Ngày 19-12-2009
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Niềm hy vọng - niềm sống của Giáo hội
Thanh Quang CSsR
07:56 19/12/2009
Tôi đang loay hoay, lục lọi trong thư viện để tìm cuốn sách nói về các nước trên thế giới, thì gặp một cuốn mang tựa đề “Tên các nước, các địa danh trên thế giới” (Anh – Việt). Nhóm tác giả cuốn sách viết rất ngắn gọn về các nước và được viết bằng song ngữ. Tác giả chủ yếu viết về tên nước, diện tích, dân số, kinh tế, văn hóa, tôn giáo của các nước đó. Điều tôi muốn tìm trong cuốn sách là diện tích một vài nước, nhưng do tính “tham lam”, tôi đã “chu du vòng quanh thế giới” bằng cách mở rất nhiều trang để xem tôn giáo của các nước ra sao. Tôi đã đọc được như sau: Aland Islander: tôn giáo: Kitô giáo (Công Giáo); Albania: Công giáo; Argentina: Công giáo; Australia: Công giáo; Brasil: Công giáo; Bulgaria: Công giáo; France: Công giáo; United Kingdom: Công giáo; United States of America: Công giáo; Philippines: Công giáo; v.v. Khi thấy thế, lòng tôi cả mừng! Tôi thầm thốt lên: “Ôi lạy Chúa! “Đã” vậy còn gì! Đó là nguyên nhân khiến hồn tôi bay bổng tựa như diều gặp gió! Tôi tự hào! Tôi mừng rơn! Đúng vậy, một thời, Giáo hội Chúa lừng lẫy, vang vọng khắp năm Châu, Tin Mừng được loan xa tới nhiều nơi trên trái đất. Nay thì… Tôi lững thững, thẫn thờ bước ra khỏi thư viện, trong tay vẫn còn cuốn “Tên các nước, các địa danh trên thế giới”, lòng suy nghĩ miên man…

Qua các phương tiện truyền thông và sự chia sẻ của nhiều người đã từng chứng kiến sinh hoạt của Giáo hội ở nhiều nơi, tôi có cơ hội tìm hiểu về sức sống của Giáo hội hôm nay. Những thông tin đã cho tôi biết: người tín hữu ở nhiều nơi thuộc Châu Âu đã có thái độ dửng dưng đối với đạo, ít người đến nhà thờ và đi lễ ngày Chúa Nhật, mà đa số là ông già bà lão; ơn gọi tu sĩ linh mục suy giảm tới mức trầm trọng; một số chủng viện, tu viện, nhà thờ đang treo bảng bán vì không còn người đi tu và đi nhà thờ nữa! Tình trạng tục hóa đã gặm nhấm đời sống của người tín hữu, kể cả linh mục tu sĩ khiến cho đời sống đạo đức và thiêng liêng bị giảm thiểu. Nguyên nhân nào dẫn đến hiện trạng đáng buồn của Giáo hội như thế? Có nhiều nguyên nhân.

I. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng của Giáo hội hiện nay

1. Xã hội văn minh, hiện đại

Xã hội văn minh hiện đại đã và đang cuốn hút nhiều người vào trong vòng xoáy cuộc đời. Người tín hữu cũng bị lôi cuốn vào việc lo toan sao cho có thật nhiều tiền bạc, của cải, tiện nghi. Điều này khiến cho nhiều người sao nhãng và dần xa rời đời sống đạo, thiếu hẳn cảm nghiệm về đời sống tâm linh, sống khô khan nguội lạnh và cuối cùng đánh mất niềm hy vọng, đánh mất đức tin.

2. Tục hóa:

Các luồng gió độc của các phong trào tục hóa đã len lỏi, thấm nhiễm vào đời sống người tín hữu. Thay vì họ “thánh hóa” đời thì lại bị đời “tục hóa” đạo và tục hóa đời sống họ. Tục hóa đã khiến cho nhiều tín hữu không còn thấy điều gì là linh thánh nữa và xem thường tất cả. Trực cảm về ân sủng dường như phai mờ; cảm thức về tội lỗi và về những điều chẳng xứng đã tàn phai. Từ đó “chất đời” đã chiếm lĩnh tất cả hoạt động của người tín hữu. Vì vậy, còn đâu nữa đời sống đạo tốt lành của người tín hữu?

3. Thiếu sức sống

Sức sống ấy là sức sống đạo, sức sống của người tín hữu với Chúa. Do chạy theo sự hưởng thụ, tiện nghi và lo toan cho cuộc sống sung túc, tất cả hoạt động và quỹ thời gian của người tín hữu đã chiếm lĩnh toàn bộ cuộc sống. (kể cả hoạt động làm ăn và các hoạt động mua sắm, vui chơi, giải trí). Sức sống đạo giờ đây dần nhường chỗ cho hoạt động dân sinh và như thế dần đi đến chỗ thiếu sinh khí.

4. Niềm tin khủng hoảng:

Con người tự bản chất mang đầy khiếm khuyết, yếu đuối. Vì vậy, người ta tìm mọi cách để khỏa lấp bất toàn ấy. Họ đi tìm cho bằng được tri thức, tiện nghi, của cải vật chất. Những thứ ấy tưởng như làm cho con người được thỏa mãn trọn vẹn. Từ đó, người tín hữu không còn cảm thấy cần phải sống niềm tin của mình nữa. Tiếc thay, những thứ mà con người vơ vào cho mình ấy không sao làm cho con người được thỏa mãn thực sự. Đời sống mất định hướng, và tâm hồn bị xâu xé dần dần. Cuộc sống trở nên vô định và thiếu định hướng.

5. Niềm hy vọng đang dần nhạt nhòa

Niềm tin và niềm hy vọng không thể tách rời nhau. Có hy vọng mới dẫn đến niềm tin. Có tin người ta mới hy vọng tràn đầy. Vì thế, một khi con người bị khủng hoảng về niềm tin thì khi ấy, niềm hy vọng cũng lung lay chao đảo và dần lụi tắt. Có lẽ, hơn bao giờ hết, con người ngày nay bị khủng hoảng niềm tin cho đến mức, không còn tin hay hy vọng vào cuộc sống mai sau. Nhiều người cho đó là chuyện tầm phào và là chuyện của các cụ già hay con nít, thậm chí họ không cần đếm xỉa đến nữa. Một khi niềm hy vọng vào Thiên Chúa, vào Đấng Tạo Hóa không còn, thì con người sẽ tự mình lao xuống vực thẳm bi đát.

6. Giáo hội đang thiếu trầm trọng những chứng nhân

Thế giới hôm nay, đặc biệt là Giáo hội cần những chứng nhân hơn là thầy dạy. Bởi lẽ người ta nói thì rất dễ, nhưng khi bắt tay vào thực hành mới là điều khó. Chứng nhân là những người dám thực thi những gì mình nói và thực thi cách xuất sắc những yêu sách của Tin Mừng, các mối phúc cũng như những lời khuyên của Tin Mừng. Thiếu chứng nhân có nghĩa là sự sống của Chúa Kitô chưa được thể hiện nơi người Kitô hữu. Và như vậy, người ta khó có thể nhận ra Thiên Chúa sống động đang hiện diện trong Giáo hội; và còn thấy đâu nữa những dấu chỉ của niềm hy vọng để mà tin và hy vọng vào Đấng Tối Cao?

II. Thử đề xuất vài cách giải quyết

1. Xã hội loài người văn minh tiến bộ, khoa học phát triển, đó là điều tốt. Nó mang lại cho con người rất nhiều lợi ích. Tuy nhiên, người Kitô hữu cần phân định rõ ràng đâu là phương tiện, đâu là mục đích để xác tín và định hướng cho cuộc đời. Một khi đã xác định được như thế, người Kitô hữu sẽ đặt hết niềm tin và niềm hy vọng vào Đấng mình phụng thờ và yêu mến. Dù cuộc đời có thế nào thì họ vẫn vững bước trong tin tưởng và hy vọng.

2. Cuộc sống dân sinh gắn liền với đời sống người Kitô hữu, không thể tách rời. Vì vậy, người Kitô hữu cần trau dồi cho mình đời sống nội tâm, thiết thân với Chúa, sống thánh thiện khả dĩ mạnh đủ, để dầu thế tục có “tấn công” cách mấy thì người tin vẫn luôn vững vàng, thậm chí còn “thánh hóa” đời, làm cho đời dậy men Tin Mừng. Chúa đã chẳng nói: “Anh em hãy trở nên muối, men cho đời” đó sao?

3. Sức sống và niềm hy vọng của Giáo hội rất quan trọng và mang tính quyết định cho sự sống còn của Giáo hội. Sức sống ấy và niềm hy vọng có mạnh mẽ thì Giáo hội mới có sức cuốn hút. Sức sống ấy lớn mạnh và sinh động khi đời sống mỗi Kitô hữu ngày thêm hoàn thiện về: đức tin, đức cậy, đức mến.

4. Đức tin và niềm hy vọng mạnh mẽ sẽ là cơ sở và là nền tảng cho sự vươn tới tầm cao trong sự sống Chúa Kitô của người Kitô hữu. Như vậy, họ chứng thực cho thế giới rằng: chúng tôi đang sống trong thực tại này nhưng thực ra sự sống siêu nhiên, sự sống Nước Trời đang ở trong và ở giữa chúng tôi. Chúng tôi sống là chính Chúa đang sống trong chúng tôi. Sức sống ấy không ngừng lớn mạnh để biến nhân gian trở thành con cái Thiên Chúa.

5. Sống những giây phút cô tịch: Giữa bao xáo động của cuộc sống, người Kitô hữu cần sống những giây phút ở nơi thanh vắng trong cô tịch diện đối diện với Thiên Chúa và với chính mình. Sống trong thanh tịnh chính là những giây phút quý báu giúp làm nên “vũ khí” hầu chiến thắng trong “cuộc chiến” nội tâm, vượt thoát những sóng gió cuộc đời, vững vàng trong tin tưởng và hy vọng.

6. Chứng nhân: Phải nói mạnh rằng, ở một khía cạnh nào đó, bản chất con người là bắt chước và thưởng thức! Thấy siêu phàm thì theo, thấy tốt thì khen, thấy hay thì vỗ tay, thấy đẹp thì mê mẩn, thấy sinh động thì nhiệt tình và tham gia. Vì thế, niềm tin và niềm hy vọng của người tín hữu phải mạnh mẽ, đầy sức sống và phải bộc lộ rõ ra bên ngoài bằng dấu chỉ cụ thể, thì người khác mới thấy và tin theo như mình đã tin và hy vọng. Đức tin và hy vọng phải đi đôi với hành động của người tín hữu. Hành động ấy không gì khác hơn là cầu nguyện, yêu thương, bác ái, hy sinh, tha thứ, ủi an, xây dựng hòa bình, ngay cả việc phải chịu thiệt thòi và khổ đau vì Thiên Chúa, vì Nước Trời. Chứng nhân đích thực phải là thế chứ không khác hơn được. Thế giới ngày nay rất cần những chứng nhân thực thụ như thế.

Giáo hội Công giáo đã một thời lừng lẫy, rộng khắp, sinh động vì đã có niềm tin và hy vọng tràn trề. Lòng người sẽ cảm thấy lắng lo và không khỏi tiếc nuối khi nhìn vào Giáo hội hôm nay, nhất là Giáo hội ở Châu Âu, Châu Mỹ. Bởi niềm hy vọng của người tín hữu đang bị xã hội tục hóa nhận chìm và đi đến chỗ nhạt nhòa. Ta nên nhớ, niềm hy vọng chính là sự sống còn của Giáo hội. Một tia hy vọng cũng đủ làm cho người tín hữu vươn lên bất chấp cuộc đời nghiệt ngã thế nào. Một khi niềm hy vọng thiếu hoặc không còn thì sự sống còn của Giáo hội cũng thiếu hoặc không còn hay bị đe dọa. Nói đến đây, tôi chợt nhớ đến Lời Chúa cảnh báo: “Liệu có còn lòng tin trên trái đất này nữa chăng khi Con Người ngự đến?” (Lc 18,8). Thật may thay, cho đến hôm nay, niềm tin và niềm hy vọng ấy ở đây đó vẫn được nhen nhúm và hun nóng lên nơi người tín hữu, báo hiệu một ngày mai tươi sáng. Điều quan trọng là Giáo Hội, mỗi người tín hữu ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình để sống tròn đầy tư cách người tín hữu, trở nên chứng nhân và trở nên dấu chỉ của niềm hy vọng cho con người thời đại hôm nay.

Giờ đây, tôi trở về lại thư viện, trong tay cầm cuốn sách “Các nước, các địa danh trên thế giới” trả lại thư viện, lòng thơ thới hơn và lạc quan hơn…

Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 10,23).
 
Năm Thánh Linh mục: Nên thánh
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
11:00 19/12/2009
Khi chúng ta có dịp ra ngoài Đất Thánh hay Nghĩa Trang, chúng ta có thể quan sát thấy trên các bia mộ, người ta ghi năm sinh, tháng tử của các người quá cố. Cuộc đời dài vắn chỉ là một gạch nối. Gạch nối bằng nhau cho tất cả mọi người không phân biệt già trẻ. Thí dụ: con số năm sinh 1920- 2009 tạ thế hay sinh 1970- 2009 tạ thế. Gạch nối bằng nhau nhưng ý nghĩa rất khác nhau khi con người đã mãn cuộc đời dương thế. Sau khi đã chết, người ta không còn chú ý đến bao nhiêu tiền, nhà cửa hay của cải đã để lại. Nhưng người ta sẽ hỏi quý vị linh mục, quý ông bà, anh chị đã sống thế nào và đã làm được gì cho con người, xã hội và giáo hội. Cuộc đời là một gạch nối giữa hai con số. Cuộc sống có giá trị nhiều hay ít, không tùy thuộc vào sự sống lâu dài hay vắn gọn. Có những người sống lâu nhưng không mang lại hoa trái cho đồng loại. Có những người với cuộc sống ngắn ngủi, nhưng đã để lại cho hậu thế gia sản qúi báu. Thí dụ: Gương sáng của Thánh Maria Goretti,12 tuổi, Thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, 25 tuổi và Thánh Phanxicô Xavier, 46 tuổi đã để lại những mẫu gương sáng ngời trong đời sống đạo. Các Ngài chính là những vị thánh của thời đại.

1. Sự Thánh

Linh mục được lãnh nhận Bí Tích Truyền Chức Thánh. Mỗi ngày trên gian cung thánh trước bàn thánh, linh mục dâng Thánh Lễ. Qua nghi thức cúi đầu chào Thánh Giá, hôn bàn Thánh và khởi đầu Thánh Lễ bằng dấu Thánh giá. Linh mục đọc Lời Chúa và hôn sách Thánh. Linh mục dâng của lễ trong đĩa thánh, chén thánh đặt trên khăn thánh. Qua lời truyền phép, bánh và rượu trở nên Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Tất cả mọi thứ được thánh hiến để dùng vào việc thờ phượng thánh nhưng chỉ có một thứ chưa thánh, đó là con người linh mục. Có khác một điều là linh mục có chức thánh. Con người không thánh mà lại được cắt đặt để cử hành việc thánh. Càng suy nghĩ con càng cảm thấy bất xứng và tội lỗi. Chỉ vì tình thương Chúa đã gọi và chọn con làm nhân chứng cho Chúa.

Tuy dù trước mỗi thánh lễ, chúng ta ăn năn sám hối và đọc Kinh Cáo Mình thú tội: Xin Chúa thương xót chúng con. Xin Thiên Chúa toàn năng thương xót tha tôi. Chúng ta vẫn còn dấu vết tội lỗi, đâu xứng đáng đến trước mặt Chúa. Nhưng Chúa vẫn thương chấp nhận thân phận hèn yếu và tội lỗi của chúng ta. Trong đời mục vụ, con cử hành biết bao nhiêu các Bí Tích Thánh. Hàng tuần hàng tháng con cử hành Bí tích Hòa Giải, Xức Dầu Bệnh Nhân, Bí tích Rửa Tội, chứng kiến Bí Tích Hôn Phối và dâng Thánh Lễ rồi trao Mình Máu Thánh Chúa cho giáo dân mỗi ngày và chính con rước Mình Máu Thánh Chúa trong mỗi thánh lễ. Có nhiều Chúa Nhật, con dâng hai hoặc ba thánh lễ, vậy mà tâm hồn con cũng vẫn cứ nguội lạnh thờ ơ. Con đâu có thiếu ơn Chúa mà chỉ vì con không sống ân sủng Chúa ban. Con cử hành Phụng Vụ như là một công việc. Tâm hồn con nhiều khi cảm thấy thật lạnh nhạt và trống rỗng Chúa ơi.

2. Sống Thánh

Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận viết rằng nhiều chấm kết hợp làm thành một đường dài và nhiều phút giây nối kết làm thành cuộc đời. Sống mỗi phút giây cho tốt, đời sẽ tốt. Sống mỗi phút giây cho thánh, đời sẽ thánh. Chúng ta sống cùng và sống với tha nhân. Tha nhân chính là môi trường để giúp chúng ta nên thánh. Mỗi người chúng ta đều được mời gọi nên thánh. Đôi khi chúng ta nghĩ nên thánh đó là bổn phận của các tu sĩ, các cha hay ai khác chứ không phải tôi. Chúng ta nghĩ rằng người khác có nhiều ơn thiêng hơn, hay hoàn cảnh của họ khá hơn chúng ta. Đúng vậy, hoàn cảnh mỗi người rất khác biệt nhau nhưng không ai bị loại trừ nên thánh. Chúng ta cần có những mẫu gương đời sống thánh thiện gần bên. Cụ thể nhất là những người cạnh bên chúng ta. Các anh em linh mục phải là người đi tiên phong trong sự nên thánh. Một linh mục gương mẫu, đạo đức và thánh thiện sẽ kéo lôi được nhiều người sống thánh. Như đời sống của Thánh Gioan Maria Vianney, một cha xứ nhân từ, đôn hậu và đạo đức đã lôi kéo không biết bao nhiêu người trở về cùng Chúa.

Con nghĩ rằng những lời hay ý đẹp thì không thiếu trong kho tàng văn hóa đức tin. Chúng ta có thể tìm đọc những sách vở đạo đức, tài liệu bài giảng, các bài suy niệm và hướng dẫn về đời sống thánh thiện đầy dẫy trong các sách vở và trên các trang mạng. Hằng ngày con đọc Kinh Thánh, những Giáo Huấn của Giáo Hội, những suy tư của các Thánh Hiền và các gương sống đạo hạnh của tiền nhân vẫn như mời gọi và hối thúc con nên trọn lành. Nay con muốn góp phần chia sẻ những kinh nghiệm sống đạo cụ thể, mà riêng con đang đối diện. Lắng nghe lời Chúa Giêsu mời gọi: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con ở trên trời là Đấng trọn lành”. Dựa vào lời Chúa, đôi khi con ỷ lại và thoái thác sống trọn lành. Trọn lành như Cha trên trời thì cao xa quá, nên con cứ tàn tàn giữ trung bình. Không phạm tội nhiều và cũng không thiết tha nhiều để nên trọn lành. Hình như cũng có nhiều người thích kiểu giữ đạo: Nằm giữa không sợ mất phần chăn. Con giữ lề luật vừa vừa, phải phải và có khi chỉ cứ dậm chân tại chỗ. Con cố gắng chu toàn các luật buộc tối thiểu. Thế rồi năm này qua năm khác cuộc sống đạo cứ thế và chứng nào vẫn tật đó. Tội xưa đã phạm nay cũng cứ phạm lại. Xưng tội rồi chừa, chừa được ít lâu, rồi lại tái phạm. Nhưng con biết Chúa vẫn luôn mở rộng đôi tay và trái tim yêu thương đón con trở về. Con nay trở về với Chúa, Chúa ơi.

3. Chữ Tâm

Trở về với Chúa là trở về từ bên trong tâm hồn của mình, chứ không phải chỉ là chu toàn một số luật lệ đòi buộc. Người ta nói: Suy bụng ta, ra bụng người. Suy diễn thì có khi đúng, khi sai. Là con người, chúng ta cũng có những mẫu số chung trong một số sinh hoạt của thể xác và vật chất nhưng về lãnh vực tinh thần có nhiều khác biệt. Con người khác nhau ở ý chí và lý trí. Có những linh mục sống đời tận hiến trổi vượt, rất đạo đức và thánh thiện. Các ngài đã sống điều độ trong cách ăn nết ở, trung thành tốt với các bổn phận hằng ngày. Có nhiều người đã tự phấn đấu cách kiên trì và dũng cảm để thắng vượt các cơn cám dỗ. Chúng ta không nên phê bình người khác vì chúng ta không thể hiểu thấu được những điều ẩn kín sâu thẳm trong lòng mỗi con người.

Tôi xin kể câu truyện hai nhà sư đồng hành trên đường đi về tu viện. Hai nhà sư đã gặp một cô gái rất xinh đẹp bên bờ sông. Giống như hai nhà sư, cô gái muốn qua sông nhưng nước hơi lớn. Do dự một chút rồi một trong hai nhà sư đã cõng cô gái trên lưng và đưa cô sang bờ bên kia. Nhà sư bạn khó chịu quá sức vì nghĩ đây là gương mù cả thể. Trong hai tiếng đồng hồ, nhà sư kia càu nhàu khó chịu vì người bạn vi phạm lề luật. Than rằng: Bạn đã quên bạn là nhà sư sao? Tại sao bạn dám đụng vào người đàn bà? Và tệ hơn nữa, đã cõng nàng qua sông? Người ta sẽ nói thế nào? Bạn đã không làm cho đạo thánh bị ố danh sao? Và nhà sư đó cứ miên man suy tưởng và tiếp tục phàn nàn. Nhà sư nọ kiên nhẫn lắng nghe lời giảng giải hầu như không dứt. Cuối cùng, nhà sư bèn lên tiếng: Thưa anh bạn, tôi đã để cô gái lại bên bờ sông. Sao anh bạn vẫn còn mang cô ta? Khó thật!

Cái Tâm mới là cốt lõi. Thắng được mình mới là quan trọng. Người ta nói: Thắng mình khó hơn thắng vạn quân. Con người chỉ có thể xét đoán nhau qua sự thể hiện bên ngoài, còn bên trong tâm hồn, không ai có thể dò. Chúng ta biết ý chí là sức mạnh. Nhìn vào chân dung các Đấng Tử Đạo Việt Nam, đây là mẫu gương của những ý chí kiên cường. Không một sức mạnh nào, dù gông cùm, đòn vọt, tù đầy, gươm giáo, khổ nhục cũng không có thể làm lung lạc đức tin của các Ngài. Một con người bề ngoài xem ra yếu đuối và nhỏ bé nhưng sức mạnh tinh thần thì vô song trên cả sự chết. Chúng ta biết rằng sức mạnh của các thánh tử đạo và các thánh là luôn luôn sống gắn bó với Chúa và múc tận nguồn ơn Chúa phù trợ qua việc cầu nguyện liên lỉ.

