Ngày 21-12-2014
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:25 21/12/2014
NGƯỜI LẠC ĐƯỜNG
N2T

Có một người lần đầu tiên đi săn và bị lạc trong rừng sâu, đi rất lâu mà vẫn không tìm được đường ra.
Đột nhiên anh ta nhìn thấy trong rừng cây phía trước mặt có một người đi ra, anh ta rất mừng chạy đến ôm chầm lấy người ấy, phấn khởi nói lớn:
- “Tạ ơn trời đất, tôi bị lạc ở đây đã hơn ngày rồi, nhìn thấy anh thì tôi rất phấn khởi”.
Không ngờ người ấy lạnh lùng nói:
- “Có gì mà phấn khởi chứ, tôi bị lạc ở đây đã hơn một tuần rồi”.
(Ngôn ngữ kỳ diệu của tâm hồn)

Suy tư:
Thông thường người đi săn thì khó mà lạc đường, nhưng mới đi săn lần đầu trong rừng sâu thì rất dễ bị lạc, lý do duy nhất là vì ham đuổi theo con mồi mà quên mất đường về.
Có một vài người Ki-tô hữu vốn là những tín hữu rất nhiệt thành với niềm tin của mình, họ tích cực tham gia các sinh hoạt đoàn thể trong giáo xứ, tích cực cộng tác với cha sở để xây dựng giáo xứ.v.v...nhưng vì xã hội ngày càng biến chuyển nên:
- Có người bận “đi săn” con mồi danh vọng, con mồi quyền lực trong xã hội, thế là họ bị danh vọng quyền lực che lấp đường đến nhà thờ.
- Có người mãi ham đuổi theo con mồi tiền tài, thế là tiền tài làm cho họ mờ mắt không còn thấy con đường đến với Chúa nữa.
- Có người ham đuổi theo con đường xác thịt hưởng thụ, nên xác thịt và sự hưởng thụ làm cho tinh thần và thể xác của họ mất đi sinh khí thần thiêng, thế là họ quanh co trong chốn hồng trần trụy lạc không có lối ra...
Lời Chúa là cái la bàn của người Ki-tô hữu, khi họ mãi mê săn tìm danh vọng, thì Lời Chúa sẽ hướng dẫn họ đi theo danh vọng của Nước Trời là sự khiêm tốn; khi họ theo đuổi con mồi tiền tài, thì Lời Chúa sẽ hướng dẫn họ nên dùng tiền tài để mua lấy Nước Trời; khi họ đam mê săn con mồi lạc thú, thì Lời Chúa hướng dẫn họ đến đời sống thanh cao của các thiên thần trong Nước Trời...
Đi trong rừng sâu cần phải có la bàn để định hướng, sống trong xã hội khoa học càng phát triển và lối sống hưởng thụ, thì Lời Chúa luôn là cái la bàn cho mọi người Ki-tô hữu biết và định hướng đi của mình cho phù hợp với tinh thần Phúc Âm và dễ dàng tìm ra đường về thiên đàng.

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư

----------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
18:29 21/12/2014
N2T

27. Cứ yêu đi rồi sau đó có thể muốn làm gì thì làm.

(Thánh Augustinus)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
Dịch từ tiếng Hoa trong “Cách ngôn thần học tu đức”

---------------
http://www.vietcatholic.net
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Các Giám Mục Úc đem sứ điệp liên đới tới các Kitô hữu Iraq
Vũ Van An
21:40 21/12/2014
Theo tin Zenit, ngày 21 tháng 12, một phái đoàn các giám mục Úc thuộc Hội Đồng Giám Mục Úc Châu cũng như Hội Đồng Giám Mục và Đại Diện Các GH Tông Truyền Trung Đông tại Úc và Tân Tây Lan đã trở về sau một chuyến viếng thăm Trung Đông, nơi các ngài gặp gỡ các Kitô hữu rời cư tại Iraq và các người tịn nạn ở Libăng.

Các ngài đã lên đường trước đây một tuần, liền sau Chúa Nhật 7 tháng 12 được chỉ định làm Ngày Liên Đới với các Kitô Hữu Trung Đông, đáp ứng các biến cố đau thưong gần đây.

Phái đoàn bao gồm Đức Cha Christopher Prowse, TGM Canberra và Goulburn, Đức Cha Julian Porteous, TGM Hobart, Đức Cha Robert Rabbat, GM Giáo Hội Melkite của Úc và Tân Tây Lan, Đức Cha Mar Jibrael Kassab, TGM Giáo Phận Thánh Tôma Tông Đồ của GH Canđê và Assyri Tại Úc và Tân Tây Lan, Đức Cha Antoine-Charbel Tarabay, GM Maronite của Úc, Đức Cha Daniel, GM Chính Thống Coptic của Sydney và Các Vùng Phụ Thuộc, Đức Cha Danil Bolis, TGM của Giáo Hội Đông Phương Cổ Xưa.

Khoảng 120,000 Kitô hữu Iraq buộc phải trốn khỏi nhà cửa của họ vào cuối tháng 6 năm 2014 và lánh cư tại Iraq, Libăng, Thổ Nhĩ Kỳ và Giócđan. Bản tuyên bố của phái đoàn viết rằng “những người này đang sống trong những điều kiện khủng khiếp và họ đang dần dà mất hết hy vọng hồi hương và rất lo lắng đối với tương lai gia đình và con cái họ”.

Mục đích cuộc thăm viếng là bày tỏ sự ủng hộ trước lễ Giáng Sinh và cố gắng làm nhẹ nỗi đau khổ của họ và lắng tai nghe các nhu cầu của họ.

Khi tới Beirut, Đức TGM Christopher Prowse nói về sứ mệnh của phái đoàn đối với Trung Đông. Ngài nhấn mạnh tới lòng thương cảm và ủng hộ của Giáo Hội và nhân dân Úc: “Họ ngỡ ngàng trước các thử thách khó khăn của các Kitô hữu Iraq, những người bị buộc phải bỏ nhà cửa và tài sản để ra đi mà không biết đi đâu và tương lai sẽ như thế nào”.

Sau khi tới nơi, các vị giám mục tới Tòa Thượng Phụ Maronite ở Bkerke, nơi họ gặp Đức HY Mar Bechara Boutros Rai, Thượng Phụ Nghi Lễ Maronite của Antôkia và Toàn Đông Phương, người gọi cuộc viếng thăm này là một sáng kiến hồng phúc của các giám mục Úc Châu.

Thứ Ba, 16 tháng Mười Hai, phái đoàn tới thăm Văn Phòng Chính của Caritas Libăng tại Beirut, nơi ĐC Antoine-Charbel Tarabay cử hành Thánh Lễ với sự đồng tế của ĐC Michel Aoun, đặc trách Caritas và các giám mục hiện diện.

Sau Thánh Lễ, phái đoàn gặp gỡ một số gia đình tị nạn và nghe các trải nghiệm đau lòng của họ. Các giám mục viếng thăm hứa sẽ đem các quan tâm lo lắng của người tị nạn trình cho chính phủ và nhân dân Úc Châu.

Trong cuộc gặp gỡ này, Đức Cha Georges Kass Moussa, GM Công Giáo Syria, đã tóm tắt lời kêu gọi của người tị nạn gửi thế giới Tây Phương như sau:

Quyền của người tị nạn được trở về quê hương với sự bảo quốc tế giúp họ lấy lại nhà cửa và tiếp tục sống trong phẩm giá và hòa bình;

Làm dễ dàng diễn trình di dân cho những ai muốn di dân tới các nước khác, yêu cầu chính phủ Úc, nếu có thể, xin nhận thêm người tị nạn;

Bảo đảm để các nhu cầu nhân đạo căn bản của họ như giáo dục, chăm sóc y tế và thực phẩm được cung cấp, biết rằng hiện có khoảng 2,000 gia đình Kitô hữu Iraq đang sống tại mỗi nơi ở Libăng, Giócđan và Thổ Nhĩ Kỳ;

Nếu cộng đồng quốc tế không thể can thiệp để chấm dứt tình thế này, nhiều người hơn nữa sẽ buộc phải rời bỏ nhà cửa, càng đặt thêm gánh nặng lên các quốc gia lân bang.

Thứ Tư, 17 tháng Mười Hai, phái đoàn tới viếng Đan Viện Thánh Maroun ở Annaya nơi các vị cử hành Thánh Lễ và viếng mộ Thánh Charbel. Các vị được chào đón bởi Đan Viện Trưởng Tannous Nehme, Bề Trên Cả Dòng LMO và Cha Charbel Beirouthy, Bề trên Đan Viện.

Trong bài giảng lễ, Đức Cha Julian Porteous cầu xin Chúa, nguồn hòa bình, đến trợ giúp các Kitô hữu Trung Đông, và làm nhẹ bớt các đau khổ và đau buồn của họ, nhờ lời cầu bầu của Thánh Charbel.

Vào cuối ngày, phái đoàn đã yết kiến Đức Gregorios III Laham, Thượng Phụ Antiôkia và Toàn Đông Phương, TP Alexandria và Giêrusalem thuộc GH Công Giáo Hy Lạp, Nghi Lễ Melkite.

Thượng phụ kêu gọi Giáo Hội hợp nhất trong việc tìm hòa bình khắp nơi trên thế giới và bảo vệ quyền Kitô hữu được tiếp tục ở lại trên quê hương họ.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Mừng đại lễ Giáng sinh đầu tiên nơi giáo xứ truyền giáo mới.
Thái Phong
13:29 21/12/2014
Mừng đại Lễ Giáng sinh đầu tiên nơi Giáo xứ Truyền Giáo mới.

Hôm nay ngày 21 tháng 12 năm 2014, tại Giáo xứ Lộc Hiệp - Hạt Bình long, Giáo phận Phú Cường, đã khai mạc Thánh Lễ tại nhà một Giáo dân. Tiếp sau lễ, chương trình tĩnh tâm mừng Chúa Giáng sinh được mở ra với Phần Thánh nguyện.... do nhóm ca sỹ Công Giáo “Phi Nguyễn” thực hiện,với sự trợ giúp kinh phí của nhóm.

Giáo xứ Lộc Hiệp là vùng Truyền Giáo sâu và xa nhất nhì của Giáo phận Phú Cường, địa giới nằm cuối huyện Lộc Ninh, ráp gianh với Huyện Bù Đốp - Tỉnh Bình Phước. Nơi đây là vùng kinh tế mới, những anh chị em Công Giáo nghèo từ mọi nơi trên đất nước đổ về tìm kế sinh nhai. Giáo dân đa phần sống bằng nghề “Làm mướn” ở các đồn điền cao su. Đời sống đức tin của họ gặp muôn vàn khó khăn thử thách. Có đến 83% gia đình rối, các em thanh thiếu niên chưa có nơi để cầu nguyện và học hỏi giáo lý. Đã từ lâu, bà con giáo dân thường họp nhau tại nhà một giáo dân vào các buổi sáng Chúa Nhật để đọc kinh và xem lễ qua Đài Chân Lý Á Châu.

Giáo xứ mới được thành lập ngày 07 tháng 04 năm 2014. Quyết định số 672/QĐ-UBND. Cộng đoàn Dân Chúa nơi đây chưa có nhà Thờ, chưa có nhà mục vụ Giáo Lý và nhà cho linh mục cư trú.

