (New York: Crossroad, 1982—).

7 Từ Theological Investigations [Điều tra thần học] 9:122, trích dẫn trong Kilby, Karl Rahner, 6.

8 See R. R. Reno, “Rahner the Restorationist” [Rahner Người Xét Lại], First Things, May 2013.

9 See Thomas Sheehan, “Rahner’s Transcendental Project” [Dự án siêu việt của Rahner], trong Declan Marmion and Mary E. Hines, eds., The Cambridge Companion to Karl Rahner [Sách Hướng dẫn đọc Karl Rahner] (Cambridge and New York: Cambridge University Press, 2005), 29-42, đặc biệt ở trang 33.

10 Xem phần thảo luận về những câu hỏi này trong Patrick Burke, Reinterpreting Rahner: A Critical Study of His Major Themes See the discussion of these questions in Patrick Burke, Reinterpreting Rahner: A Critical Study of His Major Themes [Tái giải thích Rahner: Nghiên cứu có Phê phán các Luận đề Chính của ngài] (New York: Fordham University Press, 2002), 47-72.

11 Trích trong ibid., 97, từ “Zur Theologie des Symbols”, Schriften 4:293-94.

12 Hans Urs von Balthasar, The Moment of Christian Witness [Khoảnh khắc của nhân chứng Kitô giáo], bản dịch của Richard Beckley (San Francisco: Ignatius Press, 1994), 119ff.

13 “Third Church?” [Giáo hội thứ ba?], Theological Investigations 17:38-39.

14 Karl Rahner, Thoughts on the Possibility of Belief Today [Suy nghĩ về khả năng có được niềm tin ngày nay], bản dịch của Karl-H. Kruger (Baltimore: Helicon, 1966), 7-8.

15 Joseph Ratzinger với Vittorio Messori, The Ratzinger Report: An Exclusive Interview on the State of the Church [Báo cáo của Ratzinger: Một cuộc phỏng vấn độc quyền về Tình trạng của Giáo hội], Bản dịch của Salvator Attanasio and Graham Harrison (San Francisco: Ignatius Press, 1985), 197.

16 Joseph Ratzinger, Principles of Catholic Theology: Building Stones for a Fundamental Theology [Nguyên tắc thần học Công Giáo: Những viên đá xây dựng nền thần học cơ bản], bản dịch của Mary Frances McCarthy, S.N.D. (San Francisco: Ignatius Press, 1987), 166.

17 Xem Avery Dulles, S.J., “Karl Rahner on Humanae Vitae” [Karl Rahner về Humanae Vitae], America, September 28, 1968.

18 “Experiences of a Catholic Theologian” [Kinh nghiệm của một nhà thần học Công Giáo], Marmion and Hines, Cambridge Companion to Karl Rahner, 297-310. Đoạn văn được trích dẫn ở đây có thể được tìm thấy ở số 300-301.

19 Cùng nguồn, 299.

20 Cùng nguồn, 301.

21 Cùng nguồn,

22 Cùng nguồn, 302.

23 Cùng nguồn, 304.

24 Rowan Williams, Wrestling with Angels: Conversations in Modern Theology {Vật lộn với Cac Thiên thần: Các cuộc đàm đạo trong Nền Thần học Hiện đại] (Grand Rapids, Mich.: Eerdmans, 2007), 99.

25 Truth Is Symphonic: Aspects of Christian Pluralism [Chân lý là bản giao hưởng: Các khía cạnh của thuyết đa nguyên Kitô giáo] Bản dịch của Graham Harrison (San Francisco: Ignatius Press, 1987), ban đầu được xuất bản dưới tên Die Wahrheit ist symphonisch [Sự thật là một bản giao hưởng] năm 1972.

26 Henri de Lubac, S.J., The Church: Paradox and Mystery [Giáo hội: Nghịch lý và Mầu nhiệm] bản dịch của James R. Dunne (Staten Island, N.Y.: Alba House, 1969), 105.

27 Trong David L. Schindler, chủ biên, Hans Urs von Balthasar: His Life and Work [Hans Urs von Balthasar: Cuộc đời và công việc của ngài] (Communio Books; San Francisco: Ignatius Press, 1991), 1-5.

28 Cùng nguồn, 1.

29 Cùng nguồn, 2-3.

30 Cùng nguồn, 30.

31 Cùng nguồn,

32 Love Alone Is Credible [Chỉ có Tình yêu Đáng tin cậy], bản dịch của D. C. Schindler (San Francisco: Ignatius Press, 2004), 44; Nguyên bản tiếng Đức: Glaubhaft ist nur Liebe (1963). Nhiều người nghiên cứu Balthasar coi cuốn sách nhỏ này là nơi tốt nhất để bắt đầu nghiên cứu nhà thần học vĩ đại.

33 Cùng nguồn, 51.

34 Cùng nguồn, 53.

35 Cùng nguồn, 56.

36 The Theology of Karl Barth: Exposition and Interpretation[Thần học của Karl Barth: Trình bày và diễn giải], bản dịch của Edward T. Oakes, S.J. (Communio Books; San Francisco: Ignatius Press, 1992); Nguyên bản tiếng Đức: Karl Barth: Darstellung und Deutung seiner Theologie, 1951.

37 Edward T. Oakes, Pattern of Redemption: The Theology of Hans Urs von Balthasar [Khuôn mẫu Cứu chuộc: Nền Thần học của Hans Urs von Balthasar ] New York: Continuum, 1997), 217.

38 A Theology of History [Thần học lịch sử] Communio Books; San Francisco: Ignatius Press, 1994), 39-40; Nguyên bản tiếng Đức: Theologie der Geschichte, 1959.

39 Theo-Drama: Theological Dramatic Theory [Theo-Drama: Lý thuyết kịch tính thần học] l. 2: The Dramatis Personae: Man In God bản dịch của Graham Harrison (San Francisco: Ignatius Press, 1990), 250-51.

40 Trích dẫn bởi Peter Henrici, S.J., trong tiểu luận "Han Urs von Balthasar: A Sketch of His Life”,trong Schindler, Han Urs von Balthasar, 28.

41 Bản dịch của W.J. O’Hara, in lại trong Communio 33 (Spring 2006): 166.

42 Hans Urs von Balthasar, First Glance at Adrienne von Speyr [Cái nhìn đầu tiên về Adrienne von Speyr] Bản dịch của Antje Lawry và Sr. Sergia Englund, O.C.D. (San Francisco: Ignatius Press, 1981), 31.

43 Xem Dare We Hope “That All Men Be Saved?”? [Chúng ta có dám hy vọng “Rằng tất cả mọi người đều được cứu không?] với một diễn từ ngắn về Hỏa ngục bản dịch của David Kipp và cha Lothar Krauth, 2nd ed. (San Francisco: Ignatius Press, 2014): Nguyên bản tiếng Đức: Was dürfen wir hoffen? (1986).

44 Hans Urs von Balthasar, Our Task [Nhiệm vụ của chúng ta] bản dịch của Saward (Communio Books; San Francisco: Ignatius Press, 1994), 65.

45 Xem cuộc tranh luận giữa Alyssa Lyra Pistick và Edward T. Oakes, S.J., về câu hỏi này trong First Things , December 2006.

46 Trích dẫn từ Wer ist ein Christ? (Einsiedeln, Switz.: Benziger, 1965), 30, trong Schindler, Han Urs von Balthasar, 36.

47 Gustavo Gutierrez, A Theology of Liberation: History, Politics, and Salvation [Thần học giải phóng: Lịch sử, Chính trị và Sự cứu rỗi] Bản dịch và hiệu đính của Nữ tu Caridad Inda và John Eagleson (Maryknoll, N.Y.: Orbis Books, 1973). Nguyên bản Tây ban Nha ra đời năm 1970.

48 Xem George Weigel, chủ biên, A New Wordly Order: John Paul II and Human Freedom (Washington, D.C.: Ethics and Public Policy Center, 1992), để biết ví dụ điển hình về những phản ứng ủng hộ và chống đối ban đầu.

49 Một hướng dẫn hữu ích về nhiều vấn đề này do một người bạn của Đức Giáo Hoàng thực hiện là Maciej Zieba, Papal Economics: The Catholic Church on Democratic Capitalism, from Rerum Novarum to Caritas in Veritate [Kinh tế học của Giáo hoàng: Giáo Hội Công Giáo về Chủ nghĩa Tư bản Dân chủ, từ Rerum Novarum đến Caritas in Veritate](Wilmington, Del.: ISI Books, 2013).

50 Một ví dụ nổi bật của xu hướng này là Servais Pinckaers, O.P., The Sources of Christian Ethics [Các nguồn của Đạo dức học Ki-tô giáo], D.C.: Catholic University of America Press, 1995).

51 Gioan Phaolô II, Man and Woman He Created Them: A Theology of the Body [Đàn Ông và Đàn Bà Người đã Tạo dựng Họ: Thần học về Thân xác]Bản dịch của Michael M. Waldstein (Boston: Pauline Books & Media, 2006). Đây là một bản dịch được chỉnh sửa và thống nhất nhằm khắc phục một số điểm không nhất quán trong các bản dịch do Vatican thực hiện riêng lẻ khi mỗi buổi tiếp kiến diễn ra.

52 “Trong khi thừa nhận những hạn chế có thể có trong các lập luận của con người mà Huấn quyền sử dụng, các nhà thần học luân lý được kêu gọi phát triển sự hiểu biết sâu sắc hơn về các lý do nằm dưới các giáo huấn của nó và giải thích tính giá trị và tính chất bắt buộc của các giới luật mà Huấn quyền đề xuất, chứng minh mối liên hệ của chúng với nhau và mối quan hệ của chúng với mục đích cuối cùng của con người. Các nhà thần học luân lý phải nêu ra giáo huấn của Giáo Hội và trong khi thi hành thừa tác vụ của mình, nêu gương về sự tán thành trung thành, cả bên trong lẫn bên ngoài, đối với giáo huấn của Huấn Quyền trong các lĩnh vực tín điều và luân lý. Cùng hợp tác với Huấn quyền phẩm trật, các nhà thần học sẽ quan tâm sâu sắc đến việc làm sáng tỏ đầy đủ hơn bao giờ hết các nền tảng Kinh thánh, ý nghĩa đạo đức và các mối quan tâm nhân học làm nền tảng cho học thuyết luân lý và tầm nhìn về con người do Giáo hội đề ra” (VS 110).

53 “Thật vậy, sự hiểu biết và lòng cảm thương đích thực phải có nghĩa là yêu thương con người, vì thiện ích thực sự của con người, vì sự tự do đích thực của con người. Và điều này chắc chắn không phải là kết quả của việc che giấu hoặc làm suy yếu chân lý luân lý, mà là đề xuất nó theo ý nghĩa sâu sắc nhất của nó như là sự tuôn đổ Khôn ngoan vĩnh cửu của Thiên Chúa, mà chúng ta đã nhận được trong Chúa Kitô, và như một sự phục vụ cho con người, cho sự tăng trưởng tự do và đạt được hạnh phúc của họ” (VS 95).

54 ”Sự bất đồng, dưới hình thức các cuộc phản đối và bút chiến được dàn dựng cẩn thận được thực hiện trên các phương tiện truyền thông, chống lại sự hiệp thông của Giáo hội và sự hiểu biết đúng đắn về hiến pháp phẩm trật của Dân Thiên Chúa. Việc phản đối lời giảng dạy của các Mục tử của Giáo hội không thể được coi là một biểu hiện hợp pháp về quyền tự do Kitô giáo hoặc về sự đa dạng của các ân sủng của Chúa Thánh Thần. Khi điều này xảy ra, các Mục tử của Giáo hội có nhiệm vụ hành động phù hợp với sứ mệnh tông đồ của mình, đồng thời nhấn mạnh rằng quyền của tín hữu được tiếp nhận giáo lý Công Giáo trong sự trong sạch và toàn vẹn của nó phải luôn được tôn trọng. ‘Đừng bao giờ quên rằng mình cũng là thành viên của dân Chúa, nhà thần học phải tôn trọng họ và dấn thân cống hiến cho họ một giáo huấn không hề gây tổn hại đến giáo lý đức tin’” (VS 113).

55 Bản tóm tắt của Evangelium Vitae do Vatican ban hành cùng ngày được công bố đòi không những thẩm quyền nghiêm túc đối với việc giảng dạy của nó mà còn là sự nhất trí giữa các giám mục trên thế giới: “Thông điệp được trình bày với thẩm quyền giáo lý to lớn: Nó không chỉ là một cách diễn đạt, giống như mọi thông điệp khác, của huấn quyền thông thường của giáo hoàng, cũng như của tính hợp đoàn giám mục, được thể hiện đầu tiên trong công nghị bất thường của các Hồng Y vào tháng 4 năm 1991 và sau đó trong cuộc tham khảo ý kiến của tất cả các giám mục của Giáo Hội Công Giáo, những người nhất trí và kiên quyết đồng ý với lời dạy được truyền đạt trong đó” (số 5).