4. Cầu Nguyện

Chúa Giêsu đã nêu gương cầu nguyện. Chính Chúa Giêsu cầu nguyện và kết hợp với Chúa Cha mọi nơi và mọi lúc. Có khi Chúa cầu nguyện thâu đêm. Chúa còn dậy các môn đệ cầu nguyện. Chúa cũng khuyên dậy chúng ta hãy cầu nguyện không ngừng và đừng nản lòng. Anh em linh mục chúng ta phải là con người của cầu nguyện. Cầu nguyện là như hơi thở. Không có hơi thở, đời sống thiêng liêng sẽ lụi tàn. Trong nhà xứ nơi con ở, có những mẫu gương linh mục thật đáng khâm phục. Đôi khi con có việc đi vào nhà nguyện thật trễ hoặc rất sớm, chỉ leo lắt bóng đèn chầu nhưng con giật mình vì có một linh mục đang ngồi lặng yên cầu nguyện dưới hàng ghế cuối.

Cầu nguyện là chiếc cầu nối giữa Chúa và chúng ta. Chiếc cầu nối bằng những lời nguyện của chúng ta. Cầu nguyện chính là chất dầu của đèn. Đèn muốn cháy sáng phải có dầu. Đời sống muốn chiếu sáng, phải có cầu nguyện. Cầu nguyện là sự liên kết với Chúa Kitô. Chúa Kitô là nguồn mọi ơn phúc lành và là máng chuyển ơn xuống cho mọi người. Linh mục cầu nguyện nhiều lần mỗi ngày qua Kinh Nhật Tụng. Linh mục cầu nguyện cho mình và cầu thay cho giáo dân. Rất nhiều khi anh em linh mục chúng ta chỉ đọc kinh cho xong bài. Riêng con vẫn trung thành đọc Kinh Nhật Tụng nhưng thường không được sốt sáng hay lo ra và chia trí. Con tự cảm thấy yên lòng khi làm xong bổn phận đọc kinh. Đôi khi con không có tâm tình sốt mến khi cầu nguyện. Con không thể cầu nguyện lâu giờ một mình trước Thánh Thể, vì lúc nào con cũng nghĩ rằng có việc khác phải làm. Con chỉ ngồi một chút trước Thánh Thể đã cảm thấy chán. Đây chính là dấu hiệu của sự khô khan nguội lạnh trong tâm hồn. Con sẽ cố gắng mỗi ngày tìm về nguồn sinh lực mới, đặc biệt trong Năm Thánh Linh Mục này.

5. Phục Vụ

Linh mục cầu nguyện trong đời sống mục vụ và phục vụ tha nhân. Sự cầu nguyện được tỏ bày qua việc phục vụ cụ thể hằng ngày như chiếc thuyền được chèo bằng hai mái chèo. Một bên là cầu nguyện và bên kia là phục vụ. Cầu nguyện và phục vụ là hành động song đôi. Mỗi người đều được mời gọi đến để phục vụ anh em mình trong cộng đoàn. Truyện kể: một Cha sở nọ kêu gọi giáo dân tình nguyện ra phục vụ Cộng Đoàn. Khi cha gọi đến một thanh niên nọ, mời anh ta tình nguyện ra giúp việc cộng đoàn. Bà mẹ nghe thế đã nói với cha rằng: Xin cha thương tha cho cháu. Cháu nó bận lắm. Bà làm như cha đi bắt quân dịch, phải xin tha. Mỗi người đều có ơn gọi riêng để phục vụ. Ơn gọi nào cũng là hồng ân cao qúy. Có người sống độc thân và có kẻ lập gia đình. Có người phục vụ giáo hội trong chức linh mục hay tu sĩ nam nữ. Có người phục vụ gia đình qua chức bậc làm cha mẹ hay thầy dậy. Có người phục vụ nơi công cộng giúp an ninh xã hội.

Anh em linh mục là người được mời gọi đến để phục vụ giáo đoàn. Linh mục đồng hành với mọi người trong môi trường sống. Trong hành trình có mọi tầng lớp, có người già, người trẻ, có thanh thiếu niên, có thiếu nhi và ấu nhi. Người đi trước, kẻ theo sau, người đi bên cạnh và cứ thế hệ này tiếp nối thế hệ kia. Linh mục đã được lãnh nhận nhưng không thì cũng hãy cho nhưng không. Linh mục đã cử hành các Bí Tích, mở cửa ngõ cho nhiều người đón nhận ân sủng làm con Chúa và con của giáo hội. Linh mục có mặt đó từ những lúc khởi đầu để đón nhận người tín hữu vào đạo Thánh Chúa qua Bí Tích Rửa Tội, rồi dưỡng nuôi linh hồn họ qua Bí Tích Thánh Thể, chữa lành qua Bí Tích Hòa Giải và chứng giám Bí Tích Hôn phối và suốt dọc hành trình, linh mục hiện diện đó để tư vấn, khuyên dạy và chia sẻ cùng nâng đỡ cuộc sống. Những giây phút cuối của cuộc đời, linh mục cũng có mặt đó nơi gia đình, nơi bệnh viện để trao của ăn đàng và ban Bí Tích Xức Dầu Bệnh Nhân như ân sủng thiêng liêng đỡ nâng họ đi đến cuối hành trình. Có biết bao nhiêu linh mục đã tiến bước và đã hoàn thành sứ mệnh làm người, làm con Chúa và làm thừa tác viên qua sự mục vụ và phục vụ.

6. Nên Thánh

Anh em linh mục phải là người tiên phong trong việc nên thánh. Đây là trách nhiệm của chính mình và làm gương sáng cho tha nhân. Đôi khi chúng ta hỏi: Tại sao phải là linh mục nên thánh mà không là người khác? Chúng ta ghen tị với những người khác để chối từ nên thánh thiện. Nên thánh đó chính là lời mời gọi của Thiên Chúa. Trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể nên thánh qua việc phục vu. Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận có vài gợi ý giúp nên thánh trong cuộc sống hằng ngày, nơi chúng ta sinh hoạt: “Người thợ nên thánh ở công xưởng. Người lính nên thánh trong quân đội. Bệnh nhân nên thánh ở bệnh viện. Học sinh nên thánh ở học đường. Nông phu nên thánh ở ruộng rẫy. Công chức nên thánh trong công sở. Cha mẹ nên thánh trong gia đình. Linh mục nên thánh trong mục vụ”. Nếu chúng ta không gắn bó với Chúa từng giây phút, chúng ta sẽ bỏ dở niềm hy vọng nên thánh.

Mỗi một biến cố trong đời là một lời mời gọi trở về. John Newton đã tha thiết cầu nguyện với Chúa và ông đã giữ lời hứa trở thành tôi tớ của Chúa. Newton là tác giả bài hát nổi tiếng “Amazing Grace”. Newton sống vào thế kỷ thứ 18, là một nhà buôn bán nô lệ. Tàu thuyền của ông đi đi về về giữa Hoa Kỳ và Phi Châu. Một hôm trời nổi dông gió và bão tố đã đánh thuyền nô lệ sắp chìm. Ông qúa kinh hãi, qùy xuống nguyện cầu với Chúa: Lạy Chúa, nếu Chúa cho ngưng bão tố và thuyền của con về tới bến bình an, con hứa sẽ ngưng làm nghề buôn bán nô lệ và con sẽ trở thành nô lệ tôi tớ của Chúa. Thuyền đã cập bến an toàn và như lời ông đã hứa, ông đã trở thành thừa tác viên của Tin Mừng. Sau này ông đã sáng tác bài “Hồng Ân Tuyệt Vời”. Hồng ân Thiên Chúa bao la tuyệt vời. Người thương cứu vớt đời con. Một lần lạc lối, nay con trở về. Mù lòa nay con đã thấy lại rồi.

Thay lời kết, Chúa ban cho anh em linh mục chúng ta rất nhiều khả năng. Mỗi linh mục có những biệt tài riêng. Có linh mục thì thông minh lỗi lạc, có vị thì viết lách suy niệm, có vị thì tài khéo sinh họat, có vị chuyên tâm cầu nguyện, có vị khéo trùng tu xây dựng và có vị lợi khẩu thuyết giảng. Tất cả những khả năng thiên phú, chúng ta có bổn phận trau dồi và sinh hoa kết quả. Mọi hoa trái sinh lợi đều tốt cho tha nhân và Giáo Hội. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, môi trường nào, linh mục nên ưu tiên cho phần rỗi của chính mình nữa. Chúa phán rằng: Được lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào có ích gì? Lời lãi thế gian chính là những vinh hoa, những thành quả, những lời chúc tụng ca khen và những việc chúng ta đã thực hiện. Điều quan trọng nhất là chúng ta hãy nên thánh trong Chúa mỗi giây phút. Nếu anh em linh mục chúng ta thành công trên đường đời trong mọi lãnh vực mà chính chúng ta bị loại ra khỏi Nước Trời, thì cuộc đời chúng ta trở thành số không.

Lạy Chúa, chúng con được sống gần bên Chúa và phục vụ cho dân Chúa, đây là một ân huệ tuyệt vời. Xin cho anh em linh mục chúng con luôn can đảm và vững bước theo Chúa. Biết rằng theo Chúa, chúng con phải hy sinh và từ bỏ nhiều lắm nhưng bù lại, Chúa ban gấp trăm lần ở đời này và đời sau. Xin Chúa nâng đỡ và dìu dắt chúng con nên trọn lành mỗi ngày. Sau cùng, con xin quý ông bà và anh chị em cầu nguyện nhiều cho anh em linh mục chúng con được trung thành với Chúa và Giáo Hội cho đến cùng.

(Bronx, New York, ngày 19.12.2009)
 
Chúa đến mang An Bình và Hạnh Phúc
Tuyết Mai
15:16 19/12/2009
Lậy Chúa Hài Đồng Giêsu!

Chúng con đắm đuối nhìn ngắm Ngài nằm ngủ trong máng cỏ, thật an bình, thật hạnh phúc, bên cạnh dưỡng phụ và dưỡng mẫu của Ngài là Đức Maria muôn đời đồng trinh và Thánh Cả Giuse cũng muôn đời đồng trinh. Ngài lựa chào đời trong một mùa đông thật giá lạnh, ngoài trời tuyết phủ ngập cả mái nhà và đường phố, tưởng tượng cảnh cả hai dưỡng phụ và dưỡng mẫu của Ngài phải khó khăn biết bao, đi đập cửa biết bao nhiêu nhà nhưng không ai thèm tiếp đón hai ông bà, và cuối cùng thì vì giờ của Con Chúa muốn chào đời, nên đành lòng hai ông bà phải tạm tìm đến một hang đá nơi mà súc vật đang chìm vào giấc ngủ!?

Có thật Chúa Hài Đồng đang say sưa trong giấc ngủ, một giấc ngủ thật an bình, như chúng con nghĩ?? Nếu Ngài có thân xác phàm như chúng con đây thì thật Ngài đang say giấc trên tay của Đức Maria, Mẹ Ngài. Vì không con trẻ nào mà không cảm nhận được sự ấm áp, an bình, và hơi quen thuộc khi được nằm trên tay của mẹ mình. Nhìn gia đình của Ngài trong một hang đá, hôi hám, bất xứng, chung quanh là những súc vật cũng hôi hám dơ bẩn như thế, thì quả thật mỗi năm vào mùa Giáng Sinh, Chúa Giêsu thật sự Ngài đem an bình và hạnh phúc cho tất cả nhân loại chúng con, nhất là cho những đứa trẻ mồ côi, và nhất là cho những em đang sống lạc loài giữa chợ đời, vào những ngày đông giá buốt thật cay nghiệt. Có những em mồ côi đâu có được hạnh phúc mà sống chung dưới một mái nhà, có sự trợ giúp của các sơ hay những nhà hảo tâm, mà có quà có của ăn có áo ấm. Các em này phải tự kiếm cơm, tự lo tấm thân, và tự kiếm nơi ẩn trú. Có những nơi là cống rãnh, dưới hầm cầu, nằm cạnh những mồ mả, trên núi rác, và những nơi không sạch sẽ khác.

Có phải hạnh phúc cho các em biết mấy khi có dịp đi ngang qua hang đá của Chúa Hài Đồng Giêsu, tìm hiểu và biết rằng Em Bé đang nằm ngủ trong máng cỏ đó là Con của ông Trời, được giáng thế vì Con của ông Trời muốn đến để an ủi và xoa dịu nỗi đau khổ và cô đơn của các em. Tùy theo sự suy nghĩ của các em có đơn sơ cách mấy, cũng cảm nhận được rằng cũng có Người giống mình!? Mà nhất là Con của Ông Trời mà còn nghèo khổ như vậy, thì các em sẽ cảm thấy an ủi thật nhiều, và sẽ làm cho các em vui lên. Vui lên vì một Thiên Chúa toàn năng và uy quyền biết bao nhiêu, lại chọn xuống thế làm người để giống các em, nên Giáng Sinh nào các em nhỏ cũng rộn lên niềm vui để chào đón một Thiên Chúa tràn đầy tình yêu thương dành riêng cho các em. Có phải các em mồ côi thì có đủ mọi thành phần mồ côi? Có em thì được sống trong viện mồ côi từ nhỏ? Nhưng có em thì sống lây lất rày đây mai đó, không đâu là nhà, và địa chỉ thì không bao giờ được ở một nơi gọi là. ...!? An ủi nhất cho các em, là Em Bé Giêsu kia cũng không có cha mẹ ruột và hai ông bà đó chỉ là cha mẹ nuôi của Em Bé Giêsu mà thôi! Do đó, tuy Thiên Chúa là một Thiên Chúa Đấng Tối Cao, nhưng cũng hiểu và thương con người thật nhiều, nên cho Chúa Con Giáng Thế là để yêu thương con người mà thôi không??

Còn những người nghèo khổ như chúng con ư!? Nhìn ngắm gia đình Thánh Gia trong hang đá lạnh lẽo như thế, cũng cho chúng con một sự ấm áp, tràn đầy thánh thiện, và hạnh phúc trong sự thiếu thốn, nhưng có nhau. Dù nghèo khổ thiếu thốn cỡ nào trong xã hội, nhưng có trái tim yêu thương, biết chia sẻ, thì dù cho cái lạnh có buốt thấu xương người, hay cái đói hành hạ cơ thể, hay cái cô đơn gặm nhấm từng ngày, cũng biến chúng ta trở thành hạnh phúc và ấm áp khi có nhau. Vì sao được gọi là có nhau, vì có phải nếu chúng ta không có sự yêu thương và bác ái, bắt nguồn từ chính trong trái tim của chúng ta, chúng ta sẽ đối xử với những người thân thương trong gia đình lạnh lẽo và tẻ nhạt, cho đến ngoài xã hội lúc nào chúng ta cũng lạnh đạm, hờ ơ, không cần biết đến ai cả, thì cái lạnh lẽo và cô đơn ấy không bao giờ đem đến cho chúng ta hạnh phúc thật sự!?? Trong mùa đông giá lạnh này, chúng ta nhìn ngắm Chúa Con Giêsu thật kỹ xem, Ngài có những gì? Nôi lộng lẫy và sang trọng như con Vua trần thế? Anh chị em có được xem phim của La Mã hay bất cứ một phim vua chúa nào ngày xưa, thấy được khi mà con vua chào đời thì có phải chiếu chỉ của nhà vua được loan báo đi khắp mọi nơi cho dân chúng biết mà ăn mừng, mà nhất là nhà vua và hoàng hậu có được một cậu con trai để nối ngôi sau này!?? Ấy thế mà Chúa Hài Đồng Giêsu của chúng ta thì ngược ngạo đến thế!? Hẳn Thiên Chúa của chúng ta muốn dậy cho tất cả toàn thể nhân loại của chúng ta một điều gì trong ngày trọng đại Giáng Sinh của Ngài. Ngài đã làm gương cho chúng ta điều chi? Có phải Ngài muốn dậy cho tất cả chúng ta là cuộc sống hạnh phúc thật và thiết yếu nhất trên đời là luôn phải có tình yêu thương của gia đình? Mà một em bé được sinh ra đời cần có được hạnh phúc thật là phải hội đủ tình yêu của cả hai cha mẹ? Chứ không phải các em bé chúng cần bạc tiền, gấm vóc, và lầu đài gác tía, khi chúng được sinh ra đời đâu, thưa anh chị em! Một hài nhi khi được chào đời trong tình yêu thương của cả hai cha mẹ, chúng sẽ cảm nhận được điều đó, và đó là điều chắc chắn. Chúng cảm nhận được từ sự ôm ấp và lời nói yêu thương của cha mẹ chúng luôn có nhau. Chúng cảm nhận được tiếng nói ấm áp và sự an toàn của hai cha mẹ. Chúng cảm nhận được tất cả vì chúng không biết nói và trí hiểu cũng chưa có, nên sự cảm nhận của một em bé chỉ có thế! Nên một người mẹ mà sinh em bé khi không có cha bên cạnh thì đứa trẻ sẽ khóc thật nhiều khi sự an toàn của em bé không có!? Nó sẽ cảm nhận được sự dằn vặt của người mẹ khi đang có ý định bỏ nó!? Nó sẽ cảm nhận được sự lạnh cảm của người mẹ khi không muốn cho nó bú mớm!? Nó sẽ cảm nhận được sự hất hủi khi không muốn bồng ẵm nó!? Nên nó cảm thấy lạnh, đói, thiếu tình thương, thì nó sẽ khóc thôi! Mà nó sẽ khóc mãi khóc hoài trong sự thiếu thốn vì tình thương của cha mẹ nó ngay từ khi lọt lòng, vì nó sẽ mồ côi mãi mãi. ....

Rồi thì đến những người giầu có, họ sẽ cảm nhận được gì khi nhìn ngắm Chúa Hài Đồng Giêsu nằm trong máng cỏ? Trên một thân xác ngọc ngà là Con Vua Thiên Chúa thế mà chỉ có miếng vải quấn Người? Họ sẽ cảm thấy như thế nào khi đến viếng Con Thiên Chúa? Họ có sang quá không khi trên thân xác của họ ấm áp quá! Khoác bao nhiêu lớp áo lông, nữ trang đeo nhiều quá! Mùi thơm của nước hoa nồng nặc quá! Có thể họ sẽ làm cho Con Chúa ngộp hay không? Họ có gì xứng đáng mà dâng cho Con Một Thiên Chúa? Họ có phải là những nhà thông luật, biệt phái, pharisêu xưa và nay hay không???

Lậy Chúa Hài Đồng Giêsu!

Chúng con tất cả là con cái Chúa, nghèo khổ, cũng như có của dư của để, nhìn ngắm Chúa để thấy rằng sự khổ cực của chúng con nếu có, cũng không bằng sự thiếu thốn của Ngài. So sánh sao bằng vì chúng con là những con sâu con bọ thật vô dụng dưới trần gian này; chúng con là những loài rong rêu, cát bụi, và chẳng là gì nếu Chúa không thương mà tác tạo nên chúng con và yêu thương chúng con từ thuở đời đời. Quả thật, Chúa đến sinh hạ vào trần gian này là đem hạnh phúc và bình an thật sự cho chúng con.

Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng Trời,

Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Amen.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:51 19/12/2009
CỘT CHỐNG

N2T


Địa phương nọ nổi lên bách hại tôn giáo rất thảm thương. Kinh sách, phụng vụ, từ thiện là ba cột trụ lớn liền đến gặp Thiên Chúa, trước mắt những ưu tư của họ là: một khi tôn giáo bị tiêu diệt thì họ cũng sẽ không sống được.

Thiên Chúa nói:

- “Đừng lo, Ta sẽ phái một người vĩ đại hơn các ngươi xuống địa cầu.”

- “Dám hỏi, cao nhân ấy là ai vậy ?”


- “Tên là tự giác” Thiên Chúa nói tiếp: “Vị ấy sẽ làm việc vĩ đại so với bất cứ ai trong ba người các ngươi.”

(Lắng nghe của loài ếch)

Suy tư:

Có những nơi nhà thờ bị triệt phá lâu năm không kinh kệ công khai, không thánh lễ, không hội đoàn từ thiện này hoạt động bác ái kia, nhưng đức tin vẫn cứ âm thầm nảy nở chờ ngày phát triển.

Có những người Ki-tô hữu thất vọng ê chề vì không được đến nhà thờ cùng nhau đọc kinh, không được tham dự các thánh lễ trọng, không được đến nhà thờ để sinh hoạt giáo xứ, là bởi vì họ không hiểu câu Lời Chúa nói trong dụ ngôn hạt giống rơi vào đất tốt cho mưa năng thế nào, thì hạt giống vẫn cứ âm thầm nẩy lộc cho đến khi trở thành cây lớn sinh hoa kết trái (Mt 13, 18-23).

Họ cũng không hiểu câu nói của thánh Phao-lô tông đồ: tôi trồng, anh A-pô-lô tưới, nhưng Thiên Chúa mới làm cho lớn lên (1 Cr 3, 6).

Nếu không có lòng tự giác, tự vấn lương tâm thì dù có đi nhà thờ to lớn, hát những kinh thật hay, làm nhiều việc bác ái thì cũng như không mà thôi, bởi vì lòng tự giác thì quan trọng với những ai tự nhận mình là người có đức tin. Tự giác mình là người Ki-tô hữu thì dù cho bất cứ trong hoàn cảnh nào cũng có thể thực hiện đức tin của mình.

Đó chính là cột chống vậy.

--------------------------

http://www.vietcatholic.net/nhantai

http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:53 19/12/2009
N2T


4. Hiền lành thường tốt hơn là nghiêm khắc, bởi vì nghiêm khắc làm cho người ta lạc mất và sinh ra cám dỗ, hiền lành thì không như thế, nó làm cho con người ta dịu lắng xuống.

(Thánh Tillo)
 
Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:54 19/12/2009
N2T


320. Quá khứ là việc thuộc về tử thần, nhưng tương lai thì thuộc về bản thân của bạn.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Luật tự nhiên và tự do
Vũ Văn An
00:40 19/12/2009
Ngày 16 tháng 12 vừa qua, trong buổi triều yết chung hàng tuần, Đức Bênêđíctô XVI đã đề cập tới một nhà thần học và triết học người Anh thuộc thế kỷ 12, John thành Salisbury. Sinh năm 1120 tại Salisbury (Anh), cũng có tên là Joannes Parvus (Gioan Bé Nhỏ), ông vừa là một tác giả, một nhà giáo dục, một nhà ngoại giao, và từng là giám mục Chartres (Pháp) từ năm 1176 tới khi qua đời vào năm 1180. Khoảng năm 1136, ông qua sống tại Pháp và theo học tại Paris dưới sự chỉ dạy của Pierre Abélard. Sau khi Abélard về hưu, ông theo học Alberich thành Reims và Robert thành Melun. Từ 1138 tới 1140, ông học văn phạm và cổ điển dưới sự chỉ dạy của William thành Conches và Richard l’Evêque, cả hai là học trò của Bernard thành Chartres. Việc giảng dạy của Bernard rất nổi tiếng, một phần vì khuynh hướng thân Platon của ông, phần khác vì ông chú trọng tới việc nghiên cứu các văn sĩ Latinh vĩ đại. Việc nghiên cứu này gây ảnh hưởng lớn đối với các công trình sau này của John thành Salisbury. Khoảng năm 1140, ông học thần học dưới sự chỉ dẫn của Gilbert de la Porrée, rồi sau đó, dưới sự chỉ dẫn của Robert Pullus và Simon thành Poissy. Năm 1148, ông ngụ tại Moutiers la Celle, thuộc giáo phận Troyes và tham dự công đồng Reims do Đức GH Eugene III chủ tọa và có lẽ được Thánh Bernard thành Clairvaux giới thiệu với Theobald, Tổng Giám Mục Canterbury. Chính vị tổng giám mục này bảo trợ để ông trở lại Anh vào năm 1150, và bổ nhiệm ông làm thư ký riêng. Trong chức vụ này, ông thường được gửi qua Rôma trong nhiều sứ vụ ngoại giao đặc biệt. Chính trong thời gian này, ông soạn thảo các công trình vĩ đại nhất của mình, được công bố vào năm 1159, đó là hai cuốn Policraticus (Người Cầm Quyền), và Metalogicon (Bênh Vực Luận Lý), cung cấp cả một kho tàng dữ liệu liên quan tới chất thể và hình thể của nền giáo dục kinh viện và nổi bật về văn phong bác học và khuynh hướng nhân bản. Cuốn Policraticus cũng cho thấy sự xuống dốc trong cung cách sống cũng như nền đạo đức thấp kém của cung đình và hoàng gia. Sau khi Theobald qua đời, ông tiếp tục làm thư ký cho Thánh Thomas Becket và đóng vai trò tích cực trong cuộc tranh chấp lâu dài giữa vị giáo chủ này và Vua Henry II. Các thư từ của ông trong dịp này giải thích nhiều điều liên quan đến cuộc tranh chấp hiến pháp đang giao động nước Anh lúc ấy. Cùng với Thánh Becket, ông qua Pháp trong thời gian nhà vua bất bình; và đã cùng với vị giáo chủ này trở lại Anh năm 1170, và có mặt tại Canterbury lúc thánh nhân bị ám hại. Chính ông đã viết cuốn tiểu sử về Thánh Becket. Năm 1176, ông được đề cử làm giám mục Chartres, và năm 1179, đã tích cực tham dự Công Đồng Lateran thứ ba, và qua đời ngày 25 tháng 10 năm 1180.