Được biết đây là mùa Giáng sinh đầu tiên mà cộng đoàn tổ chức với danh nghĩa là giáo xứ mới dưới sự hưỡng dẫn của Linh mục Phêrô Maria Trần Thái Phong.

Chúng ta hãy cầu nguyện cách đặc biệt cho Giáo xứ này, để có nhiều tâm hồn quảng đại, nhiều nhóm thiện nguyện tìm đến, giúp họ có được ngôi Thánh Đường để Chúa ngự, và có nơi để cộng đoàn học hỏi Giáo lý về Chúa trong thời gian gần nhất.

 
Dòng Mân Côi Bùi Chu đem niềm vui Giáng Sinh cho các bệnh nhân phong cùi
Maria Vũ Thi Tươi
13:45 21/12/2014
Dòng Mân Côi Bùi Chu đem niềm vui Giáng Sinh cho các bệnh nhân phong cùi

Hòa trong bầu khí rộn ràng, háo hức, chờ đợi Con Chúa Giáng Trần, mong chờ một mùa Giáng Sinh an lành, ngày 20/12/2014 các chị em Dòng Con Đức Mẹ Mân Côi Bùi Chu đã đem niềm vui Giáng Sinh đến với những người bệnh phong cùi tại bệnh viện Phong Da Liễu Văn Môn, Vũ Thư -Thái Bình. Niềm vui đó không chỉ là sự động viên về vật chất qua những phần quà mà còn là niềm an ủi khích lệ về tinh thần qua chương trình văn nghệ Hoan Ca Mừng Chúa Giáng Sinh.

Xem Hình

Đúng 15h30 tại hội trường bệnh viện, với sự hiện diện của đông đảo của các bệnh nhân, chương trình văn nghệ được khởi động bằng các bài hát cử điệu vui nhộn do các chị em đệ tử trình bày. Hơn thế nữa, khán giả còn được cười rất nhiều khi xem vở kịch Gia đình yêu thương và nhận ra thông điệp Giáng Sinh là hãy yêu thương mọi người như chính Chúa đã yêu thương chúng ta. Ngoài ra, các chị em đệ tử còn đem đến nhiều tiết mục hay và ý nghĩa qua giọng hát của song ca Song Hằng với bài hát Noel về và tiết mục vũ khúc.

Về tham dự văn nghệ hôm nay còn có sự góp mặt của Hội Con Đức Mẹ giáo xứ địa phương với tiết mục múa Linh hồn tôi rất nhẹ nhàng, uyển chuyển, và sự góp vui của các bệnh nhân phong cùi với những vần thơ, tiếng hát tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, tri ân quý Cha, Quý Dì, Quý vị ân nhân. Những vần thơ mộc mạc giản dị, những tiếng hát vui tươi đều xuất phát từ tấm lòng của họ nói lên tâm tình cảm mến tri ân của mình.

Thay mặt ban lãnh đạo, cho 119 cán bộ công nhân viên chức cùng toàn thể bệnh nhân của bệnh viện, bác sỹ Nguyễn Thế Bê gửi lời cám ơn sự quan tâm, động viên và giúp đỡ của Đức Cha, của các Dì Dòng Mân Côi và các quý vị ân nhân. Bó hoa tươi thắm thay cho bao lời muốn nói được bác sỹ gửi tặng đến vị đại diện là Dì Phó tổng Gioan Bosco Đặng Kim Dung.

Kết thúc chương trình văn nghệ là lúc trao các phần quà đến cho các gia đình bệnh nhân trong bệnh viện. Tổng số 274 phần quà đã được trao tận tay đến từng gia đình và từng bệnh nhân. Nhận được những phần quà từ các Dì trao tặng mỗi bệnh nhân đều ánh lên niềm vui rạng rỡ và niềm biết ơn chân thành.

Đối với các bệnh nhân nặng không thể tới tham dự được, các Dì đã tới từng phòng để thăm hỏi, động viên và trao quà đến tận tay. Trong tinh thần bác ái yêu thương các Dì đã mang niềm vui Chúa Giáng Sinh đến cho mọi người nơi đây. Để nhờ đó, Hồng Ân của Chúa Hài Đồng luôn giúp sức, nâng đỡ họ vượt qua những đau đớn về phần xác cũng như tinh thần.

Kết thúc chương trình mặc dù trời đã tối nhưng tâm hồn mọi người đều ngập tràn hồng ân Chúa. Nguyện xin Chúa Giáng Sinh đến đem lại bình an cho tất cả mọi người đặc biệt ban ơn nâng đỡ cho những người nghèo khổ, những người bệnh tật, những người còn đang gặp khó khăn, cách riêng xin nâng đỡ và gìn giữ quý Cha, quý dì, quý vị ân nhân xa gần để nước Chúa ngày càng mở rộng và tình thương Chúa được đem đến cho nhiều người hơn nữa.

Bệnh viện Phong Da Liễu Văn Môn là nơi ở và điều trị của các bệnh nhân thuộc 21 tỉnh thành bao gồm cả những người Công Giáo và những người theo Đạo Phật. Tuy nhiên, ở đây mọi người đều đoàn kết yêu thương và giúp đỡ nhau. Tại đây có một cộng đoàn gồm 5 dì Dòng Mân Côi Bùi Chu sống và phục vụ những người bệnh. Trước sự quan tâm giúp đỡ của các dì mọi bệnh nhân đều tỏ lòng yêu mến và biết ơn sâu sắc. Chính tại nơi phòng bệnh, một cụ bà đã làm một bài thơ tặng các dì rất cảm động:

Các dì nhân hậu tình thương

Xa xôi cách trở dặm trường tới đây

Tấm lòng quý giá phúc thay

Dâng cho các cụ hôm nay nhiều quà

Lại còn chia sẻ động viên

Những lời thân mật răn khuyên ngọt ngào

Chúng con cảm động biết bao

Chân thành cảm tạ nói sao hết lời.


Maria Vũ Thị Tươi
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Hang Sữa ở Bê Lem, nơi nhiều ngàn phụ nữ hiếm muộn được phép lạ.
Trần Mạnh Trác
15:27 21/12/2014
(Theo RNS )



Hàng chục bức ảnh cuả những em bé tươi cười có đính kèm lời tạ ơn là những trang hoàng trong văn phòng nguyện đường Hang Sữa (Milk Grotto) cuả thầy Lawrence Bode, một tu sĩ dòng Phan Xi Cô. Theo truyền thống, nguyện đường Hang Sữa là nơi mà Đức Trinh Nữ Maria đã trốn vào đây để cho Chúa Giêsu bú trong khi Ngài và thánh Giuse chạy trốn vua Hêrodê.

Chính ở nơi đây, cũng theo truyền thuyết, thì một giọt sữa của Đức Maria đã rơi xuống đất trong khi đang cho Chúa Giêsu bú, và giọt sữa đã biến những bức tường đá màu đỏ nâu của hang thành màu kem trắng.

Nằm gần nhà thờ Giáng Sinh (Hang Bê Lem), nơi mà Đức Mẹ đã sinh hạ Chúa Giêsu, Hang Sữa là điểm đến cuả những phụ nữ hiếm muộn.

"Chúng tôi ước tính rằng trong 10 năm qua, đã có ít nhất là 3.000 đứa bé chào đời cho các bà mẹ đến đây để cầu tự, " là lời cuả thầy Bode, vị giám hộ của nguyện đường từ 18 năm qua. "đây chỉ là con số mà chúng tôi biết được kể từ khi tôi bắt đầu lưu trữ những lời chứng thực. Ngoài ra chúng tôi còn nghe rằng có rất nhiều phụ nữ Hồi giáo và ít ra là 2 phụ nữ Do Thái đã có con sau khi đến viếng hang. "

Thầy Bode có bảy cuốn album lớn, đầy ắp những hình ảnh và lời chứng thực, để chia sẻ với hàng chục ngàn người đến viếng thăm nguyện đường mỗi năm.



Thầy cho rằng Đức Mẹ có thể đã tới đây rất thường xuyên trong lúc còn tạm trú ở hang Belem vì nơi đây mới là nơi kín đáo để nuôi con.

"Đức Mẹ sinh con ra trong một hang lừa, đầy xúc vật, và mục đồng lui tới thường xuyên để nuôi thú và dọn dẹp" Thầy Bode nói tiếp. "Làm thế nào mà Mẹ Maria có được sự riêng tư để làm phận sự cuả một bà mẹ nuôi con?"

Là một người Mỹ quê ở New York, thầy Bode khuyên các cặp vợ chồng hiếm muộn là phải chuyên cần cầu nguyện hàng ngày, kêu khấn cùng "Đức Bà Sữa" ("Our Lady of the Milk") và lấy một nhúm bột đá vôi từ hang, pha vào nước mà uống.

(Thầy Bode nhấn mạnh rằng, theo luật cuả nhà dòng, thầy sẽ không thể trả lời thư hoặc gửi bột cho những người yêu cầu. Tuy nhiên, những khách hành hương có thể mua tại chỗ các gói bột với giá $ 2 một gói.)



Thầy cho rằng những phép lạ từ Hang Sữa, tức là những đứa con và khoảng 20 vụ chữa lành khác, chính yếu là do nơi "đức tin và lời cầu nguyện." Còn khi người ta pha bột vào nước mà uống thì ", vì làm như vậy giúp cho họ cảm thấy được gần gũi hơn với Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa."

Hang Sữa đã là nơi mà Kitô hữu đã đến cầu nguyện từ 2000 năm qua, còn ngôi nguyện đường bằng đá và tu viện thì được các tu sĩ Phanxicô xây dựng từ năm 1838, và giống như các thánh tích Công Giáo khác, được đặt dưới sự giám hộ cuả dòng Phanxicô.



Hang Sữa chỉ là một cái hang đơn sơ có mái thấp lồi lõm, một bàn thờ, một bức ảnh Mẹ Maria đang nuôi con. Ánh sáng diụ dàng, ánh nến lung linh.

Bảy năm trước, ban giám hộ Đất Thánh đã tân trang và lau sạch nơi hang đá và nhà nguyện. Cho nên ngày nay người ta thấy các bức tường và trần của hang đá trông gần như là trắng tinh, "là một điều đáng chú ý vì tất cả các hang động khác ở vùng Bethlehem đều có màu đỏ và nâu," thầy Bode cho biết.

Đối với những người đã từng đi vào hang để cầu nguyện trước khi có sự tân trang này, thì sự chuyển đổi từ một hang động tối tăm thành ra một hang động sáng suả nhắc lại sự tích giọt sữa của Mẹ Maria đã làm thay đổi màu đá.

Tuy nhiên không phải ai ai cũng đón nhận những ơn phước từ nơi Hang Sữa với một tấm lòng hoan hỉ, thầy biết chắc chắn là có một người đàn ông sẽ không bao giờ cầu nguyện trong Hang Sữa này nữa.

Chỉ vào một bức ảnh của 4 đứa bé sinh tư, thày Bode mỉm cười khi kể lại lúc mà cha mẹ cuả 4 đưá bé mang chúng tới tạ ơn tại nhà nguyện.