56 Gioan Phaolô II, The Poetry of Pope John Paul II: Roman Triptych; Meditations [Thơ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II: Bộ ba bức tranh Rôma; Suy Niệm] Bản dịch của Jerzy Peterkiewicz (Washington, D.C.: Nhà xuất bản USCCB, 2003).

57 Như trên, 24-25.

58 “Sứ điệp đầu tiên của Đức Bênêđictô XVI khi kết thúc Thánh lễ với các thành viên Hồng Y đoàn tại Nhà nguyện Sistine”, ngày 20 tháng 4 năm 2005. Từ bản dịch chính thức của Cơ quan Thông tin Vatican từ nguyên bản tiếng Latinh.

59 Joseph Ratzinger, “What Corpus Christi Means to Me: Three Meditations” [ánh Thể Chúa Kitô có ý nghĩa gì với tôi: Ba Suy Nghĩ] trong Lễ Đức Tin, Graham Harrison dịch (San Francisco: Ignatius Press, 1986), 127.

60 Joseph Ratzinger, Milestones: Memoirs [Các cột mốc: Ký ức] 1927—1977, Erasmo Leiva-Merikakis dịch (San Francisco: Ignatius Press, 1998), 20.

61 Cùng nguồn, 16.

62 Được trích dẫn trong Thomas P. Rausch, Pope Benedict XVI: An Introduction to His Theological Vision [Đức Giáo oàng Bênêđíctô XVI: Giới thiệu về Tầm nhìn Thần học của ngài](New York: Paulist Press, 2009), 47.

63 Ratzinger, Milestones: Memoirs , 52.

64 Trích trong Peter Seewald, Benedict XVI: An Intimate Portrait [Benedict XVI: Một bức chân dung thân mật] Henry Taylor và Anne Englund Nash dịch (San Francisco: Ignatius Press, 2008), 187.

65 Zachary Hayes dịch. (Chicago: Nhà xuất bản Franciscan Herald, 1971). Bản gốc tiếng Đức được xuất bản năm 1959.

66 Như trên, 8-9.

67 Joseph Ratzinger, Die erste Sitzungsperiode des zweiten Vatikan Konzils: Ein Rückblick [Phiên họp đầu tiên của Công đồng Vatican II: Một việc nhớ lại] Cologne, 1963), dịch và được Aidan Nichols trích dẫn trong The Thought of Pope Benedict XVI: An Introduction to the Theology of Joseph Ratzinger [ư tưởng của Giáo hoàng Bênêđíctô XVI: Giới thiệu về Thần học của Joseph Ratzinger](New York: Burns & Oates, 2005), 78.

68 Trong Lexikon für Thần học und Kirche [Từ điển Thần học và Giáo hội] tập 13, (Freiburg im Breisgau: Herder, 1967).

69 Ratzinger, Milestones: Memoirs , 125-26.

70 Trích trong Nichols, Thought of Pope Benedict XVI [Suy nghĩ của Giáo hoàng Bênêđíctô XVI],100.

71 Cùng nguồn, 102.

72 Joseph Ratzinger,Introduction to Christianity [Nhập môn Kitô giáo], J. R. Foster dịch(Communio Books; San Francisco: Ignatius Press, 2004).

73 Như trên, 99-100.

74 Ratzinger, Milestones: Memoirs , 137-38.

75 Cùng nguồn, 144.

76 Seewald, Benedict XVI, 204-5.

77 Ratzinger, Feast of Faith [Lễ Đức Tin] 7.

78, Ngày 24 tháng 11 năm 1985, trích dẫn trong Nichols,Thought of Pope Benedict XVI [Suy nghĩ của Giáo hoàng Bênêđíctô XVI, 182n24.

79 Joseph Ratzinger,The Church, Ecumenism, and Politics: New Endeavors in Ecclesiology [Giáo hội, Đại kết và Chính trị: Những nỗ lực mới trong Giáo hội học] Michael J. Miller và cộng sự dịch (San Francisco: Ignatius Press, 2008), 157.

80 Cf. Joseph Ratzinger,In the Beginning...: A Catholic Understanding of the Story of Creation and the Fall [Lúc khởi đầu...: Một sự hiểu biết của người Công Giáo về câu chuyện sáng thế và sự sa ngã] Boniface Ramsey, O.P. dịch (Grand Rapids, Mich.: Eerdmans, 1995). On the cultural crisis: Values in a Time of Upheaval[Về cuộc khủng hoảng văn hóa: Các giá trị trong thời kỳ biến động] Brian McNeil dịch (New York: Crossroad; San Francisco: Ignatius Press, 2006);Truth and Tolerance: Christian Belief and World Religions [Chân lý và Khoan dung: Niềm tin Kitô giáo và Tôn giáo Thế giới], Henry Taylor dịch (San Francisco: Ignatius Press, 2004), trong số những cuốn khác.

81 Xem Jürgen Habermas và Joseph Ratzinger,The Dialectics of Secularization: On Reason and Religion [Phép biện chứng của thế tục hóa: Về lý trí và tôn giáo],Brian McNeil, C.R.V. dịch (San Francisco: Nhà xuất bản Ignatius, 2006); và Joseph Ratzinger và Marcello Pera, Without Roots: The West, Relativism, Christian, Islam, [Không gốc rễ: Phương Tây, Chủ nghĩa tương đối, Ki-tô giáo, Hồi giáo] Michael F. Moore dịch (New York: Basic Books, 2006).

82 Thánh lễ “Pro Eligendo Romano Pontifice” [cầu cho việc bầu cử giáo hoàng] ngày 18 tháng 4 năm 2005, http://www.vatican.va/gpII/documents/homily-pro-eligendo-pontifice_20050418_en.html.

83 “Cardinal Ratzinger on Europe’s Crisis of Culture (Part 1)" (Đức Hồng Y Ratzinger về cuộc khủng hoảng văn hóa châu Âu (Phần 1)] Zenit, 26/7/2005, http://www.zenit.org/en/articles/cardinal-ratzinger-on-europe-s-crisis-of- văn hóa-phần-1.

84 Như trên.
85 Như trên.
86 Như trên..
87 Như trên, trang. 3, ngày 28 tháng 7 năm 2005.
88 Như trên, trang. 4, ngày 29 tháng 7 năm 2005.
89 Như trên.
90 Như trên.
91 Như trên.

92 Để có bình luận sâu sắc, đầy đủ văn bản, xem James V. Schall, The Regensburg Lesson (South Bend, Ind.: St. Augustine's Press, 2007).

93 Bài thuyết giảng của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, Đại học Regensburg, ngày 12 tháng 9 năm 2006.

94 Như trên. Về điểm này, xem Tracey Rowland, Ratzinger’s Faith: The Theology of Pope Benedict XVI [nền thần học của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI],Oxford University Press, 2008), 84-104.
 
VietCatholic TV
Hồ hởi sớm quá, Medvedev làm lộ âm mưu. Vụ tấn công cầu Crimea được đền đáp. 2 Đại Tá bị bắt là ai?
VietCatholic Media
03:19 09/05/2024


1. Mạng lưới đặc vụ Nga bị phá vỡ sau khi Kyiv đập tan âm mưu ám sát Tổng thống Zelenskiy

Tờ The Sun có trụ sở ở Luân Đôn có bài tường trình nhan đề “KILL LIST Ukraine foils assassination attempt on Zelenskiy after Putin spies ‘tried to infiltrate bodyguards to kidnap & kill him’”, nghĩa là “DANH SÁCH GIẾT Ukraine phá vỡ âm mưu ám sát Zelenskiy sau khi gián điệp của Putin 'cố gắng thâm nhập vào các vệ sĩ để bắt cóc và giết Tổng thống'“. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.

Cơ quan tình báo UKRAINE cho biết họ đã ngăn chặn một âm mưu ám sát của Nga nhằm “bắt cóc và giết” Tổng thống Zelenskiy sau khi lực lượng tình báo của Putin được cho là đã cố gắng xâm nhập vào hàng ngũ các vệ sĩ của ông.

SBU đã vạch trần một mạng lưới điệp viên mà họ tuyên bố đang chuẩn bị “loại bỏ” nhà lãnh đạo Ukraine cũng như các nhân vật chính trị và quân sự cao cấp khác.

Ukraine thông báo đã bắt giữ hai đại tá đang tìm cách “ám sát Volodymyr Zelenskiy” như một món “quà nhậm chức dành cho Vladimir Putin”.

Phát ngôn nhân của SBU Artem Dekhtiarenko cho biết “Các hoạt động của mạng lưới được FSB giám sát từ Mạc Tư Khoa, bao gồm hai đại tá, là những người đã ‘làm rò rỉ’ thông tin bí mật của Liên bang Nga.”

Các nghi phạm thuộc lực lượng Phòng Vệ Phủ Tổng Thống Ukraine, gọi tắt là UDO – đang bị cáo buộc tội phản quốc.

Họ phải đối mặt với án tù chung thân nếu bị kết án.

UDO chịu trách nhiệm cung cấp an ninh Phủ Tổng Thống và cho các yếu nhân khác.

Các đại tá được cho là đã lên kế hoạch sử dụng máy bay không người lái FPV, thuốc nổ cho súng phóng hỏa tiễn chống tăng di động, có thể tái sử dụng, không cần điều khiển, vác vai, và mìn chống tăng MON-90.

SBU cho biết Nga đã dày công cố gắng tìm ra một điệp viên trong số những người bảo vệ thân cận của tổng thống Zelenskiy.

“Đặc vụ được tuyển dụng có nhiệm vụ quan sát chuyển động và truyền tải thông tin.”

Sau đó, họ được cho là đã lên kế hoạch tiến hành một cuộc tấn công hỏa tiễn vào ngôi nhà an toàn của Zelenskiy và tiếp theo là các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái kamikaze.

“Sau đó, Nga đã lên kế hoạch phóng một hỏa tiễn khác, để phá hủy dấu vết sử dụng máy bay không người lái.”

Một trong những đại tá được cho là đã bị bắt khi đang đi đến một khu vực khác của Ukraine để thu thập máy bay không người lái và chất nổ.

Và người ta nghe thấy anh ta đang nói chuyện với 'người phụ trách' FSB của mình.

Cả hai Đại Tá bị bắt đều là người Ukraine gốc Nga.

SBU cũng tiết lộ các điệp viên Nga đang lên kế hoạch “thanh lý” nhà lãnh đạo SBU, Thiếu Tướng Vasyl Malyuk, và nhà lãnh đạo cơ quan tình báo quân sự Ukraine Trung Tướng Kyrylo Budanov, cùng với các quan chức cao cấp khác.

Theo cơ quan tình báo Ukraine, một phần của âm mưu đã bị vạch trần - bao gồm cả kế hoạch bắt cóc Budanov - được cho là xảy ra trước Lễ Phục sinh của Chính thống giáo Nga vào ngày 5 tháng 5.

Thiếu Tướng Malyuk nói: “Chỉ một số ít người được phép biết về cuộc hành quân đặc biệt của chúng tôi và cá nhân tôi đã theo dõi diễn biến của cuộc hành quân”.

“Vụ tấn công khủng bố vốn được cho là món quà dành cho Putin trước lễ nhậm chức thực ra là một thất bại của lực lượng đặc nhiệm Nga.

“Nhưng chúng ta không được quên - đối phương rất mạnh và giàu kinh nghiệm, không thể đánh giá thấp hắn.

“Chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc trước thời hạn để mọi kẻ phản bội đều nhận được bản án xứng đáng của tòa án.”

Sự thất bại của tình báo Nga được cho là của chính Điện Cẩm Linh xảy ra khi Putin nhậm chức tổng thống Nga lần thứ năm sau “chiến thắng” giả tạo của ông trong cuộc bầu cử gian lận hồi tháng Ba.

Tháng trước, Ba Lan đã bắt giữ một người đàn ông được cho là đang làm việc với cơ quan an ninh của Điện Cẩm Linh để giúp lên kế hoạch ám sát Zelenskiy.

Một cuộc điều tra chung, do cơ quan thực thi pháp luật Ba Lan và Ukraine dẫn đầu, cho thấy ông này “đã thiết lập các mối liên hệ với Liên bang Nga liên quan trực tiếp đến cuộc chiến ở Ukraine”.

Một tuyên bố cho biết: “Nhiệm vụ của ông ấy bao gồm thu thập và cung cấp thông tin tình báo quân sự cho Liên bang Nga về an ninh của Sân bay Rzeszów-Jasionka”.

Ý định của anh ta là “giúp các cơ quan đặc biệt của Nga lên kế hoạch cho một cuộc tấn công có thể xảy ra” nhằm vào Tổng thống Zelenskiy”.

Tổng công tố Ukraine Andrii Kostin cho biết vào thời điểm đó: “Vụ án này là một bằng chứng khác cho thấy Nga là mối đe dọa không chỉ đối với Ukraine và người Ukraine mà còn đối với toàn bộ thế giới tự do.

“Chế độ tội phạm của Điện Cẩm Linh không ngừng cố gắng phá hoại an ninh Âu Châu và toàn cầu.”