Giáo huấn của PolicraticusMetalogicon

Theo Đức Bênêđíctô XVI, trong “Policraticus”, John thành Salisbury bác bỏ chủ trương của phe coi văn hóa chỉ là một thứ hùng biện trống rỗng, vụ ngôn vô dụng. Phần ông, ông ca tụng văn hóa, ca tụng triết lý chân chính, coi chúng như một gặp gỡ giữa tư duy và thông đạt rành mạch, nghĩa là ngôn từ có hiệu quả. Ông viết: “Thực tế, hùng biện mà không được đức tin soi sáng không những chỉ là bốc đồng mà còn mù quáng thế nào, thì khôn ngoan mà không chịu sử dụng ngôn từ không những là yếu ớt, mà theo một nghĩa nào đó, còn què cụt thế ấy: Dù cái thứ khôn ngoan mà không dùng lời kia rất có thể có ích cho một số lương tâm cá biệt nào đó, nhưng hiếm họa và rất ít ích lợi đối với xã hội” (Metalogicon 1,1 PL 199,327).

Đức Thánh Cha bảo đó là một giáo huấn rất thích hợp. Vì ngày nay, điều mà Jophn thành Salisbury gọi là “hùng biện” hay khả năng thông đạt bằng những phương tiện công phu và phổ biến hơn bao giờ hết, hiện đã gia tăng gấp bội. Bởi thế, ngày nay ta càng cần phải thông truyền nhiều sứ điệp giầu nội dung “khôn ngoan”, tức các sứ điệp được chân, thiện, mỹ gợi hứng. Đây là trách nhiệm lớn lao, cách riêng, của những người đang làm việc trong lãnh vực đa dạng và phức tạp của văn hóa, truyền thông và báo chí. Và đây cũng là một lãnh vực trong đó ta có thể loan báo Tin Mừng với hết lòng nhiệt thành truyền giáo.

Trong tác phẩm thứ hai gọi là "Metalogicon", John thành Salisbury đề cập tới các vấn đề thuộc luận lý, những vấn đề gây nhiều quan tâm vào thời đại của ông. Ông đặt câu hỏi khá nền tảng: Lý trí con người có thể biết được gì? Đến điểm nào lý trí ấy có thể đáp ứng được khát vọng sau đây nơi mỗi con người: đó là khát vọng đi tìm sự thật? Câu trả lời của John thành Salisbury xem ra khá chừng mực, dựa trên một số giáo huấn của Aristốt và Xixêrô. Theo ông, xét một cách thông thường, lý trí con người có thể đạt được một hiểu biết không hẳn là không thể tranh cãi nữa, nhưng là một hiểu biết có tính cái nhiên và có thể tranh cãi được. Bởi thế, hiểu biết của con người là một hiểu biết bất toàn, vì nó lệ thuộc tính hữu hạn, lệ thuộc các giới hạn của con người. Tuy nhiên, nó tăng tiến và được hoàn hảo hóa nhờ kinh nghiệm và việc chi tiết hóa lối suy tư chính xác và cụ thể, có khả năng thiết lập được các mối liên hệ giữa ý niệm và thực tại; cũng như nhờ việc thảo luận, tranh biện, và kiến thức được hết thế hệ này qua thế hệ nọ làm cho phong phú. Chỉ ở nơi Thiên Chúa, mới có hiểu biết hoàn hảo, một hiểu biết từng được thông truyền cho con người qua mạc khải được đức tin chào đón. Như thế, hiểu biết của đức tin mở ra nhiều tiềm năng cho lý trí và làm cho lý trí ấy khiêm hạ thăng tiến trong việc hiểu biết các mầu nhiệm của Thiên Chúa.

Tín hữu và nhà thần học nào biết đi sâu vào kho tàng đức tin cũng sẽ đón nhận được những hiểu biết thực tiễn hướng dẫn họ trong sinh hoạt hàng ngày, nghĩa là lề luật luân lý và thực hành nhân đức. Theo John thành Salisbury, “Thiên Chúa nhân từ đã đoái ban cho chúng ta lề luật của Người, là lề luật thiết định ra điều có ích cho nhận thức của ta, và ấn định mức độ ta được phép biết về Thiên Chúa và được quyền tìm hiểu bao xa… Thực vậy, trong lề luật này, Thiên Chúa minh nhiên và tỏ tường bày tỏ ý muốn của Người ra, đến độ mỗi người trong chúng ta biết rõ điều gì mình cần phải làm” (Metalogicon 4,41, PL 199,944-945).

Luật tự nhiên và tự do

Ngoài ra, theo John thành Salisbury, còn có một sự thật khách quan và bất biến bắt nguồn từ Thiên Chúa, mà lý trí con người có thể vươn tới được. Sự thật ấy liên quan tới các hành động thực tiễn và có tính xã hội. Nó chính là luật tự nhiên, mà từ đó, các luật lệ nhân bản cũng như thẩm quyền chính trị và tôn giáo cần lấy cảm hứng để có thể cổ vũ ích chung. Đặc tính của luật này là tính công bằng (equity) nghĩa là dành cho mỗi người các quyền của họ. Từ đó, phát sinh ra các qui tắc có giá trị cho tất cả mọi người mà ta không thể nào miễn chước. Đức Bênêđíctô XVI cho đây là chủ đề chính của “Policraticus”, một chuyên khảo về triết học và thần học chính trị, trong đó, John thành Salisbury trình bày các suy tư của ông về các điều kiện giúp một nhà lãnh đạo chính trị hành động một cách công chính và có thẩm quyền.

Dù các thảo luận khác trong sách có liên quan tới hoàn cảnh lịch sử lúc được viết ra, nhưng chủ đề về mối tương quan giữa luật tự nhiên và trật tự pháp lý thực định, do nguyên tắc công bằng cầm cân nẩy mực, thì ngày nay vẫn còn rất quan trọng. Thực vậy, trong thời đại của chúng ta, nhất là tại một số quốc gia, ta đang phải chứng kiến sự phân rẽ đáng tiếc giữa lý trí, là cơ năng có nhiệm vụ khám phá ra các giá trị đạo đức có liên hệ với phẩm giá con người, và tự do, là thứ có trách nhiệm chào đón và phát huy các giá trị ấy. Xem ra John thành Salisbury muốn nhắc nhở chúng ta ngày nay rằng chỉ được coi là công bằng hợp lý những luật lệ nào biết bảo vệ tính thánh thiêng của sự sống con người và bác bỏ việc hợp pháp hóa nạn phá thai, an tử và thí nghiệm di truyền thả dàn, những luật lệ biết tôn trọng phẩm giá của hôn nhân giữa một người đàn ông và một người đàn bà, những luật lệ được gợi hứng bởi tính thế tục đúng đắn của nhà nước, tức tính thế tục luôn luôn biết bảo vệ tự do tôn giáo, và những luật lệ biết mưu cầu tính phụ đới và tính liên đới trên bình diện quốc gia và quốc tế.

Nếu không, điều mà John thành Salisbury gọi là “sự bạo ngược của nhà chuyên chế” hay điều mà chúng ta quen gọi là “nền độc tài của chủ nghĩa tương đối” kết cục sẽ thắng thế. Chủ nghĩa tương đối ấy, như chính Đức Giáo Hoàng trước đây mấy năm từng đề cập tới, “không nhìn nhận bất cứ điều gì là nhất định và nó chỉ lấy bản thân mình và các thèm muốn của mình làm thước đo mà thôi” (Bài giảng trong Thánh Lễ Bầu Cử Giáo Hoàng, ngày 19 tháng Tư năm 2005)

Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, nhân dịp này, nhắc lại Thông Điệp “Bác Ái Trong Chân Lý” mới đây của ngài, một thông điệp gửi mọi người thiện chí đang cố gắng bảo đảm để hành động xã hội và chính trị không bị tách rời khỏi chân lý khách quan về con người và phẩm giá của họ. Trong Thông Điệp này, Đức Giáo Hoàng viết như sau: “Ta không thể sản xuất ra chân lý, và tình yêu mà nó biểu lộ: ta chỉ có thể tiếp nhận chúng như quà tặng. Nguồn gốc tối hậu của chúng không phải, và không thể là nhân loại, mà chỉ có thể là Thiên Chúa, Đấng vốn là Chân Lý và Tình Yêu. Nguyên tắc này cực kỳ quan trọng đối với xã hội và phát triển, vì không thứ nào trong chúng có thể là sản phẩm duy nhất của con người; ơn gọi phát triển của cả cá nhân lẫn dân tộc không đặt căn bản duy nhất trên sự lựa chọn nhân bản, nhưng là thành phần nội tại của một kế hoạch có trước chúng ta và thiết lập ra cho mọi người chúng ta một bổn phận phải tự do tiếp nhận nó” (Số 52).

Theo Đức Bênêđíctô XVI, kế hoạch này có trước chúng ta, vì nó là chân lý của hữu thể, ta phải tìm kiếm và chào đón nó, chỉ có thế công chính mới phát sinh. Nhưng ta chỉ có thể tìm ra nó và chào đón nó bằng trái tim, bằng ý chí và một lý trí được ánh sáng Thiên Chúa thanh tẩy.
 
Đức Thánh Cha tuyên bố Đức Giáo Hoàng Piô XII và Đức Giaon Phaolô II lên bậc Đáng Kính
Nguyễn Hoàng Thương
11:13 19/12/2009
Đức Thánh Cha tuyên bố Đức Giáo Hoàng Piô XII và Đức Giaon Phaolô II lên bậc Đáng Kính

Vatican (AsiaNews) – Đức Piô XII, vị giáo hoàng dẫn dắt Giáo Hội trong Đệ Nhị Thế Chiến, và Đức Gioan Phaolô II, vị giáo hoàng qua đời vào năm 2005, hiện đã được tuyên là bậc "Đáng Kính" do Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã ký sắc lệnh trong đó thừa nhận "các nhân đức anh hùng" của các ngài.

Hôm 19/12, Thánh Bộ Phong Thánh đã công bố một loạt các sắc lệnh công nhận 5 phép lạ do sự đóng góp của một số người

(trong đó có Đấng Đáng Kính Mary McKillop, Úc) và cũng công nhận "các nhân đức anh hùng" thêm 10 vị nữa trong đó có hai Đức Giáo Hoàng. Các sắc lệnh này mở đường cho việc tuyên chân phước cho họ, ngay khi có sự công nhận một phép lạ được quy cho họ.

Một sắc lệnh khác đã công nhận việc tử vì đạo của một linh mục Ba Lan, Cha Jerzy Popieluszko, bị công an cộng sản sát hại vào năm 1984.

Cũng trong ngày 19/12, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã tiếp kiến tất cả các thành viên của Thánh Bộ Phong Thánh nhân kỷ niệm 40 năm Thánh Bộ này. Trong diễn từ của mình, Đức Thánh Cha trích dẫn những giai đoạn khác nhau dẫn đến việc tuyên thánh của một ứng viên, ngài cho hay: "Trước tiên ở giai đoạn đầu, Dân Chúa được mời gọi chiêm ngắm những chư huynh đệ, những người sau nhận thức cẩn trọng ban đầu, được đề nghị như là mẫu gương của đời sống Kitô hữu; việc tôn kính và khấn xin được giới hạn trong các giáo hội địa phương hoặc các dòng tu được thúc bách; cuối cùng, chúng ta được mời gọi vui mừng hoan hỉ với tất cả cộng đoàn các tín hữu trong sự chắc chắn rằng, nhờ tuyên bố trọng thể của Đức Giáo Hoàng, một con trai hay một con gái đã đạt đến vinh quang của Thiên Chúa, nơi họ dự phần vào việc chuyển cầu vĩnh cửu của Chúa Kitô nhằm bênh đỡ những người anh em mình" (x. Dt 7,25).
 
ĐGH Piô XII và ĐGH Gioan Phaolô II được tuyên dương lên bậc ''Đáng Kính”
Phụng Nghi
11:54 19/12/2009
Trong một loạt những sắc lệnh được phổ biến hôm 19 tháng 12, Tòa thánh Vatican đã chuẩn nhận các phép lạ đủ điều kiện để tuyên thánh cho 5 vị và tuyên chân phước cho 5 vị khác. Tòa thánh cũng công nhận vụ Cha Jerzy Popieluszko bị các sĩ quan tình báo Cộng sản ám sát năm 1984 là tử vì đạo, dọn đường cho tiến trình phong ngài lên bậc chân phước.

Những sắc lệnh này được ĐGH Benedict XVI chấp thuận trong buổi triều yết riêng của Đức TGM Angelo Amato, đứng đầu Thánh bộ Tuyên Thánh, cũng tuyên xưng 10 ứng viên khác đã sống cuộc đời với đức tính anh hùng. Các sắc lệnh này dọn đường cho các ứng viên này sẽ được tuyên thánh nếu một phép lạ xảy ra do lời cầu bầu của vị đó.

Hai sắc lệnh được công luận chú ý đến nhiều là sắc lệnh công nhận đức tính anh dũng của ĐGH Piô XII, triều giáo hoàng từ 1939 đến 1958, và ĐGH Gioan Phaolô II, giáo triều từ 1978 đến 2005.

Năm trong các sắc lệnh ngày 19 tháng 12 chứng nhận tính xác thực của các phép lạ do các vị trước đây đã được tuyên chân phước, nay đủ điều kiện để được tuyên thánh. Đó là:

Chân phước Stanislaus Soltys (Kazimierczyk) (1433-89), lòng tôn sùng phụng vụ đã được ĐGH Gioan Phaolô II chính thức công nhận năm 1993.

Chân phước André Bessette (1845-1937) người Canada, đã nổi danh vì lòng tôn sùng Thánh Giuse và làm nhiều phép lạ lúc sinh thời.

Chân phước Mary MacKillop (1842-1909), sáng lập Dòng Nữ Thánh Giuse Thánh Tâm, đây sẽ là vị thánh đầu tiên người Úc.

Chân phước Giulia Salzano (1846-1929), sáng lập Tu hội Chị em Thánh Tâm chuyên giảng dạy Giáo lý.

Chân phước Camilla Battista da Varano (1458-1524), nữ tu dòng Thánh Clara Khó nghèo.

Thánh bộ cũng chuẩn nhận các phép lạ của 5 ứng viên khác, là những vị, cũng như Cha Popieluszko, sẽ chuẩn bị được tuyên chân phước:

· Cha José Tous y Soler (1811-71), dòng Phanxicô Capuchin.

· Sư huynh Leopoldo de Alpandeire (1866-1956), dòng Phanxicô Capuchin.

· Manuel Lozano Garrido (1920-71), giáo dân Tây ban nha.

· Teresa Manganiello (1849-76), dòng ba Phanxicô.

· Chiara Badano (1971-90), nữ giáo dân trong Phong trào Focolare.

Ngoài ra, Thánh bộ còn tuyên xưng nhân đức anh hùng của chân phước Giacomo Illirico da Bitetto, dòng Thánh Phanxicô.

Thánh bộ cũng tuyên dương nhân đức anh hùng của 9 vị khác, nay được mang danh hiệu “Đáng Đáng Kính” và sẽ được tuyên chân phước nếu có một phép lạ được công nhận:

· ĐGH Piô XII (Eugenio Pacelli) (1876-1958)

· ĐGH Gioan Phaolô II (Karol Wojtyla) (1920-2005)

· Cha Louis Brisson (1817-1908), sáng lập Dòng Oblates Thánh Phanxicô Sallê.

· Cha Giuseppe Quadrio (1921-63), dòng Salêdiêng.

· Nữ tu Mary Ward (1545-1615), người nước Anh, lập Tu hội Thánh Nữ Đồng Trinh Maria (các Chị em Loreto).

· Nữ tu Antonia Maria Verna (1773-1838), sáng lập Tu hội Các chị em Bác ái Trinh Thai tại Ivrea.

· Nữ tu Francesca Farolfi (Maria Chiara Serafina of Jesus) (1853-1917), sáng lập Dòng Clara Phanxicô Thánh Thề Truyền giáo.

· Nữ tu Enrichetta Alfieri (1891-1951).

· Giunio Tinarelli (1912-56), một giáo dân, thành viên tổ chức Công nhân Thánh giá Thầm lặng.
 
Tin vui muà Giáng Sinh cho dân Úc: Chân phước Mary MacKillop sẽ được phong hiển thánh
Trần Mạnh Trác
15:22 19/12/2009
Hôm thứ Bảy ĐGH Benedict XVI đã ký sắc lệnh chấp nhận phép lạ thứ hai cuả chân phuớc Mary MacKillop, mở đường cho việc phong thánh đầu tiên của Úc Châu.

Một phiên toà tối cao để phong thánh (Solemn Consistory) được dự kiến sẽ triệu tập vào tháng Ba tới. Sau đó quyết định phong thánh và ngày lễ phong thánh sẽ được ĐGH công bố.

Đại sứ Úc tại Tòa Thánh Ông Tim Fischer nói rằng Sơ Maria Casey, người đã vận động phong thánh cho mẹ Mary, cho biết ĐGH Benedict XVI đã "xác nhận rằng việc lành bệnh ung thư phổi của một phụ nữ không thể loại bỏ là một phép lạ thật sự".

Ông Fischer nói rằng Mẹ Mary, qua đời năm 1909, đã xóa các rào cản cuối cùng (ngoại trừ phiên toà tối cao) một cách huy hoàng.

"Đây là một lời chào mừng tuyệt vời cho một người Úc tuyệt vời đã làm rất nhiều việc để giúp đỡ rất nhiều người ", ông Fischer nói.

"Theo lời ngoại trưởng Stephen Smith, đây là một dịp hân hoan cho cộng đồng Công Giáo Úc và cũng là một sự kiện mốc trong lịch sử của Úc."

Trước khi được giáo hội Công Giáo phong thánh, một ứng viên phải thực hiện hai phép lạ. Toà Thánh Vatican đã xác nhận phép lạ đầu tiên của mẹ Mary vào năm 1971, chứng nhận một phụ nữ bị ung thư máu đã được chữa lành vào năm 1950.

Mẹ mary đã được ĐGH John Paul II phong chân phước năm 1995.

Sơ Maria đã không thể dấu nổi nỗi vui mừng: "Thật là một tin tuyệt vời và là một ngày tuyệt vời cho những thành tựu của một nữ thánh tuyệt vời ".

"Đây là một điều mà cả người Công giáo và không Công giáo Úc đã chờ đợi và tôi nghĩ sẽ có một sự sự phấn khích lớn.”

"Bây giờ thì người dân Úc đã có một vị thánh làm của riêng – một phụ nữ rất bình thường nhưng đã được công nhận là một nhà tiên phong và là một vị thánh."
 
Đức Thánh Cha Benedictô XVI loại TGM Milingo khỏi hàng giáo sĩ
LM Trần Đức Anh, OP
17:53 19/12/2009
VATICAN - Hôm 17-12-2009, Phòng Báo Chí Tòa Thánh công bố thông cáo cho biết ĐTC Biển Đức 16 đã quyết định loại khỏi bậc giáo sĩ TGM nổi loạn Emmanuel Milingo.

Thông cáo nói rằng từ nhiều năm nay, Giáo Hội đặc biệt đau buồn theo dõi những biến chuyển liên quan đến thái độ gây phiền toái của Emmanuel Milingo, nguyên TGM giáo phận Lusaka bên Zambia, Phi châu. Đã có nhiều cố gắng đưa ông Milingo trở về tình hiệp thông của Giáo Hội Công Giáo, kể cả việc tìm kiếm những hình thức thích hợp để ông có thể thi hành sứ vụ GM, với sự can thiệp trực tiếp của ĐGH Gioan Phaolô 2 và Biển Đức 16..

Thông cáo nhắc đến vụ Milingo kết hôn với bà Maria Sung người Đại Hàn và bị cấm thi hành chức vụ thánh (Xc GL 1044,1.; 1394,1) hồi năm 2001. Sau đó ông cầm đầu những phong trào đòi bãi bỏ luật độc thân giáo sĩ và tỏ ra công khai nổi loạn qua các cơ quan truyền thông chống lại những lần can thiep của Tòa Thánh, gây hoang mang và gương mù nơi các tín hữu. Đặc biệt ngày 24-9-2006, tại Washington Hoa Kỳ, Ông Milingo đã tiến hành việc truyền chức 4 GM không có ủy nhiệm của Tòa Thánh. Vì thế, ông đã bị vạ tuyệt thông tức khắc. Rất tiếc là ông không tỏ ra hối lỗi để trở về hiệp thông trọn vẹn với ĐTC và các thành phần trong Giám mục đoàn, đồng thời tiếp tục thi hành bất hợp pháp các hành vi thuộc chức GM, làm thương tổn sự hiệp nhất của Giáo Hội. Đặc biệt trong những tháng gần đây, ông đã truyền chức thêm một số GM.

Vì những trọng tội ấy, sau khi kiểm chứng kỹ lưỡng, Tòa Thánh buộc lòng phải gia tăng thêm hình phạt cho ông Milingo và loại khỏi bậc giáo sĩ.

Theo qui định của giáo luật số 292, việc loại khỏi hàng giáo sĩ, cùng với vạ tuyệt thông vẫn còn hiệu lực, làm cho Ông Milingo mất các quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với bậc giáo sĩ, ngoại trừ nghĩa vụ độc thân; cấm thi hành thừa tác vụ, ngoại trừ khoản giáo luật số 976 cho phép giải tội trong trường hợp nguy tử; bị tước bỏ mọi giáo vụ, trách vụ và bất kỳ quyền bính thừa ủy nào, cũng như cấm không được mang áo giáo sĩ. Vì thế, sự tham dự của các tín hữu vào các buổi lễ do ông Milingo cử hành là điều bất hợp pháp.

Thông cáo ghi nhận rằng việc loại bỏ một GM khỏi bậc giáo sĩ là điều rất họa hiếm. Tòa Thánh phải đi tới biện pháp này vì những hậu quả tram trọng do những vụ truyền chức GM bất hợp pháp của ông Milingo gây ra cho tình hiệp thông của Giáo Hội. Tuy nhiên Giáo Hội vẫn hy vọng ông hồi tỉnh và thống hối.