"Ông bố nói lời cảm ơn với tôi, nhưng lại nói thêm:' Con chắc chắn sẽ không cầu nguyện ở đây nữa đâu. '"
 
Văn Hóa
Ông già Noel là ai?
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
20:04 21/12/2014
ÔNG GIÀ NOEL LÀ AI?

Mỗi năm Giáng Sinh về, hình ảnh Ông Già Noel xuất hiện khắp mọi nơi. Ông Già Noel thân thương gần gũi vui vẻ trao quà cho trẻ em. Ông Già Noel thăm viếng và chia sẻ cho những người kém may mắn. Ông Già Noel làm MC trong các chương trình ca nhạc mừng Giáng Sinh…

Ông Già Noel là nhân vật lịch sử hay chỉ là huyền thoại ?

Thánh Nicôla và Ông Già Noel là cùng một người. Thánh Nicôla là một Giám Mục của Giáo Phận Myra, bên Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài sống ở thế kỷ thứ 4, nổi tiếng về nhân đức bác ái đối với người nghèo. Có nhiều huyền thoại về ngài, như ngài đã từng bỏ tiền ra để cung cấp 'cuả hồi môn' cho 3 cô gái bần cùng để cứu họ khỏi bị sa lầy vào cuộc sống mãi dâm. Ngài được tôn sùng đến nỗi nhiều thành phần trong xã hội đã tôn vinh ngài làm đấng quan thầy cho mình. Tuỳ theo địa phương, ngài là thánh quan thầy cuả những thủy thủ, cuả giới thương gia, người xạ thủ, thợ cất rượu, chủ cầm đồ, giới sinh viên, trẻ em và...cả những tên trộm cướp hoàn lương.

Người Pháp gọi là: Le Père Noel (ông Cha, linh mục Noel), người Anh gọi trực tiếp là Santa Claus (Thánh Nicôla), Thánh Giám mục,lễ mừng ngày 6 tháng 12 hàng năm.

Người Pháp thân mật gọi Ngài là “Le Père Noel” (ông cha Noel) vì ngài liên hệ nhiều đến lễ Noel, nhất là với trẻ em, đến nỗi sau khi Ngài qua đời đã lâu rồi, mà hình ảnh Ngài còn được lưu truyền cho hậu thế. Đầu tiên ở Châu Âu, rồi tới toàn thế giới qua bóng dáng một cụ già đẹp lão, râu tóc bạc phơ, mặc áo choàng đỏ viền trắng, thắt lưng da đen,đội mũ chóp đỏ, lưng vác một giỏ lớn đây đồ chơi và bánh kẹo cho thiếu nhi.

Người ta còn thi vị hóa, đem niềm vui cho trẻ em, bằng cách “bắt ông cha Noel đêm 24 tháng 12 chui qua lò sưởi vào phòng ngủ của các em, bỏ đồ chơi, bánh kẹo vào những chiếc giày các em để bên lò sưởi, hay bỏ vào những chiếc vớ mà các em treo ở chân giường”. Thật ra là cha mẹ các em bỏ vào đó để khuyên các em phải ngoan thì “Cha Noel” mới cho quà! Một cách giáo dục hay!

Ngày nay di hài cuả ngài bị chia đôi, một phần được tôn kính tại 2 Vương Cung Thánh Đường ở thành phố Bari cuả Ý (một nhà thờ Công Giáo và một nhà thờ Chính Thống Giáo nằm chung trong một khu thánh địa) và phần khác trong đền thờ Thánh Nicolas ở Venice, cũng nước Ý. Lý do là khi đế quốc đông phương Byzantine bị đe doạ bởi quân Hồi Giáo (1087), các thuỷ thủ cuả thành Bari đã tổ chức một cuộc viễn chinh qua Myra để đưa di hài cuả Ngài về Ý, nhưng các tu sĩ Chính Thống Giáo ở đó phản đối nên họ chỉ 'cướp' được một nửa. Sau khi Myra bị thôn tính, các thuỷ thủ thành Venice tham gia cuộc Thập Tự Chinh Thứ Nhất đã đưa về phần còn lại (1100). Những cuộc thí nghiệm khoa học ngày nay xác nhận xương ở cả hai nơi thực sự thuộc về một người. Nhưng ngoài hai nơi đó ra, thì còn nhiều thánh đường ở bên Âu Châu, ở bên Nga và cả ở bên Mỹ cũng tự nhận là có di hài cuả thánh Nicolas (một đốt ngón tay, một chiếc răng...)

Ngoài Công Giáo và Chính Thống Giáo, ngài cũng được nhiều giáo phái Tin Lành tôn kính và đặt tên cho các nhà thờ cuả họ như các giáo phái Baptist, Methodist, Presbyterian và phái Tin Lành Cải Cách (Calvin, bên Pháp)

Còn 'Santa Claus' ngày nay là một biến chế xuất phát ra từ bài hát "Santa Claus Is Coming to Town" (1934) và được giới thương mại cổ võ để bán hàng. Đó là một ông già râu trắng, có khi được mô tả là có vợ nữa, sống ở Bắc Cực, là chủ xưởng làm đồ chơi và nửa đêm Noel sẽ dùng xe tuyết kéo bởi những con hươu, bay trên trời, chui qua các ống khói để chui vào nhà mà tặng quà cho các em nhỏ đang ngủ say. Ông tặng những món quà tuỳ theo hành vi cuả chúng như nghịch ngợm hoặc ngoan hiền. Ông thường cười với một giọng độc đáo "hô, hô, hô".

Khi tới Việt Nam, dân chúng không hiểu rõ nguồn gốc, thấy hình cụ già râu tóc bạc phơ, nên gọi là Ông Già Noel.

Ông Già Noel ngày nay đã bị xã hội tục hóa quá nhiều khiến lu mờ đi ý nghĩa chính của câu truyện, đó là tấm gương quảng đại của vị Giám mục thánh thiện, Thánh Nicôla.

Cả hai Giáo Hội Ðông Phương và Tây Phương đều vinh danh ngài. Có thể nói, sau Ðức Mẹ, ngài là vị thánh thường được các nghệ sĩ Kitô giáo mô tả. Tuy nhiên, về phương diện lịch sử, chúng ta chỉ biết một dữ kiện, Thánh Nicôla là giám mục ở Myra vào thế kỷ thứ tư. Myra là một thành phố nằm trong Lycia, một tỉnh của Tiểu Á. Tuy nhiên, như nhiều vị thánh khác, chúng ta có thể biết được mối quan hệ giữa thánh nhân và Thiên Chúa qua sự ngưỡng mộ mà các Kitô hữu dành cho ngài. Sự ngưỡng mộ được diễn tả qua các câu truyện đầy màu sắc và thường được kể đi kể lại trong nhiều thế kỷ.

Có lẽ câu truyện nổi tiếng nhất về Thánh Nicôla là lòng bác ái của ngài đối với một gia đình nghèo khổ mà ông bố không có của cải để cho ba cô con gái làm của hồi môn. Vì không muốn trông thấy họ phải lâm vào cảnh đĩ điếm, Thánh Nicôla đã bí mật ném ba gói vàng qua cửa sổ nhà ông này vào ba trường hợp khác nhau, để giúp các cô con gái ấy đi lấy chồng. Qua các thế kỷ, huyền thoại này trở thành thói quen tặng quà nhân ngày lễ kính thánh nhân. Trong thế giới nói tiếng Anh, Thánh Nicôla trở thành Santa Claus và người Việt thường gọi là Ông Già Noel.(x.nguoitinhuu.com)

1. Cuộc đời Thánh Nicôla

Năm 1969, Giáo Hội Công Giáo đã chính thức đặt vấn đề tra cứu về thân thế của Thánh Nicôla. Ngài là một vị thánh thực sự hay chỉ là một huyền thoại?

Sử liệu còn để lại đã chứng minh rằng Ngài là một nhân vật có thật.

Thánh nhân sinh năm 280 scn, tại một ngôi làng nhỏ tên Batara thuộc vùng Tiểu Á (ngày nay thuộc lãnh thổ nước Thổ Nhỉ Kỳ). Cha mẹ đặt tên cho con trai bằng tiếng Hy Lạp là Nicôla. Lúc ấy nền văn minh và văn hóa Hy lạp còn thống trị nhiều vùng đất rộng lớn trong đó có Thổ Nhỉ Kỳ. Theo tiếng Hy Lạp, Nicôla có nghĩa là Người Anh Hùng của Dân Tộc. Cái tên định mệnh đó rất xứng đáng đối với ngài ít nhất ở lãnh vực đạo đức và tôn giáo. Ông bà thân sinh tuy không giàu có lắm nhưng luôn giúp đỡ người nghèo. Hấp thụ nền đạo đức bác ái từ cha mẹ : "Phải luôn là người lương thiện, nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến mình", Nicôla đã trở thành một mẫu người thánh thiện ngay khi ngài còn ở độ tuổi thiếu niên. Một cơn dịch bệnh tràn qua thôn xóm. Cha mẹ qua đời, lúc này Nicôla mới 12 tuổi. Tuy vậy, cậu bé vẫn tiếp tục đem tiền bạc giúp đỡ cho những người cùng khổ. Nicôla miệt mài học tập giáo lý. Ngài có một khả năng siêu nhiên lạ lùng là có thể cảm nghiệm được nỗi khổ đau đang xảy ra ở đâu đó và lập tức đến nơi cứu giúp.

Trong lịch sử Giáo Hội Công Giáo, có lẽ thánh Nicôla là người được phong chức Giám Mục thành Mira ở độ tuổi trẻ nhất. Lúc đó ngài mới có 19 tuổi. Vì vậy, bạn bè đặt cho ngài biệt danh vui nhộn là "chú nhóc Giám Mục". Ngài cười đón nhận và chẳng phiền lòng tí nào.

Năm 303, lúc Nicôla 23 tuổi, Vua La Mã là Dio Pletian buộc mỗi vùng thuộc đế quốc La Mã phải tôn phục ông là thượng đế. Dĩ nhiên Giám Mục Nicôla và giáo dân địa phận Mira không chịu tuân phục. Ðối với Kitô hữu, chỉ có một Thượng Ðế duy nhất, đó là Thiên Chúa. Vì vậy, thầy trò Nicôla đều được ưu ái mời vô khám nằm đếm lịch, ăn bánh mì đen và uống nước lã. Riêng Nicôla bị biệt giam trong một cái nhà tù nhỏ xíu, bị bỏ đói, khát và lạnh đến 10 năm. Vô cùng mầu nhiệm, ngài vẫn sống.

Đến năm 313, hoàng đế Constantine lên ngôi, ra sắc chỉ Milan, đại xá thiên hạ. Lao lý 10 năm đã làm cho đức tin và con người của Nicôla thêm bền vững. Ngài dốc tâm giảng đạo, phát triển Giáo Hội, bố thí của cải và đem vô số người về với Chúa.

Ngày 6 tháng 12 năm 343, ĐGM Nicôla từ trần, hưởng thọ 63 tuổi. Ngài để lại cho trần thế một công nghiệp đồ sộ, một tên tuổi rực chói và những câu chuyện có thật lẫn huyền thoại mà vẫn được lưu truyền mãi cho đến ngày nay.

Một thời gian ngắn sau khi ĐGM Nicôla từ trần, người dân Mira dựng lên một ngôi đền thờ tôn kính ngài, lưu giữ tất cả các vết tích và các vật dụng của ngài.