2. Nga vui mừng quá sớm nên kế hoạch ám sát Tổng thống Zelenskiy bị bại lộ

Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Ukraine arrests 2 rogue colonels over secret plot to murder Zelenskyy, Kyiv says”, nghĩa là “Kyiv nói Ukraine bắt giữ 2 đại tá xảo quyệt vì âm mưu bí mật sát hại Zelenskiy.” Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Lan Vy.

Dmitry Medvedev, cựu tổng thống Nga và hiện là phó chủ tịch Hội đồng An ninh Nga, đã nhiều lần kêu gọi ám sát nhà lãnh đạo Ukraine. Gần đây hắn ta đã đăng nhiều hình ảnh và bài viết tập trung vào một chủ đề duy nhất với các ám thị cho rằng Tổng thống Zelenskiy sẽ chết vì bị ám sát. Đặc biệt nhất là một bức tranh biếm họa về những viên đạn bắn trúng Zelenskiy như một tấm thiệp chúc mừng Ngày Quốc tế Lao động mùng một Tháng Năm. Tất cả những điều đó không lọt qua khỏi sự cảnh giác của các cơ quan an ninh Ukraine.

Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv hôm Thứ Ba, 7 Tháng Năm, cơ quan an ninh Ukraine cho biết họ đã phá vỡ âm mưu ám sát Tổng thống Volodymyr Zelenskiy bởi các quan chức an ninh Ukraine đang ngầm làm việc cho Nga.

Kyiv cho biết, hai đại tá chưa được nêu tên phục vụ trong lực lượng Phòng Vệ Phủ Tổng Thống trong cơ quan An ninh Nhà nước Ukraine, gọi tắt là SBU - tổ chức chính bảo vệ các quan chức hàng đầu bao gồm Zelenskiy – đã là thành viên của một nhóm đặc vụ bí mật giúp cơ quan an ninh Nga, FSB, lên kế hoạch ám sát.

Các đại tá đã bị bắt và Kyiv cho biết âm mưu bao gồm kế hoạch sát hại cả giám đốc SBU Thiếu Tướng Vasyl Malyuk và trùm Tình báo Quân đội Trung Tướng Kyrylo Budanov.

Zelenskiy trước đây cho biết ông đã sống sót sau hơn 10 vụ ám sát. Artem Dehtiarenko, phát ngôn viên của SBU, nói với POLITICO: “Nhưng đây là lần đầu tiên các quan chức cao cấp của cơ quan an ninh nhà nước trở thành tay sai của đối phương”.

Putin đã tiến hành một cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine trong hơn hai năm. Kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược, các quan chức và cơ quan an ninh Nga đã tiến hành các hoạt động tình báo chống lại Ukraine, nhằm mục đích lật đổ Zelenskiy và chính phủ của ông, đồng thời gieo rắc sự hoảng loạn trong quân đội và người dân Ukraine vốn đã kiệt sức vì chiến tranh.

Cả hai đại tá đều bị cơ quan an ninh Ukraine bắt giữ. Nếu bị tòa án tuyên có tội, họ sẽ phải đối mặt với án tù chung thân vì âm mưu tấn công khủng bố và phản quốc.

Cơ quan báo chí SBU cho biết: “Một trong những nhiệm vụ của mạng lưới tình báo FSB là tìm kiếm những kẻ hành quyết trong quân đội thân cận với tổng thống, những người đầu tiên có thể bắt ông làm con tin và sau đó giết ông”.

Ngoài Zelenskiy, một nhóm đặc vụ FSB bao gồm cả các đại tá vừa bị bắt đang lên kế hoạch ám sát trùm điệp viên Budanov, Kyiv cho biết.

Trong hoạt động đó, một điệp viên bí mật ở Ukraine có nhiệm vụ theo dõi hành tung của Budanov và chuyển thông tin cho các đặc vụ Nga từ FSB.

Tuyên bố nêu chi tiết cách người Nga lên kế hoạch tấn công một tòa nhà có Budanov trong đó bằng hỏa tiễn và sau đó giết những người sống sót bằng máy bay không người lái. Theo SBU, một trong những đại tá của cơ quan an ninh nhà nước đang cung cấp vũ khí cho các đặc vụ bí mật của FSB – máy bay không người lái FPV, súng RPG-7, cũng như mìn sát thương MON-90.

Thiếu Tướng Malyuk, nhà lãnh đạo SBU, người bị nhắm tới, cho biết: “Một số lượng hạn chế những người biết về cuộc hành quân đặc biệt của chúng tôi và tôi đã theo dõi sát diễn tiến cuộc hành quân phản gián này”. “Vụ tấn công khủng bố được cho là một món quà dành cho Putin trước lễ nhậm chức. Chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc trước thời hạn để mọi kẻ phản bội đều nhận được bản án xứng đáng của tòa án.”

Mặc dù các quan chức Nga đã tuyên bố tại Liên Hiệp Quốc rằng Điện Cẩm Linh không có kế hoạch giết Zelenskiy, nhưng Dmitry Medvedev, cựu tổng thống Nga và hiện là phó chủ tịch Hội đồng An ninh Nga, đã nhiều lần kêu gọi ám sát nhà lãnh đạo Ukraine.

Theo các phương tiện truyền thông tại Kyiv, có thể còn có các manh mối khác, nhưng thái độ đắc thắng của Medvedev liên quan đến chủ đề Tổng thống Zelenskiy bị ám sát đã là manh mối chính cho các lực lượng an ninh Ukraine.

Dmitry Anatolyevich Medvedev sinh ngày 14 tháng 9, năm 1965. Ông ta được bầu làm tổng thống trong cuộc bầu cử năm 2008. Ông phục vụ một nhiệm kỳ duy nhất và được kế nhiệm bởi Putin sau cuộc bầu cử tổng thống năm 2012. Medvedev sau đó được Putin bổ nhiệm làm thủ tướng. Ông từ chức cùng với phần còn lại của chính phủ vào ngày 15 tháng Giêng năm 2020 để cho phép Putin thực hiện những thay đổi sâu rộng về hiến pháp; ông được kế nhiệm bởi Mikhail Mishustin vào ngày 16 tháng Giêng năm 2020. Cùng ngày, Putin bổ nhiệm Medvedev vào chức vụ mới là phó chủ tịch Hội đồng An ninh quốc gia.

Medvedev thường được đánh giá là một người có chừng mực, cân bằng và tự do hơn so với người tiền nhiệm Vladimir Putin, là người cũng được bổ nhiệm làm thủ tướng trong nhiệm kỳ tổng thống của Medvedev. Chương trình nghị sự hàng đầu của Medvedev trên cương vị tổng thống là một chương trình hiện đại hóa trên diện rộng, nhằm hiện đại hóa nền kinh tế và xã hội Nga, đồng thời giảm bớt sự phụ thuộc của nước này vào dầu mỏ và khí đốt. Trong nhiệm kỳ của mình, Medvedev cũng phát động chiến dịch chống tham nhũng, mặc dù sau đó chính ông ta bị buộc tội tham nhũng hạng gộc.

Tuy nhiên, trong cuộc chiến tại Ukraine, người ta càng ngày càng thấy ông ta có những phát biểu điên cuồng, đặc biệt là luận điệu thường xuyên đe dọa thế giới bằng vũ khí hạt nhân.

3. Những vụ ám sát trước đây nhằm vào Zelenskiy

KỂ TỪ KHI Nga xâm chiếm Ukraine vào tháng 2 năm 2022, Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã sống sót và là đối tượng của một số vụ ám sát.

Vụ đầu tiên xảy ra chỉ vài tuần sau khi Nga đột nhập biên giới, sau các báo cáo cho rằng Vladimir Putin được cho là đã chỉ thị cho lãnh đạo Chechnya Ramzan Kadyrov tiêu diệt các nhà lãnh đạo Ukraine.

Đầu tháng 3, các biệt kích Chechnya được cử đi ám sát Zelenskiy đã nhanh chóng bị tình báo Ukraine “loại khỏi vòng chiến”.Cùng tháng đó, Công ty Quân sự Tư nhân Nga Redut được lệnh thâm nhập và loại bỏ giới lãnh đạo chính trị và Cơ quan Mật vụ Ukraine bằng cách tấn công vào các cơ quan ở khu vực Kyiv. Hơn một ngàn chiến binh Nga đã xuất hiện, nhưng có tới 90% trong số họ đã thiệt mạng. Nhiệm vụ nhanh chóng thất bại.

Vào tháng 8 năm 2023, có thông tin cho rằng một âm mưu ám sát khác đã bị ngăn chặn. Cơ quan an ninh Ukraine đã bắt giữ một phụ nữ bị tình nghi thu thập thông tin về chuyến đi của Zelenskiy tới vùng Mykolaiv.

Vào tháng 4 năm 2024, một người đàn ông Ba Lan, Paweł K, đã bị bắt vì tình nghi giúp Nga lên kế hoạch ám sát Zelenskiy tại phi trường Rzeszów-Jasionka của Ba Lan.

Bất chấp các báo cáo trái ngược nhau về số vụ ám sát Zelenskiy, cố vấn của Tổng thống Mykhailo Podolyak tiết lộ đã có “hơn một chục nỗ lực”.

Mưu toan ám sát vừa bị đập tan được kể là nghiêm trọng nhất vì nó liên quan đến hàng ngũ cao cấp của quân Ukraine, và là những người có thể tiếp cận với Tổng thống Zelenskiy một cách dễ dàng.

4. Điện Cẩm Linh bác bỏ cáo buộc của Ukraine về âm mưu ám sát Zelenskiy

Điện Cẩm Linh cho biết họ không bình luận về khẳng định của Ukraine rằng Kyiv đã bắt được các điệp viên Nga âm mưu ám sát tổng thống Volodymyr Zelenskiy, nhưng nói rằng khó có khả năng đó là thông tin chính xác.

Cơ quan an ninh nhà nước Ukraine hôm thứ Ba cho biết họ đã bắt được hai đặc vụ của Nga và 2 viên Đại Tá lên kế hoạch giết Zelenskiy và các quan chức hàng đầu khác như một “món quà” dành cho Putin khi ông tuyên thệ nhậm chức nhiệm kỳ mới.

Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết ông không bình luận gì về khẳng định này nhưng nói thêm rằng đó khó có thể là thông tin chính xác.

Peskov cũng từ chối bình luận về một tuyên bố của Tổng thống Zelenskiy hôm 8 Tháng Năm, là ngày Chiến thắng Đức Quốc Xã tại Ukraine, trong đó Tổng thống gọi Putin là một tên Quốc Xã và là một thằng hèn, sau khi vụ ám sát bị đập tan.

5. Vụ tấn công cầu Crimea của Ukraine dường như đã được đền đáp

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Ukraine's Crimea Bridge Bluster Appears to Have Paid Off”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Nga dường như không còn vận chuyển hàng hóa quân sự cho nỗ lực chiến tranh của mình qua đoạn hỏa xa của Cầu Crimea sau các cuộc tấn công liên tục của Ukraine.

Tuyến đường dài 12 dặm bao gồm một con đường bốn làn và một tuyến hỏa xa đôi, nối vùng Krasnodar của Nga với bán đảo bị Vladimir Putin sáp nhập bất hợp pháp vào năm 2014. Nó không chỉ là biểu tượng cho sự xâm lược của Mạc Tư Khoa mà còn là tuyến đường tiếp tế quan trọng cho các lực lượng chiến đấu trong cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine.

Và các cuộc tấn công vào công trình này, còn được gọi là Cầu Kerch, đã cản trở nguồn cung cấp hậu cần cho nỗ lực quân sự của Mạc Tư Khoa ở Ukraine. Vào ngày 17 tháng 7 năm 2023, một cuộc tấn công đã phá hủy một phần cả phần đường bộ và hỏa xa của cây cầu và Cơ quan An ninh Ukraine, gọi tắt là SBU, đã công bố một đoạn video về vụ tấn công. Điện Cẩm Linh cho biết thiệt hại có thể được khắc phục trong vòng ba tháng.

Tuy nhiên, Molfar, một cơ quan tình báo nguồn mở có trụ sở tại Kyiv, nói rằng phân tích hình ảnh vệ tinh Maxar trong hai giai đoạn trong năm qua cho thấy Nga đang định tuyến lại các nguồn cung cấp quân sự.

Giai đoạn đầu tiên Molfar xem xét là từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2023, trong thời gian đó các đoàn tàu chở hàng và hành khách đã đi qua phần hỏa xa của cây cầu.

Nhà lãnh đạo SBU Vasyl Maliuk cho biết vào tháng 3 năm 2024 rằng trước cuộc tấn công vào tháng 7 năm ngoái, tần suất các chuyến tàu chở vũ khí và đạn dược đã giảm từ 46 chuyến mỗi ngày xuống chỉ còn 4 hoặc 5 chuyến.