Về những người mới được Milingo truyền chức GM, họ bị kỷ luật Giáo Hội phạt vạ tuyệt thông tức khắc (GL 1382). Giáo Hội cũng không nhìn nhận và không có ý nhìn nhận trong tương lai những cuộc truyền chức như thế và tất cả các cuộc truyền chức từ đó mà ra. (SD 17-12-2009)
 
Đức Thánh Cha chủ sự kinh chiều với các sinh viên đại học Roma
LM Trần Đức Anh, OP
17:54 19/12/2009
VATICAN - Chiều thứ năm 17-12-2009, ĐTC Biển Đức 16 đã chủ sự buổi hát kinh chiều gỡ các sinh viên đại học ở Roma tại Đền thờ Thánh Phêrô để chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh.

Lần đầu tiên ĐTC Biển Đức 16 gặp gỡ các sinh viên Roma dưới hình thức buổi hát kinh chiều. Hiện diện trong dịp này còn có nhiều HY, GM, các vị viện trưởng, giáo sư và hàng ngàn sinh viên các đại học đời ở Roma.

Trong bài giảng, sau khi giải thích về Đấng Khôn Ngoan, Lời của Thiên Chúa chính là Đấng đã chọn sinh ra trong hang đá Bethlehem, ĐTC mời gọi các giáo sư và sinh viên hãy đón nhận Chúa với tâm hồn khiêm cung. Ngài nói: ”Chúng ta hãy tự hỏi: trong đêm Giáng Sinh có ai ở hang đá Bethlehem? Ai đã đón nhận Đấng Khôn Ngoan khi Người sinh ra? Ai đã chạy đến để xem, nhìn nhận và thờ lạy Người? Không phải là các nhà thông luật, các văn sĩ hoặc người không ngoan. Có Mẹ Maria và Thánh Giuse, cùng với những người chăn đoàn vật. Điều ấy có nghĩa là gì? Một ngày kia Chúa Giêsu sẽ nói: “Vâng lạy Cha, vì Cha đã quyết định như thế theo lượng từ nhân của Cha” (Mt 11,26). Cha đã tỏ mầu nhiệm của Cha cho những người bé mọn (Xc Mt 11,25).

ĐTC giải thích rằng nói như thế không có nghĩa là chúng ta phải ngưng học hành, nghiên cứu, nhưng là học hành, đào sâu kiến thức mà vẫn giữ tâm hồn bé nhỏ, một tinh thần khiêm tốn và đơn sơ như tinh thần của Mẹ Maria, là Tòa Đấng Khôn ngoan”.

Cuối buổi hát kinh, đã có nghi thức bàn giao bức ảnh Đức Mẹ là Tòa Đấng Khôn ngoan từ phái đoàn Úc trao cho phái đoàn Nigeria. Bức ảnh này sẽ được rước tới các Đại học Phi châu theo chương trình do Liên HĐGM Phi châu và Madagascar (Secam) phối hợp.

Trong những ngày qua Ảnh Đức Mẹ là Tòa Đấng Khôn ngoan đang được đặt tại Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô bị cầm tù ở Roma. Tại đây có những buổi cầu nguyện và gặp gỡ do các sinh viên đại học Phi châu linh hoạt. (SD 17-12-2009)
 
Đức Thánh Cha tiếp kiến các Giám Mục Bạch Nga
LM Trần Đức Anh, OP
17:55 19/12/2009
VATICAN - ĐTC Biển Đức 16 khích lệ các GM Bạch Nga hăng say loan báo sứ điệp Tin Mừng trong một xã hội đang phải chịu nhiều cám dỗ tục hóa.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong buổi tiếp kiến sáng ngày 17-12-2009, dành cho 7 GM nước Bạch Nga (Belarus), vừa kết thúc tuần lễ hành hương viếng mộ hai thánh Tông Đồ Phêrô Phaolô và thăm Tòa Thánh.

Trong bài huấn dụ, ĐTC đề cao lòng nhiệt thành tông đồ của các GM trong sứ vụ và ngài nhấn mạnh rằng: “Một điều đặc biệt quan trọng là cần quyết liệt hăng say loan báo sứ điệp ngàn tời của Tin Mừng trong một xã hội bị những cám dỗ tục hóa, của chủ thuyết duy khoái lạc và duy tương đối: số trẻ em sinh giảm sút, gia đình mong manh và ảo tưởng tìm được giàu sang ở ngoài đất nước của mình, đó là những dấu chỉ về tình trạng ấy. Đứng trước các thách đố như thế, nghĩa vụ cấp thiết của các vị Chủ Chăn là nêu bật sức mạnh của đức tin, một niềm tin ăn rễ sâu nơi một truyền thống vững chắc, để góp phần bảo tồn căn tính Kitô sâu xa của quốc gia, trong sự đối thoại tôn trọng đối với các nền văn hóa và tôn giáo khác.”

Trong ý hướng trên đây, ĐTC kêu gọi các GM Bạch Nga tăng cường việc huấn giáo cho các tín hữu, đẩy mạnh việc đào tạo linh mục tại hai đại chủng viện Grodno và Pinsk, cộng tác với các Bề trên dòng tu, quan tâm tới các linh mục trong tinh thần phụ tử, vì đây là một yếu tố cơ bản giúp đời sống LM được thành công. (SD 17-12-2009)
 
Công bố 20 sắc lệnh về phong thánh và chân phước
LM Trần Đức Anh, OP
17:56 19/12/2009
VATICAN - ĐTC Biển Đức 16 đã cho phép công bố 20 sắc lệnh liên quan đến các án phong hiển thánh và chân phước, trong đó có 2 sắc lệnh nhìn nhận các nhân đức anh hùng của Đức Giáo Hoàng Piô 12 và Gioan Phaolô 2.

ĐTC cho phép vừa nói trong buổi tiếp kiến sáng 19-12-2009 dành cho Đức TGM Amato, SDB, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh.

Có 5 sắc lệnh nhìn nhận các phép lạ nhờ lời chuyển cầu của 5 chân phước trong đó có chân phước Maria Thánh Giá MacKillop, sáng lập dòng các nữ tu thánh Giuse Thánh Tâm. Chân phước sẽ trở thành thánh nữ đầu tiên của Úc. Tiếp đến có 5 sắc lệnh nhìn nhận phép lạ của 5 vị Tôi Tớ Chúa và 1 sắc lệnh nhìn nhận cuộc tử đạo của LM Jerzy Popieluszko bị mật vụ cộng sản Ba Lan bắt cóc và sát hại năm 1984.

10 sắc lệnh còn lại nhìn nhận các nhân đức anh hùng của 10 vị tôi tớ Chúa trong đó có 2 vị Giáo Hoàng: Đức Gioan Phaolô 2 và Piô 12. Các vị cần có một phép lạ được chứng thực để có thể được phong chân phước.

Với việc công bố các sắc lệnh này, trong thời gian tới đây, Giáo Hội sắp có thêm 5 vị hiển thánh gồm 2 vị Italia, 3 vị còn lại người Ba Lan, Canada và Úc. 6 vị chân phước sẽ được tôn phong gồm 3 vị Tây Ban Nha, 2 vị Italia và 1 vị Ba Lan.

Tiếp Bộ phong thánh

Sau khi tiếp Đức TGM Amato, ĐTC đã tiếp kiến Bộ Phong thánh, nhân dịp kỷ niệm 40 năm thành lập Bộ này. Hiện diện tại buổi tiếp kiến có 150 người gồm Đức TGM Angelo Amato, các chức sắc, nhân viên, cố vấn, và các cộng tác viên của Bộ.

Trong dịp này, ngài đề cao tầm quan trọng của việc tôn kính các thánh trong Giáo Hội và gọi đây là một phương thế loan báo hiệu quả của Tin Mừng.

ĐTC nói: ”Khi tôn kính một vị thánh, Giáo Hội loan báo hiệu năng của Phúc Âm và vui mừng khám phá rằng sự hiện diện của Chúa Kitô trong thế giới, được tin tưởng và thờ lạy trong đức tin, có thể biến đổi cuộc sống con người và mang lại những thành quả cứu độ cho toàn thể nhân loại”.

ĐTC cũng nhận xét rằng ”mỗi cuộc phong chân phước và hiển thánh, đối với các tín hữu Kitô, đều là một lời mạnh mẽ khuyến khích sống khẩn trương và hăng say theo Chúa Kitô, tiến bước đề cuộc sống Kitô sung mãn và sự trọn hảo của đức bác ái (LG 40)... Thực vậy, trong cuộc sống của các thánh là anh chị của chúng ta, chúng ta thấy nổi bật sự liên tục tìm kiếm sự trọn lành theo tinh thần Phúc Âm, khước từ sự tầm thương và nhắm đến sự hoàn toàn thuộc về Chúa Kitô”.

Và ĐTC nhắc lại định nghĩa ”Sự thánh thiện có nghĩa là sự biến đổi con người và thực tại nhân trần theo hình ảnh Chúa Kitô phục sinh, đó là mục đích tối hậu trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, như thánh Phaolô đã nhắc nhở: ”Ý muốn của thiên Chúa là anh chị em hãy nên thánh” (1 Ts 4,3) (SD 19-12-2009)
 
Bên trong và bên ngoài Vatican, 2009 là một năm rất bận rộn đối với Đức Thánh Cha
Bùi Hữu Thư
22:42 19/12/2009
VATICAN CITY (CNS) – Nhìn lại 2009, khó có thể hình dung một năm nào bận rộn hơn đối với Đức Thánh Cha Benedict XVI.

Năm Thánh Phaolô. Năm Linh Mục. Một Thông điệp về xã hội quan trọng. Một chuyến hành hương Đất Thánh. Một cuộc hội kiến đầu tiên với tổng thống Obama. Mười vị Thánh mới. Một chuyến tông du Phi Châu và một Thượng Hội Đồng Giám Mục Phi Châu. Một khởi đầu với Facebook trên mạng lưới. Một sự nhượng bộ đối với nhóm Công Giáo truyền thống. Một sự cởi mở bất ngờ đối với các người Anh Giáo đã chán nản.

Dĩ nhiên, đó chỉ là những cao điểm. Làm Giáo Hoàng là một nhiệm vụ hết ngày nọ qua ngày kia, và trong năm qua, Đức Thánh Cha Benedict đã tiếp xúc với trên 200 chính khách và nhóm, hội đàm với trên 300 giám mục và cử hành trên 50 Thánh Lễ lớn.

Năm qua đem lại một số những thời điểm làm cho ngài hết sức hài lòng, như khi Đức Thánh Cha người Đức cầu nguyện trong thinh lặng trước Mộ trống của Chúa Kitô tại Giêrusalem, hay khi ngài đến Phi Châu lần thứ nhất giữa tiếng hoan hô đón chào của hàng trăm người dân Cameroon.

Nhưng cũng có những trái ý hiển nhiên trong năm 2009, một phần vì ngài có cảm tưởng bị hiểu nhầm bởi một số tín hữu và giới truyền thông về một vài quyết định và lời tuyên bố của ngài.

Vào tháng Giêng, Đức Thánh Cha tuyên bố giải vạ tuyệt thông cho bốn giám mục trong Hội Dòng Thánh Piô X để mở đường cho việc hoà giải với nhóm truyền thống – một quyết định mà một số giám mục từ một số quốc gia đã chống đối.

Giới truyền thống thì chú ý đến sự kiện một trong bốn giám mục là Richard Williamson, đã từ chối sự tàn bạo của vụ Holocaust trong một cuộc phỏng vấn. Bỗng nhiên, Đức Thánh Cha gốc Đức đã phải chống đỡ, và phải bảo đảm với các lãnh tụ Do Thái và người khác rằng mục đích của ngài là muốn giúp cho có sự hiệp nhất trong Giáo Hội, và không hề có ý tháo lui giáo huấn của giáo hội về việc phản đối sự chống lại người Do Thái.

Thực vậy, một trong những tài liệu đáng ghi nhớ nhất của năm 2009, là lá thư sau đó của Đức Thánh Cha gửi các giám mục trên toàn thế giới bầy tỏ sự ngạc nhiên của ngài, là ngay cả một số người Công Giáo cũng đã hiểu nhầm ngài và đã “công nhiên” tấn công ngài.

Cuộc viếng thăm Phi Châu của Đức Thánh Cha là kinh nghiệm của một tuần lễ dài đầy những nghi thức phụng vụ, những thảo luận với các giám mục và những cuộc gặp gỡ giới trẻ, những người tật nguyền và cả một nhóm thổ dân “người lùn”, rất cảm động.

Nhưng ảnh hưởng của giới truyền thông đã bị lu mờ bởi nhận xét của Đức Thánh Cha khi ngài trình bầy với các phóng viên trong ngày đầu tiên của chuyến viếng thăm, khi ngài nói về chính sách của Giáo Hội để chống lại nạn dịch AIDS: “Chúng ta không thể nào giải quyết vần đề bằng việc phân phát các túi cao xu. Vì trái lại, điều này chỉ làm cho vấn đề gia tăng.” Nhận xét này làm cho nhiều người chỉ trích, mặc dầu một số chuyên gia cũng đồng ý là việc quá tin tưởng vào các túi cao xu đã là một vấn đề tại các quốc gia Phi Châu.

Thượng Hội Đồng Giám Mục Phi Châu tháng 10 đem lục điạ này vào ánh sáng của Vatican. Đức Thánh Cha chủ toạ các buổi họp và vào lúc bế mạc, ngài nhận được 57 đề nghị về mục vụ để khai diễn thành một tài liệu tương lai cho Giáo Hội Phi Châu.

Vào tháng Năm, Đức Thánh Cha đi thăm Jordan, Israel và Palétin. Chuyến đi 8 ngày là một cuộc hành hương Phúc Âm, một sứ vụ liên tôn và một hành động chính trị, tổng hợp lại thành một. Đức Thánh Cha viếng thăm một ngôi đến Hồi giáo tại thủ đô xứ Jordan, cầu nguyện tại Tưởng Niệm Đài Yad Vashem Holocaust tại Giêrusalem, và làm phép các tảng đá góc tường cho các nhà thờ và cơ sở Kitô giáo mới trong miền.

Tháng Sáu Đức Thánh Cha bế mạc Năm Thánh Phaolô, và khai mạc Năm Linh Mục. Trong các cuộc thảo luận và dâng Thánh Lễ hàng tuần nhắm vào Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha đã mô tả một bức họa về con người được coi là gương mẫu về sự trở lại Kitô giáo và là một nhà truyền giáo tối ưu.

Khi khai mạc Năm Linh Mục, Đức Thánh Cha nói Giáo Hội phải công nhận rằng một số các linh mục đã làm hại kẻ khác, nhưng Giáo Hội cũng phải cảm tạ Thiên Chúa vì đã ban cho Giáo Hội và thế giới đa số các linh mục tốt lành.

Vào tháng Bẩy, Đức Thánh Cha ban hành Thông Điệp đã chờ đợi lâu dài về kinh tế và công bình xã hội, “Đức Ái trong Chân Lý.” Thông điệp này kêu gọi sự cải tổ các tổ chức và các thực hành về kinh tế quốc tế, và ngài nói cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu phần lớn là do có sự vi phạm về luân lý của các ngân hàng và giới đầu tư tham lam.

Toà Thánh cho hay: Đức Thánh Cha đã trao một bản Thông Điệp này cho tổng thống Obama khi hai vị gặp gỡ lần đầu tiên tại Vatican vào tháng Bẩy, cùng với một bản sao mới đây của Vatican về đạo đức y sinh học. Trong cuộc thảo luận riêng, Vatican cho hay đã xẩy ra trong một bầu khí “hết sức bình thản và hòa hiếu,” tổng thống “bầy tỏ sự cam kết của ông cho việc giảm thiểu con số phá thai và lắng nghe các ưu tư của Giáo Hội về các vấn đề luân lý đạo đức.”

Vào tháng Chín, Đức Thánh Cha Benedict đón tiếp Tân Đại Sứ Hoa Kỳ tại Tòa Thánh, Miguel Diaz, và trong một diễn từ phác họa các lãnh vực rộng lớn về các hợp tác khả dĩ với chính phủ Obama. Đồng thời, lập lại các ưu tư của các giới lãnh đạo Giáo Hội Hoa Kỳ, ngài kêu gọi việc tôn trọng đời sống của các thai nhi và bảo vệ quyền lương tâm của các nhân viên y tế để phản đối việc phá thai.

Trong số các vị thánh mới được Đức Thánh Cha tuyên phong trong năm 2009 có hai vị có liên hệ mật thiết với Hoa Kỳ: Linh mục Damien de Veuster, nhà truyền giáo Bỉ thế kỷ 19 đã chăm lo cho người cùi tại Hawaii, và Nữ tu Jeanne Jugan, một sơ người Pháp mà nhà Dòng Các Sơ của Người Nghèo của bà vẫn tiếp túc trợ giúp người cao niên tại Hoa Kỳ và trên 30 quốc gia khác.

Về các vấn đề nội bộ của Giáo Hội, vào tháng Năm, Đức Thánh Cha ra lệnh thăm viếng mục vụ Đao Binh của Chúa Kitô và các cơ sở của họ, sau khi được biết các lạm dụng về tính dục của vị sáng lập Dòng này là linh mục Marcial Maciel Degollado.

Vào tháng Mười, Vatican phổ biến kế hoạch mới của Đức Thánh Cha về việc đón chào các người Anh giáo muốn hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo trong khi vẫn duy trì các sắc thái về linh đạo và truyền thống phụng vụ của Anh giáo.

Trong lúc niên khoá sắp chấm dứt, Đức Thánh Cha gửi điện văn “xanh lá cây” (Green) cho Ngày Thế Giới Hòa Bình năm 2010. Điện văn nói việc suy đồi của môi sinh là một vấn đề luân lý thúc bách, đang đe dọa hoà bình và chính đời sống con người, và ngài kêu gọi phải có những hành động trên mức độ hoàn vũ và cá nhân.
 
Top Stories
Vietnam: Des bouddhistes demandent à N. Sarkozy l’asile en France
Zenit.org
17:33 19/12/2009
400 membres de la communauté bouddhiste de Bat Nha

ROME, Vendredi 18 Décembre 2009 (ZENIT.org) - Deux lettres, datées respectivement du 16 et du 18 décembre 2009, signées par une nonne, Sr Elisabeth, et un moine, le vénérable Thich Trung Hai, de la communauté bouddhiste du « Village des pruniers », viennent d'être adressées à Nicolas Sarkozy, président de la République française (1), a rapporté Eglises d'Asie, l'agence des Missions étrangères de Paris, le 18 décembre 2009.

Elles demandent au président français d'accorder un asile temporaire aux 400 membres de la communauté de Bat Nha pour qu'ils puissent continuer à mener leur vie religieuse dans leur maison mère, le « Village des pruniers » et d'autres maisons annexes, fondées dans le sud-ouest de la France par leur maître, Thich Nhat Hanh.

La nonne bouddhiste souligne que, dans cette démarche, elle représente le fondateur de la communauté, tandis que l'auteur de la seconde lettre affirme écrire « de la part des moines et moniales de Bat Nha, au Vietnam, (dont la) voix n'est pas entendue ». Les deux lettres exposent la situation actuelle des moines, la campagne de persécution entamée contre eux en août 2009, l'expulsion du 27 septembre, les attaques menées les 9, 10 et 11 décembre (2), qui ont obligé le recteur du monastère où ils avaient trouvé asile à ne pas prolonger son hospitalité: « Le gouvernement vietnamien est en train de forcer ces 400 moines et moniales à abandonner leur vie spirituelle, leur pratique de la paix, du service et de la non-violence; ils ont reçu un ultimatum pour dissoudre leur communauté le 31 décembre.»

Les religieux expliquent ensuite au président qu'ils ne peuvent plus résister à la pression exercée sur eux par le gouvernement vietnamien et qu'ils ne peuvent pas non plus renoncer à leur vie religieuse communautaire. C'est pour cela que la communauté de Bat Nha dans son ensemble demande l'asile en France. Leur maître, le vénérable Thich Nhat Hanh, est prêt à les accueillir dans les quatre monastères fondés par lui dans le Sud-Ouest de la France. Les deux lettres disent également que le groupe de leurs très nombreux amis et relations, en Europe comme aux Etats-Unis, assurera sans aucun problème leur subsistance matérielle.

La lettre du religieux rappelle aussi l'aide apportée par la France aux boat-people par l'intermédiaire de l'actuel ministre des Affaires étrangères et du bateau L'Ile de lumière. Elle évoque saint François d'Assise et sollicite un rendez-vous avec le président français.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Sydney: Dạ vũ Giáng Sinh do ca đoàn Lê bảo Tịnh tổ chức
Diệp Hải Dung
06:18 19/12/2009
SYDNEY - Tối thứ Sáu 18/12/2009 Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh TGP Sydney tổ chức đêm Văn Nghệ Dạ Vũ Giáng Sinh tại nhà hàng Crystal Palace vùng Canley Heights. Khai mạc chương trình là nhạc phẫm Felix Navida để chào đón mọi người sau đó Mc Ngọc Oanh và Trường Giang giới thiệu Cha Paul Văn Chi Tuyên úy Đặc Trách Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh Sydney lên ngỏ lời chào mừng Quan Khách và tất cả mọi người. Cha rất vui mừng vì ngày hôm nay chính là sự họp mặt và gặp gỡ của các Ca đoàn trong Cộng Đồng nhân dịp cuối năm để cùng tạo niềm vui chung nhân dịp Giáng Sinh đến. Đồng thời Cha tuyên bố khai mạc Đêm Dạ Vũ Giáng Sinh và chúc lành của ăn.

Xem hình dạ vũ Giáng Sinh

Chương trình Văn Nghệ và Dạ Vũ với sự đóng góp của các Ca đoàn Fairfield, Ca đoàn Miller, Ca đoàn Mt. Pritchard, Ca đoàn Plumpton, Ca đoàn Lakemba, Ca đoàn Revesby, Ca đoàn Cabramatta, Ca đoàn Miller và Ca đoàn trẻ Hồng Ân với những tiết mục Đơn Ca, Song Ca, Hợp Ca, Vũ và Hoạt Cảnh với những nhạc phẩm nổi tiếng quen thuộc: Bài Thánh Ca Buồn, Noel Xanh, Felix Navida, Đêm Thánh Vô Cùng, Tà Áo Đêm Noel v..v.. Đặc biệt có sự đóng góp của Cha Phêrô Dương Thanh Liêm Phó xứ Cabramatta phối hợp với Ca đoàn Thánh Tử Đạo Giuse Lê Đăng Thị Giáo đoàn Fairfiled với nhạc phẫm Chiếc Áo Bà Ba và màn vũ khúc Chiếc Áo Bà Ba rất là ngoạn mục và đặc sắc đượm tình quê hương.