Ðến năm 800 Giáo Hội Công Giáo Đông Phương chính thức tuyên dương ngài là thánh.

2.Từ một vị Thánh trở thành Ông Già Noel.

Làm cách nào mà từ một vị Thánh đầy lòng bác ái lại trở thành Ông Già Noel, một biểu tượng mang tính tiêu dùng vào mỗi mùa Giáng Sinh?

Jeremy Seal, một nhà văn chuyên viết về các đề tài du lịch (hay một nhà văn lãng du, travel writer), đã lao vào một cuộc tìm kiếm mang tính quốc tế để trả lời cho câu hỏi trên và Ông đã cho viết lại những tìm kiếm của Ông trong cuốn sách có nhan đề: “Nicholas: Cuộc Viễn Du Mang Tín Thiên Hùng Ca từ Một Vị Thánh trở thành Ông Già Noel” (Nicholas: The Epic Journey from Saint to Santa Claus) do nhà sách Bloomsbury xuất bản.

Ông đã chia sẽ cho hãng tin Zenit về những gì mà Ông đã khám phá ra, bằng việc dõi theo sự sùng kính Ông Già Noel trên khắp địa cầu và lý do tại sao Ông nghĩ Thánh Nicôla và lòng bác ái từ nhân của vị Thánh này vẫn còn âm vang mãi cho đến ngày hôm nay, mặc cho chủ nghĩa tiêu thụ hóa của mùa Giáng Sinh.

Hỏi (H): Thưa Ông, điều gì đã khiến Ông có cảm hứng để viết ra cuốn sách này? Và Ông định tìm kiếm mãi cho đến tận đâu?

Ông Seal (T): Thưa, tôi bị lôi cuốn vào đề tài này bởi vì chính tôi cũng có hai cô con gái nhỏ, 6 và 2 tuổi khi tôi bắt đầu dự án này. Chúng nhắc nhở cho tôi biết được nhân vật Ông Già Noel có ý nghĩa quan trọng như thế nào đối với các trẻ em.

Tôi cũng bị lôi cuốn vào Thánh Nicholas vì lẽ câu chuyện của vị Thánh này có tính chất thiên hùng ca hay thiên sử thi. Tôi là một nhà văn chuyên viết về các đề tài du lịch và ý thức rằng mãi cho đến khi vị Thánh này chết đi thì mọi người mới biết được vị Thánh đã thực hiện một cuốn viễn du lạ kỳ bắt đầu từ Thổ Nhĩ Kỳ đến tận Châu Âu, Manhattan và sau cùng là vùng Bắc Cực lạnh giá.

Tôi cũng đã đi đến tất cả những nơi có gắn liền với cuộc sống của vị Thánh Nicholas này.

Tôi bắt đầu chuyến viễn du tại Thổ Nhĩ Kỳ là nơi mà Vương Cung Thánh Đường nguyên thủy mang tên vị Thánh đứng sừng sững giữa thành phố Myra, giờ đây là thành phố Demre; rồi lần theo sự sùng kính của vị Thánh này đến vùng phía Tây của Bari, Ý Quốc; và phía Bắc đến thành Venice, Áo Quốc; rồi đến Amsterdam của Hòa Lan và rất nhiều nơi khác nữa tại Châu Âu; rồi đến thành phố Manhattan và sau cùng là đến Lapland ở phía Bắc Phần Lan và Thụy Điển cùng với hai đứa con gái của tôi vào mùa Giáng Sinh năm vừa qua.

(H): Thưa Ông, Thánh Nicholas của thành Myra là ai vậy?

(T): Thưa, chúng ta biết rất ít về vị Thánh này. Vị Thánh chính là Đức Giám Mục của Giáo Phận Myra vào thế kỷ thứ 4. Myra là một thị trấn ở phía Nam Thổ Nhĩ Kỳ, nay được biết đến là thành phố Demre. Không có bằng chứng nào còn sót lại về cuộc sống thật sự của vị Thánh này ngoại trừ việc tham khảo vào bản viết tay của thế kỷ thứ 6.

Chúng ta hoàn toàn chẳng biết gì cả về Thánh Nicholas ngay cả sau khi vị Thánh này mất đi. Nhưng bởi vì vị Thánh là một người rất nổi tiếng, được biết tới sau khi vị Thánh đã chết đi, do đó, có lẽ là do một điều gì đó trong cuộc sống của Ngài mới làm cho Ngài được ca ngợi nhiều đến như vậy; chúng ta tuy không biết được gì nhiều về vị Thánh này, nhưng giác quan cho chúng ta biết được rằng: Ngài là một người rất đặc biệt.

Trông có vẽ là Ngài là một người rất tế nhị nên đã khiến cho tên tuổi của Ngài được đề cập đến trong việc cầu xin một sự trợ giúp về vật chất lẫn một sự trợ giúp mang tính thực tế nào đó. Khía cạnh này vẫn mãi âm vang qua biết bao nhiêu thế hệ bởi vì sự trợ giúp về vật chất là một điều gì đó mà tất cả chúng ta đều cần đến hay có thể liên hệ đến.

(H): Thưa Ông, đâu là những hành động khác thường, nổi bật của vị Thánh này?

(T): Thưa, có rất nhiều loại câu chuyện minh chứng cho những hành động khác thường và nổi bật của vị Thánh này, vì lẽ, Ngài là vị Thánh duy nhất sống rất thọ. Trong thời của Ngài, hầu hết những vị Thánh Kitô Giáo đều bị tử vì đạo, chỉ có Thánh Nicholas là có nhiều câu chuyện được kể về nhất vì vị Thánh sống rất lâu và đã qua đời ngay trên giường ngủ của Ngài.

Bạn có thể chọn lựa một vài mẫu chuyện về Ngài, nhưng hầu hết mọi câu chuyện đều có một điểm chung duy nhất là việc Ngài chủ động giúp đỡ tất cả mọi người. Có vô số câu chuyện về việc Ngài cứu các thủy thủ khỏi bị sóng bão đánh ngoài khơi bờ biển của thành phố Myra. Khi Ngài thuyết phục vị thuyền trưởng của một chiếc tàu vừa mới vượt qua mang các hàng hóa về lúa thóc đến thành phố Myra là nơi mà mọi người đang phải chết đói, tức thì chuyến hàng của vị thuyền trưởng đó tự nhiên được bổ sung thêm rất nhiều.

Một số binh sĩ đang chờ đợi tử hình đã nói dối là thấy được vị Thánh trong giấc mộng, tức thì Thánh Nicholas liền đến an ủi họ và giúp họ được giải thoát.

Khi ý tưởng của Thánh Nicholas đến được Nga Sô vào thế kỷ thứ 11, thì một loạt câu chuyện mới về vị Thánh được nêu ra. Những người Nga Sô gọi Ngài là “ugodnik” tức “người giúp đỡ.” Tại Nga Sô, Ngài đã giúp đỡ dân chúng dưới nhiều hình thức khác nhau như: hổ trợ những người chăn cừu trong việc bảo vệ đàn cừu khỏi bị chó sói, bảo vệ các ngôi nhà khỏi bị cháy rụi, vân vân..

(H): Thưa Ông, đâu là những cản trở mà sự sùng kính về vị Thánh này gặp phải qua nhiều thế kỷ?

(T): Thưa, tôi nghĩ là có hai khía cạnh cụ thể.

Khía cạnh đầu tiên là từ thế kỷ thứ 8 trở đi, nơi mà Ngài đã bắt đầu, tại phía Nam của Thổ Nhĩ Kỳ liên tục bị đe dọa từ các thế lực Hồi Giáo đang lớn mạnh tại đó, những người vốn không mấy thích thú gì cả về vị Thánh này.

Những di tích của Thánh Nicholas đã bị đưa ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ vào năm 1087 và được mang đến Bari, Ý Quốc, vốn đã thiết lập nên tên tuổi của Ngài tại Âu Châu và sự sùng kính đó cứ thế mà được lan tràn ra khắp lục địa Âu Châu. Rất đáng ngạc nhiên là nó được dời ra khỏi Thổ Nhĩ Kỳ kịp thời vì lẽ Ngài không bị tách rời ra khỏi nhịp điệu phát triển tại một quốc gia Hồi Giáo tương lai; và tại Bari, một Vương Cung Thánh Đường đã được dựng lên bên trên những di tích của Ngài.

Khía cạnh thứ nhì chính là phong trào cải cách đã càn quét toàn bộ vùng phía Bắc Âu Châu vào các thế kỷ 16 và 17 và việc xem nhẹ / coi thường tầm quan trọng của các vị Thánh. Tôi nghĩ Ngài chính là vị Thánh duy nhất đã tạo ra được sự cảm kích, sâu đậm cho tất cả mọi người vượt qua cả phạm vi của Giáo Hội, vì lẽ Ngài đã trở thành một thành viên yêu mến nhất của tất cả mọi người và mọi nhà.

Thánh Nicholas sẽ đến cứ vào mỗi ngày thứ 6 của tháng 12 để mang các món quà xuống từ ống khói cho các trẻ em ở phía Bắc Châu Âu; và bắt đầu từ thế kỷ thứ 14 Ngài đã trở nên phổ biến và được yêu mến nhiều bởi tất cả mọi người. Chính điều này đã tạo cho việc sùng kính Ngài trở nên ngày một kiên vững và thành trì hơn, đang khi đó, thì tại tất cả những nơi khác những hình ảnh và bức tượng của các vị Thánh khác đều bị phá trụi, bị thiêu hũy, bị đốt cháy hay bị đập tan ra từng mãnh.

(H): Thưa Ông, làm thế nào mà vị Thánh này có liên quan đến hình ảnh của Ông Già Noel thời nay?

(T): Thưa, vì tình yêu thương vào Thánh Nicholas đã giữ cho việc sùng kính Ngài được tồn tại và sống động mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 18 tại thành phố Manhattan, thuộc tiểu bang New York, là nơi mà sự trở lại của Ông Già Noel đã xảy ra.

Cái tên “Santa Claus” (Ông Già Noel) là cách đọc theo giọng Mỹ của từ “Sinterklaas” của người Hà Lan. Thánh Nicholas và Ông Già Noel là cùng một người, thế nhưng rất nhiều người không hề biết được điều này. Cả hai đều là một, nhưng trông có vẽ khác nhau là vì sự tiến triển tại nhiều thời điểm khác nhau sau cái chết của vị Thánh.

Chúng ta không biết được vào thời gian nào mà ý tưởng này được lan truyền từ phía Bắc Châu Âu đến vùng Tân Amsterdam, bây giờ là thành phố Manhattan. Nhưng thật là an toàn khi nói rằng vị Thánh này đã đến cùng thời với những người di cư đầu tiên như là một trí nhớ giả tạo (fake memory) và sau đó bị im lặng tại vùng Bắc Mỹ mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 18.

Điều đã xảy ra chính là việc cho quà, mà vào thời gian đó chỉ đơn thuần là một việc trao đổi các vật gia dụng trong nhà mang tính chất địa phương và nhất thời mà thôi, và rồi sau đó bùng nổ thành một thứ gì đó lớn hơn rất nhiều. Việc sản xuất đại trà cũng từ đó mà bắt đầu, các tiệm bán lẻ bắt đầu mở ra, các loại đồ chơi trở nên thịnh hành từ phía Bắc Châu Âu, và các cuốn sách, các dụng cụ âm nhạc và các đồ vải lanh đều có thể mua sắm được.