Nhưng Molfar phát hiện ra rằng không có đoàn tàu chở hàng chở thiết bị quân sự nào được phát hiện trên đoạn hỏa xa của cây cầu vào tháng 3 và tháng 4 năm nay. Hồi tháng 2, chỉ có một đoàn tàu chở hàng chở các thùng nhiên liệu đi qua cầu nhưng Molfar không thể xác nhận trên tàu có quân trang, quân dụng hay không.

Artem Starosiek, Giám đốc điều hành và người sáng lập của Molfar nói với Newsweek: “Không có lý do gì để tấn công cây cầu nữa vì SBU đã cắt đứt tất cả các hoạt động hậu cần quân sự đi qua nó”. Tuy nhiên, Nga đang vận chuyển hàng hóa từ Nga vào Ukraine thông qua các tuyến đường mới trên lãnh thổ mà nước này hiện đang chiếm giữ.

Ông nói: “Với tư cách là người Ukraine, tôi vẫn chọn đánh sập cây cầu vì nó mang ý nghĩa biểu tượng, nhưng đứng trên quan điểm của một nhà phân tích quân sự, tôi nghĩ tấn công vào các tuyến hỏa xa sẽ tốt hơn vì nó nguy hiểm hơn nhiều”.

Vào tháng 11 năm 2023, các cơ quan truyền thông được Mạc Tư Khoa hậu thuẫn đưa tin rằng đến cuối năm 2024, Nga có kế hoạch liên kết thành phố Rostov-on-Don với Crimea theo tuyến đường đi qua các thành phố bị tạm chiếm Berdyansk và Mariupol. Các chuyến tàu chở hàng đầu tiên được cho là đã đi trên đó vào tháng Ba.

Tờ báo The Times của Anh cũng đưa tin về kế hoạch hỏa xa giữa Rostov và các thành phố bị tạm chiếm ở Ukraine của Mạc Tư Khoa.

6. Tổng thống Iohannis: Rumani sẵn sàng thảo luận việc đưa Patriot tới Ukraine

Tờ Kyiv Independent cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “President Iohannis: Rumani open to discussing sending Patriot to Ukraine”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Lan Vy.

Rumani sẵn sàng thảo luận về khả năng gửi hệ thống phòng không Patriot tới Ukraine, Tổng thống nước này cho biết hôm 7 Tháng Năm, Reuters đưa tin.

Phát biểu tại Washington sau cuộc gặp với Tổng thống Mỹ Joe Biden, Klaus Iohannis cho biết ông sẽ thảo luận vấn đề này với Hội đồng Quốc phòng Tối cao của mình.

Đây là diễn biến mới nhất từ các quốc gia phương Tây nhằm đáp lại lời kêu gọi của Kyiv về việc tăng cường phòng không trước các cuộc tấn công bằng hỏa tiễn và máy bay không người lái của Nga vào các thành phố trên khắp Ukraine.

Iohannis cho biết: “Đã có cuộc thảo luận về việc ai có thể gửi hệ thống Patriot tới Ukraine trong vài tuần qua”.

“Tổng thống Biden đã đề cập đến nó... trong cuộc gặp của chúng tôi, và tôi nói rằng tôi sẵn sàng thảo luận. Tôi phải thảo luận vấn đề này tại Hội đồng Quốc phòng Tối cao để xem chúng tôi có thể đề nghị những gì và đổi lại những gì chúng tôi có thể nhận được, bởi vì việc rời Rumani mà không có lực lượng phòng không là không thể chấp nhận được”.

Rumani đã ký một thỏa thuận vào năm 2017 để mua các hệ thống Patriot nhưng cho đến nay chỉ có một hệ thống đang hoạt động. Iohannis cho biết bất kỳ cuộc thảo luận nào cũng sẽ liên quan đến một hệ thống đang trong giai đoạn đi vào hoạt động.

Đức hôm 13 Tháng Tư thông báo sẽ cung cấp thêm cho Kyiv một hệ thống Patriot. Thủ tướng Đức Olaf Scholz sau đó đã kêu gọi các đồng minh NATO khác cũng làm như vậy.

Thủ tướng Ba Lan Donald Tusk trả lời rằng Ba Lan không thể từ bỏ hệ thống Patriot được lắp đặt tại phi trường Rzeszow ở phía đông nam Ba Lan, vì đây là trung tâm hậu cần quan trọng để chuyển hàng viện trợ quốc phòng vào Ukraine.

Truyền thông Đông Phương ngày 22 Tháng Tư đưa tin Athens dự định gửi ít nhất một hệ thống Patriot tới Ukraine, nhưng Thủ tướng Đông Phương Kyriakos Mitsotakis đã bác bỏ điều này trong một cuộc phỏng vấn ngày 25 Tháng Tư.

Bộ trưởng Quốc phòng Tây Ban Nha Margarita Robles sau đó tuyên bố vào ngày 26 Tháng Tư rằng Tây Ban Nha sẽ gửi hỏa tiễn phòng không Patriot tới Kyiv. Chúng đã đến trong tuần này.

7. Báo cáo cho biết thuyền không người lái của hải quân Ukraine được nâng cấp hỏa tiễn phòng không

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Ukraine Naval Drones Get a Deadly Air-to-Air Missile Upgrade: Reports”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Quân đội Ukraine đã điều chỉnh các thuyền không người lái của hải quân để mang hỏa tiễn phòng không của Liên Xô, đoạn phim mới được hãng thông tấn nhà nước Nga Tass công bố cho biết.

Tass và Bộ Quốc phòng Nga hôm 6 Tháng Năm công bố đoạn phim cho thấy một trực thăng Ka-29 của Nga bắn vào một thuyền không người lái của hải quân Ukraine dường như được trang bị hỏa tiễn phòng không R-73 ở Hắc Hải.

Ukraine đã nhiều lần sử dụng thuyền không người lái tấn công Magura V5 để nhắm vào Hạm đội Hắc Hải của Nga như một phần trong nỗ lực không ngừng nhằm đòi lại bán đảo Hắc Hải, vốn đã bị Putin sáp nhập vào năm 2014.

Hạm đội Hắc Hải của Nga đã chịu tổn thất nặng nề trong suốt cuộc chiến toàn diện ở Ukraine. Hôm thứ Hai, tình báo quân sự Kyiv cho biết lực lượng Ukraine đã phá hủy một tàu cao tốc ở Vịnh Uzka ở Crimea bằng thuyền không người lái tấn công Magura V5.

Đoạn phim được truyền thông nhà nước Nga công bố cho thấy thuyền không người lái của hải quân Ukraine di chuyển để tránh bị trúng đạn pháo từ trực thăng Ka-29 của Nga.

Militarnyi, một cơ quan truyền thông quân sự Ukraine, cho biết hôm thứ Hai rằng thuyền không người lái dường như được trang bị hỏa tiễn phòng không R-73 của Liên Xô, thường được phóng từ các bệ phóng trên mặt đất.

“Đoạn phim cho thấy phương tiện mang hỏa tiễn là thuyền không người lái Magura V5 hiện đại hóa. Chúng đã được sử dụng trong cuộc tấn công ngày hôm nay vào tàu Nga ở Hắc Hải”, cơ quan này cho biết.

“GUR của Ukraine cho biết họ đã phá hủy một tàu tuần tra Dự án 12150 Mangust của Nga sáng nay bằng thuyền không người lái Magura V5. Đoạn phim từ Bộ Quốc phòng Nga và các kênh của Nga cho thấy một chiếc trực thăng Ka-29 đang bắn vào một thuyền không người lái khác của hải quân được cho là được trang bị hỏa tiễn đối không R-73”

Cựu Bộ trưởng Phát triển Kinh tế và Thương mại Ukraine Tymofiy Mylovanov cho biết: “Đây là điều mới trong cuộc chiến thuyền không người lái ở Ukraine”.

“Người Ukraine đã điều chỉnh các thuyền không người lái để mang hỏa tiễn đối không của Liên Xô. Nhiều người tin rằng điều này là không thể cho đến ngày hôm nay, khi các kênh của Nga đưa ra bằng chứng”, ông viết trên X.

“Trong video, bạn có thể thấy một máy bay trực thăng của Nga bắn vào máy bay không người lái của hải quân Ukraine và cuối cùng phải dùng đến nó. Máy bay không người lái phát nổ cho thấy nó cũng mang theo trọng tải tự sát thông thường. Máy bay không người lái thiếu một hỏa tiễn, điều này cho thấy nó đã bắn ra một hỏa tiễn”, Mylovanov nói.

Ông nói thêm rằng bây giờ chúng ta nên mong đợi “sự phát triển nhanh chóng của thuyền không người lái Ukraine để mang theo các máy bay không người lái khác, hỏa tiễn và nhiều hệ thống phòng không hơn”.

8. Ukraine đánh dấu 'Ngày tưởng nhớ và chiến thắng chủ nghĩa phát xít' đầu tiên trong Thế chiến thứ hai kể từ khi thay đổi ngày chính thức vào năm 2023

Ukraine đánh dấu “Ngày tưởng nhớ và chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Thế chiến thứ hai” vào ngày 8 Tháng Năm, lần đầu tiên kể từ ngày ngày lễ chính thức được thay đổi vào năm 2023.

Hầu hết các quốc gia Âu Châu đều kỷ niệm Ngày Chiến thắng ở Âu Châu vào ngày 8 tháng 5 để đánh dấu ngày Đức đầu hàng vô điều kiện. Nga và một số nước thuộc Liên Xô cũ kỷ niệm Ngày Chiến thắng vào ngày 9 Tháng Năm, sử dụng thuật ngữ Cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại.

Ukraine cũng kỷ niệm Ngày Chiến thắng vào ngày 9 tháng 5 cho đến năm 2015, khi tổng thống lúc đó là Petro Poroshenko đổi tên thành Ngày Chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong Thế chiến thứ hai. Ông chọn ngày 8 tháng 5 là Ngày Tưởng nhớ và Hòa giải. Ngày 8 tháng 5 là ngày làm việc và ngày 9 tháng 5 vẫn là ngày nghỉ lễ.

Tổng thống Volodymyr Zelenskiy đã ký một đạo luật vào năm 2023, chính thức thay đổi ngày kỷ niệm Thế chiến thứ hai của Ukraine thành ngày 8 tháng 5, phù hợp với hầu hết Âu Châu và cho thấy sự chấm dứt hoàn toàn kỳ nghỉ lễ thời Liên Xô.

Ở Nga, Ngày Chiến thắng là một ngày lễ quân sự hóa cao độ nhằm thể hiện sức mạnh quân sự của Nga. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh toàn diện của Nga ở Ukraine, ký ức lịch sử về Thế chiến thứ hai cũng đã được Nga vũ khí hóa như một phần trong nỗ lực coi cuộc xâm lược Ukraine là sự tiếp nối của cuộc đấu tranh của Nga chống lại phương Tây.

Zelenskiy cũng so sánh với Thế chiến thứ hai trong các bình luận đánh dấu lễ kỷ niệm đầu tiên của ngày lễ.

Ông cho biết: “Nga đã đưa các trang sách giáo khoa về Thế chiến thứ hai trở lại tâm điểm chú ý của truyền thông toàn cầu, chứng tỏ rằng Chủ nghĩa Quốc xã đã tái xuất hiện với mỗi tội ác mới”.

“Và, giống như năm 1945, chỉ có một thế giới tự do thống nhất—đoàn kết trong Liên minh chống Putin— muốn có thể ngăn chặn Đức Quốc xã ở Mạc Tư Khoa bằng hành động thay vì lời nói.”

Khoảng 6 đến 7 triệu người Ukraine đã thiệt mạng trong Thế chiến thứ hai, trong đó có khoảng 1,5 triệu người Do Thái Ukraine. Tính theo phần trăm dân số, Ukraine chịu tổn thất trong chiến tranh lớn hơn Nga.

9. Mạc Tư Khoa cho rằng Mỹ cung cấp hỏa tiễn cho Ukraine đã kích hoạt cuộc tập trận hạt nhân chiến thuật

Tờ Newsweek cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “US Supplying Missiles to Ukraine Triggered Tactical Nuke Drills: Moscow”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Nga cho biết Tổng thống Vladimir Putin đã ra lệnh cho quân đội chuẩn bị cho cuộc tập trận vũ khí hạt nhân sau khi Mỹ chuyển giao hỏa tiễn và chiến đấu cơ cho Ukraine.

Bộ Ngoại giao Mạc Tư Khoa chỉ rõ, việc Mỹ hỗ trợ quân sự cho Kyiv là nguyên nhân chính khiến Putin chỉ đạo Bộ Tổng tham mưu Nga thực hành chuẩn bị sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật. Loại vũ khí này nhỏ hơn vũ khí hạt nhân chiến lược và có thể sử dụng trên chiến trường.

Tuy nhiên, một chuyên gia quân sự nói với Newsweek rằng lệnh của Putin không có nghĩa là ông ấy sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân, mà ông ấy chỉ có ý chứng tỏ “là vũ khí đó tồn tại”. Trong khi đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nói với Newsweek: “Chúng tôi không thấy bất kỳ lý do nào để điều chỉnh tư thế hạt nhân của mình”.

Kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022, Putin đã đặt lực lượng hạt nhân của mình trong tình trạng báo động đặc biệt. Kể từ đó, Điện Cẩm Linh đã gửi đi nhiều thông điệp trái chiều về mối đe dọa nguyên tử mà nó có thể gây ra, trong khi các nhà tuyên truyền của họ liên tục đưa ra những lời đe dọa về các cuộc tấn công vào các thủ đô phương Tây.

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Nga Maria Zakharova hôm thứ Hai công bố các cuộc tập trận hạt nhân liên quan đến lực lượng hỏa tiễn từ Quân khu phía Nam của nước này và lực lượng hàng không và hải quân Nga, sau khi phương Tây “tuyên bố công khai ủng hộ” Kyiv “sử dụng vũ khí ngày càng tiên tiến”.

Tuyên bố đề cập đến các cuộc tấn công vào cơ sở hạ tầng của Nga do Kyiv thực hiện và sự xuất hiện của các hệ thống hỏa tiễn tầm xa của Anh, Pháp và Mỹ ở Ukraine.

“Mỹ đã bắt tay công khai và rõ ràng vào việc triển khai các hệ thống trên mặt đất với hỏa tiễn tầm trung và tầm ngắn, vốn trước đây bị cấm theo Hiệp ước hỏa tiễn tầm trung và tầm ngắn”, tuyên bố cho biết, đề cập đến thỏa thuận mà Mỹ. đã rút khỏi năm 2019 dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump.

Zakharova cho biết: “Chúng tôi tuyên bố rõ ràng rằng bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào hỏa tiễn tầm trung phóng từ mặt đất do Mỹ sản xuất xuất hiện, chúng tôi có quyền đáp trả tương tự, điều đó có nghĩa là lệnh cấm đơn phương của Nga đối với việc triển khai các hệ thống vũ khí này sẽ chấm dứt”..

Bà ta cũng lên án những tuyên bố của Tổng thống Pháp Emmanuel Macron về khả năng gửi quân đội Pháp và các nước khác của NATO tới Ukraine là cho thấy ý định của khối này “làm leo thang hơn nữa cuộc khủng hoảng Ukraine hướng tới một cuộc đụng độ quân sự mở giữa các nước NATO và Nga”.

Mạc Tư Khoa cũng cho biết họ sẽ coi việc đưa chiến đấu cơ F-16 tới Ukraine là một hành động khiêu khích vì “chúng tôi không thể bỏ qua thực tế rằng những chiếc máy bay này là những chiếc máy bay được trang bị kép” và có thể được sử dụng cho vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường.

Mỹ đã bật đèn xanh cho các đồng minh của mình giao máy bay này, dự kiến sẽ được sử dụng ở Ukraine trong những tháng tới.

David Silbey, phó giáo sư lịch sử tại Đại học Cornell và là nhà phân tích quân sự và quốc phòng, nói với Newsweek: “Putin đang nhắc nhở mọi người rằng Nga có vũ khí hạt nhân và họ nên suy nghĩ thật kỹ trước khi trực tiếp tham gia vào cuộc chiến ở Ukraine”.

“Điều đó không có nghĩa là anh ta sắp sử dụng chúng, chỉ là muốn nói rằng vũ khí đó tồn tại và sẵn sàng hoạt động. Hãy nghĩ về nó giống như việc chĩa súng vào một người nào đó trong một bộ phim phương Tây cổ điển—bạn chưa sử dụng nó nhưng mọi người đều biết rằng bạn đã có nó,” anh nói thêm.

Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, cho biết, mối đe dọa hạt nhân mới nhất của Nga nằm trong số các chiến thuật chiến tranh hỗn hợp mà Điện Cẩm Linh đang sử dụng như một phần của chiến dịch “kiểm soát phản xạ” nhằm thao túng hành động của đối thủ.

Hôm thứ Hai, tổ chức nghiên cứu Washington DC đã lưu ý rằng hành động đe dọa hạt nhân mới nhất của Nga trùng hợp với thời điểm vũ khí sắp được chuyển đến Ukraine từ các đồng minh của Kyiv.

ISW cho biết thêm, bằng cách nâng cao cảnh báo về vũ khí nguyên tử, Mạc Tư Khoa muốn “hù dọa những người ra quyết định phương Tây về việc cho phép lực lượng Ukraine sử dụng các hệ thống do phương Tây cung cấp để tấn công các mục tiêu quân sự hợp pháp ở Nga”.

Khi được Newsweek liên hệ, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gọi lời nói của Nga là “liều lĩnh và vô trách nhiệm trong cuộc xung đột này”.

Tuyên bố nói thêm: “Chúng tôi không thấy bất kỳ lý do nào để điều chỉnh tư thế hạt nhân của mình cũng như không có dấu hiệu nào cho thấy Nga đang chuẩn bị sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine”.
 
Kyiv đánh lớn: Hai tổng kho dầu Nga nổ long trời. Dân Ukraine xin NATO đưa quân vào. Greene thảm bại
VietCatholic Media
16:01 09/05/2024


1. SBU tấn công 2 kho dầu ở Krasnodar Krai của Nga. Cháy lớn suốt đêm.

Tờ Kyiv Independent cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Source: SBU hits 2 oil depots in Russia's Krasnodar Krai”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thảo Ly

Trong cuộc họp báo tại trung tâm báo chí Kyiv chiều Thứ Năm, 9 Tháng Tư, phát ngôn nhân Cục Tình Báo Quân Đội Ukraine, Thượng Úy Andriy Yusov, cơ quan An ninh Nhà nước Ukraine, gọi tắt là SBU, đã tấn công hai kho dầu ở Krasnodar Krai của Nga trong đêm mùng 8 rạng sáng ngày 9 tháng 5.

SBU đã tiến hành một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái “thành công” vào các kho dầu ở thị trấn Yurovka trong vùng.

Các kho chứa dầu bị hư hại trong vụ tấn công được cho là điểm trung chuyển cung cấp nhiên liệu cho lực lượng Nga đóng tại Crimea.

Ông nhấn mạnh rằng: “SBU sẽ tiếp tục làm giảm tiềm năng kinh tế và hậu cần cho chiến tranh của Nga”.

Veniamin Kondratev, Thống đốc khu vực Krasnodar của Nga, trước đó tuyên bố rằng sáu máy bay không người lái đã tấn công một kho dầu ở Yurovka.

Ông cho biết vụ tấn công đã gây ra hỏa hoạn và làm hư hại một số bộ phận của cơ sở nhưng cho đến nay không có thương vong nào được báo cáo.

Ngọn lửa được cho là đã được dập tắt vào khoảng 7h40 sáng giờ địa phương sau khi hoành hành suốt 10 tiếng đồng hồ.

Yusov cũng nhắc lại rằng, SBU đã thực hiện một cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào Krasnodar Krai vào đêm ngày 27 tháng 4, tấn công các nhà máy lọc dầu Ilsky và Slavyansk cũng như một sân bay quân sự. Nhà máy lọc dầu ở Slavyansk-on-Kuban sau đó đã đình chỉ hoạt động do vụ tấn công.

Lực lượng Ukraine đã tiến hành một loạt cuộc tấn công bằng máy bay không người lái nhằm gây thiệt hại cho ngành công nghiệp dầu mỏ của Nga vào mùa xuân này. Một cuộc tấn công quy mô lớn nhằm vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga vào ngày 20 tháng 4 được tường trình đã gây ra hỏa hoạn tại bể chứa nhiên liệu ở Smolensk Oblast.

Các cuộc tấn công nhằm vào các mục tiêu năng lượng của Nga đã khiến các quan chức Mỹ chỉ trích, những người đã nói rõ rằng Washington không ủng hộ các cuộc tấn công của Ukraine vào các nhà máy lọc dầu, với lý do lo ngại rằng điều này có thể đe dọa thị trường năng lượng toàn cầu.

Đáp lại, Tổng thống Volodymyr Zelensky cho rằng Kyiv có quyền sử dụng vũ khí của mình với các cuộc tấn công trả đũa vào các nhà máy lọc dầu của Nga.

2. 5 điều cần biết về lễ nhậm chức của bạo chúa Putin

Bàn về lễ nhậm chức của bạo chúa Putin, tờ Politico có trụ sở ở Washington DC có bài tường trình nhan đề “5 things to know about Putin’s inauguration”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Vladimir Putin của Nga đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống một lần nữa vào thứ Ba trong một buổi lễ được tổ chức trên sân khấu giống một cách kỳ lạ với những nỗ lực trước đó.

Lễ tuyên thệ nhậm chức tổng thống Nga nhiệm kỳ thứ năm vào hôm thứ Ba, mang lại vẻ ngoài hợp pháp cho một quá trình chứng kiến ông thay đổi hiến pháp và tiến hành một cuộc bầu cử giả nhằm kéo dài sự cai trị kéo dài một phần tư thế kỷ của mình thêm sáu năm nữa.

Nhà phân tích chính trị Vladimir Pastukhov ở Luân Đôn viết: “Kể từ đây trở đi, nó sẽ lặp lại và suy thoái”.

Nó trông như thế nào

Con người (Putin), địa điểm (Đại Cung điện của Điện Cẩm Linh) và ngày tháng (7 tháng 5) không thay đổi kể từ năm 2000 (ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn vào năm 2008, khi Dmitry Medvedev tiếp quản chiếc dùi cui tổng thống).

Có vẻ như cả đài truyền hình nhà nước Nga cũng không có đường lối để đưa tin về sự kiện này.

Như những lần trước, người ta thấy Putin đang hoàn thành một số công việc trong văn phòng trước khi bước xuống một hành lang dài và được đưa đến buổi lễ.

Kịch bản này khiến các nhà bình luận không có gì để nói ngoài việc ghi nhận mối quan tâm mới của Putin đối với những bức tranh đã trang trí cho văn phòng của ông trong nhiều thập niên, hay chiếc xe sang trọng Aurus đã được nâng cấp chở ông đến địa điểm tổ chức.

Ngay cả lời chúc phúc thiêng liêng do Thượng phụ Kirill của Nga ban tặng cho Putin - người đã gọi ông là “Hoàng thượng” và bày tỏ hy vọng rằng Putin sẽ “trị vì cho đến suốt đời” - cũng là một sự lặp lại.

Nhưng nơi con người không thể đổi mới, thiên nhiên sẽ can thiệp. Không giống như lễ nhậm chức đầy nắng năm 2018, phiên bản năm nay có màu xám và tuyết, cho phép phe ủng hộ Điện Cẩm Linh dành nhiều lời khen ngợi cho Putin vì đã bất chấp cái lạnh mà không đội mũ.

Putin đã nói gì

Trong bài phát biểu ngắn sau khi tuyên thệ nhậm chức và hứa bảo vệ Hiến pháp Nga - vốn đã được sửa đổi để cho phép ông tái tranh cử sau cuộc trưng cầu dân ý gây tranh cãi năm 2020 - Putin hứa sẽ “đặt lợi ích và sự an toàn của người dân Nga lên trên hết. “

Nhà phân tích thân Điện Cẩm Linh Alexei Chesnkov đã tóm tắt thông điệp của Putin trước nhiệm kỳ 6 năm tiếp theo của ông bằng ba từ: “Chủ quyền. Phát triển. Đoàn kết.”

Ai đã ở đó

Nói về sự tái diễn vĩnh viễn, đám đông vài ngàn người có nhiều khuôn mặt giống như lần trước - Putin không phải là người hâm mộ việc đổi mới chính trị - đặc biệt trong số các khán giả là những người có liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine.

Một người tham dự đáng chú ý là Quyền Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu, người được cho là đã không còn được lòng Điện Cẩm Linh sau khi cấp phó của ông bị bắt gần đây vì tội tham nhũng.

Một sự xuất hiện thu hút sự chú ý khác là Ramzan Kadyrov, hung thần của Chechnya, người đã vắng mặt trong bài phát biểu thông điệp liên bang của Putin vào tháng 2 và được cho là đang bị bệnh nan y.

Thay vì xua tan những tin đồn đó, máy quay đã ghi lại hình ảnh Kadyrov đang được giúp cởi áo khoác, khiến một số người nhận xét rằng anh ta quá ốm yếu hoặc quá hách dịch để tự mình làm điều đó.

Danh sách các quan chức nước ngoài được cho là bao gồm các Đại Sứ từ một số nước Âu Châu - Pháp, Hung Gia Lợi, Slovakia, Malta, Síp và Hy Lạp - ám chỉ sự chia rẽ giữa các nước phương Tây về cách đối phó với Putin trong bối cảnh phe đối lập Nga kêu gọi tuyên bố ông là Tổng thống bất hợp pháp.

Nhưng vị khách yêu thích của các nhà bình luận ủng hộ Điện Cẩm Linh dường như lại là Steven Seagal, diễn viên Hollywood chuyển sang làm người cổ vũ cho chế độ Putin.

Ai đã không ở đó

Theo Thứ trưởng Ngoại giao Nga Sergei Ryabkov, khoảng 20 nước Liên Hiệp Âu Châu được cho là đã tẩy chay buổi lễ, trong khi đại sứ Mỹ cũng vắng mặt sau khi rời Mạc Tư Khoa.

Phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho biết việc vắng mặt không phải là “lý do cho các biện pháp trả đũa nhất định”, lưu ý rằng lễ nhậm chức chủ yếu dành cho công dân Nga.

Tuy nhiên, các nhà tuyên truyền Nga vui vẻ chỉ ra rằng truyền thông phương Tây đã đưa tin về lễ nhậm chức, ca ngợi đây là bằng chứng về tầm vóc của Putin bất chấp sự cô lập quốc tế của ông.

Thức ăn cho pháo

Một khoảnh khắc nhẹ nhõm hài hước hiếm hoi đã xảy ra bên ngoài bức tường Điện Cẩm Linh, nơi nghi lễ chào đại bác đã khiến ít nhất một cây bị chết.

3. Hạ Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu tiêu diệt nỗ lực của Marjorie Taylor Greene nhằm lật đổ Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson

CBS News cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “House votes to kill Marjorie Taylor Greene's effort to oust House Speaker Mike Johnson”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh.

Dân biểu Marjorie Taylor Greene đã tiến hành lời đe dọa cố gắng lật đổ Chủ tịch Hạ viện Mike Johnson hôm thứ Tư, kêu gọi bỏ phiếu về đề nghị loại Chủ tịch Hạ Viện khỏi chức vụ của ông. Các nhà lập pháp đã nhanh chóng bỏ phiếu bác bỏ nó một cách ngoạn mục.

Greene nói: “Hình thức của nghị quyết như sau: tuyên bố bỏ trống chức vụ chủ tịch Hạ viện. Đây là sự thống nhất của lưỡng đảng để cho người dân Mỹ đang theo dõi.” tuyên bố của Greene đã nhận được rất nhiều những tiếng la ó phản đối.

Ngay sau khi Greene hối thúc bỏ phiếu cho kiến nghị của bà ta, một cuộc bỏ phiếu nhanh chóng đã diễn ra với kết quả là 359 phiếu bác bỏ so với 43 phiếu thuận. Phần lớn các đảng viên Đảng Dân chủ đã tham gia cùng với hầu hết các đảng viên Đảng Cộng hòa tại Hạ viện trong cố gắng hạ gục kiến nghị của Greene. Chỉ có 11 thành viên đảng Cộng hòa tại Hạ viện ủng hộ kiến nghị.

Động thái của Greene đánh dấu sự đảo ngược so với một ngày trước đó, khi cô ấy dường như rút lui khỏi lời đe dọa kích hoạt một cuộc bỏ phiếu loại bỏ Johnson.

Nhưng vào tối thứ Tư Greene đã yêu cầu bỏ phiếu. Theo luật, một cuộc bỏ phiếu trong trường hợp này phải diễn ra trong vòng hai ngày lập pháp về việc liệu Johnson có nên tiếp tục làm Chủ tịch Hạ Viện hay không. Không cần đợi tới hai ngày, trong vòng vài phút, Lãnh đạo Đa số Hạ viện Steve Scalise đã ra hiệu cho Hạ Viện bỏ phiếu.

Bước vào cuộc bỏ phiếu, Greene chỉ nhận được sự ủng hộ công khai của hai thành viên Đảng Cộng hòa khác tại Hạ viện, là Dân biểu Thomas Massie của Kentucky và Dân biểu Paul Gosar của Arizona. Trong khi đó, đảng Dân chủ đã cam kết sẽ cứu Johnson sau khi ông đưa ra dự luật viện trợ nước ngoài thông qua Hạ viện vào tháng trước.

Greene đã đưa ra lời đe dọa đối với Johnson kể từ tháng 3 sau khi ông dựa vào đảng Dân chủ để thông qua dự luật chi tiêu trị giá 1,2 ngàn tỷ Mỹ Kim nhằm ngăn chặn việc chính phủ đóng cửa một phần. Johnson đã gặp Greene hai lần trong nhiều ngày trong tuần này, nơi bà ta nói rằng đã lập một danh sách các yêu cầu để từ chức. Và Greene đã phải đối mặt với áp lực mạnh mẽ từ các đồng nghiệp Đảng Cộng hòa của mình để đảo ngược ý định.

Cựu Tổng thống Donald Trump hôm thứ Tư cho biết trong một bài đăng trên mạng xã hội rằng “đây không phải là lúc” để đưa ra kiến nghị truất phế và ông tuyên bố ủng hộ Johnson, gọi Chủ tịch Hạ Viện là “người đàn ông tốt đang rất cố gắng”.

4. Nga cho rằng việc gửi quân NATO vào Ukraine là cực kỳ nguy hiểm.

Hôm Thứ Tư, 8 Tháng Năm, phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov cho rằng việc gửi quân NATO vào Ukraine là cực kỳ nguy hiểm và Mạc Tư Khoa đang theo dõi chặt chẽ xem liệu Ukraine có kêu gọi một sự can thiệp như vậy hay không.

Reuters đưa tin rằng một bản kiến nghị của dân chúng Ukraine được đăng trên trang web của tổng thống Ukraine, nói rằng Tổng thống Zelenskiy nên yêu cầu Mỹ, Anh và các nước khác gửi quân tới giúp nước này đẩy lùi cuộc xâm lược của Nga.

“Chế độ Kyiv khá khó đoán,” phát ngôn nhân Điện Cẩm Linh Dmitry Peskov nói khi được hỏi về vấn đề này trong cuộc họp báo hàng ngày.

“Chúng tôi đã nhiều lần nói rằng sự can thiệp trực tiếp trên thực địa vào cuộc xung đột này của quân đội các nước NATO có thể gây ra mối nguy hiểm to lớn, vì vậy chúng tôi coi đây là một hành động khiêu khích cực kỳ thách thức, và tất nhiên, chúng tôi đang theo dõi điều này rất cẩn thận.”

Không rõ liệu kiến nghị có thu thập được số phiếu bầu cần thiết – 25.000 – để yêu cầu tổng thống Volodymyr Zelenskiy trả lời bằng cách chấp thuận hay bác bỏ nó hay không. Tính đến sáng thứ Tư, nó đã thu hút được 1.594 phiếu bầu.

5. Serbia ca tụng Tập Cận Bình hết ga: Không ai ngưỡng mộ ngài như chúng tôi

Tờ Politico có trụ sở ở Washington DC cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Serbia to Xi Jinping: No one reveres you like we do”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Serbia yêu Tập Cận Bình, ngưỡng mộ, thực sự yêu mến ông ấy.

Việc nhà lãnh đạo Trung Quốc đến Belgrade trong chặng thứ hai của chuyến công du Âu Châu đã khơi dậy sự nhiệt tình chưa từng có ở Serbia, một quốc gia thường được coi là một trong những đồng minh trung thành nhất của Trung Quốc ở Âu Châu.

“Tôi đã nói với ông ấy rằng với tư cách là nhà lãnh đạo của một cường quốc, ông ấy sẽ nhận được sự tôn trọng trên toàn thế giới, nhưng sự tôn kính và tình yêu mà ông ấy nhận được ở Serbia của chúng tôi sẽ không được tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác,” Tổng thống Aleksandar Vučić nói sau buổi lễ chào mừng ở phía trước Palata Srbije, một khu phức hợp xa hoa thời xã hội chủ nghĩa thường được sử dụng cho các chuyến thăm cấp nhà nước.

Vučić cũng nhấn mạnh rằng, khi nói đến hợp tác với Bắc Kinh, “bầu trời này hạn chế quá”.

Serbia nổi bật là nước sớm chấp nhận các khoản đầu tư của Trung Quốc vào Âu Châu, chẳng hạn như việc xây dựng cầu Pupin vào năm 2013.

Kể từ đó, các sáng kiến đầu tư đã tăng mạnh, bao gồm các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn như đường cao tốc, Nhà máy luyện sắt Smederevo và Lưu vực khai thác mỏ Zijin. Tuy nhiên, việc mở rộng này đã khiến Serbia phải trả giá, quốc gia này đang gánh gánh nặng nợ khoảng 3,7 tỷ euro do thông lệ đầu tư của Trung Quốc thường được gộp vào các chương trình cho vay.

Đây cũng là quốc gia Âu Châu duy nhất mua được hệ thống phòng không HQ-22 “Hồng Kỳ” hay Red Flag của Trung Quốc, hệ thống này đã khiến nhiều người phải ngạc nhiên do khó tích hợp chúng vào các hệ thống vũ khí Âu Châu.

Ông Tập dừng chân ở Belgrade sau hai ngày ở Pháp với Tổng thống Emmanuel Macron, và trước chuyến đi tới Budapest để gặp Thủ tướng Hung Gia Lợi Viktor Orbán - giống như Vučić, một cái gai khác đối với phương Tây.

Đổi Nga lấy Trung Quốc

Sự xuất hiện của ông Tập đã vấp phải các biện pháp an ninh nghiêm ngặt khiến thủ đô của Serbia phải tạm dừng hoạt động, với hơn 6.500 cảnh sát đóng tại các địa điểm quan trọng dọc theo tuyến đường thăm quan, mang lại cho nhà cầm quyền Trung Quốc sự hoành tráng và trang trọng phù hợp với mục đích nâng cao vị thế của đất nước. ý nghĩa ở phương Tây.

Cờ Trung Quốc được treo khắp Belgrade và khoảng 50 xe buýt đã vận chuyển người dân từ nhiều nơi trên đất nước đến địa điểm chính ở khu tự quản New Belgrade để chào mừng và bày tỏ lòng yêu mến với Tập Cận Bình.

Các đảng đối lập đã đưa ra một thông cáo báo chí vào sáng thứ Tư, cáo buộc rằng nhân viên của các công ty nhà nước Serbia đã được hướng dẫn nghỉ việc và tham gia vào đám đông khá lớn chào đón ông Tập.

Hãng tin thân chính phủ Politika đã đăng một bài viết trên trang nhất do ông Tập viết hôm thứ Ba, mô tả mối quan hệ giữa hai nước là “bọc thép” - một thuật ngữ đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ 20 vì mối liên hệ của nó với công nghiệp hóa và giai cấp công nhân.

“Trung Quốc và Serbia có quan điểm tương tự nhau trong nhiều vấn đề khu vực và quốc tế quan trọng,” ông Tập nói trong bài báo. “Trước tình hình quốc tế đan xen những thay đổi và sóng gió, chúng ta cần tiếp tục tăng cường phối hợp… và sát cánh cùng nhau vì một thế giới đa cực bình đẳng và trật tự.”

Ông nhấn mạnh rằng đa cực là một khía cạnh quan trọng trong chiến lược chính sách đối ngoại của Trung Quốc, cách diễn đạt thường đóng vai trò che đậy mục đích rõ ràng của giới lãnh đạo hiện nay là thách thức sự thống trị của Mỹ trong nền chính trị toàn cầu.

Serbia, được biết đến với mối quan hệ chặt chẽ với Nga và thường xuyên chỉ trích nền chính trị Brussels, tỏ ra là một công cụ hữu ích trong việc theo đuổi mục tiêu này, bất chấp quy mô và ảnh hưởng kinh tế khiêm tốn của nước này.

Vuk Vuksanović, chuyên gia về quan hệ Trung-Serbia và là nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Chính sách An ninh Belgrade, cho biết: “Chuyến thăm này cho thấy Serbia đã đổi Nga lấy Trung Quốc, trở thành đối tác chính của mình để mặc cả với phương Tây”.

Ông nói tiếp: “Cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine đã đặt mối quan hệ Serbia-Nga dưới sự giám sát chặt chẽ, vì vậy chính phủ nhận thấy lợi ích của việc chơi quân bài Trung Quốc thường xuyên hơn vì nó được coi là ít khiêu khích hơn”.

Vuksanović kết luận: “Khu vực Balkan và đặc biệt là Serbia thậm chí còn trở nên thú vị hơn đối với Trung Quốc khi một nhánh của Sáng kiến Vành đai và Con đường thông qua Nga và Belarus đã bị cắt đứt một cách hiệu quả sau cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine”.

6. Bộ trưởng Quốc phòng Austin: Còn quá sớm để thấy tác động của viện trợ Mỹ đối với tiền tuyến của Ukraine

Tờ Kyiv Independent cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “Austin: Too early to see effects of US aid on Ukraine's front lines”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thảo Ly.

Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Lloyd Austin nói với các thượng nghị sĩ hôm 8 Tháng Năm rằng vẫn còn “rất sớm” để thấy những cải thiện trên chiến tuyến của Ukraine sau khi lô vũ khí mới của Mỹ bắt đầu được chuyển sang Ukraine.

Hoa Kỳ đã thông qua gói viện trợ nước ngoài trị giá 61 tỷ Mỹ Kim được chờ đợi từ lâu vào tháng 4 sau sáu tháng đấu tranh chính trị và trì hoãn.