Cha Tuyên úy Trưởng Nguyễn Khoa Toàn lên chia sẻ với các Ca đoàn trong đêm Dạ Vũ Giáng Sinh. Cha nói có 3 Ca đoàn Cha hết lòng khen ngợi: Ca đoàn Đức Mẹ Fatima Giáo đoàn Miller đã linh động tế nhị trong ngày Lễ mừng Ngày Thánh Mẫu tại Trung Tâm Bringelly tháng 10 vừa qua. Ca đoàn Thánh Giuse Tuấn Giáo đoàn Plumpton tuy xa xôi và khác Giáo Phận nhưng vẫn luôn đóng góp cho Liên Ca Đoàn và Cộng Đồng một cách tích cực và Giáo đoàn Bankstown hai Ca đoàn Thứ Bảy và Chúa Nhật đã kết hợp chung với nhau hát Lễ ngày Đại Lễ Các Thánh Tử Đạo tháng 11 vừa qua tại Paul Keating Park Bankstown. Cha ngỏ lời chúc mừng Liên Ca Đoàn luôn thăng tiến để phục vụ cho Giáo Đoàn và Cộng Đồng.

Ông Giang Hoan Chủ tịch CĐCGVN TGP Sydney thay mặt Cộng Đồng ngỏ lời chúc mừng Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh mùa Giáng Sinh và Năm Mới luôn an bình và gặt hái nhiều thành công. Chương trình Văn Nghệ và Dạ Vũ tiếp tục với những nhạc phẩm Disco vui nhộn, tất cả mọi người đều đội nón Giáng Sinh ra sàn nhảy và cùng chung vui với nhau trong tình đoàn kết thân thương. Ngoài ra còn có Xổ Số may mắn nhân mùa Giáng Sinh.

Trước khi kết thúc đêm Dạ Vũ Giáng Sinh. Anh Hoàng Minh Hùng Liên ca Đoàn Trưởng ngỏ lời cám ơn quý Cha, quý Quan Khách và tất cả mọi người đã đến tham dự buổi Dạ Vụ Giáng Sinh do Liên Ca Đoàn Lê Bảo Tịnh tổ chức. Anh chúc tất cả mọi người mùa Giáng Sinh tràn đầy ơn lành Chúa Hài Nhi.
 
Chương trình chuyên đề Truyền thông và Giới trẻ thời @
Hạt Cát
08:07 19/12/2009
“Những công trình nghiên cứu ở Mỹ cho thấy, nếu hàng ngày trẻ dành 3-4 giờ để xem những chương trình ti vi không có nội dung giáo dục, thì sau khi kết thúc phổ thông trung học, trẻ có thể đã xem được khoảng 8.000 vụ giết người.”

Thông tin nêu trên gợi cho chúng ta viễn cảnh về một tương lai ảm đạm, đầy bạo lực.

Các nghiên cứu khoa học cũng đã chứng minh rằng truyền thông có sức tác động mạnh mẽ đến nhận thức và hành vi của con người, đặc biệt là người trẻ.

Trong thế giới số hoá ngày nay, người trẻ dễ dàng tiếp xúc với kho thông tin đại chúng khổng lồ hầu như ở mọi lúc, mọi nơi. Họ tự do làm điều mình thích, không giới hạn tìm tòi và cũng không đủ nhận thức để sàng lọc các thông tin trên mạng.

Với nhãn quan này, truyền thông thời @ đang len lỏi vào cuộc sống của từng gia đình và lôi kéo người trẻ vào một thế giới ảo, với những giá trị sống giả tạo và những đẳng cấp phù phiếm. Trong tương lai, những ảnh hưởng của truyền thông ngày càng trở nên mạnh mẽ và nhiều lãnh vực thuộc đời sống xã hội bị chi phối cách nghiêm trọng hơn. Đây là một vấn đề rất lớn và đầy thách đố cho chính bản thân người trẻ, các bậc làm cha mẹ, Giáo hội và xã hội.

Để có một cái nhìn hệ thống về tác hại của truyền thông đối với giới trẻ và định hướng của người trẻ Công Giáo trong thời đại công nghệ thông tin, chiều ngày 12.12.2009 tại TTMV, với sự có mặt của hơn 200 tham dự viên gồm nhiều thành phần khác nhau, Sơ Nguyễn Thị Ngọc Lan, dòng Phan sinh Thừa Sai Đức Mẹ đã thuyết trình đề tài: “Truyền thông và Giới trẻ”

I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI TRẺ TRONG THẾ GIỚI SỐ HOÁ:

Truyền thông là một quá trình trao đổi thông tin.

Ngoài các phương tiện truyền thống như sách báo, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, còn có các phương tiện truyền thông hiện đại như điện thoại, internet.

Ngày nay, các phương tiện truyền thông trở nên quen thuộc với mọi người và truyền thông đóng một vai trò lớn trong lòng thế giới.

@ là kí hiệu được sử dụng cho một thế hệ mới được định hình bởi truyền thông. Các chương trình quảng cáo, ti vi, phim ảnh,… đóng vai trò chuyển tải thông tin và ảnh hưởng đến nhận thức, sự lựa chọn của người đương thời, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từ đó hình thành những đặc điểm của con người trong thời đại kỹ thuật số ngày nay.

1. Con người dị dạng:

Trong thế giới tràn ngập thông tin, người trẻ học hỏi nhiều từ kho tàng internet đồ sộ. Tuy nhiên, truyền thông cũng đã định hình một thế hệ người trẻ dị dạng. Đây là sự phát triển không cân bằng giữa vốn liếng tri thức và đời sống cảm xúc, tâm linh của giới trẻ.

Truyền thông ngày nay hô hào, cổ võ cho chủ nghĩa tiêu dùng và hưởng thụ. Từ đó hình thành não trạng tìm kiếm sự tiện lợi, nhanh chóng, dễ dãi… Khi bị đòi hỏi phải cố gắng, người trẻ thiếu bản lĩnh để gánh vác những khó khăn xảy ra trong cuộc sống. Họ thiếu tự tin và nghị lực để đảm trách cuộc đời mình. Họ thiếu lòng can đản, sợ bị từ chối, sợ thất bại.

Trải nghiệm cuộc sống vượt qua bốn bức tường bằng những cái click chuột, lướt web, tán gẫu,… trái tim người trẻ chưa đủ lớn để ươm mầm cho những hạt giống tâm hồn nảy lộc, đâm chồi. Trái tim nhỏ bé không đủ chỗ dưỡng nuôi những cảm xúc sâu lắng.

Đời sống tâm linh phát triển èo uột trên nền tảng đời sống nhân bản bị thui chột.

Ngoài những dị dạng của đời sống nội tâm, những nghiên cứu gần đây cho thấy, sự thiếu vận động chạy, nhảy và các hoạt động thể dục do việc lạm dụng ti vi, máy tính dễ dẫn đến bệnh mập phì kèm theo các triệu chứng về tim mạch, tiểu đường…

2. Những khủng hoảng và ước mơ của người trẻ:

Tuổi trẻ vốn năng động, đầy ắp ước mơ và hoài bão… Nhiều người trong số họ luôn gặp áp lực, căng thẳng khi chạy đua với thời gian, để đạt được những mơ ước trong cuộc đời. Ngược lại, không ít bạn trẻ chẳng hề có khát vọng gì, do cuộc sống của họ mứa thừa vật chất. Các nhà khoa học gọi đây là “khủng hoảng thừa” ở giới trẻ.

Không ai phủ nhận vai trò tích cực của truyền thông trong sự phát triển của người trẻ ngày nay. Tuy nhiên, nếu người trẻ không sớm nhận thức đúng đắn về giá trị của truyền thông và tác hại của nó, cũng như họ không sớm nhận được sự nâng đỡ, đồng hành của các ban ngành, đoàn thể liên quan, thì giới trẻ ngày nay có nguy cơ xây dựng đời sống của mình trong thế giới số và ảo.

Thế giới số hoá cho ra đời những nhân vật ảo. Những người hùng trên màn ảnh nhỏ dần dần xâm nhập vào lối suy nghĩ và cách hành xử của người trẻ, khiến họ ngộ nhận về chính bản thân mình, dễ dàng trở thành “cái rốn của vũ trụ”, nhưng lại đầy xa lạ, lạc lõng và ngớ ngẩn trong thực tại.

Quan điểm sống của người trẻ bị lệch lạc, khi họ tiếp nhận phần lớn những hình ảnh chết chóc, bạo lực trên các phương tiện truyền thông. Do các quá trình hưng phấn thần kinh của vỏ não mạnh và chiếm ưu thế, nên người trẻ dễ gây hấn và thiếu kiềm chế, họ có xu hướng cho rằng bạo động là giải pháp ưu tiên cho đa số các vấn đề trong cuộc sống.

Các trang web đen đang tấn công trí tò mò của người trẻ. Nếu không đủ nhận thức và kiểm soát, tâm trí non nớt của họ sẽ dễ dàng bị ám ảnh bởi những hình ảnh bạo lực đẫm máu và khiêu dâm. Từ đó, xuất hiện lối sống lệch lạc, những nhu cầu thiếu lành mạnh. Tệ hơn nữa là dẫn đến những thảm kịch đau lòng.

Quan hệ bạn bè có sức mạnh đáng kể ở giới trẻ. Họ có xu hướng tìm kiếm các mối quan hệ ở ngoài gia đình. Những mối tình ảo ra đời đáp ứng nhu cầu được yêu thương, được thông hiểu và xoa dịu đi sự trần trụi của thực tế. Lún sâu vào tình ảo, đầu tư quá nhiều cho những mối tương quan không thật và không ích lợi, người ta dễ quên đi hay phớt lờ bổn phận của mình trong gia đình, trong xã hội.

Ngày nay, người trẻ không ưu tiên lựa chọn xây dựng những mối quan hệ trong sáng, lâu dài và nghiêm túc. Các chương trình truyền thông thiếu lành mạnh còn là nguyên nhân của tình trạng người trẻ sống vội, tạo những mối quan hệ dễ dàng, kém bền… Lối sống này dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng cho sức khoẻ và gây ra những chấn thương trong đời sống nội tâm.

Sống trong thế giới ảo cũng là một hệ quả do sử dụng internet quá nhiều. Không chỉ tốn nhiều thời gian và tiền bạc, sự say mê game online làm người trẻ dễ dàng bị tiêm nhiễm và cuộc sống của họ cũng chỉ xoay quanh các trò chơi mà thôi.

Sự tan vỡ của những hoài bão thiếu thực tế dễ làm họ ngã lòng, thất vọng và chán nản.

Với cuộc sống đương đại đầy náo động, những áp lực xuất phát từ kỳ vọng gia đình, những căng thẳng, mệt mỏi từ xã hội, người trẻ không đủ nội lực để đối mặt với thực tại, họ rơi vào những cơn khủng hoảng triền miên, không lối thoát. Mất phương hướng và hoang mang, người trẻ không biết kêu cứu hay bám víu vào đâu.

Ngày nay, đặc biệt là ở các nước phát triển, con số thanh thiếu niên tự tử ngày càng tăng. Đây là hậu quả thiếu tình thương của gia đình, thiếu quan tâm của nhà trường, thiếu đồng hành của xã hội và Giáo hội. Một điều rất đáng tiếc là: truyền thông chỉ lên tiếng mô tả về các vụ việc tự tử mà ít khi chỉ cho người trẻ thấy đây là việc không nên làm.

Vấn đề đặt ra là: làm sao giải cứu người trẻ ra khỏi ma lực của truyền thông và giúp cho các mối tương quan của họ được tăng trưởng, để đời sống của họ được thăng tiến?

Tuổi trẻ là lứa tuổi đẹp nhất nhưng cũng khó vượt qua nhất trong hành trình làm người. Do đó, họ cần nhận được sự thông hiểu và trợ lực của mọi người xung quanh.

3. Những căn bệnh thời hiện đại:

Nhiều người trẻ ngày nay sớm trở thành những ông bà già với cái đầu đầy thông tin và với đôi chân như mọc rễ trước màn ảnh nhỏ. Tuổi thơ trôi tuột qua bàn tay với những động tác bấm bàn phím, nhấp chuột, tắt – mở các phương tiện truyền thông cách nhuần nhuyễn. Kí ức tuổi thơ sẽ còn lại gì trong hành trang làm người?

Thời đại số hoá nhào nặn những con người đóng kín mình, vô cảm, quy ngã, ảo tưởng, ghiền mạng, …… Tác hại của truyền thông làm cho người trẻ chỉ nghĩ đến nhu cầu của bản thân, có lối sống ích kỷ, thiếu kiềm chế. Thờ ơ với cuộc sống, khó lòng quan tâm và mở ra với người khác,… là triệu chứng những của căn bệnh Makeno và bất cần. Thích hàng hiệu, thích sự khác biệt, tiêu tốn thời giờ để chăm chút cho blog-nhật ký online, để đánh bóng chính mình,… là những dấu hiệu của căn bệnh vip…

Quá lệ thuộc vào việc dễ dàng tìm kiếm các thông tin trên internnet, người trẻ cảm thấy ngại khi bước ra tìm hiểu môi trường bên ngoài.

Thông qua các phương tiện truyền thông phi truyền thống, một thế giới ảo được hình thành. Thế giới ảo làm cho người ta thoát ly những khó khăn của cuộc sống, mang cho họ sự tin tự trong giao tiếp, sự dễ dàng để bộc lộ tâm tư, tình cảm thầm kín… mà đôi khi khó thực hiện trong đời sống hiện thực. Điều này khiến người trẻ dễ mở lòng ra với cộng đồng mạng, nhưng lại vô cảm, khép kín với những con người bằng xương, bằng thịt xung quanh. Những bữa cơm gia đình trở nên vắng lạnh, các thành viên trong gia đình trở nên cô đơn, lạc lõng… Người ta chỉ nói với nhau vài lời khi cần thiết, chỉ rời khỏi màn hình khi cần giải quyết nhu cầu ăn uống hay vệ sinh. Thiếu thời gian để quan tâm đến nhau, người ta co rút vào căn phòng đầy đủ tiện nghi của mình để tiêu tốn hàng giờ cho ti vi, cho online.

Làm sao người ta có thể lớn lên được khi đôi bàn chân không đạp đất và mang trong lòng một trái tim băng giá?

II. NHỮNG THÁI ĐỘ CẦN THIẾT CỦA NGƯỜI TRẺ:

Trong bối cảnh xã hội hiện đại, sự quyến rũ và cám dỗ của những thú vui thiếu lành mạnh đang xâm nhập vào tận phòng ngủ của giới trẻ, thông qua các phương tiện truyền thông như ti vi, internet, điện thoại… Người trẻ đang có nguy cơ bị lây nhiễm, bị xâm hại ngay trong chính căn nhà của mình.

Vì thế, đây là một vấn đề nóng bỏng, nguy cấp, đòi hỏi có sự nhập cuộc của tất cả mọi người, đặc biệt là gia đình và bản thân người trẻ, để xây dựng cho họ có những thái độ cần thiết và đúng đắn trong cuộc sống ngày nay.

1. Dám nghĩ đúng và dám làm:

Dám nghĩ đúng và dám làm là một đức tính quý báu không tự nhiên mà có. Người ta cần phải có thời gian để học và tập đứng vững trên đôi chân của mình.

Gia đình là cái nôi của giáo dục. Học đường là một xã hội thu nhỏ để người trẻ trao đồi kiến thức và dần xâm nhập cuộc sống. Giáo hội, xã hội là môi trường rộng lớn để người trẻ tiếp tục học hỏi, tương quan và tung cánh.

Tất cả mọi nhân tố nêu trên, cần có trách nhiệm trong việc hướng dẫn, giáo dục, nâng đỡ, khuyến khích, đồng hành … để người trẻ cảm nhận cuộc sống bằng trái tim của mình, biết suy nghĩ một cách tích cực, lô-gíc, sáng tạo, tự tin và có khả năng nhận thức đúng-sai. Từ đó làm nền tảng xây dựng cho họ tầm nhìn rộng và sâu hơn.

Các chương trình hành động vì công ích trong học đường, khu phố, giáo xứ… phải đạt hiệu quả bằng việc người trẻ ý thức được việc làm của mình.

Dám nghĩ đúng và dám làm là dấu hiệu của sự năng động, trưởng thành và can đảm. Sống chủ động giúp cho người trẻ gia tăng xây dựng đời sống nội tâm và tình liên đới với người khác.

2. Biết đặt ưu tiên và dám chọn lựa trước những trào lưu của cuộc sống:

Cuộc sống bao gồm một chuỗi những lựa chọn. Lựa chọn và từ bỏ là hai mặt của một vấn đề. Lựa chọn nói lên sự tự do và trách nhiệm của chủ thể trong hành động của mình.

Trước những cám dỗ, những thú vui, những trào lưu của cuộc sống luôn đòi hỏi người trẻ phải ưu tiên lựa chọn cho mình một hướng đi đúng, cũng như đòi hỏi ở họ tính kỷ luật và lòng can đảm để kiên định theo đuổi điều mình đã lựa chọn.

Nếu không chủ động để chọn lựa, người trẻ sẽ bị cuốn phăng vào những vòng xoáy của cuộc đời và dễ đánh mất chính mình.

Sợ trách nhiệm và né tránh là thái độ thường thấy ở những người không biết đặt ưu tiên, không dám lựa chọn và không thể đảm trách đời mình.

3. Vai trò của đời sống niềm tin và những sân chơi lành mạnh:

Sự hấp dẫn của truyền thông đang chinh phục và bóp nghẹt người tiêu dùng, đặc biệt là người trẻ. Ở đâu, họ có thể tìm thấy sự nâng đỡ và hướng dẫn?

Các nhóm sinh hoạt, các sân chơi lành mạnh là những nơi phải đủ sức hấp dẫn để lôi kéo người trẻ khỏi sự quyến rũ của màn ảnh nhỏ.

Nơi những sân chơi lành mạnh, người trẻ có cơ hội gặp gỡ và tạo mối dây liên đới với người khác.

Đời sống niềm tin phải được xây dựng vững chắc trên đời sống nhân bản và trở nên nguồn nội lực dồi dào cho các hoạt động ra khỏi chính mình, hướng đến tha nhân.

III. NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO HƯỚNG TỚI TƯƠNG LAI:

Trong thời đại công nghệ thông tin, thế giới ngày nay như đang nằm trên đầu những ngón tay. Rào cản duy nhất giữa con người với nhau không còn là khoảng cách địa lý, mà là lối suy nghĩ. Để có thể mở lòng ra đón nhận người khác, để có thể thay đổi được não trạng tư duy, phương thức duy nhất là từng bước nương tựa vào Thiên Chúa.

1. Đức Giêsu, người bạn và là nhà truyền thông tuyệt vời:

Thiên Chúa là tình yêu. Mỗi người đều được mời gọi để trở thành cánh tay nối dài trong chương trình tình yêu và cưú độ của Thiên Chúa. Học biết thương yêu là điều không dễ, bởi nó trái ngược với bản tính tự quy về mình. Đó là lý do tại sao chúng ta dành cả một đời để học yêu thương.

Đức Giêsu là người bạn khiêm nhường và là nhà truyền thông tuyệt vời. Ngài thông truyền Tin Mừng cho mọi người không phải chỉ bằng lời xuất phát từ trái tim đầy yêu thương, mà còn bằng những hành động khiêm nhu cụ thể qua việc phục vụ, rửa chân cho các tông đồ,....... Sứ điệp mà Đức Giêsu loan báo là sứ điệp hân hoan của sự sống và hoà bình.

2. Người trẻ đáp ứng những thách thức của sứ điệp Tin Mừng:

Cùng với mọi Kitô hữu khác, người trẻ được mời gọi để đem Tin Mừng vào đời sống của họ và môi trường xung quanh. Muốn vậy, người trẻ phải hiểu biết và yêu mến Tin Mừng. Họ cần có một trái tim nhạy cảm để nhận ra Lời Chúa đang mời gọi họ dấn thân phục vụ.

Để đáp ứng được những thách thức của sứ điệp Tin Mừng, đòi hỏi người trẻ phải luôn trao dồi đời sống nội tâm và gắn bó với Thánh Linh và Giáo Hội qua Lời Chúa, Thánh Lễ, đón nhận các bí tích, tham gia các hoạt động trong giáo xứ.......

Các bậc làm cha mẹ cần khuyến khích, hỗ trợ người trẻ trong việc giữ gìn và thực hành niềm tin Kitô giáo.

Các đoàn thể tôn giáo phải đủ sức hấp dẫn và lôi cuốn người trẻ, nhằm giáo dục, hướng dẫn cho họ những kỹ năng sống để hoà nhập và thực thi sứ vụ tông đồ của mình.

3. Người trẻ chuẩn bị hành trang cho chính mình:

Biết đặt ưu tiên cho những lựa chọn của mình, biết tìm hướng đi đúng là thứ hành trang không thể thiếu để người trẻ vào đời.

Lớp trẻ cần nhận thức những cái mạnh, cái yếu của bản thân để rèn luyện, gia tăng những thói quen tốt đồng thời loại bỏ, giảm thiểu những thói quen thiếu lành mạnh.

Trong đời sống ngày nay, vai trò cực kỳ quan trọng của các phương tiện thông tin đại chúng là không thể phủ nhận. Nó là nguồn tri thức, nguồn cung cấp thông phong phú cho mọi người. Tận dụng những tiện ích của truyền thông, người trẻ chuẩn bị đầy đủ tri thức cho tương lai. Tuy nhiên, vào đời không chỉ là với cái đầu đầy kiến thức mà còn với trái tim đủ lớn để đón nhận người khác; đôi bàn tay biết mở ra để cho đi và đôi chân đạp đất để sống đời thực tại.

Trong bối cảnh xã hội hiện đại ngày nay, ngay cả bản thân người lớn đôi khi cũng cảm thấy khó lòng để cưỡng lại những quyến rũ của các phương tiện truyền thông. Huống chi là người trẻ, những người đã được sinh ra và trưởng thành cùng với các loại phương tiện này.

Không ai có thể chối bỏ sự tiện lợi và hấp dẫn truyền thông. Tuy nhiên, người ta cần học cách thức sử dụng chúng hợp lý và không lấn sang khung thời gian của các hoạt động cần thiết khác. Người lớn cần phải làm gương cho giới trẻ.

Gia đình, nhà trường, giáo hội và xã hội cần có sự hợp tác nghiêm túc trong việc lôi kéo người trẻ ra khỏi thế giới ảo và hướng dẫn họ sống tích cực trong đời sống thực tại. Tuy nhiên, cũng cần có sự phối hợp tích cực của phương tiện truyền thông.

Các bậc làm cha mẹ cần đặt giới hạn cho trẻ xem những chương trình ti vi bổ ích, dành thời gian xem ti vi cùng con và trao đổi với chúng những điều xem thấy; giúp trẻ hiểu rằng quảng cáo đôi khi chỉ khuyến dụ người ta mua những thứ có thể họ không cần đến. Ngoài ra, các bậc phụ huynh nên làm gương tốt cho con cái trong việc hạn chế xem ti vi và lựa chọn các hoạt động khác ngoài ti vi như làm vườn, thể dục thể thao… Gia đình là nhân tố rất quan trọng trong việc giáo dục, định hướng lối sống lành mạnh cho ngươi trẻ.

Nhà trường không chỉ dạy trẻ về kiến thức mà còn chú trọng về nhân nghĩa, đạo lý, lối sống và phát triển thể chất. Cũng như gia đình, nhà trường cần khuyến khích cho trẻ có thói quen đọc sách và viết chữ thuần Việt.

Muốn giữ lấy người trẻ khỏi sa lạc vào ma trận của truyền thông, Giáo hội phải đầu tư hơn nữa để tạo ra sân chơi và tăng cường giáo dục cho người trẻ lối sống lành mạnh, khát khao vươn lên trong học tập, trong rèn luyện.