Tầm ảnh hưởng của việc này chính là truyền thống trao tặng quà cáp được hoán chuyển trên tất cả mọi khía cạnh nhận thức của con người. Điều này đã tạo ra một nhu cầu cho việc cần phải có một tinh thần trong việc trao tặng quà cáp. Thánh Nicholas chính là người hay trao tặng quà cáp từ thế giới cổ trong các truyền thống của người Hòa Lan và người Anh Quốc, và mọi người chẳng cần phải nghĩ ngợi quá lâu để liên tưởng ngay đến Ngài.

Mọi người ở vào cuối thế kỷ 18 đại chúng hóa ý tưởng về Ông Già Noel, nhưng vào thời đó, họ không có chủ ý là thương mại hóa. Thánh Nicholas cũng từ đó mà nổi trội lên và dần dà tên của Ngài được đổi thành Santa Claus tức Ông Già Noel.

Vào những năm của thập niên 1820, Ngài bắt đầu đạt được những sự công nhận qua các loại đồ trang trí như: nai tuyết, ngựa kéo xe trượt tuyết và các quả chuông. Chúng chỉ đơn thuần là những thứ trang điểm bề ngoài trong một thế giới mà Ngài nổi trội lên. Vào thời đó, xe ngựa trượt tuyết chính là phương tiện để bạn có thể đến được vùng Manhattan.

Bài thơ “Một Cuộc Viếng Thăm của Thánh Nicholas” (A Visit from St. Nicholas) cũng còn được biết đến như “Twas the Night Before Christmas” (Mãi Cho Đến Đêm Trước Giáng Sinh) được xuất hiện ra trước công chúng vào năm 1822 và mô tả đầy đủ các chi tiết về vị Thánh. Khi đó Ngài hút thuốc bằng tẩu, và dần dà trở thành nhân vật mà giờ đây chúng ta được biết đến.

Tất cả những yếu tố này được thành hình nên về Ngài, và càng ngày Ngài càng bị thương mại hóa, vốn là một điều thật dễ hiểu, nhưng đó lại là một sự sai lạc so với ý nghĩa nguyên thủy của việc Ngài là ai và có ý nghĩa như thế nào. Trong thời đại Trung Cổ, Ngài chính là một biểu tượng và một thần tượng về lòng bác ái. Tôi không dám chắc là liệu điều này còn đúng hay không nữa trong thời đại ngày nay, vì có vẽ con người thời nay đã hình tượng hóa Ngài trong một sự pha trộn lạ kỳ giữa lòng bác ái và sự bùng nổ của việc thương mại hóa.

(H): Thế thưa Ông, Ông có đề nghị gì cho các bậc làm cha mẹ Kitô Giáo để họ kể về Ông Già Noel cho các con cái của họ?

(T): Thưa, điều mà tôi đã cố gắng làm bằng cách lần theo dấu vết của Ông Già Noel về tận nguồn gốc nguyên thủy của vị Thánh chính là cách để nhắc nhở chính bản thân tôi rằng thật sự có một khía cạnh đạo đức luân lý thật trong việc trao tặng quà. Thánh Nicholas luôn tìm cách giúp đỡ mọi người khi họ rơi vào tình trạng túng quẫn.

Đây chính là bài học mà chúng ta có thể rút ra được từ việc trao tặng quà. Các món quà, nhằm để trao cho những người thân mà họ đã có đầy đủ hay dư thừa, không thể nào phản ánh đúng cho được những gì mà Thánh Nicholas thường hay làm. Làm cách nào mà vị Thánh này trở nên quan trọng và có ý nghĩa đối với tất cả các trẻ em, thì tôi thật sự không biết.

Tôi là một người theo đạo Anh Giáo đã từng sa ngã, nhưng điều thú vị mà tôi tìm được qua Thánh Nicholas này chính là từ các quan điểm về mặt trí thức lẫn về mặt đạo đức, luân lý học. Tôi yêu mến khía cạnh đạo đức luân lý mà vị Thánh này đại diện cho và về những hoạt động mang tính bác ái của Ngài.

Thánh Nicholas có sức lôi cuốn cho bất kỳ ai trên bất kỳ mọi khía cạnh đạo đức, và luân lý học nào, và không có một hệ thống tín ngưỡng nào có thể bất đồng về những gì mà Ngài tượng trưng cho.

Ngài nói chuyện với tất cả mọi người vì lẽ quá nhiều thần học có thể làm cho rối rắm thêm, thế nhưng chính Ngài và những câu chuyện của Ngài là rất đơn giản, mộc mạc. Tôi nghĩ đó là lý do tại sao mà chúng vẫn còn âm vang mãi qua hàng trăm năm và tại sao chúng lại có tính liên kết tồn tại trong truyền thống của mọi gia đình khi chúng ta đề cập tới Ông Già Noel trong thời đại ngày nay.(nguồn: Vietcatholic 22/12/2005).

3. Vài cầu chuyện về Thánh Nicôla.

a.Thánh Nicôla làm phép lạ trên biển

Câu chuyện kể về người thủy thủ một chiếc tàu sắp bị đắm trong vùng biển Ðịa Trung Hải. Con tàu bị lạc giữa một cơn bão tố và va phải đá ngầm và bị thủng một lỗ to. Nước biển tràn vào ồ ạt. Con tàu chồng chềnh ngã nghiêng và chìm dần xuống. Một vài thủy thủ chợt nhớ lại tên thánh Nicôla hằng cứu giúp, mặc dầu lúc ấy ngài đã tạ thế. Lập tức họ cùng nhau quỳ xuống khấn nguyện tên ngài và khẩn cầu ngài cứu vớt. Ðột nhiên từ trên không, giữa những làn nước giá buốt trút ầm ầm như thác, giữa những cơn sóng gầm thét điên cuồng, thánh Nicôla trong chiếc áo giám mục màu đỏ từ từ hạ xuống giữa khoang tàu. Gió bỗng thôi gào, mưa bão ngưng tạnh. Thánh Nicôla cùng thuỷ thủ đoàn quỳ xuống tạ ơn Thiên Chúa, rồi ngài cùng họ chèo chống con tàu ra khỏi vùng đá ngầm bằng một chiếc sào dài. Khi con tàu đã đến chỗ bình yên, thì ngài vẫy tay từ biệt họ, cất mình lên không và biến mất sau những đám mây trắng. Vẫn chưa chấm hết câu chuyện, khi con tàu cập bến Myra, các thủy thủ cùng vị thuyền trưởng đi đến ngôi đền thờ thánh Nicôla để làm lễ tạ ơn, thật lạ lùng, họ thấy ngài đã hiện ra lúc nào và đang mĩm cười đứng bên đền thờ nhìn họ. Một người hỏi rằng làm thế nào mà ngài đã biết và đến cứu họ. Thánh Nicôla cho biết, ngay từ thuở nhỏ, ngài đã có năng khiếu siêu nhiên là có thể nhìn thấy những người đang lâm nạn và nghe thấy tiếng kêu khóc của họ, vì đó là ý của Chúa. Từ câu chuyện này, mãi cho đến ngày sau, người Hy Lạp thay vì đập chai sâm banh để khánh thành một chiếc tàu mới chuẩn bị hạ thủy thì họ khấn nguyện xin thánh Nicôla bảo hộ cho họ được bình yên trên các nẽo đường hàng hải.

b.Thánh Nicôla làm phép lạ cứu sống 3 trẻ em.

Có một buổi sáng trời giá lạnh, Đức Cha Nicôla bước vào một quán ăn nhỏ bên đường cách đô thị chừng 15km. Chủ quán nhận ra Đức Giám Mục liền chào Ngài. Đức Cha hỏi: “Quán có gì ăn không?”. Chủ quán thưa: “Dạ, có thịt, trứng và bánh mì, nhưng hết mất rượu vang. Xin Đức Cha vui lòng ngồi nghỉ chờ con ít phút, con vào trong làng mua rượu”.

Chủ quán đi rồi, Đức Cha Nicôla xuống bếp, mở nắp khạp thịt, vỗ vào hông khạp và gọi:

- Dậy đi, các con!

Thế là có ba bé trai lùng nhùng từ đống thịt tươi mới ướp muối, liền lại, sống lại và bước ra. Ngài chỉ chỗ cho ba đứa trẻ lấy quần áo mặc vào, rồi lên nhà trên ngồi vào bàn ăn chờ. Thì ra đó là ba bé trai nhà nghèo, chiều hôm trước đi mót lúa ngoài cánh đồng, bị đói lạnh, đã vào quán xin ăn, bị chủ quán giết chết, chặt ra bỏ vào khạp ướp muối để sẽ nấu món ăn bán cho khách. Thánh nhân biết được nên đã tới cứu các cháu.

Lát sau chủ quán về tới, giật mình trông thấy ba đứa bé anh đã giết chết, ngồi cạnh Đức Giám Mục. Anh sợ hãi qùy xuống trước mặt Ngài thú tội:

- Con nghèo quá nên đã làm nhiều sai trái, xin Đức Cha tha tội cho con!

Ngài giải tội cho anh, lại còn cho anh một túi tiền để làm vốn và khuyên anh từ nay không được làm điều ác. Sau đó Ngài bảo anh dọn bánh mì, chiên trứng, bốn cha con ăn xong, Ngài dẫn ba đứa bé đi theo về trả lại cho gia đình và cấp dưỡng cho chúng được ăn học.

Những truyện về Thánh Giám Mục Nicôla còn rất nhiều. Điều chủ yếu muốn nói đến qua các câu chuyện là Ngài rất gần gũi với lễ Giáng Sinh, hay giúp đỡ dân nghèo, đặc biệt là bạn của các thiếu nhi. Dù khi còn ở gia đình, khi đã đi tu, khi làm linh mục hay khi đã làm giám mục, khi còn trẻ hay khi đã râu dài tóc bạc, mỗi mùa Giáng Sinh về, Thánh Nhân đều mang trên lưng một bao lớn bánh mì bánh kẹo, đem tới từng nhà chia cho trẻ em nghèo mừng lễ Giáng Sinh.

Cuộc đời Thánh Nicôla thắp sáng lên một ngọn đuốc tình yêu trong thế gian.

Xin Chúa cho mỗi người chúng con là một “Little Santa Claus”, một ông già Noel nhỏ. Chúa sinh ra, đem mùa xuân hạnh phúc cho cả nhân loại. Cuộc đời Thánh Nicôla mang niềm vui hạnh phúc cho bao người, đặc biệt là trẻ em. Xin cho chúng con biết đem niềm vui Giáng Sinh đến cho mọi người, đặc biệt những người bên Lương hàng xóm láng giềng của chúng con. Amen.
 
Giáng sinh : Sống ơn gọi ''vui và hạnh phúc''
Lm. Bosco Dương Trung Tín.
13:53 21/12/2014
Giáng Sinh : Sống ơn gọi "VUI và HẠNH PHÚC"

“Như cô dâu là niềm vui cho chú Rể

Ngươi cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ngươi thờ”(Is62,5).