Ngày hôm sau, Ngũ Giác Đài thông báo rằng họ sẵn sàng chuyển số vũ khí trị giá 1 tỷ Mỹ Kim tới Kyiv từ kho dự trữ của Mỹ, bao gồm đạn cho HIMARS, đạn pháo 155 ly, máy bay đánh chặn phòng không và xe thiết giáp.

Đây trở thành gói quốc phòng chính thức đầu tiên cho Ukraine theo dự luật viện trợ đã được ký kết. Gói viện trợ gần đây nhất trước đợt viện trợ mới nhất này trị giá 300 triệu Mỹ Kim và được Washington công bố vào ngày 12 Tháng Ba.

“Phải mất thời gian để có được một số khả năng này,” Austin nói với Tiểu ban Quốc phòng về Phân bổ Ngân sách của Thượng viện.

Trong khi chờ đợi dự luật được thông qua, Ngũ Giác Đài đã chuẩn bị trước một số hạng mục cực kỳ cần thiết “như máy bay đánh chặn phòng không và đạn pháo để nếu được thông qua, chúng tôi có thể nhanh chóng chuyển những thứ đó đến hỗ trợ Ukraine. Và chúng tôi đang làm điều đó”, ông nói thêm.

Nhà lãnh đạo Ngũ Giác Đài cho biết ông sẽ thảo luận hàng tuần về “những nhu cầu quan trọng nhất” đối với Ukraine với Bộ trưởng Quốc phòng Rustem Umerov.

“Thật khó để mua lại thời gian. Nhưng... tôi nghĩ rằng nếu không có sự giúp đỡ này, Ukraine sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phòng thủ trước lực lượng vượt trội”, Austin nói thêm.

“Tại một số thời điểm, Nga đã phải chịu tổn thất đáng kể do các hành động của Ukraine và Lực lượng vũ trang của nước này. Họ đã gây tổn thất đáng kể cho lực lượng Nga và phá hủy một lượng lớn trang thiết bị của quân xâm lược”.

Nga đã lợi dụng tình trạng thiếu đạn dược trên chiến trường ngày càng tăng của Ukraine để chiếm thành phố Avdiivka ở phía đông vào tháng Hai. Sau đó, Mạc Tư Khoa chuyển trọng tâm sang Chasiv Yar, một thị trấn trên cao có khả năng mở đường tiến sâu hơn vào tỉnh Donetsk.

Quân đội Nga cũng tiếp tục tấn công cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine bằng hỏa tiễn và máy bay không người lái.

Tổng thống Volodymyr Zelenskiy ngày 3 Tháng Năm cho biết Ukraine đang đối mặt với “giai đoạn mới” trong cuộc chiến tổng lực khi Nga chuẩn bị mở rộng cuộc tấn công.

Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa Kỳ Jake Sullivan cho biết Kyiv sẽ tìm cách tiến hành một cuộc phản công vào năm 2025 với sự hỗ trợ của gói viện trợ trị giá 61 tỷ Mỹ Kim đã được phê duyệt từ Washington, cũng như nguồn viện trợ bổ sung của phương Tây.

7. Bộ Ngoại giao Nga bác bỏ cáo buộc của Vương Quốc Anh về các hành động đốt phá cơ sở của người Ukraine trên đất Anh

Phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova hôm thứ Tư cho biết cáo buộc của Anh về việc Nga liên quan đến vụ tấn công đốt phá ở Anh là vô lý và là một phần của cuộc chiến thông tin chống lại Mạc Tư Khoa.

Zakharova cho biết Nga coi những cáo buộc như vậy là khiêu khích và Nga không bao giờ thực hiện các cuộc tấn công phá hoại nhằm vào các mục tiêu dân sự. Bà ta tuyên bố như trên bất kể thực tế là Nga vẫn hàng ngày tấn công vào mạng lưới điện và các hạ tầng cơ sở khác của người Ukraine.

Bà ta đang đề cập đến một vụ việc hồi tháng trước trong đó Anh đã buộc tội một người đàn ông thực hiện các hoạt động thù địch nhằm mang lại lợi ích cho Nga, bao gồm cả việc tuyển dụng những người khác để thực hiện một cuộc tấn công đốt phá một cơ sở thương mại có liên quan đến Ukraine ở Luân Đôn.

Ngoại trưởng David Cameron đã bày tỏ quan ngại sâu sắc về những cáo buộc này và Bộ của ông hồi tháng trước đã triệu tập đại sứ Nga tại Luân Đôn để bày tỏ quan ngại về “hoạt động ác ý do Nga dàn dựng trên đất Anh”.

Zakharova nói với các phóng viên trong cuộc họp báo hàng tuần của mình: “Chúng tôi coi sự xuất hiện của những tài liệu khiêu khích như loạt đạn mới nhất trong cuộc chiến thông tin mà Phố Downing đã phát động chống lại đất nước chúng tôi”.

Bà nói: “Những nỗ lực này thật thảm hại… Những cáo buộc được đưa ra không chỉ vô lý mà còn không có bất kỳ sự thật nào hỗ trợ”, đồng thời kêu gọi Anh dừng “sự cuồng loạn chống Nga”.

8. Đe dọa ớn lạnh: Điện Cẩm Linh cảnh báo 'Bạn sẽ không được an toàn ở Phố Downing', khi Putin ra lệnh thử vũ khí hạt nhân sau khi phương Tây thề sẽ ủng hộ Ukraine

Putin hoang tưởng đã ra lệnh thử nghiệm vũ khí hạt nhân chiến thuật khi Nga trực tiếp cảnh báo phương Tây phải lùi bước vì lo ngại về một cuộc chiến toàn diện với NATO gia tăng.

Lời đe dọa mới nhất của Nga xuất hiện khi Điện Cẩm Linh nói với các quan chức phương Tây rằng nếu họ tiếp tục ủng hộ Ukraine thì một “thảm họa toàn cầu” sẽ nổ ra khi ngay cả những người ở Phố Downing cũng được thông báo rằng họ không thể trốn tránh được nữa.

Putin đã yêu cầu Bộ trưởng Quốc phòng Sergei Shoigu chuẩn bị các cuộc tập trận quân sự “nhằm tăng cường khả năng sẵn sàng của các lực lượng hạt nhân phi chiến lược để hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu”.

Bộ Quốc phòng cho biết, điều này được cho là liên quan đến việc chuẩn bị và luyện tập trên bộ, trên không và trên biển.

Cuộc tập trận được cho là có liên quan đến Mỹ, Anh và Pháp nói riêng sau khi Tổng thống Pháp Emmanuel Macron tuyên bố sẽ gửi quân tới Ukraine nếu Putin đột phá tiền tuyến.

Nếu Pháp gửi quân vào sân sau của Ukraine thì điều đó có thể gây ra vấn đề lớn.

Người Pháp sẽ chứng tỏ mình là đội quân đầu tiên có liên kết với NATO bước lên cỗ máy chiến tranh của Putin và đối đầu với quân đội Nga.

NATO luôn muốn giữ ý tưởng leo thang trong một cuộc xung đột lớn hơn ở mức tối thiểu.

Lý do tại sao nó có thể gây ra một vấn đề lớn là vì Điều 5 trong sổ tay của NATO quy định rằng tất cả các thành viên có nghĩa vụ bảo vệ lẫn nhau nếu xảy ra một cuộc tấn công.

Nga được cho là nhận thức rõ rằng nếu họ tấn công và tiêu diệt quân Pháp thì họ có thể lôi kéo quân Anh, Đức và thậm chí cả quân Mỹ vào trận chiến.

Ukraine cũng đã sử dụng hỏa tiễn Storm Shadow do các đồng minh NATO cung cấp cho họ trong cuộc chiến với Nga.

Putin trước đó đã chỉ trích một số bình luận của Thủ tướng David Cameron là “nguy hiểm và đáng lo ngại” sau khi ông nói rằng hỏa tiễn của Anh có thể được sử dụng để tấn công lãnh thổ Nga.

Theo truyền thông nhà nước, Mạc Tư Khoa thậm chí đã triệu tập đại sứ Anh Nigel Casey tới Bộ Ngoại giao Nga. Tuy nhiên, Bộ Ngoại Giao Vương Quốc Anh khẳng định tin tức cho rằng Đại Sứ Anh bị triệu tập là không đúng sự thật.

Các nguồn tin của Anh phủ nhận đây là lệnh triệu tập chính thức dành cho Casey và cho biết phiên họp này nhằm đề cập đến các vấn đề song phương.

Nhân vật hàng đầu của Điện Cẩm Linh và từng là cựu tổng thống, Dmitry Medvedev, cho biết các cuộc thử nghiệm mới nên được coi xuất phát từ một mối đe dọa thực sự.

Medvedev cáo buộc các nhà lãnh đạo phương Tây là “những kẻ vô lại” trước khi chỉ trích họ “vì đã đưa quân đến một quốc gia không tồn tại”.

Ông chỉ ra Mỹ, Pháp và Anh có liên quan cũng như “các cá nhân điên rồ từ các quốc gia vùng Baltic và Ba Lan”.

Ông cảnh báo Nga sẽ không ngần ngại chiến đấu chống lại bất cứ ai họ cần và sẽ làm như vậy ở bất kỳ quốc gia nào.

Medvedev tuyên bố người của ông sẽ “phải đáp trả” nếu quân đội phương Tây được gửi vào Ukraine và tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ không chỉ tìm cách tiêu diệt quân đội nước ngoài mà còn tìm cách trả thù những quốc gia đã gửi họ đến.

Bài phát biểu lạnh lùng của ông kết thúc bằng câu nói: “Một thảm họa thế giới sẽ đến… Nhưng những đứa trẻ ngu ngốc hiện tại đang nắm quyền ở phương Tây không muốn hiểu.

“Không ai trong số họ có thể ẩn náu trên Đồi Capitol, Điện Elysee, hoặc số 10 Phố Downing.”

Bộ Quốc phòng Nga đã lên tiếng về vụ thử hỏa tiễn và đồng thanh với ông Medvedev về lý do tại sao Nga lại chuẩn bị cho các cuộc tấn công tiềm tàng.

Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu nói: “Cuộc tập trận nhằm mục đích duy trì sự sẵn sàng của nhân sự và trang thiết bị của các đơn vị trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân phi chiến lược trong chiến đấu”.

Chúng được thực hiện “để đáp trả và bảo đảm vô điều kiện sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của Nhà nước Nga”.

Shoigu cáo buộc các quan chức phương Tây đưa ra “những tuyên bố khiêu khích và đe dọa” chống lại Nga.

Vũ khí hạt nhân đang được thử nghiệm có hậu quả tàn khốc đối với những vũ khí mà chúng tấn công nhưng không gây ra sự tàn phá trên diện rộng và bụi phóng xạ như vũ khí hạt nhân thông thường.

Putin và Điện Cẩm Linh đánh giá những vũ khí hạt nhân này là một trong những trang bị tốt nhất trong kho vũ khí chiến tranh của họ.

Một nhà tuyên truyền Nga trước đó đã cảnh báo rằng Putin sẽ nhấn chìm nước Anh dưới làn sóng thủy triều hạt nhân nếu NATO gửi quân tới Ukraine.

Người bạn thân hàng đầu của Putin, Vladimir Solovyov, cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào của phương Tây nhằm “gây thất bại chiến lược đối với Nga” sẽ dẫn đến Armageddon.

Âu Châu cũng được cho là đang chuẩn bị tạo ra bong bóng bảo vệ hạt nhân từ Nga gồm 300 hỏa tiễn đạn đạo của Pháp.

Ông Macron gợi ý rằng các đầu đạn phóng từ tàu ngầm sẽ được rải khắp lục địa để tăng cường khả năng phòng thủ tập thể của NATO.

9. Các Đại sứ Liên Hiệp Âu Châu đồng ý sử dụng doanh thu từ tài sản của Nga để tài trợ cho Ukraine

Tờ Kyiv Independent cho biết như trên trong bài tường trình nhan đề “EU ambassadors agree on using Russian assets revenue to fund Ukraine”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thảo Ly.

Chủ tịch Bỉ tại Liên Hiệp Âu Châu ngày 9 Tháng Năm cho biết các đại sứ Liên Hiệp Âu Châu đã đồng thanh trên nguyên tắc đối với biện pháp sử dụng lợi nhuận từ tài sản bị phong tỏa của Nga để hỗ trợ sự phục hồi và nhu cầu quân sự của Ukraine.

Các đối tác phương Tây của Ukraine và các đồng minh khác đã phong tỏa khoảng 300 tỷ Mỹ Kim tài sản của Nga khi bắt đầu cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022. Khoảng 2 phần 3 số tài sản đó được nắm giữ tại công ty dịch vụ tài chính Euroclear có trụ sở tại Bỉ.

Chủ tịch Ủy ban Âu Châu Ursula von der Leyen cho biết: “Tôi hoan nghênh thỏa thuận chính trị ngày hôm nay về đề xuất của chúng tôi sử dụng số tiền thu được từ tài sản cố định của Nga cho Ukraine”.

“Không thể có biểu tượng nào mạnh mẽ hơn và không có công dụng nào lớn hơn đối với số tiền đó ngoài việc biến Ukraine và toàn bộ Âu Châu thành một nơi sinh sống an toàn hơn”.