Xã hội cần phải lên tiếng, cần có những phương tiện và những chương trình hành động cụ thể để đồng hành cùng người trẻ. Đó phải là những chương trình sinh động, bám sát nhu cầu người trẻ, đặc biệt là người trẻ đô thị.

Trong thời đại công nghệ số, văn hoá nghe nhìn trở nên phổ cập và hấp dẫn hơn. Những tác phẩm văn học mang đậm tính nhân văn không còn là sách “gối đầu giường” của nhiều bạn trẻ. Người trẻ ngày nay không yêu thích việc đọc sách và họ đọc theo kiểu hưởng thụ hơn là suy gẫm. Điều này gây tác hại to lớn đến khả năng tư duy của họ.

Để thoát khỏi sự đè bẹp của văn hoá nghe nhìn, văn hoá đọc phải tìm được chỗ đứng cho mình trong thời đại ngày nay, cùng với sự hỗ trợ của các chương trình giảm giá sách, sự ra đời của các tác phẩm hay cả về nội dung lẫn hình thức, các phòng đọc sách tiện nghi, các phong trào khuyến khích người viết và bảo vệ bản quyền của tác giả…

Sự tràn lan của các thông tin trên mạng, đòi hỏi người đọc, đặc biệt là giới trẻ, phải đủ sáng suốt để nhìn nhận và đánh giá vấn đề. Một trong những vai trò của truyền thông là chuyển tải thông tin, nhưng không phải bất kỳ thông tin nào được chuyển tải đều xác thực.
 
Video Clip Lễ Đức Mẹ Măng Đen ở Kon Plông, Kontum
Võ Hữu Trí
09:58 19/12/2009
KONTUM - Lễ Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội của giáo phận Kontum được tổ chức ở Măng Đen, huyện Kon Plông vào ngày 12.12.2009. Thánh lễ tuy không được thông báo rộng rãi trong các Giáo xứ, nhưng cũng khá đông xe ô tô, xe máy nượm nượp kéo về, ước tính khoảng trên 2000 người. Đông đảo linh mục, tu sĩ cùng tham dự.

Quan sát tổng thể phải nói đây là một thánh lễ đông đảo ở miền rừng núi hoang dã này, không bóng nhà xung quanh, chỉ thấy khu bãi đậu xe thu phí và mấy căn nhà của Công ty Sài Gòn – Măng Đen dựng nên, khi họ thấy có khách hành hương hằng ngày rãi rác về viếng mẹ, đây là cơ hội làm ăn, nên họ đã mua Nhà Nước mấy chục héc-ta nơi này.

Xem bài tườn trình Lễ Đức Mẹ Măng Đen ở Kontum
 
Lễ hội Giáng Sinh 2009 của người có hoàn cảnh đặc biệt
Phêrô Nguyễn Quang Ngọc
10:09 19/12/2009
SAIGÒN - Thứ Bảy 19.12.2009 hôm nay, tại Trung Tâm Mục Vụ Tổng Giáo Phận Sài Gòn có Lễ Hội Giáng Sinh của Người có Hoàn Cảnh Đặc Biệt. Lễ hội này đã liên tiếp được nhóm Đức Tin và Văn Hóa thực hiện từ năm 2001 với mục đích tạo một Lễ Hội đặc biệt trong Mùa Giáng Sinh của những người có hoàn cảnh đặc biệt không phân biệt tôn giáo, thành phần xã hội.

Hình ảnh Lễ hội

Thể theo nguyện vọng của nhiều Đơn Vị, Trung Tâm, Mái Ấm, Nhà Mở và được sự động viên từ nhiều phía cùng với sự cộng tác của các Mạnh Thường Quân, các Ca sĩ, một lần nữa chúng tôi tiếp tục thực hiện Lễ Hội Giáng Sinh 2009 tại Trung Tâm Mục Vụ, Tổng Giáo Phận Sài Gòn (số 6 bis Tôn Đức Thắng, Quận 1).

Trân trọng kính mời quý vị và quý bạn cùng chung tay góp sức với chúng tôi tổ chức Lễ Hội này nhằm khích lệ các Mái Ấm, Nhà Mở, Trung Tâm Khuyết Tật và góp chung niềm vui với những người có hoàn cảnh đặc biệt.

CHƯƠNG TRÌNH LỄ HỘI:

- Đưa đón các em và người có hoàn cảnh đặc biệt (ước tính khoảng 3.000 người).

- Tặng quà cho người có hoàn cảnh đặc biệt tham dự Lễ Hội

- Tổ chức các gian hàng giới thiệu và bán sản phẩm, gồm tất cả 30 gian hàng như: gian hàng câu lạc bộ hướng nghiệp Mai Anh, gian hàng cở sở Mùa Xuân, sản phẩm người khuyết tật, gian hàng cơ sở khiếm thị Bừng Sáng, gian hàng trường giáo dục chuyên biệt Hoàng Mai, gian hàng lưu niệm thổ cẩm nhóm khuyết tật Kha Vạn Cân Thủ Đức, gian hàng mái ấm Bà Chiểu, gian hàng thêu, may, vẽ, gia công hàng mỹ nghệ nhóm khuyết tật Thiên Phúc, gian hàng Đức Minh tỉnh dòng Lasan Việt Nam trung tâm dạy nghề dân lập, gian hàng tranh thêu tay, tranh kết cườm, câu lạc bộ hướng nghiệp khuyết tật trẻ Sài gòn, gian hàng lưu niệm trung tâm phát huy Thủ Thiêm, gian hàng chuyên sản xuất và gia công các loại bàn chải, chổi lông, tổ hợp khiếm thị Hồng Phúc, gian hàng giáo dục trẻ khuyết tật Thuận An, gian hàng mái ấm Mai Linh Gò Vấp, gian hàng mái ấm Dân Tộc Lái Thiêu, gian hàng sản phẩm bằng tay của truờng chuyên biệt Gia Định, gian hàng trung tâm bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè, gian hàng nhà Mai Chấn, gian hàng cơ sở dạy nghề Thiện Tâm, gian hàng trung tâm giáo dục trẻ khuyết tật quận 4, gian hàng hội thanh niên khuyết tật Sài gòn, gian hàng trung tâm khiếm thị Nhật Hồng, gian hàng cơ sở bảo trợ xã hội Thảo Đàn. .. do những người có hoàn cảnh đặc biệt thực hiện (từ 09h00 đến 21h00).

- Tổ chức các trò chơi có thưởng dành cho các em Thiếu Nhi có hoàn cảnh đặc biệt (từ 15h00 đến 17h00).

- Văn nghệ Mừng Chúa Giáng Sinh do các Ca sĩ và người có hoàn cảnh đặc biệt trình diễn (từ 17h30 đến 20h00).
 
Mời theo dõi cuộc thi thơ Xướng Họa tôn vinh mẹ Maria
Lm. Trăng Thập Tự
10:29 19/12/2009
MỜI THEO DÕI CUỘC CHƠI XƯỚNG HỌA - 7

ĐIỀU CHỈNH THỂ LỆ CUỘC CHƠI:

Xin nhắc lại rằng cuộc chơi xướng họa “VẦN THƠ DÂNG MẸ” có hai loạt giải thưởng: giải họa thơ và giải văn xuôi. Những người không có thiên khiếu làm thơ có thể dự thi bằng văn xuôi. Để quý vị và các bạn dễ tham gia, xin xác định lại thể lệ các bài văn xuôi như sau:

- Nội dung: Về Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm Nguyên Tội, về đức khiết tịnh nói chung, về cuộc vận động các bạn trẻ đoan hứa sống khiết tịnh trước hôn nhân, về tâm tình đoan hứa, về những gương sống khiết tịnh,…

- Thể loại: ký sự, tùy bút, truyện ngắn, kịch bản ngắn

- Độ dài: Không quá 4 trang A4 chữ Times New Roman cỡ 12

Nếu quý vị và các bạn muốn góp ý gì thêm cho giải văn xuôi, xin gởi về gopnhattho@yahoo.com.

ỦNG HỘ QUÀ THƯỞNG

Nhạc sĩ Sơn Ca Linh, tức cha Giuse Trương Đình Hiền, Hạt trưởng Hạt Phú Yên, giáo phận Qui Nhơn, đã tặng hai quyển sách giá trị của ngài vào 22 gói quà thưởng: Quyển “NGÔN NGỮ TIN MỪNG TRONG DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM” và quyển “ANRÊ PHÚ YÊN RỰC SÁNG MỘT VÌ SAO”. Xin chân thành cám ơn cha Sơn Ca Linh. Ước mong sẽ có thêm những vị khác gởi tặng các tác phẩm với chữ ký của mình để cuộc đua thêm hào hứng. Xin tặng mỗi tác phẩm 22 bản và gởi về Lm Lê Quang Uy, 38 Kỳ Đồng, Quận 3, TPHCM.

VÀI LƯU Ý

Vì số lượng emails nhiều và người phụ trách còn bận nhiều việc khác, xin quý vị và các bạn dự thi vui lòng lưu ý:

- Xin đừng gởi lại bài cũ để tránh bị trùng lặp trong các thông báo. Nếu sau một tuần chưa thấy giới thiệu bài mình thì xin gởi lại và ghi rõ chưa thấy thông báo. Nếu cần sửa bài xin ghi rõ số thứ tự bài muốn sửa (thứ tự trong các thông báo theo dõi).

- Vì mỗi bài được lưu thành một file riêng chứ không lưu theo tên tác giả, cuối mỗi bài mới xin ghi rõ lại tên tác giả, địa chỉ, email, điện thoại, cho dù đã ghi nhiều lần trong các bài trước.

Nếu cần tham khảo các thông tin về cuộc chơi từ đầu tới nay, xin xem tại: www.huongvedaihoidanchua.net.

NHỮNG BÀI MỚI

Tiếp theo là các bài dự thi số 81-100. Tác giả bài số 100 (Trinh Nguyên) sẽ nhận được coupon quà tặng của www.Fatimacompany.com.

Bài 81

Evà cựu ước ở Ê-đen

Tân ước Evà tựa đóa sen

Người nữ tinh tuyền Thiên Chúa thích

Đóa hoa hương sắc mọi người khen

Gìn vàng tiết hạnh lòng cao quý

Giữ ngọc trung trinh dạ chẳng hèn

Phụ nữ đoan trang ai cũng mến

Chị em gìn giữ cố đua chen

Xuân Phúc

Bài 82: GƯƠNG MẸ ĐỒNG TRINH

Đáy hồ đất cát lẫn bùn đen

Nổi bật trên hồ những đóa sen

Bông trắng nõn nà nhiều kẻ thích

Lá xanh mơn mởn lắm người khen

Loài hoa thanh khiết luôn cao quý

Người nữ trung trinh chẳng mọn hèn

Đức Mẹ gương đồng trinh vẹn sạch

Chị em bắt chước gắng đua chen

Xuân Phúc

Bài 83: ĐOAN HỨA KHIẾT TỊNH

Giữa đời cạm bẫy phủ mây đen

Quyết giữ hồn trinh thơm ngát sen

Tận hiến vào đời vì bác ái

Quên mình phục vụ lãng chê khen

Trung kiên đoan hứa đời thanh khiết

Chung thủy an vui kiếp nhỏ hèn

Lạy Mẹ ! chúa ngàn hoa bất diệt

Giúp con đừng để lãng quên chen

LÝ VIỆT THẮNG

Bài 84: QUÊN TRÔNG CẬY MẸ

Bí tích hôn nhân sẽ đủi đen

Phút giây dễ dãi tỏa hương sen:

Khổ đau, tủi nhục đời lầm lỡ

Buông thả đam mê chẳng đáng khen !

Lầm lũi, cô đơn cùng chiếc bóng

Bọt bèo thân phận nhuộm ươn hèn … !

Quên trông cậy Mẹ thường là vậy

Khúc khuỷu tình yêu, xấu quyện chen !

Jos.Nguyễn Hữu Đạt

Bài 85: CHUYỆN BUỒN !

Thuở ấy Êđen vườn chẳng đen

Bùn nâu, xương cụt hé hoa sen

Ông Bà thụ tạo sống bên Chúa

Cảm tạ ngàn thương chúc tụng khen

Giao ước đời đời xa trái cấm

Bất tuân hạnh phúc sẽ ươn hèn

Quỉ ma ghen ghét lừa mưu độc

Trinh trắng pha đen Bà lỡ chen !

Jos. Nguyễn Hữu Đạt

Bài 86: NHỜ MẸ, CÙNG MẸ,VỚI MẸ

Bùn nhuốm, sen hồng vượt nước đen

Tinh nguyên hương ngát đích là sen

Vườn xưa tràn ngập nguồn ơn phúc

Trái cấm phá tan lời chúc khen

Trần thế Mẹ thương thương cứu khổ

Noi gương con cố cố xa hèn

Giữ gìn thân xác luôn lành lặn

Đoan hứa, Mẹ ơi, trong trắng chen

Jos.Nguyễn Hữu Đạt

Bài 87: XIN MẸ GIÚP

Chuyện tình thuở ấy ở Ê-đen

Nguyên tổ Chúa ban bạn, đóa sen

Hôn lễ đầu tiên Ngài chúc phúc

Tàn phai bỗng chốc mọi ca khen

Lời thương xuống thế lòng Trinh nữ

Cứu chuộc đồng công xóa phận hèn

Đoan hứa trắng trong xin Đức Mẹ

Giữa lầy giúp tránh mọi đen chen

Jos.Nguyễn Hữu Đạt

Bài 88: BÊN MẸ NGUYỆN CẦU

Ánh sáng nguyện cầu xóa tối đen

của bùn vẫn sạch thơm như sen

kẻ về bên Mẹ, lòng phấn chấn

người đến vang trời lời ca khen

xin Mẹ giúp con đừng yếu đuối

để con định hướng tránh hư hèn

đường đời phải canh chừng cám dỗ

con quyết đăng trình, bước như chen !

Đinh Huyền Dương.

Bài 89: MỪNG GIÁNG SINH

Thế trần đón Chúa nhớ Ê Đen

Địa đàng chọn mẹ ngự toà sen

Nguồn ân thiêng Cha trao lời gọi

Suối phúc ân Mẹ đón thầm khen

Khen ai khéo giữ mình khiết tịnh

Trao gởi đời ai quá mọn hèn

Nguyện xin ơn Cha từ nơi Mẹ

Phúc vạn thiên niên nở đua chen

Maria Xuyến

Bài 90: TỘI HỒNG PHÚC

Thiên Chúa gọi ai giữa bùn đen

Bùn đen, đen quánh gót hài sen

Nhẹ nhàng ai đây ai đáp lại

Trung trinh cười nụ, mẹ thầm khen

Khen ai trinh khiết theo ơn gọi

Cho nở hoa thơm dẫu mọn hèn

Nâng hồn lên hướng tạ ơn thiêng

Nhìn vào tội phúc nở đua chen

Maria Xuyến

Bài 91: CHUNG BƯỚC

Ta sẽ cùng nhau đến Êđen

Vườn yêu mây lượn đượm màu sen

Lá khô xào xạc nai ngơ ngác

Nắng rợp đồi trinh chim hát khen

Giữ ngọc gìn vàng, tình trọng nghĩa

Ngoài bộc trong dâu, kẻ mọn hèn

Chúa gọi đôi mình nên chồng vợ

Lẽ đâu trọn kiếp để buồn chen

Đaminh Triệu

Bài 92: YÊU NHAU LÀ QUÝ TRỌNG NHAU

Chẳng lẽ hết rồi tình Êđen

Tục trần há tiếc chút hương sen

Một chút tình riêng ta cùng dặn

Trọn một cuộc đời vẹn tiếng khen

Yêu nhau không để hoen trinh tiết

Phiền giận cho nhau tiếng mọn hèn

Khiết tịnh đôi mình chỉ giữ

Chúa ban ơn phúc vạn hoa chen

Đaminh Triệu

Bài 93:

Trong đầm nước tợ một màu đen

Lá xanh bông trắng ấy đóa sen

Nổi lên ở giữa màu nước đục

Ấy hoa quân tử lắm người khen

Mặc cho đây đó vương mùi tục

Giữa chốn bùn dơ vẫn không hèn

Luôn giữ gìn trong ngoài giá ngọc

Mặc cho đời có lắm đua chen

Nguyễn Ngọc Sáng – Orlando

Bài 94: ĐỀN VÀNG

Dòng đời chảy mãi từ Ê-đen,

Đến giữa Na-za một đóa Sen.

Lặng lẽ tiến Trời lòng khiết tịnh,

âm thầm dâng Chúa dạ ca khen.

Khiết tịnh đền vàng Ngôi Cứu Chúa,

Trinh trong phần phúc phận tôi hèn.

Mùa xuân Cứu Thế khai nguyên mở,

Ân phúc cứu độ mãi đua chen.

Vũ Nguyên

Bài 95

Xem kìa trái cấm ở Ê-đen.

Đẹp mắt, quỷ lừa, đâu khác sen.

Nếm thử trường sinh, nên giống Chúa,

Nuốt rồi chết chóc, đời ai khen.

Quỷ già, vênh váo, tưởng mình thắng.

Thiên Chúa, từ nhân, cứu kiếp hèn.

Tìm đổi E-va, bà Mẹ mới.

Mẹ là hình phạt, rắn bon chen.

Trinh Nguyên

Bài 96

Ê- đen nay hết là Ê-đen.

Miền đất tối mù, chẳng hương sen.

Dục vọng, hành người, khốn khổ thế.

Tâm bình, giúp xác, sướng ca khen.

Thế nhân chết chóc, con đường cụt.

Cứu độ Ngôi Hai, vâng lối hèn.

Ai mẹ Ngôi Hai, bạn có biết?

Chỉ tôi theo học, bớt bon chen.

Trinh Nguyên

Bài 97

Huệ trắng chẳng hề nhiễm vết đen.

Xinh tươi hơn cả những bông sen.

Huệ vươn đất cằn, khen chi nữa.

Sen mọc dưới lầy, lại phải khen.

Sen dại, sen kiêu, sen ngạo mạn.

Huệ khôn, huệ thiện, huệ khiêm hèn.

Hỏi xem, hoa huệ là Ai đó?

Mông triệu, Nữ hoàng, phúc đổ chen.

Trinh Nguyên

Bài 98

Tổ tông nghe quỷ, ở Ê-đen.

Theo chúng sống đời, kiếp đợ sen.

Ở đợ kéo lê, một kiếp sống.

Tự do vui sống, đời ca khen.

Chúa thương, giải thoát, đời nô lệ.

Quỷ ghét, kìm chân, một kiếp hèn.

Quyền phép toàn năng, chọn tổ mới.

Mẹ hiền bên Chúa, phúc tràn chen.

Trinh Nguyên

Bài 99

Một nữ, trong dòng đời kiếp đen.

Sáng tươi, vượt hẳn những bông sen.

Quỷ ma, ghen phả, lời nguyền rủa.

Thiên sứ, mến hoà, bài hát khen.

Kìa Mẹ, trinh trong, thánh thiện quá.

Con đây, vẩn đục, thật nhơ hèn.

Không sao! con biết: Mẹ thương lắm.

Bầu cử Chúa thương: phúc nở chen.

Trinh Nguyên

Bài 100

Hoa hồng mầu nhiệm, phá đời đen.

Khiêm tốn thế vào, ngạo của sen.

Sen mọc vũng đen, lại hống hách.

Hồng trồng đất thánh, chẳng cần khen.

E-va kiêu ngạo, bà ương ngạnh.

Mẹ thánh khiêm nhu, Mẹ sống hèn.

Biểu tượng hoa hồng, Mẹ thánh khiết.

Nữ hoàng, Vô nhiễm, dám ai chen.

Trinh Nguyên

Lm TRĂNG THẬP TỰ
 
Câu chuyện mùa Giáng Sinh để 34 năm về trước
Phạm Tín An Ninh
10:56 19/12/2009
Những năm "cải tạo"ở miền Bắc, tôi được chuyển đi khá nhiều trại. Từ Lào Cai, xuống Hoàng Liên Sơn, rồi Nghệ Tĩnh. Khi mới đến Hoàng Liên Sơn, tôi được đưa đến trại Hang Dơi, nằm sâu trong núi. Đây là một vùng sơn lâm chướng khí, nên chỉ mới gần hai năm mà tôi đã có hơn 20 người bạn tù nằm lại vĩnh viễn ở dưới sườn đồi.

Sau đó, tôi được chuyển về trại 6/ Nghĩa Lộ. Trại này nằm gần Ban chỉ huy Tổng Trại, và cách trại 5, nơi giam giữ gần 30 tướng lãnh miền Nam, chỉ một hàng rào và mấy cái ao nuôi cá trám cỏ. Ban ngày ra ngoài lao động, tôi vẫn gặp một vài ông thầy cũ, kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện vui buồn. Ngày nhập trại, sau khi "biên chế" xong, cán bộ giáo dục trại đưa 50 thằng chúng tôi vào một cái láng lợp bằng nứa, nền đất, ngồi chờ "đồng chí cán bộ quản giáo" đến tiếp nhận.Vài phút sau, một sĩ quan mang quân hàm thượng úy đi vào láng. Điều trước tiên chúng tôi nhìn thấy là anh ta chỉ còn một cánh tay. Môt nửa cánh tay kia chỉ là tay áo bằng kaki Nam Định, buông thỏng xuống và phất phơ qua lại theo nhịp đi của anh. Không khí trở nên ngột ngạt. Không nói ra, nhưng có lẽ trong đám tù chúng tôi ai cũng có cùng một suy nghĩ: - Đây mới đích thực là nợ máu đây, biết trả như thế nào cho đủ ?.

Nhưng bất ngờ, người cán bộ quản giáo đến trước chúng tôi, miệng nở nụ cười. Nhìn khuôn mặt hiền lành, và ánh mắt thật thà, chúng tôi cũng bớt lo âu. Bằng một giọng đặt sệt Nghệ Tỉnh, anh quản giáo giới thiệu tên mình:

Nguyễn văn Thà, rồi "báo cáo" môt số nội quy, yêu cầu của Trại. Anh đưa cho anh đội trưởng một tập vở học trò, phát cho anh em mỗi người một tờ giấy để làm bản "lý lịch trích ngang". Tôi đang ngồi hý hoáy viết cái bản kê khai lý lịch ba đời với bao nhiêu thứ "tội" dưới biển trên trời mà tôi đã thuộc lòng từ lâu lắm - bởi đã phải viết đến cả trăm lần, ngay cả những lần bị đánh thức lúc nửa đêm - bỗng nghe tiếng anh quản giáo hỏi:

- Trong này có anh nào thuộc Sư Đoàn 23?

Tôi im lặng giây lát rồi lên tiếng:

- Thưa cán bộ, có tôi ạ,.

- Anh ở trung đoàn mấy

- Trung Đoàn 44

- Vậy anh có tham dự trận đánh Trung Nghĩa ở KonTum đầu mùa hè 1972?

- Vâng, có ạ.

Anh quản giáo đưa cánh tay bị mất một nửa, chỉ còn cái tay áo đong đưa, lên:

- Tôi bị mất cánh tay này trong trận đó. Nhìn qua anh em, thấy tất cả mọi con mắt đều dồn về phía tôi. Để lấy lại bình tĩnh, tôi làm ra vẻ chủ động:

- Lúc ấy cán bộ ở đơn vị nào ?

- Tôi ở trung đoàn xe tăng thuộc Sư đoàn 320.