Cô dâu làm niềm vui cho chú rể và chú rể là hạnh phúc của cô dâu. Đó là hạnh phúc lứa đôi, hạnh phúc trong tình yêu. Niềm vui đó là niềm vui tự hiến của Cô nàng cho Anh chàng và hạnh phúc đó là chàng có nàng. Đó là hạnh phúc của đôi bạn trẻ, của đôi bạn tình. Nếu cô nàng hiến mình cho một tên sở khanh thì đời nàng sẽ đau khổ, không bao giờ có niềm vui và tên sở khanh kia cũng không bao giờ có hạnh phúc.

Hạnh phúc và niềm vui đó như A-đam nhìn thấy E-và mà thốt lên:” Đây là xương bởi xương tôi; thịt bởi thịt tôi”(x. St1,23). Đó là họ đã tìm thấy được bản thân mình, tìm thấy được bạn tình của mình để rồi họ là hạnh phúc, là niềm vui của nhau. Không phải họ chỉ đem hạnh phúc và niềm vui đến cho nhau, mà chính họ, chính bản thân họ là niềm vui, là hạnh phúc cho nhau, điều đó mới sâu xa và đầy ý nghĩa. Nói đem niềm vui, đem hạnh phúc đến cho nhau thì dường như đó chỉ là những thứ này thứ nọ, nó ở ngoài con người của họ. Điều đó sẽ không quí bằng, chính bản thân, chính con người của họ là niềm vui, là hạnh phúc cho nhau.

Trên đời này đã có biết bao mối tình đẹp đẽ, chung thủy và hạnh phúc, vì họ đã LÀ niềm vui và LÀ hạnh phúc cho nhau. Nhưng cũng có không ít những mối tình đau khổ, đổ vỡ và bất hạnh, vì họ chỉ đem niềm vui và hạnh phúc đến cho nhau hay ích kỷ chỉ bản thân mình vui, chỉ bản thân mình sướng thôi.

Khi tìm được một nửa của đời mình, thì sẽ không còn bị réo là :”đồ bị ruồng bỏ”, là đồ ế, là “phận bạc duyên đơn” nữa, nhưng là “Ái khanh lòng ta hỡi”; cục cưng của anh; cục vàng, cục ngọc của em; là “duyên thắm chỉ hồng”. “Hồng nhan” không còn là “bạc phận”, mà là bạc triệu, bạc tỉ. Đó là “Hồng tâm”. Quả thật hồng nhan sẽ bạc phận, còn hồng tâm sẽ bạc triệu, bạc tỉ, nghĩa là vô giá.

Trai thì tài, gái thì sắc; trai tài sanh duyên cùng thục nữ. Tài đây là “anh tài”; sắc đây là sắc lòng, là thục nữ. anh tài sanh duyên cùng thục nữ, sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau cũng như sẽ là niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Cô dâu là niềm vui của chú rể, chú rể là hạnh phúc của cô dâu; cả hai sẽ cùng nhau xây tổ uyên ương, tổ ấm; cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc.

Người sống đời thánh hiến cũng vậy. Người sống đời thánh hiến là những người được “Chúa đem lòng sủng ái”. Như trai tài sánh duyên cũng thục nữ, Đấng tác tạo ta sẽ cưới ta về. Như cô dâu là niềm cho chú rể, ta cũng là niềm vui cho Thiên Chúa ta thờ(x.Is62,4-5). Bằng cách nào đây? Bằng cách, nếu là nam nhi thì phải là “anh tài”; nếu là nữ nhi thì phải là “thục nữ”.

Người sống đời thánh hiến là người tu. Tu không phải là bị thất tình hay chán đời mới đi tu, mà tu là để vui, để yêu, để hạnh phúc. Người đó tìm được ơn gọi của mình, tìm được “nửa kia” của mình, để rồi có thể nói rằng:”Ơn gọi là là xương của tôi, là thịt của tôi”. Ơn gọi này là con người của tôi, là của Chúa ban cho tôi; tôi và ơn gọi của tôi là một. Ơn gọi đó trở thành xương, thành thịt, thành máu của tôi. Tội sẽ sống chết với ơn gọi này; tôi sẽ vui, sẽ hạnh phúc trong ơn gọi đó.

Muốn vui, muốn hạnh phúc thì phải yêu, không có cách nào khác. Có thể nói mạnh, nói chính xác là tu là để yêu. Yêu cho đúng và chính xác. Tình yêu của người sống đời thánh hiến không phải là tình yêu lứa đôi, tình yêu hôn nhan, tình yêu nam nữ mà là “mến chúa, yêu người”. Tu là không yêu thì làm sao mà sống đời thánh hiến được. Tu mà không mến Chúa, không yêu người thì đời tu có ý nghĩa và giá trị gì. Như cô dâu là niềm vui chủ rể, ta cũng phải là niềm vui cho Thiên Chúa ta thờ. Chúa cũng cần cái LÀ, chứ không cần cái ĐEM; Chúa cần con người, cần con tim của ta chứ không cần cái gì khác.

Cô dâu mà đanh đá, dữ dằn như “sư tử Hà Đông”, như “bà la xát” thì chú rể “chạy mất dép” thôi. Ta mà xấy xa, gian ác, kiêu căng, ngạo mạn, ta không làm cho Chúa vui lòng được. Ta phải hiền thục, anh tài, khiêm tốn, chăm học, siêng làm, vì lòng yêu mến Chúa và vì thương con người. Ta phải cố gắng nên thánh, nên thiện, nên công chính, nên tốt lành, như thế ta mới là niềm vui cho Chúa ta thờ chứ.

Người ta nói:”Nếu biết mình được thương thì phải nên dễ thương hơn để được thương mãi”, chứ đừng thấy được thương, rồi làm tới; làm cao, làm dáng, rồi làm biếng, thì ta không được thương nữa đâu. Ta đã được Chúa thương, Chúa chọn thì ta cũng phải dễ thương hơn, tốt lành hơn, công chính hơn, thánh thiện hơn mới được. Đừng có cọc cằn, khó ưa, khó chịu. Hãy chịu khó, cần mẫn, cam đảm mà hiến dâng. Hiền dâng tình yêu, hiến dâng con tim, hiến dâng con người, hiến dâng tất cả.

Như thế dù là sống trong ơn gọi nào; dù là sống đời hôn nhân hay đời thánh hiến, chúng ta chỉ có một ơn gọi, đó là ơn gọi VUI. Người sống đời hôn nhân thì là niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Cô dâu là niềm vui chú rể; chồng là niềm vui của vợ; cha là niềm vui của mẹ; cha mẹ là niềm vui của con cái và con cái là niềm vui của cha mẹ. Người sống đời thánh hiến thì trở nên niềm vui cho Chúa và cho mọi người. Và dù sống ơn gọi nào đi nữa, tất cả chúng ta hãy là niềm vui và hanh phúc cho Chúa và cho mọi người. Người sống đời hơn nhân là niềm và hạnh phúc cho người sống đời thánh hiến; người sống đời thánh hiến thì là hạnh phúc và niều vui cho người sống đời hôn nhân.

Mùa Giáng Sinh là mùa của niềm vui và hạnh phúc. Vậy ta hãy trở nên niềm vui và hạnh phúc cho Chúa và cho mọi người. Đó chính là ơn gọi của ta. Ơn gọi sống VUI và hạnh phúc.

Chúc Mừng Giáng Sinh 2014 và Năm Mới 2015.

Kính chúc Quí Vị được tràn đầy niềm vui và hạnh phúc của Chúa Hài Đồng để chúng ta LÀ niềm vui cho Chúa và mọi người trong mùa Giáng Sinh này và LÀ hạnh phúc cho Chúa và mọi người trong Năm Mới.

MERRY Christmas.

Happy New Year.

Xin chân thành Kính Chúc.

Lm. Bosco Dương Trung Tín.
 
Những câu chuyện mùa Giáng Sinh: Đêm chí thánh, thần thoại nước Thuỵ Điển.
Trần Mạnh Trác
15:22 21/12/2014


Selma Ottilia Lovisa Lagerlöf (20 tháng 11 -1858 – 16 tháng 3- 1940) là một nữ văn sĩ Thụy Điển, được biết tới nhiều qua cuốn sách 'Những chuyện phiêu lưu thần kỳ cuả thằng Nils' ('The Wonderful Adventures of Nils', ) là một cuốn sách dạy điạ lý cho trẻ em. Cốt truyện dùng một sự tích thần thoại để tạo ra những cuộc du hành xuyên qua tất cả các tỉnh cuả nước Thụy Điển.

Bà là người phụ nữ đầu tiên lãnh giải văn chương Nobel (1909), vì "những tác phẩm đặc trưng cho những lý tưởng cao cả, óc tưởng tượng sống động và những nhận thức tâm linh sâu sắc"

Những tác phẩm cuả Lagerlöf’s được dịch ra trên 50 thứ tiếng, và một thời gian đã là cảm hứng cho nhiều cuốn phim câm nổi tiếng như những phim The Phantom Carriage (Cỗ xe ma 1921) và Gösta Berling’s Saga (Chiến công cuả Berling 1924), do Greta Garbo thủ vai.

Xuất thân là một cô giáo và lớn lên trong phong cảnh rừng núi thần thoại, bà có một lối hành văn giản dị, chậm rãi để khêu gợi óc tò mò và trí tưởng tượng, nhất là cuả trẻ em. Những từ ngữ bà dùng thì dễ hiểu và gần guĩ với những sự vật hằng ngày.

Đêm chí thánh (The Holy Night) kể lại sự tích Giáng Sinh cho trẻ em, lồng trong khung cảnh lối sống và tâm tình cuả người Thuỵ Điển, và đệm thêm vào những nét thần thoại quen thuộc cuả người bản xứ.




Đêm chí thánh (The Holy Night) – Selma Lagerlöf

Có một người đàn ông mò mẫm đi trong đêm tối để tìm than hồng về làm mồi lửa. Từ mái nhà tranh này tới mái nhà tranh nọ ông ta đã gõ cửa. "Bạn mến, xin giúp tôi!" ông nói. "Vợ tôi vừa sinh được một đứa bé, và tôi cần có lửa để sưởi ấm cho hai mẹ con."

Nhưng lúc đó đã khuya lắm, mọi người đang mắc ngủ. Không ai thèm trả lời.

Người đó đi và đi. Cuối cùng ông nhìn thấy một tia lửa lấp ló ở cuối con đường dài. Ông đi theo và nhận ra có một đống củi đang cháy ở giữa đồng trống. Có nhiều con cừu ngủ vây quanh, và một mục tử già ngồi canh bầy gia súc.

Khi người mượn lửa đến gần đàn cừu, ông thấy ba con chó lớn đang nằm ngủ dưới chân người chăn cừu. Tất cả ba con chó chồm dậy khi ông ta đến gần và chúng cùng nhe những chiếc răng vĩ đại của chúng ra, như thể muốn sủa; nhưng không một âm thanh nào phát ra được. Người mượn lửa nhìn thấy các sợi lông trên gáy của chúng dựng đứng lên và hàm răng trắng hếu lấp lánh trong ánh lửa. Chúng lao về phía ông ta.

Ông cảm thấy một con cắn vào chân và một con cắm vào tay và một con khác ngoạm vào cổ. Nhưng hàm răng của chúng không nghe theo chúng, và ông ta không mảy may bị hề hấn gì.