Trong khi Mỹ đề xuất tịch thu hoàn toàn tài sản của Nga theo đạo luật REPO được thông qua gần đây của họ, thì Liên Hiệp Âu Châu lại do dự hơn vì lo ngại những cạm bẫy về mặt pháp lý và tài chính khi tịch thu.

Thay vào đó, Brussels tìm cách sử dụng lợi nhuận bất ngờ được tạo ra từ tài sản bị phong tỏa và chuyển chúng đến Kyiv.

Vào tháng 3, Ủy ban Âu Châu đã đệ trình đề xuất sử dụng 90% số tiền thu được để mua vũ khí cho Ukraine và phân bổ 10% còn lại vào ngân sách Liên Hiệp Âu Châu để hỗ trợ ngành công nghiệp quốc phòng nước này.

Biện pháp được đề xuất sẽ phân bổ khoảng 3 tỷ euro hay 3,3 tỷ Mỹ Kim cho Ukraine mỗi năm.

Kế hoạch này đã gặp phải sự phản đối từ các quốc gia thành viên duy trì chính sách trung lập về quân sự hoặc không liên kết và do đó phản đối việc tài trợ cho nhu cầu quốc phòng của Ukraine, thay vào đó họ ưu tiên chuyển tiền cho các nỗ lực tái thiết.

Hình thức cuối cùng của đề xuất được các đại sứ Liên Hiệp Âu Châu phê duyệt gần đây vẫn chưa rõ ràng.

10. Bộ Ngoại Giao Nga tuyên bố chiến tranh sẽ chấm dứt sau 2 tuần nữa nếu phương Tây ngừng viện trợ cho Ukraine

Hôm thứ Tư, Bộ Ngoại Giao Nga đã xuyên tạc ý kiến của nhà lãnh đạo chính sách đối ngoại của Liên minh Âu Châu, Josep Borrell. Phát ngôn nhân Bộ Ngoại Giao Nga Maria Zakharova nói rằng “Như Josep Borrell đã nói rất chí lý, cuộc xung đột ở Ukraine sẽ kết thúc chỉ sau hai tuần nếu phương Tây ngừng cung cấp quân sự cho Kyiv”.

Hồi đầu tháng này, Borrell cho biết rằng sự tồn tại của Ukraine phụ thuộc vào phương Tây và cuộc chiến sẽ kết thúc sau vài tuần nữa nếu nguồn cung cấp vũ khí của phương Tây chấm dứt. Ông nhấn mạnh rằng ông không muốn chiến tranh kết thúc như vậy.

Khi được hỏi về cách giảm leo thang cuộc đối đầu giữa Nga và phương Tây, phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Nga Maria Zakharova cho biết phương Tây đã đưa ra những lời lẽ khoa trương về Nga.

“Về những gì cần thiết để giảm leo thang, Borrell đã nói: nếu bạn ngừng cung cấp vũ khí cho Kyiv, mọi thứ sẽ kết thúc sau 2 tuần. Và đó là công thức giảm leo thang,” bà ta nói trong một luận điệu rõ ràng là nhằm cố ý xuyên tạc ý kiến của ông Borrell. Ý ông ấy là cần phải viện trợ cho Ukraine chứ không phải là ngưng viện trợ.
 
ĐGM Odessa kêu gọi thanh niên hồi hương bảo vệ tổ quốc. Tin lành Đức giảm kỷ lục: nửa triệu người
VietCatholic Media
17:01 09/05/2024


1. Chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha tại Trieste

Hôm 03 tháng Năm vừa qua, Đức Cha Enrico Trevisi, Giám mục Giáo phận Trieste ở miền đông bắc Ý, đã thông báo chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha Phanxicô tại thành này, vào Chúa nhật, ngày 07 tháng Bảy tới đây, nhân dịp bế mạc Tuần lễ Xã hội lần thứ 50 của Công Giáo Ý.

Tuần lễ Xã hội sẽ diễn ra từ ngày 03 đến ngày 07 tháng Bảy, với chủ đề là: “Nơi trọng tâm nền dân chủ. Sự tham gia giữa lịch sử và tương lai”. Tổng thống Ý, ông Sergio Mattarella sẽ khai mạc tuần lễ này.

Đức Cha Trevisi cho biết Đức Thánh Cha sẽ từ Vatican bay trực thăng đến Trieste và đáp xuống lúc 8 giờ sáng, tại Trung tâm Hội nghị của Trieste, gần cảng cũ, và sẽ được chính quyền và giáo quyền tiếp đón, đứng đầu là Đức Hồng Y Matteo Zuppi, Tổng giám mục Bologna, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ý.

Liền đó, Đức Thánh Cha sẽ gặp gỡ các tham dự viên Tuần lễ Xã hội cùng với đại diện các Kitô khác và các tôn giáo hiện diện tại thành phố Trieste. Ngoài ra, cũng sẽ có một nhóm những người nhập cư và khuyết tật hiện diện trong số hơn 1.000 đại biểu tại cuộc gặp gỡ này. Họ bàn về sự tham gia của các công dân vào đời sống dân chủ, những đường lối thực hành tốt.

Đức Cha Giuseppe Baturi, Tổng thư ký Hội đồng Giám mục Ý, cho biết sự hiện diện của Tổng thống Mattarella muốn nói lên rằng Tuần lễ Xã hội này cũng có liên hệ tới cuộc sống của toàn thể đất nước, và các tín hữu muốn đóng góp vào việc đáp ứng những thách đố mà Ý, Âu châu và thế giới được kêu gọi đương đầu”.

Theo Đức Cha Trevisi, Tuần lễ Xã hội của Giáo Hội Công Giáo Ý không thể nói về tham gia, dân chủ và công ích mà quên những người yếu thế: họ có được đón tiếp và hội nhập hay không.

Thành phố Trieste giáp giới với các nước vùng Balkan, và ở trên lộ trình của những người di dân. Trong cuộc họp báo để giới thiệu chương trình viếng thăm của Đức Thánh Cha, Đức Cha Trevisi đặc biệt nói đến tình trạng đồi tệ, thiếu nhà vệ sinh, thiếu nước và điện ở gần nhà ga xe hỏa của những thành phố, nơi mà từ lâu nhiều người di dân đến trú ngụ và tình trạng này thật không xứng đáng.

Sau những cuộc gặp gỡ trên đây, Đức Thánh Cha sẽ đến Quảng trường Thống Nhất để cử hành thánh lễ và chủ sự kinh Truyền tin.

Sau lễ, lúc 12 giờ 30, Đức Thánh Cha sẽ trở về Vatican.

2. Số tín hữu Tin lành Đức suy giảm kỷ lục

Số tín hữu Tin lành tại Đức giảm kỷ lục: trong năm vừa qua, số người làm đơn xin ra khỏi Giáo hội và số tín hữu qua đời lại vượt quá nửa triệu người.

Theo thống kê mới nhất, công bố hôm mùng 02 tháng Năm vừa qua tại thành phố Hannover, bắc Đức, tính tới ngày 31 tháng Mười Hai năm 2023, số tín hữu Tin lành Đức chỉ còn khoảng 18,6 triệu người, tức là giảm 593.000 người so với năm trước đó, một con số kỷ lục. Tỷ lệ tín hữu Tin lành hiện nay khoảng 21,9% dân số thuộc 20 Giáo hội các tiểu bang.

Sự giảm sút số tín hữu cũng kéo theo sự giảm bớt số thu nhập: trong năm ngoái, sự giảm sút này là 5,3%: Giáo hội Tin lành nhận được 5 tỷ 910 triệu Euro do các tín hữu thành viên đóng thuế. Liên tiếp trong hai năm, số tín hữu xin ra khỏi Giáo hội vượt quá số tín hữu qua đời: có 380.000 người xin rời bỏ Giáo hội và số người qua đời giảm khoảng 25.000 người so với năm 2022 trước đó.

Theo thông lệ, Giáo Hội Công Giáo Đức sẽ công bố thống kê số tín hữu vào tháng Sáu hằng năm và năm nay chắc chắn cũng có sự suy giảm.

Năm ngoái, số người xin ra khỏi Giáo hội lên tới mức kỷ lục mới, là gần 523.000 người (522,821) trong năm 2022, tức là tăng thêm gần 133.500 người so với năm 2021 trước đó (359.338). Nếu tính cả số tín hữu qua đời cùng với số người xin gia nhập Công Giáo và số người đã làm đơn xin ra rồi xin trở về với Giáo hội, thì trong năm 2022, số tín hữu Công Giáo ở Đức giảm mất 708.000 người (708.285). Tính đến cuối năm 2022, số tín hữu Công Giáo tại Đức là gần 21 triệu người (20.974,590). Những con số thống kê trên đây được Hội đồng Giám mục Đức công bố, hôm 28 tháng Sáu năm 2023.

3. Đức Giám Mục Giáo phận Odessa, Ukraine kêu gọi người trẻ hồi hương

Đức Cha Stanislaw Szyrokoradiuk, Giám mục Giáo phận Odessa-Simferopol ở miền đông nam Ukraine, kêu gọi những người đồng hương đã trốn chạy khỏi nước này và có thể thi hành nghĩa vụ quân sự hãy trở về quê hương.

Trong cuộc phỏng vấn dành cho hãng tin Công Giáo Đức KNA, truyền đi hôm 03 tháng Năm vừa qua, Đức Cha Stanislaw nói: “Việc trở về này rất quan trọng, đứng trước tình trạng khó khăn hiện nay. Nhưng nếu chúng ta yêu mến tổ quốc của chúng ta, thì chúng ta phải cùng nhau bảo vệ đất nước”.

Chiến tranh giữa Nga và Ukraine đã diễn ra từ 100 ngày nay. Hiện nay, chính phủ Ukraine đang tiến hành chương trình động viên thêm nửa triệu binh sĩ, đứng trước tình trạng quân Nga đang từ từ tiến chiếm nhiều làng của Ukraine. Về phía Nga, cũng có chương trình động viên 600.000 binh sĩ. Chính phủ Ukraine đang thỉnh cầu Mỹ và các nước đồng minh ở Âu châu gia tăng viện trợ đạn dược, các võ khí thích hợp để có thể tự vệ và phản công chống lại Nga.

Đức Cha Stanislaw cho biết ngài hiểu rằng nhiều người Ukraine tiếc nuối một cuộc sống bình thường tại Âu châu. Nhưng đồng thời, ngài biết những người trẻ đã chiến đấu chống Nga tại mặt trận từ hơn hai năm nay. Đồng thời, những tín hữu trong Giáo phận Odessa rất biết ơn vì nhiều linh mục Công Giáo tiếp tục ở lại, kể cả trong những vùng bị Nga xâm lược. “Dân chúng ngày nay đang cần nhiều hỗ trợ về tinh thần và luân lý hơn bao giờ hết”, và Giáo hội giữ một vai trò quan trọng trong lãnh vực này”.

Trả lời câu hỏi về tình hình tại Odessa, Đức Giám Mục Giáo phận sở tại nói rằng nói chung tình hình vẫn rất tốt mặc dù có những vụ pháo kích và dội bom, nhưng hệ thống phòng thủ vẫn nguyên vẹn. “Tuy nhiên, khi tôi nghĩ đến thành phố Kherson, cũng thuộc giáo phận của tôi, tôi muốn khóc”: các chung cư, nhà thương trường học, mọi sự đều bị phá hủy. Đó thực là một cuộc diệt chủng”.

Đức Cha Stanislaw đưa ra những tuyên bố trên đây, khi ngài viếng thăm trụ sở chính quyền bang Bắc Rhein-Westphalia và gặp ông Nathanael Liminski, Bộ trưởng quốc tế vụ của bang này để bàn về những sáng kiến chung có thể thực hiện hầu thoa dịu những đau khổ của dân Ukraine vì chiến tranh.

Cơ hội cho cuộc viếng thăm của Đức Cha Stanislaw là chiến dịch Lễ Hiện Xuống do tổ chức bác ái Renovabis của Hội đồng Giám mục Đức phát động, để trợ giúp các nước Đông Âu. Vào Chúa nhật lễ Hiện Xuống, tại các nhà thờ Công Giáo ở Đức có cuộc lạc quyên để hỗ trợ tổ chức Renovabis trong công tác giúp Đông Âu. Chiến dịch năm nay của tổ chức này có chủ đề là “Để hòa bình phát triển, bạn có thể tạo nên sự khác biệt”, giúp các tín hữu hiểu rằng hòa bình không phải chỉ do các lãnh tụ quốc gia hoặc các nhà ngoại giao tạo nên, nhưng cũng phải đi từ hạ tầng. Đức Tổng Giám Mục Heiner Koch, Tổng giám mục Giáo phận Berlin, cũng nhấn mạnh rằng “điều cần thiết là làm sao để dân chúng hoạt động cho hòa bình từng bước nhỏ. Hòa bình là điều tùy thuộc chúng ta, mỗi người chúng ta”.