Anh quản giáo rảo mắt nhìn quanh, rồi hạ giọng tiếp tục:

- Trận ấy đơn vị tôi thua nặng. Cả một tiểu đoàn tăng của tôi còn có 2 chiếc.. Chiếc T54 của tôi bị bắn cháy. Tôi thoát được ra ngoài, nhưng bị các anh bắt làm tù binh.

- Sau đó cán bộ được trao trả? Tôi hỏi.

- Tôi bị thương nặng lắm, do chính đạn trong xe tôi phát nổ. Tôi được các anh đưa về quân y viện Pleiku chữa trị. Nhờ vậy mà tôi còn sống và được trao trả tù binh đợt cuối cùng năm 1973, sau khi có hiệp định Ba Lê.

Dạo đó, miền Bắc, đặc biệt trên vùng Hoàng Liên Sơn, trời lạnh lắm. Mỗi láng được đào một cái hầm giữa nhà, đốt những gốc cây được anh em nhặt ngoài rừng, sau giờ lao động, mang về sưởi ấm. Tối nào, anh quản giáo cũng uống sinh hoạt với anh em. Gọi là sinh hoạt, nhưng thực ra anh chỉ tâm tình những chuyện vui buồn đời lính, thăm hỏi hoàn cảnh của anh em tù, và khuyên anh em nên cố gắng giữ gìn sức khỏe, đừng làm điều gì sai phạm để không phải nghemấy ông cán bộ nặng lời. Anh thường nói:

- Tôi rất đau lòng, khi thấy các anh phải nghe những lời thô lỗ. Tôi biết các anh đều là những người có trình độ văn hóa và ai cũng đã từng chỉ huy.

Mùa đông, không trồng trọt được, nên khẩu phần ăn của một nguòi tù chỉ có một miếng bánh mì đen bằng hai ngón tay, hoặc lưng một bát bắp hạt. Phần thiếu ăn, một phần ẩm ướt thiếu vệ sinh, nên nhiều anh em tù bị bệnh kiết lỵ. Thuốc men hoàn toàn không có, nên bệnh kéo dài lâu ngày. Nhiều người đứng không vững.

Một buổi chiều cuối đông, mưa phùn rả rích, sương mù giăng kín cả thung lũng trại tù, cả đám tù chúng tôi ngồi co ro trong láng, cố nhai từng hạt bắp cứng như viên sỏi, nhìn ra cánh đồng phía trước, thấp thoáng một người mang áo tơi (loại áo mưa kết bắng lá cây) chạy lúp xúp từ chỗ này đến chỗ khác, cho đến khi trời tối.

Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng:

- Tôi để một giỏ cá đàng sau láng. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết.

Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động. Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên; đào mấy cái bếp "Hoàng Cầm" để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luột sắn ăn cho no.

Anh đích thân ở lại đứng gác, nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh "chuẩn bị đi về", anh em tức khắc dấu hết "tang vật" xuống một cái hố đã đào sẵn.

Dường như đó là cái ngày duy nhất mà 50 người tù chúng tôi được no -dù chỉ là no sắn-

Không biết tối hôm ấy, trong giờ "giao ban", quản giáo Thà đã báo cáo với ban chỉ huy trại là đội tù của chúng tôi đã phát được bao nhiêu hecta rừng?

Mỗi lần ra bãi thấy anh em lao động nặng nhọc, anh Thà bảo nhỏ:

- Anh em làm việc vừa phải, khi nào mệt thì ta nghỉ. Nhớ giữ gìn sức khỏe, vì thời gian cải tạo còn dài lắm.

Vào một dịp Tết, cầm giấy nghỉ phép trong tay, nhưng anh không về nhà, mà ở lại với anh em. Số tiền lương vừa lãnh được, anh mua mấy bánh thuốc lào, vài ký kẹo lạc, biếu anh em ăn tết. Lần ấy, anh tâm sự thật nhiều với anh em:

- Lần bị thương năm 1972 ở Kontum, tôi nghĩ là tôi đã chết. Vết thương quá nặng, lại phải nằm trong rừng rậm một mình, không có thức ăn, nước uống. Trong lúc tuyệt vọng nhất, tôi bất ngờ được một đơn vị của Sư 23 các anh phát giác. Các anh băng bó vết thương, cho tôi ăn uống, tận tình săn sóc tôi như một người đồng ngũ. Các anh luân phiên khiêng tôi ra khỏi khu rừng rậm, gọi máy bay tản thương đến đưa tôi về bệnh viện. Trời tối, máy bay chưa xuống được, đảo mấy vòng, thì vị trí bị lộ. Các anh bị pháo kích, may mà không có ai bị thương. Các anh lại phải vội vàng di chuyển đi nơi khác. Cả khu rừng chỉ có một khe đá là nơi trú ẩn an toàn, các anh lại dành cho tôi, rồi phân tán mỏng.. Tôi được hai anh y tá săn sóc suốt cả đêm.

Người chỉ huy hôm ấy là một anh rất trẻ, mang quân hàm trung úy, mấy lần ôn tồn hỏi thăm tôi và khuyên tôi cố gắng để được đưa về quân y viện chữa trị. Anh còn cho tôi nửa bao thuốc lá còn lại của anh, bảo tôi hút thuốc để quên bớt cơn đau của vết thương. Sáng sớm hôm sau, tôi được máy bay tản thương đưa tôi về quân y viện Pleiku. Ở đây, mặc dù tôi phải nằm riêng, nhưng được bác sĩ các anh chăm sóc tận tình. Tất cả đã đối xử với tôi như người đồng đội. Có lần, một phái đoàn đến ủy lạo thương binh các anh, họ cũng đến thăm, cho tôi quà, và an ủi tôi thật chân tình.

Vết thương vừa lành, thì tôi được lệnh trao trả tù binh. Khi chia tay, bệnh viện còn cho tôi nhiều thuốc men và một số đồ dùng. Lòng tôi tràn ngập cảm xúc. Tôi nghẹn ngào trước tình con người, tình dân tộc mà các anh đã dành cho tôi. Tình cảm ấy tôi chôn chặt tận đáy lòng, không dám tâm sự cùng ai, vì lòng tôi lúc nào cũng nghĩ đến vợ con tôi, và nhất là người mẹ già gần tuổi 80 đang ngày đêm mong chờ tôi trở về.

Anh cố gắng giữ bình tĩnh, nhưng rõ ràng là giọng nói của anh sắp nghẹn ngào.

- Khi về lại ngoài Bắc, người ta có còn tin cậy anh không? - một anh tù hỏi.

- Ngay sau khi được trao trả, tôi phải vất hết thuốc men và những thứ các anh cho. Tôi cố dấu mấy viên thuốc trụ sinh phòng nhiễm trùng, nhưng họ khám xét kỹ quá, tôi phải tìm cách vất đi. Trước khi đưa về Bắc, chúng tôi được học tập hơn một tháng, làm kiểm điểm và lên án sự đối xử tàn ác của các anh. Tôi thấy xấu hổ lắm khi nói điều ngược lại, nhưng rồi ai cũng thế, không thể làm khác hơn. Chính vì vậy mà lòng tôi cứ dằng vặt mãi cho đến hôm nay.

Thời gian vàng son của năm mươi người tù đội 4 trại 6/ NghĩaLộ, Hoàng Liên Sơn, kéo dài không quá sáu tháng.

Một buổi sang sớm, khi sương mù còn vương trên thung lũng trại tù, một người đạp chiếc xe đạp vội vã rời ban chỉ huy trại. Sau xe đèo theo một cái rương bằng gỗ và một túi đeo lưng bộ đội. Một vài anh em nhận ra anh Thà và báo cho anh em. Cả một đội năm mươi người tù vừa mới thức dậy, còn ngái ngủ, chạy ùa ra sân, vẫy tay gọi. Anh Thà không nhìn lại, đưa cánh tay chỉ còn một nửa lên vẫy vẫy, rồi biến dạng trước cổng trại.

Chiếc thuyền nhỏ mang theo trên 30 người vượt biển, trong đó có tôi và ba người bạn cùng tù ở Nghĩa Lộ ngày trước, ra đến hải phận quốc tế hai ngày thì gặp bão. Chúng tôi may mắn được một chiếc tàu chuyên chở dầu hỏa của vương quốc Na-uy, trên đường từ Nhật sang Singapore, cứu vớt. Hai ngày đêm trên tàu là cả một thiên đường. Từ vị thuyền trưởng đến anh thủy thủ, chị bác sĩ, y tá, đều hết lòng săn sóc lo lắng cho chúng tôi. Hôm rời tàu để được chuyển đến trại tị nạn Singapore, chúng tôi quá xúc động không ai cầm được nước mắt. Tất cả thủy thủ đoàn đều ra đứng thành hai hàng dài trên boong tàu, ai nấy đều khóc sướt mướt ôm lấy từng người chúng tôi mà chia tay. Rồi những ngày sống trong trại, chúng tôi được thầy cô giáo và ông đại sứ Na-uy, thường xuyên có mặt lo lắng cho chúng tôi đủ điều. Chúng tôi vừa xúc động vừa đau đớn. Nỗi đau của một người vừa mới bị anh em một nhà hành hạ, đuổi xô đến bước đường cùng, phải bỏ nhà bỏ xứ để thoát thân trong cái chết, bây giờ lại được những kẻ xa lạ không cùng ngôn ngữ, màu da, màu tóc, lại hết lòng đùm bọc yêu thương. Mang cái ân tình đó, chúng tôi chọn Nauy là nơi tạm gởi phần đời còn lại của mình.

Bốn anh em, những người cùng tù Nghĩa Lộ năm nào, được sắp xếp ở gần nhau. Mỗi ngày gặp nhau đều nhắc lại những năm tháng khốn khổ trong tù. Đặc biệt khi nhắc tới quản giáo Thà, ai trong chúng tôi cũng ngậm ngùi, nghĩ đến một người không cùng chiến tuyến mà còn có được tấm lòng. Sau lần bị "hạ tầng công tác" ở trại tù Nghĩa Lộ, không biết anh đi về đâu, nhưng chắc chắn là bây giờ cũng vất vả lắm.

Sau hai năm theo học, tôi được nhận vào làm trong ngân hàng bưu điện trung ương. Tại đây, tôi quen với Kenneth Hansen, một bạn đồng nghiệp còn trẻ tuổi, lại ở gần nhà, nên sau này trở nên thân tình. Anh ta là sinh viên đang theo học về kinh tế, chỉ làm việc thêm ngoài giờ hoc. Làm chung gần một năm, thì anh bạn Nauy này lại được nhận vào một công ty lớn và sang làm việc ở chi nhánh bên Ấn Độ.

Bẵng đi vài năm, bất ngờ một hôm anh gọi điện thoại báo là sẽ đến thăm tôi và đem đến cho tôi một bất ngờ. Và đúng là bất ngờ thật, vì cùng đến với anh là một người con gái Việt nam. Anh giới thiệu với vợ chồng tôi, đó là vị hôn thê của anh.

Cô gái tên Đoan, nói giọng Hà Nội chính tông. Gặp chúng tôi ở một nơi xa lạ, cô vui mừng lắm, nhưng khi nhìn thấy tấm ảnh của tôi treo trên tường, mang quân phục và cấp bậc của quân đội VNCH, cô có vẻ ái ngại. Biết vậy, chúng tôi cũng niềm nỡ, đùa cợt cho cô được tự nhiên. Cô cho biết cô là bạn thân với nữ ca sĩ Ái Vân từ lúc hai người còn đi học ở Hà Nội. Sau sáu năm du học ở Đông Đức, rồi Liên Xô, cô được sang thực tập tại Ấn Độ. Chính tại đây cô có dịp gặp và quen với chàng trai Nauy này. Khi ấy cô đã có chồng và một đứa con trai. Người chồng trước cùng du học ở Liên Xô, sau này trở thành một cán bộ cao cấp trong ngành dầu khí tại Hà Nội. Sau thời gian thực tập ở Ấn Độ trở về, cô được bạn bè và người thân cho biết là anh chồng đã cặp một cô gái khác chỉ một vài tuần sau ngày cô đi.

Cô đem việc này nói phải trái với chồng, lại bị anh ta hành hung và nói những lời thô lỗ. Cô vừa buồn vừa giận, bỏ chồng, xin sang học tiếp chương trình Tiến sĩ tại một đại học ở Đông Đức.

Sau ngày bức tường Bá Linh ô nhục bị nhân dân Đức phá sập, nước CHND Đức (Đông Đức) bỗng chốc không còn nữa. Cô không về nước mà tìm cách trốn sang Tây Đức. Qua một thời gian hết sức khó khăn, cô may mắn liên lạc được với anh Kenneth Hansen, để được bảo lãnh sang Nauy. Biết cô thuộc gia đình một đảng viên cộng sản cao cấp, bởi cô được du học ở nhiều nước thuộc khối cộng sản trước đây, nhưng tôi không hỏi vì sợ cô ngại. Sau này chính Kenneth Hansen, cho biết, bố của cô trước kia là đại sứ Việt Nam tại Liên Xô cũ. Sau ngày Liên Xô sụp đổ, kéo theo sự tan vỡ của toàn khối cộng sản Đông Âu, ông xót xa nhìn ra được một điều gì đó. Trở về Việt Nam, ông không còn được nhà nước Cộng sản trọng dụng, trở thành kẻ bất mãn, cả ngày nằm nhà không tiếp xúc một ai.

Sau một thời gian, được cấp quốc tịch Nauy, cô Đoan trở về Việt Nam thăm gia đình, đặc biệt là người cha già đang ốm nặng. Nhân tiện xin mang đứa con trai sang Nauy với cô.

Việc cô Đoan trở về Hà Nội, làm tôi nghĩ dến anh quản giáo Nguyễn văn Thà thưở trước. Tôi cùng với mấy người bạn tù cũ, góp một số tiền khoảng 800 đôla, nhờ cô Đoan về Nghệ Tĩnh tìm và trao lại cho anh, như để tỏ chút lòng biết ơn một người bao nhiêu năm sống trong đám bùn lầy nước đọng mà vẫn còn giữ sạch được tấm lòng. Việc tìm anh không phải dễ dàng, vì chúng tôi không biết nhiều về anh. Trong mảnh giấy nhắn tin, chỉ vỏn vẹn vài chữ: "ông Nguyễn văn Thà, gốc Nghệ Tĩnh, khoảng năm 1979 là thượng úy, làm quản giáo trại tù cải tạo số 6/ Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn". Cô Đoan vui vẻ nhận lời và hứa sẽ tìm đủ mọi cách để gặp hoặc liên lạc anh Thà. Cô cũng cho biết là cô có ông chú họ hiện làm việc tại bộ quốc phòng. Cô sẽ nhờ ông ta tìm hộ.

Một tháng sau, cô Đoan trở lại Nauy, báo cho chúng tôi biết là ông chú của cô không tìm thấy tên Nguyễn văn Thà trong danh sách sĩ quan. Ông đoán là anh ta đã bị phục viên từ lâu lắm rồi. Cô đã đích thân vào Nghệ Tĩnh, hỏi thăm mọi cơ quan, nhưng không ai biết. Cuối cùng cô phải thuê mấy tờ báo địa phương đăng lời nhắn tin, trong đó có ghi số điện thoại của tôi. Cô còn cho biết là nhân tiện có mặt ở Nghệ Tĩnh thì cô nhờ họ thôi, chứ không có nhiều hy vọng gì, vì chỉ một ít người ở thành phố có báo đọc.

Thời gian trôi qua, bận bịu bao nhiêu việc làm ăn, lo cho con cái, để kịp hội nhập vào đời sống trên quê hương mới, chúng tôi không còn ai nhắc đến chuyện anh Thà.

Bỗng một hôm, khi đang say ngủ, nghe tiếng điện thoại reo, tôi giật mình tỉnh giấc. Xem đồng hồ, hơn hai giờ sáng. Mùa đông Bắc Âu, nhiệt độ bên ngoài cửa sổ chỉ - 20 độ C. Tôi ái ngại. Giờ này mà ai gọi điện thoại thì phải có điều gì khẩn cấp ắm.. Tôi bốc ống nghe, Đầu giây bên kia là giọng một cô gái, nói tiếng Việt rất khó nghe. Cô hối hả, nhưng rất lễ phép, xin được gặp tôi. Cô cẩn thận nhắc lại tên tôi hai lần, với đầy đủ họ và tên.

- Xin lỗi, cô là ai và đang ở đâu ạ ? tôi hỏi.

- Dạ, cháu là Hà, Nguyễn Thị Hà, cháu đang ở Ba Lan ạ..

Tôi im lặng. Thoáng lục lọi trong trí nhưng tôi không nhớ là mình đã quen ai tên Hà. Bên kia đầu giây, cô gái lên tiếng:

- Bác có còn nhớ ông Thà, làm quản giáo ở Nghĩa Lộ không ạ?

- Ông Thà, Nguyễn văn Thà, Bác nhớ, nhưng cô là gì của ông Thà, và sao lại ở Ba-Lan ?

- Dạ, ông Thà là bố cháu. Cháu ở Ba-Lan với một đứa em trai. Bọn cháu khổ lắm Bác ạ. Tiếng cô gái sụt sùi.

- Cháu cho bác số phôn, bác gọi lại ngay, để cháu khỏi tốn tiền.

Tôi gọi lại, và nghe tâm sự não nề của cô gái. Cô và em trai, tên Tĩnh, được bố mẹ lo lắng, chạy vạy, bán hết đồ đạc trong nhà, kể cả chiếc xe đạp Trung quốc mà cha cô nâng niu như là một thứ gia bảo, vay mượn thêm, lo cho hai chị em cô sang lao động ở Ba-Lan. Sau khi chính quyền cộng sản Ba-Lan bị cuốn theo làn sóng dân chủ ở Đông Âu, chị em cô cùng hầu hết những người được chính quyền Việt Nam gởi sang lao động, đã không về nước, trốn ở lại. Vì sống bất hợp pháp, nên không tìm được việc làm chính thức. Hầu hết làm chui, buôn bán thuốc lá lậu. Một số trở thành ăn cắp, băng đảng, quay lại cướp bóc hoặc tống tiền chính những nguòi đồng hương, đồng cảnh. Số người Việt này trở thành mối bận tâm không nhỏ cho những chính quyền mới ở các nước Đông Âu.

Hai chị em cô Hà thuê một căn gác nhỏ trong thành phố Warszawa, nhận thuốc lá của một người khác, mang đi bán. Nhưng mỗi lần dành dụm được một ít, chưa kịp gởi về giúp gia đình thì bị cướp sạch. Một hôm, cậu em trai nhận thuốc lá mang đi bán, bị cảnh sát bắt và phát hiện là số thuốc lá kia vừa bị mất cắp tại một cửa hàng Ba-Lan. Vì vậy cậu em trai bị nhốt vào tù, còn cô Hà thì đang bị truy nã. Việc xảy ra một ngày trước khi cô Hà gọi điện thoại cho tôi.

- Bây giờ cháu đang ở đâu ? Tôi hỏi.

- Cháu đang trốn ở nhà một nguòi bạn, nhưng cô ta không dám chứa cháu lâu. Cháu không biết phải làm sao, thì bất ngờ nhớ đến lá thư của ba cháu gởi cho cháu cách nay vài tháng. Ba cháu bảo cháu trong trường hợp rất cần thiết mới gọi cho bác.

- Ba cháu bây giờ làm gì?

- Ông bị ốm nặng. Cách nay hai năm bị tai biến mạch máu não, liệt nửa người, nên chỉ nằm một chỗ. Vì vậy nên chị em cháu trốn ở lại đây để kiếm tiền gởi về cho bố cháu điều trị và sống qua ngày bác ạ.

Tôi ghi số điện thoại, địa chỉ người bạn của Hà, tên nhà tù mà Tĩnh, em trai của Hà đang bị giam giữ, trấn an và hẹn sẽ gặp cô trong một ngày rất gần ở Ba-Lan.

Tôi nhớ tới một người bạn Ba-lan, anh Zbigniew Piwko. Chúng tôi quen khá thân lúc cả hai vừa mới đến Nauy. Anh ta lớn hơn tôi ba tuổi. Trước kia là một đại tá không quân, chỉ huy môt không đoàn chiến đấu thuộc quân đội cộng sản Ba-Lan. Về sau. anh ta ngầm ủng hộ Công Đoàn Đoàn Kết do ông Walesalãnh đạo. Hành tung bại lộ, trong khi bị truy bắt, anh đã lấy một chiếc trực thăng, chở gia đình, gồm người vợ và hai đứa con, bay sang Tây Đức. Theo sự thỉnh cầu của anh, gia đình anh được chính phủ Na-uy đặc biệt nhận cho tị nạn chính trị.

Anh và tôi học tiếng Na-uy cùng một lớp, và sau đó có một thời gian chúng tôi cùng làm thông dịch cho Sở Cảnh Sát. Nhưng chỉ hơn một năm sau, thì tình hình chính trị ở Ba-Lan thay đổi bất ngờ. Công Đoàn Đoàn Kết của ông Walesa lãnh đạo đã thắng lợi vẻ vang. Ông được bầu làm Tổng Thống đầu tiên của nước Ba-Lan dân chủ. Anh Piwko, người bạn tị nạn của tôi, được mời về nước để giữ môt chức vụ khá lớn trong ngành cảnh sát. Vào những dịp Giáng sinh, nhớ đến tôi, anh gởi thiệp mừng giáng sinh và năm mới. Anh kể đủ thứ chuyện về xứ sở của anh, về niềm vui và hy vọng của người dân Ba-Lan bây giờ. Sau tấm thiệp không đủ chỗ nên lúc nào anh cũng viết kèm theo vài trang giấy. Anh mời vợ chồng tôi có dịp thu xếp sang chơi với gia đình anh vài hôm và xem đất nước Ba-Lan của anh đang hồi sinh trong dân chủ.

Sáng hôm sau, tôi tìm lại số phôn và gọi cho anh. Anh rất vui mừng khi nghe tôi báo tin sang thăm. Vì đi vội, nên tôi chỉ đi một mình. Vợ chồng anh đón tôi ở phi trường, nơi dành cho VIP (thượng khách). Anh chị còn cho biết là rất thú vị khi có dịp được dùng lại ngôn ngữ Nauy để nói chuyện với tôi. Tôi thực sự xúc động trước sự tiếp đón nồng hậu mà gia đình anh đã dành cho tôi. Tôi ngại ngùng không dám nói với anh những điều muốn nhờ anh giúp. Nhưng rồi cuối cùng, tôi cũng phải tâm tình cùng anh về chuyện anh quản giáo Thà trong trại tù Nghĩa Lộ năm nào, và hoàn cảnh khốn cùng của hai đứa con hiện đang ở tại đây, ngay trên đất nước Ba-Lan của anh. Nghe tôi kể, anh ngậm ngùi giây lát rồi đứng lên ôm vai tôi, hứa sẽ hết lòng giúp tôi về việc này.

Anh đưa tôi đến gặp hai chị em cháu Hà. Đưa Hà về nhà ở với gia đình anh. Hai hôm sau anh làm thủ tục bảo lãnh Tĩnh, em của Hà từ trại tù về.

Trước khi về lại Nauy, tôi đã thức trọn một đêm để tâm tình khuyên lơn hai chị em Hà, biếu cho hai cháu một số tiền để tạm sinh sống và chuyển về Việt nam biếu anh Thà, bố hai cháu. Trên đường đưa tôi ra phi trường, vợ chồng Piwko bảo tôi yên tâm, anh chị xem hai chị em Hà như là cháu trong nhà và sẽ tận tình lo lắng cho hai cháu.