Bấy giờ ông ta cố đi tới, đến những gì ông đang cần. Nhưng đàn cừu nằm sát lưng vào nhau không để chừa một lối đi nào. Do đó, ông ta bước trên lưng chúng mà tiến về phiá lửa. Và không một con cừu nào đã bị đánh thức dậy hoặc động đậy.

Khi ông ta tiến tới gần lửa, người chăn cừu nhìn lên. Đó là một lão cáu kỉnh, không thân thiện và khắc nghiệt đối với người khác. Và khi nhìn thấy người lạ đến, lão nắm lấy một cái gậy dài, nhọn, mà lão luôn luôn cầm trong tay khi dẫn đàn cừu đi, và phóng vào người lạ. Cây gậy lướt thẳng tới người lạ, nhưng, trước khi đạt đến đích, nó bay lệch sang một bên và tránh qua người, rớt xa ngoài bãi cỏ.



Bây giờ người đàn ông tìm lửa đi đến và nói với lão chăn cừu: "Thưa ông, xin giúp tôi, và cho tôi mượn một ít lửa. Vợ tôi vừa mới sinh một đứa bé, và tôi phải đốt lửa để sưởi ấm cho hai mẹ con!. "

Lão chăn cừu định nói không, nhưng lão suy nghĩ rằng những con chó không thể làm tổn thương đến người lạ, và đàn chiên không bị thức dậy, và rằng cây gậy đã không thể đâm vào ông ta, lão cảm thấy có một chút sợ hãi, và không dám từ chối.

"Lấy bao nhiêu thì lấy!" lão nói với người lạ.

Nhưng lúc đó thì lửa đã tàn. Không còn khúc củi nào chưa cháy hết, chỉ là một đống than hồng, và người lạ cũng không mang theo thuổng hay xẻng để xúc than nóng.

Khi lão chăn cừu thấy vậy, lão lại nói: "Lấy bao nhiêu thì lấy!" Và lão vui mừng nghĩ rằng người đàn ông lạ sẽ không thể lấy bất cứ miếng than nào.

Nhưng người đàn ông lạ cúi xuống và nhặt than từ đống tro tàn với hai bàn tay trần, và đặt chúng vào vạt áo. Và ông ta đã không bị cháy tay khi chạm vào than hồng, và than cũng không cháy sém lớp áo; nhưng ông ta đã mang được chúng đi, giống như mang những hạt dẻ hay quả táo.

Và khi lão chăn cừu, một người độc ác và cứng lòng như vậy, nhìn thấy tất cả những điều này, lão bắt đầu tự hỏi với chính mình. Đêm hôm nay là đêm gì vậy, khi mà những con chó không cắn được, con cừu không sợ, cây nhọn không giết, hoặc lửa không đốt? Lão gọi người lạ trở lại và nói: "Đêm hôm nay là đêm gì vậy? và tại sao mọi sự động lòng trắc ẩn với ông như thế?"

Lúc đó, người lạ mặt nói: "Tôi không thể cho bạn biết nếu bạn không tự mình nhìn thấy nó." Rồi ông ta tiếp tục đi, để có thể về sớm đốt lửa mà sưởi ấm cho vợ con.

Nhưng lão chăn cừu cũng không muốn mất dấu của người lạ trước khi lão hiểu được những điều lạ lùng này. Lão đứng dậy đi theo người lạ cho đến khi họ đến nơi ở.

Lúc đó, lão chăn cừu thấy rằng người lạ này không có gì để ở dù là một túp lều, người vợ và đứa bé đang nằm trong một hang núi, không có gì khác ngoài bức tường đá trơn và lạnh.

Lão chăn cừu nghĩ rằng đứa trẻ ngây thơ nghèo khổ có thể sẽ chết đông lạnh ở trong hang; và, mặc dù lão là một người đàn ông hà khắc, lão cũng thấy động lòng, và có ý nghĩ phải giúp đỡ đứa bé. Và lão đã mở cái gói đeo trên vai, lấy ra một tấm da cừu mềm mại màu trắng, đưa cho người đàn ông lạ, và nói rằng ông ta nên cho đứa bé ngủ ở trong đó.

Nhưng ngay sau khi lão thể hiện được lòng thương xót ấy, thì đôi mắt của lão đã được mở ra, và lão đã nhìn thấy những gì mà lão đã không thể nhìn thấy trước, và nghe những gì mà lão đã không thể nghe trước đây.



Lão thấy xung quanh lão đứng một vòng các thiên thần có đôi cánh bạc, và mỗi thiên thần cầm một cây đàn, và tất cả đang ca hát lớn tiếng rằng tối nay Đấng Cứu Thế đã sinh ra cứu chuộc thế giới thoát khỏi mọi tội lỗi.

Vì thế, lão đã hiểu tại sao tất cả mọi thứ đều hạnh phúc trong đêm nay đến nỗi không ai có thể làm bất cứ điều gì sai trái.

Và không chỉ xung quanh người chăn cừu mới có những thiên thần, nhưng lão nhìn thấy thiên thần ở khắp mọi nơi. Ngồi trong hang, ngồi bên ngoài trên núi, và bay dưới bầu trời. Các thiên thần diễu hành từng đoàn lớn, và, khi họ đi qua, họ dừng lại và liếc mắt nhìn vào con trẻ.

Đầy dẫy những hân hoan và vui mừng và ca hát và nhảy muá! Và tất cả điều này, lão đã nhìn thấy trong một đêm tối mà trước đó lão đã không thể tưởng tượng ra bất cứ điều gì. Lão rất hạnh phúc bởi vì đôi mắt của lão đã được mở ra và lão đã quì gối xuống và tạ ơn Chúa.

Những gì mà lão chăn cừu đã thấy, chúng ta cũng có thể thấy được, bởi vì các thiên thần vẫn bay từ trời xuống mỗi đêm Giáng Sinh, nếu con mắt chúng ta có thể mở ra mà nhìn thấy được.

Các em phải nhớ như thế, vì đó là sự thật, là đúng như tôi nhìn thấy các em và các em nhìn thấy tôi. Những điều đó không phát lộ ra dưới ánh đèn hoặc ánh nến, và cũng không phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời và mặt trăng; nhưng điều cần thiết là chúng ta phải biết mở lòng ra để nhìn thấy vinh quang của Thiên Chúa.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Hãy Ca Vang..
Nguyễn Bá Khanh
22:20 21/12/2014
HÃY CA VANG..
Ảnh của Nguyễn Bá Khanh
Joy to the world! The Lord is come,
Let earth receive her King;
Let every heart prepare him room
And heaven and nature sing…
(Trích ca khúc Joy To The World)
 
VietCatholic TV
Giáo Hội Năm Châu 16 – 22/12/2014: Âu lo của Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
12:47 21/12/2014
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Giáo Hội Công Giáo Ukraine Hy Lạp lo ngại bị cấm hoạt động tại miền Đông Ukraine

Hai mươi lăm năm sau khi được hợp pháp hóa tại nhiều phần đất thuộc Liên Xô cũ, các nhà lãnh đạo của Giáo Hội Công Giáo Ukraine Hy Lạp nói Giáo Hội này đang phải đối diện một lần nữa với việc có thể bị cấm tại nhiều miền của Ukraine.

Giáo Hội Công Giáo Ukraine Hy Lạp đã đánh dấu kỷ niệm 25 năm được hợp pháp hoá trong tuần vừa qua. Đặc sứ của Đức Thánh Cha là Đức Hồng Y Christoph Schönborn của Vienna đã tham dự thánh lễ tạ ơn ở Kiev hôm thứ Tư.

Trong một cuộc phỏng vấn với hãng tin Công Giáo Áo Kathpress, Đức Tổng Giám mục Sviatoslav Shevchuk đã đưa ra những nhận xét bi quan về những diễn biến gần đây ở Crimea liên quan đến Giáo Hội của ngài sau khi Putin đơn phương sát nhập Crimea vào Nga hồi tháng ba năm nay sau một cuộc trưng cầu dân ý không được luật pháp quốc tế công nhận.

Đức Tổng Giám Mục nói: "Các địa phương do Nga và phiến quân thân Nga kiểm soát còn ban hành một đạo luật đặc biệt, trong đó mỗi cộng đồng tôn giáo có nghĩa vụ phải đăng ký lại và có lẽ đối với Giáo Hội Công Giáo Hy Lạp Ukraine thật là rất khó khăn để có được một giấy phép mới,"

Ngài nói. "Điều đó có nghĩa là bắt đầu vào tháng Giêng năm 2015, chúng tôi chỉ đơn giản là một tổ chức bị đặt ngoài lề pháp luật."

"Đó thực là điều mỉa mai vì chúng tôi đang cử hành 25 năm được hợp pháp hoá tại Liên Xô cũ, nhưng ngay bây giờ ở một số miền của Ukraine, chúng tôi lại mất danh nghĩa pháp lý để tồn tại,".

2. Nga lên án viện trợ quân sự Mỹ dành cho Ukraine

Radio Vatican cho biết Nga đã lên án một dự luật vừa được thông qua bởi Quốc hội Hoa Kỳ theo đó Mỹ sẽ tài trợ $ 350 triệu viện trợ quân sự cho chính phủ Ukraine để chiến đấu với các nhóm ly khai thân Nga ở phía đông nước này. Luật này cũng đưa ra các biện pháp trừng phạt mới đối với các công ty của Nga do nhà nước kiểm soát. Căng thẳng giữa Mạc Tư Khoa và Washington đã xảy ra khi một đoàn xe khổng lồ gồm 130 xe vận tải của Nga được đưa đến phía đông Ukraine. Điện Kremlin mô tả đoàn xe này là một nỗ lực viện trợ nhân đạo nhưng phiá Ukraine nói rằng đoàn xe ấy tiếp tế vũ khí đạn dược cho phiến quân ly khai và vi phạm chủ quyền nước này.

Hôm thứ Bảy 13 tháng 12, phó Bộ trưởng Ngoại giao Nga là ông Sergei Ryabkov đã cáo buộc về một điều mà ông gọi là một "não trạng chống Nga đang thịnh hành tại Washington" khi quốc hội Mỹ thông qua luật mới cho phép viện trợ quân sự cho Kiev và tăng cường các biện pháp trừng phạt chống Nga.

Dự luật, đã được đồng thanh thông qua tại lưỡng viện Quốc hội, cũng đưa ra những trừng phạt mới đối với việc xuất khẩu vũ khí của công ty Rosobornexport và việc sản xuất khí đốt tự nhiên của công ty Gazprom. Cả hai đều là những công ty quốc doanh của Nga.

3. Ba nước Baltic và Ba Lan quan tâm đến những "hoạt động quân sự chưa từng có của Nga " trong khu vực.

Bộ trưởng Quốc phòng Estonia là ông Sven Mikser hôm 14 tháng 12 cho biết nước ông đã phải chứng kiến "một chiến dịch xâm phạm vùng trời với quy mô lớn " bởi cả máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Nga, mà ông gọi là "những người khách không bình thường" trong khu vực.

Ông gọi các động thái này là "những khiêu khích không cần thiết ". Trong số các biến cố mới nhất, một máy bay Nga bị cáo buộc đã vi phạm không phận của Estonia cuối tuần qua.

Ông Mikser đã tuyên bố như trên sau hai ngày hội đàm tại Latvia giữa các nước vùng Baltic với Ba Lan.

Bộ trưởng Quốc phòng Ba Lan là ông Tomasz Siemoniak nói hôm thứ Năm 11 tháng 12 rằng "trong một vài ngày qua" đã có "những hoạt động chưa từng có của Nga từ các hạm đội nơi xuất phát các chuyến bay trên khu vực biển Baltic".

4. Hội nghị về khí hậu ở Lima hoàn toàn bế tắc

Các nhà hoạch định chính sách và các quan chức chính quyền của gần như mọi quốc gia trên thế giới đã họp tại Lima trong hai tuần qua để xây dựng một kế hoạch chống lại việc trái đất đang nóng dần lên.

Cuộc họp đã thất bại hôm thứ Bẩy 13/12 mặc dù đã họp thêm nhiều buổi ngoài dự trù ban đầu. Theo Radio Vatican lý do chính dẫn đến thất bại là vì các nước phát triển muốn áp đặt việc cắt giảm carbon trên các quốc gia đang phát triển; trong khi đó các quốc gia đang phát triển lại nói rằng họ phải nhận được sự hỗ trợ tài chính cho những nỗ lực cắt giảm khí thải. 195 quốc gia đã tham dự hội nghị ở Lima, Peru.

Ban đầu hội nghị được dự trù kéo dài từ 1 đến 12 tháng Mười Hai. Cuối cùng các tham dự viên đã họp thêm một ngày nữa là ngày thứ Bẩy 13 tháng 12. Tuy nhiên, họ không đạt được thỏa thuận nào. Các cuộc đàm phán nhằm đạt được tiến bộ về một dự thảo thỏa thuận về biến đổi khí hậu, sẽ được tái tục ở Paris vào cuối năm tới.

5. Các cơ quan của Liên Hợp Quốc về nhân quyền đã bày tỏ lo ngại về một làn sóng bắt giữ và truy tố ở Sudan trong những tháng gần đây.

Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền cho biết chính quyền Sudan đã tung ra hàng loạt 'những động tác nhằm bịt miệng các nhà đối lập chính trị và những ai dám chỉ trích các chính sách của đảng cầm quyền.

Tổng Giám Đốc Cao ủy cho biết "Sáu tháng qua đã thấy cho thấy đông đảo các nhà hoạt động chính trị và giới trẻ, cũng như những người bảo vệ nhân quyền nổi tiếng bị bắt giam,".

Tiến sĩ Amin Makki Medani, 76 tuổi, một nhà bảo vệ nhân quyền nổi tiếng và là cựu đại diện Văn phòng Nhân quyền của Liên Hợp Quốc trong khu vực Ả Rập, và Tiến sĩ Farouk Abu Issa, 78, là nhà lãnh đạo phe đối lập đã bị bắt tại tư gia hôm 06 Tháng 12 bởi cục tình báo quốc gia Sudan.

Hai vị nay vừa trở về từ Addis Ababa, Ethiopia, sau khi đã ký một văn kiện chính trị được gọi là "Sudan Call".

Tài liệu này kêu gọi dân chúng "lật đổ chế độ nhà nước độc đảng và thay thế nó bằng một nhà nước đa đảng dựa trên quyền công lý, bình đẳng và tự do".

6. Toà Thánh cải tổ Web site của Radio Vatican

Tòa thánh quyết định cải tổ Radio Vatican Web site một cách toàn diện tăng cường thêm việc truy cập đến các videos phóng sự trực tiếp gọi là Live video streaming và những bình luận về các sự kiện liên quan đến Đức Giáo Hoàng, và dành toàn bộ một phần cho Đức Thánh Cha Phanxicô với các chức năng mới như podcasts, tweet trực tiếp, và các liên kết đến nhiều tài khoản thuộc các mạng xã hội.

Cha Federico Lombardi, giám đốc phòng báo chí Tòa Thánh cho biết:

"Radio Vatican tiếp tục tham gia trong môi trường truyền thông kỹ thuật số để phục vụ Tin Mừng và Giáo Hội. Những thay đổi trong các trang web không chỉ giới hạn trong các yếu tố đồ họa nhưng trọng tâm là việc tổ chức lại các nội dung, thể hiện một cách tiếp cận xã hội ngày càng hiện đại để rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô."

Trang web này cũng trình bày tin tức từ Vatican và từ Giáo Hội trên toàn thế giới với 37 ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt.

Cha Lombardi cũng trình bày những ứng dụng của Radio Vatican dành cho Android, iPhone và Windows và cho biết các tính năng video trực tiếp có được là nhờ một nỗ lực hợp tác với Centro Televisivo Vaticano tức là đài truyền hình trung ương Vatican.

7. Tình trạng khai thác thiên nhiên bừa bãi tại Peru

Hủy diệt thiên nhiên, loại trừ người dân bản địa khỏi đời sống xã hội, buôn bán người là những thực tại đáng lo ngại đang diễn ra tại Peru.

Việc khai thác bừa bãi các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở Peru đã được đưa ra ánh sáng trong các nghiên cứu khoa học được thực hiện bởi Trung tâm Văn hóa Jose Pio Aza của các nhà truyền giáo dòng Đa Minh ở Peru, với sự hỗ trợ của Selvas Amazonicas Missions.

Các kết quả của nghiên cứu, được đúc kết trong e-book có nhan đề "Khai thác gỗ, vàng và khí đốt ở Amazon miền Nam Peru: Tác động và tranh cãi", đã mô tả và phân tích các tác động lên môi trường kinh tế-xã hội, và văn hóa của xã hội Peru mà các phương pháp được sử dụng trong việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang gây ra.

Các cha dòng Đa Minh tố cáo "Người ta đang hủy diệt thiên nhiên, chà đạp quyền lợi và nhân phẩm của những người bản điạ trầm trọng đến mức không chỉ xua đuổi họ mà còn bắt cóc và buôn bán người dân bản địa như những người nô lệ. Và tất cả các điều đó đang diễn ra ở thế kỷ 21 này".

8. Các nữ tu ở Kolkata giải thoát những thiếu nữ bị bắt làm nghề mãi dâm

Cải trang cùng với cảnh sát trong những bộ thường phục, một nhóm nhỏ từ ba đến bốn nữ tu đã đột kích vào các nhà chứa tại thành phố Kolkata phiá đông Ấn Độ để giành giật lại những phụ nữ trẻ và những bé gái có em chỉ mới 12 tuổi khỏi nanh vuốt của những kẻ bắt cóc họ. Trong bốn năm, "chúng tôi đã đưa 30 kẻ bắt cóc vào tù," Chị Sharmi D'Souza, một thành viên của dòng các nữ tu của Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, nói với các phóng viên tại một cuộc họp báo diễn ra ở Vatican hôm thứ Tư 11 tháng Hai.

Chị và một số nữ tu khác đã tham dự buổi trình bày sứ điệp ngày Hòa Bình Thế Giới của Đức Thánh Cha Phanxicô trong đó ngài kêu gọi tất cả mọi người chống lại các hình thức nô lệ thời hiện đại.

"Có một đêm, chúng tôi đã cứu được 37 cô gái," trong đó có 10 trẻ vị thành niên. Các nữ tu cũng đưa những phụ nữ được giải cứu đến những nơi an toàn và cung cấp cho họ những hỗ trợ cần thiết để về với gia đình hay làm lại cuộc sống mới.

Các nữ tu cũng cung cấp những thông tin quan trọng cho cảnh sát, chẳng hạn như tên của những kẻ buôn bán người và vị trí của nhà chứa khác. Nếu cảnh sát từ chối đi với các nữ tu đột kích vào một nhà chứa vì họ đã bị mua chuộc bởi những kẻ buôn người, các nữ tu cho biết các chị sẽ báo cáo lên những người có thẩm quyền cao hơn, "và buộc họ có hành động cụ thể,"

Chị Sharmi D'Souza cho biết một kinh nghiệm như sau: "Chúng tôi không bao giờ đi một mình. Chúng tôi đi cùng với các tổ chức khác nhau. Tuy nhiên, chúng tôi rất cần các vị mục tử đi cùng với chúng tôi, các giám mục của chúng tôi, các linh mục của chúng tôi để hỗ trợ cho chúng tôi, bởi vì nếu các ngài phối hợp với chúng tôi, chúng tôi có thể làm nhiều hơn".

9. Tình trạng sốt xuất huyết tại Cacuta

Trước số lượng ngày càng tăng các bệnh nhân sốt xuất huyết, Đức Cha Julio Cesar Vidal Ortiz là Giám mục giáo phận Cucuta của Colombia đã bày tỏ quan ngại sâu xa của ngài về tình hình trong khu vực này và yêu cầu các nhân viên y tế của thành phố và khu vực hãy tăng tốc các chiến dịch thông tin trong cộng đồng.

Trong một thông cáo báo chí gửi đến thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng cho các Dân Tộc, Đức Cha nói rằng nếu các biện pháp thích hợp không được thực hiện "tình trạng này có thể gây ra một cuộc khủng hoảng xã hội, với những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe của người dân". Ngài cũng kêu gọi tình liên đới trách nhiệm của toàn giáo phận trước tình trạng khẩn cấp này: như báo động cho chính quyền về sự hiện diện của virus và làm theo lời khuyên của các bác sĩ liên quan đến việc phòng chống bệnh.

Colombia là một trong những nước châu Mỹ Latinh nơi căn bệnh này đã lan rộng rất nhanh trong vài tháng qua. Theo các báo cáo chính thức, đã có khoảng 4500 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết.

10. Đức Cha Anthony Fisher lên tiếng về vụ tấn công khủng bố tại Martin Place, Sydney

Lúc 10h sáng thứ Hai 15/12, một người tự xưng là giáo sĩ Hồi Giáo Iran, tên là Man Haron Monis, trước đây vốn là một người tị nạn, đã bắt giữ 17 người làm con tin trong tiệm cà phê Lindt, ở khu Martin Place là khu trung tâm của Sydney.

Cảnh sát đã phong tỏa khu vực hơn 16 giờ trước khi lực lượng cảnh sát đặc biệt tấn công vào tiệm cà phê vì nghe có tiếng súng phát ra từ bên trong.

Người quản lý tiệm cà phê, tên là Tori Johnson, 34 tuổi, và nữ luật sư Karina Dawson, 38 tuổi bị tên khủng bố giết chết. Bốn người bị thương trong biến cố này, nhưng vết thương không đe dọa mạng sống. Trước đó, một số con tin bị buộc phải trương một lá cờ đen lên cửa sổ tiệm càphê.

Đức Cha Anthony Fisher, Tổng Giám Mục Sydney đã kêu gọi người Úc cầu nguyện để đất nước họ vẫn còn là một nơi an tòan và hoà hợp về xã hội. Ngài nói rằng: “Hai phẩm tính vĩ đại nhất của quốc gia ta là bầu khí dễ chịu, an toàn và lịch sử hòa hợp giữa nhân dân thuộc đủ mọi thống thuộc sắc tộc, tôn giáo và chính trị.

“Biến cố ngày hôm nay sẽ chứng thực cho quyết tâm của chúng ta nhất định còn là một xã hội như trên. Ta không được để cho biến cố này khiến ta chống lại nhau hay xâm hại tới cảm thức an ninh của ta.