Hơn một tháng sau, Piwko gọi phôn báo cho tôi tin mừng: hai chị em Hà đã được Piwko bảo trợ, được cấp giấy tờ chính thức cư trú tại Ba-lan. Hai cháu đang được học ngôn ngữ Ba-lan. Hà, vì lớn tuổi, nên sẽ xin việc làm. Tĩnh, em Hà, sẽ được tiếp tục theo học tại một trường trung học.

**** *

"Các Anh thân quí,

Khi ngồi viết những dòng này cho các anh, thực tình tôi không còn nhớ mặt các anh, nhưng tôi còn nhớ rất rõ thời gian tôi làm quản giáo ở trại Nghĩa Lộ. Vậy mà không ngờ hôm nay các anh còn nhớ đến tôi. Đọc thư của cháu Hà từ Ba-Lan gởi về, cùng với số tiền của các anh gởi cho, lòng tôi cảm xúc đến nghẹn ngào. Tôi và gia đình xin muôn vàng cảm tạ. Các anh làm tôi nhớ tới một câu nói của Các-Mác: "Chỉ có loài súc vật mới quay lưng trước cảnh khốn khổ của đồng loại". Ngày nay, cả thế giới đều lên án Mác, những nước một thời lấy chủ nghĩa Mác làm ánh đuốc soi đường, bây giờ cũng đã từ bỏ Mác, chỉ còn một vài nơi lấy Mác làm bức bình phong để che đậy những mục nát ở phía bên trong, nhưng câu nói trên kia của Mác, với tôi, vẫn mãi mãi là một lời vàng ngọc. Điều tệ hại là những kẻ một thời theo Mác đã luôn luôn làm ngược lại lời nói này của Mác.

Chúng tôi mừng cho các anh đã đưa được gia đình ra khỏi nước. Mặc dù tôibiết một người phải bỏ quê hương mà đi, còn đau đớn nào hơn. Ngay cả con cái chúng tôi, vất vả biết chừng nào, mà tôi cũng đành khuyên các cháu phải ra đi để may ra còn tìm được một chút tương lai, giá trị nào đó của kiếp con người.

Phần tôi, sau khi bị kiểm điểm nặng nề ở trại Nghĩa Lộ, tôi bị điều ra mặt trận phương Bắc, trong thời kỳ giặc bành trướng Trung Quốc tràn qua biên giới. Nhờ thương tật, tôi được bố trí một công tác lặt vặt ở hậu cần. Mặt trận kết thúc, tôi bị phục viên về nhà, tiền phụ cấp không

đủ nuôi chính bản thân. Tôi chỉ còn một cánh tay mà phải phát rẫy trồng rau để phụ giúp gia đình.

Hơn ba năm nay, tôi bị ốm nặng, nằm liệt giường. Nhờ chị em cháu Hà gởi tiền về nuôi tôi và cả gia đình, tôi mới còn sống được đến hôm nay. Biết trốn lại BaLan, không có giấy tờ, hai cháu sẽ khó khăn ghê lắm, nhưng vẫn còn hơn là về lại bên này. Có làm suốt ngày cũng chẳng đủ ăn. May mà nhờ các anh hết lòng giúp hai cháu. Cái ơn này biết khi nào chúng tôi mới trả được cho các anh đây.

Tôi biết mình không còn sống bao lâu. Cuối đời một con người, tôi nghiệm rõ được một điều: Chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quí giá và tồn tại mãi với thời gian. Những chế độ này, chủ nghĩa nọ, cuối cùng cũng chỉ là những đám mây đen bay trên đầu. Đôi khi che ta được chút nắng, nhưng nhiều lúc đã trút bao cơn mưa lũ xuống để làm khốn khổ cả nhân gian..."

* * *

Không ngờ lá thư đầu tiên này cũng là lá thư cuối cùng chúng tôi nhận được từ anh Thà. Anh đã qua đời sau đó không lâu. Nghe cháu Hà kể lại. Khi hấp hối, anh bảo vợ anh mang mấy cái huy chương, anh được cấptrong thời chiến tranh, đào lỗ chôn xuống phía sau nhà. Anh thầm thì: xin hãy chôn chặt hộ tôi cái quá khứ đau thương và lầm lỡ đó lại. Chính nó đã gây biết bao chia lìa, tang tóc, và sự thù hận giữa những người anh em cùng một mẹ, không biết sẽ kéo dài cho đến bao giờ?

(Vương Quốc Na-Uy ngày 19.12.2009 -- Câu chuyện trên đây là hoàn toàn có thật)/i>
 
Đêm nhạc Thông Vi Vu ''Rộn Ràng Noel'' Giáo xứ Kim Ngọc
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
21:51 19/12/2009
PHAN THIẾT - Noel là một Tin mừng trọng đại, Ngôi Hai Thiên Chúa Giáng Sinh làm người.
Noel là một tin vui vĩ đại, con người được chia sẽ sự sống với Thiên Chúa.
Từ đó, Noel trở thành niềm vui hạnh phúc cho đời người và người đời.
Trong niềm vui rộn ràng ấy, xin hòa lên tiếng nhạc như điệp khúc tôn vinh, xin góp về câu hát như lời chúc an bình.

Hình ảnh Đêm nhạc tại giáo xứ Kim Ngọc

Đó là chủ đề của Đêm Thánh Ca “Rộn Ràng Noel” được tổ chức vào tối 19-12-2009, tại khuôn viên Nhà Thờ Kim Ngọc, Giáo phận Phan Thiết.

Đêm nhạc với 21 ca khúc Noel do Đạo diễn Thanh Sâm dàn dựng, các ca sĩ tên tuổi hiện nay trình bày như Ca sĩ Minh Tú, Minh Thư, Thanh Sử, Hồ Bích Ngọc, Minh Thuận, Mai Thảo, Gia Ân, Xuân Trường, Diệu Hiền, Hồng Ân, Đông Nghi.

Thưởng thức đêm nhạc “Rộn ràng Noel” có khoảng 5000 người, các linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân và đông đảo bà con lương dân đến tham dự, ngồi đứng chật kín sân Nhà Thờ rộng thoáng, thêm mấy màn hình lớn để bên ngoài cho khán giả.

Hai MC Minh Quân và Quỳnh Trâm dẫn chương trình duyên dáng. Đêm nhạc với 21 ca khúc Noel được chia thành 3 phần.

Phần I: HUYỀN THỌAI GÍANG SINH.
1.Song ca – múa: NGÀI ĐÃ SINH RA CS.Minh Tú và CS Minh Thư cùng nhóm múa thiếu nhi GX. Kim Ngọc- Tân Tạo.
2. Đơn ca: MỤC ĐỒNG HỠI. CS Xuân Trường và nhóm múa GX Kim Ngọc
3. Đơn ca: NGƯỜI KHÁCH LẠ. CS.Đông Nghi và nhóm múa Dòng MTG Phan Thiết.
4. Tam ca nam: THEO CHÂN 3 VUA.CS.Xuân Trường,Thanh Sử, Gia Ân và thiếu nhi GX Kim Ngọc

Phần II: MẦU NHIỆM TÌNH YÊU
5. Đơn ca nam: RỘN RÀNG NOEL. CS Hồng Ân, nhóm múa thiếu nhi Tân Tạo.
6. Đơn ca nữ: DẤU CHỈ GIÁNG SINH. CS.Diệu Hiền và nhóm múa Freedom.
7.Đơn ca nam: HẠT MƯA CỨU RỖI. CSThanh Sử và nhóm múa Dòng MTG Phan thiết.
8. Đơn ca nữ: NOEL ĐÃ VỀ.CS Mai Thảo và nhóm múa Freedom
9. Tứ Ca nữ - múa mh: CÁNH THIỆP NOEL. CS Minh Tú, Minh Thư, Đông Nghi,Mai Thảo, Bích Ngọc và nhóm múa Dòng MTG Phan thiết.
10. Đơn ca nam: KHÚC CA NOEL - CS.Gia Ân
11. Đơn ca nữ: NOEL TRONG SUỐT. CS.Cam Thơ
12. Song ca nam nữ: ĐÊM NAY. CS Thanh Sử - Diệu Hiền
13. Đơn ca nữ: NOEL ÁNH SÁNG. CS Hồ Bích Ngọc và nhóm múa Freedom
14. Đơn ca nam: NOEL ĐÃ VỀ RỒI. CS Hồng Ân.
15. Song ca nam nữ - KINH GIA ĐÌNH. CS Gia Ân, Mai Thảo và các thiếu nhi.
16. Tốp ca thiếu nhi:TÍT TRÊN CAO. Đức Cha Giuse và các em Thiếu nhi Thiên Thần Kim ngọc- Tân Tạo.

Phần III: CHÚC MỪNG GIÁNG SINH - MERRY CHRISTMAS
17. Đồng ca: HÁT MỪNG GIÁNG SINH. Đức Cha và tất cả các Ca sĩ.
18. Đơn ca nam: BÀI THÁNH CA BUỒN. CS.Minh Thuận
19. Đơn ca nam: Hai Mùa Noel. CS Minh Thuận
20.Tốp ca: LIÊN KHÚC GÍÁNG SINH. CS Minh Thuận, Cam Thơ,Hồng Ân,Minh Tú – Minh Thư, Hồng Ân, Bích Ngọc, Gia Ân, Xuân Trường, Diệu Hiền.
21. Đồng ca: KHÚC CA YÊU ĐỜI. Đức Cha và tòan bộ Ca sĩ, diễn viên.

Đêm nhạc kết thúc với lời tri ân của linh mục quản xứ và phép lành của Đức cha. Nến sáng lung linh trước hang đá Chúa Hài Đồng, mọi người hòa vang bài ca: hát khen mừng Chúa Giáng Sinh ra đời. Khán giả, chưa ai muốn ra về, nhiều người vẫn còn lưu luyến chưa muốn chia tay. Tâm hồn mỗi người đang tràn đầy niềm vui Giáng Sinh. Tạ ơn Chúa đã chúc lành đêm nay với khí trời mát dịu, số lượng người tham dự đông đảo, trang nghiêm trật tự, nhất là với những nội dung Noel phong phú qua 21 tiết mục ca múa đặc sắc.

Rời sân khấu, các em thiếu nhi ùa đến quanh Đức Cha Giuse. Các thiên thần nhỏ cầm tay kéo áo, rất tự nhiên hỏi dễ thương: ông ngoại có vui không? Ông ngoại có khỏe không? Mừng Noel ông ngoại nhé… Đức cha cảm động xoa đầu các thiên thần.

Nhạc sĩ Thông Vi Vu chính là Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, Giám mục Giáo phận Phan thiết, Chủ tịch Ủy ban Văn hóa trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Ba nét độc đáo của đêm nhạc “Rộn ràng Noel” hôm nay là hát nhạc của một tác giả- tác giả là một giám mục- vị giám mục nhạc sĩ viết một đề tài Giáng sinh. HĐGMVN có hai nhạc sĩ. Nếu Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa viết nhạc cho mọi người hát trong nhà thờ, thì Đức cha Giuse viết nhạc để hát ngoài thánh đường, những khúc ca “Hạt giống tâm tâm hồn”đã đi vào lòng người nhẹ nhàng ngọt ngào.

Viết nhạc cho vui đời và làm cho đời vui, nên Đức cha Giuse luôn thể hiện phong thái lạc quan, chan hòa, thân tình với mọi người.

“Đức cha Giuse Vũ Duy Thống, con người cũng những suy tư thần học tinh tế mà sâu sắc, uyên bác mà trữ tình, đạo lý mà đẫm hiện thực nhân sinh, đã gặp con người của nhịp điệu và thanh âm, nhạc sĩ Thông Vi Vu. Thế rồi cả hai đều hòa trong âm nhạc. Cả hai, một vị giám mục và một nghệ sĩ, cùng cất lên thứ tiếng nói kỳ diệu của cõi người ta – âm nhạc. Âm nhạc, vì thế, đã trở thành phương cách thể hiện tinh tế và sâu sắc những suy tư và rung động trữ tình, cuộc sống hiện thực và lý tưởng phục vụ của giám mục – nhạc sĩ Vũ Duy Thống – Thông Vi Vu”.

Kể chuyện Thánh Kinh bằng ngôn ngữ âm nhạc là một cung cách chuyển tải tin mừng vào cuộc đời. Gần gũi dễ hiểu, ai cũng có thể nghe và hát ngâm nga bất cứ ở đâu và lúc nào. Ns Thông Vi Vu đã viết hơn 30 ca khúc kể chuyện Giáng Sinh. Những đêm nhạc Thông Vi Vu như “Réo Rắt Noel” - “Rộn Ràng Noel”- “Rộn Rã Noel” đã được tổ chức đó đây vào Mùa Noel từ những năm qua. 2 CD “Réo Rắt Noel” và “Rộn Ràng Noel” đã được quần chúng đón nhận với tất cả lòng mến yêu ngưỡng mộ.

Đức cha Giuse đã viết những ca khúc Giáng sinh như muốn chia sẻ với chúng ta: hãy sống và thể hiện sứ mạng của người Kitô hữu đem niềm vui và an bình đến cho mọi người.

Nghe nhạc đời của Đức cha, lại thấy rất nhiều chất đạo. Đạo đã thấm vào đời nên nghe nhạc thấy lòng ấm lên niềm vui bình an.

Như vậy, dù còn mấy ngày nữa mới đến Lễ Giáng sinh, nhưng trong lòng mỗi người đã thấy Noel rộn ràng đang đến.

Cầu chúc mọi người một mùa Noel hạnh phúc vui tươi và một năm mới an khang trong tình yêu Thiên Chúa nhân lành.
 
Tổng Gp.Saigon- Lễ Hội Giáng Sinh Dành Cho Người Khuyết Tật
Sr. Minh Nguyên
22:09 19/12/2009
Qua một đêm nghỉ ngơi, sau khi đón tiếp hơn 15 ngàn người đến dự đêm nhạc Giáng Sinh tối hôm trước, sáng nay Trung tâm mục vụ của tổng Gp. Saigon lại đón tiếp 86 mái ấm, nhà khuyết tật, nhà tình thương và các trung tâm phát huy trẻ đường phố gồm 4700 thành viên về tham dự lễ hội Giáng Sinh dành cho người có hoàn cảnh đặc biệt.

9g sáng khai mạc các gian hàng bán đồ lưu niệm và đồ ăn do các em ở các trung tâm đứng ra làm và bán. Tuy nhiên 3giờ chiều mới là lúc sân trung tâm công giáo nhộn nhịp và vui nhất vì đó là thời gian các gian hàng hội chợ dành cho các em mới thực sự mở cửa. Các em hào hứng, sôi nổi qua các trò ném lon sữa, thổi bong bong, ném vòng và nhiều trò chơi dân gian khác, trò nào cũng hào hứng và lấy được quà dễ như “ trở bàn tay”. Vì thế mà em nào tay cũng khệ nệ ôm những “ chiến lợi phẩm thu về từng núi”. Niềm vui và nụ cười hòa lẫn trong nắng và trong gió với niềm vui của người được phục vụ của người tổ chức và của những người tham dự khi thấy các em có hoàn cảnh đặc biệt, có cuộc sống khó khăn lại được nhiêu người quan tâm và được tận hưởng một mùa Giáng Sinh trong ân tình, trong hạnh phúc với nụ cười tỏa sáng giữa một Saigon bận rộn, xô bồ ngoài kia.

Chơi một lúc đã thấm mệt, ôm quà gửi cho các anh chị hoặc các Soeurs trong mái ấm của mình, các em đến “ bồi dưỡng” tại các gian hàng ẩm thực. Nói không nghe thì ra dấu, mắt không nhìn thấy thì đã có người đặt tay trên vai dẫn đi. Nơi nào các em cũng nhận được sự giúp đỡ thân thiện và nhiệt tình từ các anh chị cộng tác viên cho đến những khách mời tham dự. Hàng quán bán ở đây là đúng giá, nên chẳng cần mặc cả hay kèo nài nên thật dễ dàng cho các “ thượng đề nhí”. Ban tổ chức cho biết năm nay gồm có 24 gian hàng đồ lưu niệm và 26 gian hàng ẩm thực. Khách hàng ngoài 4700 các em từ các mái ấm còn có thêm khoảng 8 ngàn khách mời và 300 cộng tác viên. Các em được phát 25 ngàn tiền mặt, 25 ngàn tiền có mệnh giá trên phiếu và thêm 10 ngàn đồng cũng bằng thẻ để chơi những trò chơi hội chợ. Ngoài ra, các cộng tác viên và các em còn được một phần ăn tối nữa... anh Phạm Khắc Thiện trưởng ban tổ chức cho biết thêm tất cả các chi phí về ánh sáng, thuê rạp, màn chiếu, video và nhất là chi phí tiền thuê xe cho các mái ấm đến được trung tâm lên đến con số khoảng 400 triệu đồng.

Không chỉ được vui chơi, các em còn được thưởng thức một chương trình văn nghệ đặc sắc từ một số các mái ấm khác và các ca sĩ có lòng ưu ái các em như Hiền Thục, linh mục Nguyễn Sang, Diễm Phương vv...

Hội dòng chúng tôi có hai trung tâm phát huy là Bình Thọ và Bình Triệu, mái ấm Nam Hưng, Hố Nai và một số ở các tỉnh xa.... Năm nay trung tâm phát huy Bình Thọ mở gian hàng ẩm thực. Các em bán rau câu dừa và gỏi cuốn, nhưng khi rút thăm chỗ bán hàng lại rơi trúng vào ngõ kẹt, khách thì đông, lối đi thì chật nên chen chân để vô mua cho các em cũng là một “ cực hình”. Các Soeurs ở trong Dòng thấy vậy nên chia rau câu ra thành những rổ nhỏ mang đi “ tiếp thị” và rao bán như ở ngoài bến xe. Tôi cũng được giao cho một rổ. Chưa bao giờ đi bán hàng kiểu này, nhưng nghĩ đến các em, gương mặt tôi tươi rói như các tiếp viên hàng không, nở nụ cười chào khách và mời luôn miệng, chỉ cầu sao cho bán được hàng ( lúc đấy đâu có nghĩ gì đâu mà sợ.. .quê!). Các Soeurs nhí thì còn mua ủng hộ, các Soeurs lớn đều cười cười và từ chối khéo. Khách mời thấy tôi bưng đi bán dạo thì thương quá mua cho mình và mua cho cả bạn bè chung quanh nữa. Có nhóm đang ngồi, thấy soeur mang rau câu tới tưởng là Soeur tặng nên mỗi người đều lấy và có người ăn ngon quá còn lấy thêm cái nữa, rồi họ thấy soeur không đi cứ đứng đó nói chuyện, lúc đó họ mới vỡ lẽ ra soeur mang đi bán giùm cho các em, móc tiền ra trả mà mắt cười tươi....

Quả là những kỷ niệm và những khoảnh khắc khó quên trong lòng của tôi, của những người tham dự, của các em và của ban tổ chức trong những ngày này. Bao nhiêu ngày vất vả để cho các em được nhưng thời khắc hưởng trọn niềm vui tuổi thơ, niềm vui được chơi, được gặp gỡ, được cảm nhận tình thương mọi người dành cho mình. Niềm vui tuổi thơ nào không hạnh phúc khi mới bước xuống xe trước cổng trung tâm Muc vụ thì đã được các ông già Noel đỡ xuống xe, dẫn vào trong... hạnh phúc nhân lên gấp nhiều lần khi nhìn thấy những gian hàng đồ chơi dành riêng cho mình, cả một thế giới đủ màu sắc.

Tôi nhận ra giữa những vị khách mời và các em đang chen chân trong lễ hội là cha Paul Nguyễn Thái Hợp, cha linh hướng của nhóm phong trào Đức Tin và Văn Hóa, đang được các em mời mua mía, mua hoa... Ngài cũng mua và hầu như gian hàng nào cha cũng móc tiền túi mua ủng hộ, nhưng mua từ gian hàng này đi đến chỗ kia thì lại tặng lại....

Tôi là một trong những người ra về cuối cùng và tôi nhận thấy ban tổ chức vẫn phải làm việc cật lực nhưng cái quan trọng là ai cũng cười thật tươi dù hôm nay đã là một ngày quá dài. Thương nhất là ban dọn dẹp với một “ bãi chiến trường” rác của các em khi ngồi xem văn nghệ... nhưng các anh chị tình nguyện viên đã dọn dẹp một cách âm thầm và nhanh chóng.

Chắc chắn trên chuyến xe về lại mái ấm của mình, các em tranh nhau khoe “ chiến lợi phẩm” mà mình có, tranh nhau khoe những món mà mình đã nếm qua tại các gian hàng ẩm thực và tranh nhau bình luận về ngày hôm nay trong tiếng cười. Và niềm vui của tuổi thơ sẽ ngân dài mãi qua sự trợ giúp của nhiều người để các em có được ngày hôm nay và chắc chắn trong giấc ngủ, các em sẽ có những giấc mơ đẹp về một thế giới yêu thương.

Saigon 20. 10.2009
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Cây thông Giáng Sinh: Thông Hài Đồng, Thông Ba Ngôi
Lê Đình Thông
10:08 19/12/2009
CÂY THÔNG GIÁNG SINH: THÔNG HÀI ĐỒNG, THÔNG BA NGÔI

Theo truyền thuyết, ngay từ 2000 đến 1200 trước Công nguyên đã có tục lệ trưng bày cây thông vào ngày 24 tháng 12. Vào ngày này, mặt trời mọc lại sau thời gian bão tuyết lặn xa. Trước đây, người Đông Âu (Celtes) theo âm lịch, mỗi tháng mang tên một cây. Ngày 24 tháng 12 nhắm tiết Đông chí được đặt tên là tùng bách (épicéa). Năm 354, Giáo hội Công giáo định lễ Giáng Sinh được cử hành ngày 25 tháng 12.

Cây Hài đồng

Người ta kể lại thánh đan sĩ Boniface (sinh năm 680) đả phá tục thờ cây cối, thuyết phục các đạo sĩ người Đức ở vùng Geismar rằng cây sồi không phải là cây thiêng. Ngài cho hạ một cây sồi. Khi đốn cây, sồi lăn xuống triệt hạ các cây mọc trên triền dốc, chỉ trừ cây thông. Thánh Boniface coi đó là điềm lạ, đã thuyết giảng rằng: ‘‘Kể từ nay, ta đặt tên cho cây thông là cây Chúa Hài đồng’’.
Từ đó, người ta trồng cây thông trên khắp nước Đức để mừng lễ Giáng sinh.

Cây Ba Ngôi

Thánh Boniface de Mayence còn dựa vào hình tam giác của cây thông để diễn giải ý nghĩa Ba Ngôi. Chúa Ba Ngôi đã kết hiệp trong công trình cứu thế: Ngôi Hai giáng trần đễ diễn tả lòng yêu thương vô hạn của Ngô Cha. Thánh Thần là hiện thân của vì sao dẫn đường ba hiền sĩ đông phương.

Tục lệ trưng bày cây thông

Vào thế kỷ XI, người ta treo thêm táo đỏ trên các cành thông, mang biểu tượng của vườn địa đàng. Thế kỷ XVII và XVIII xuất hiện cây thông thắp đèn sáng. Người ta treo vỏ hồ đào đựng dầu có bấc để thắp sáng. Năm 1521 tại Sélestat miền Alsace, người ta dựng cây thông có treo một ngôi sao trên ngọn, tượng trưng cho ngôi sao Bê Lem. Từ đó, cây thông nào cũng có một vì sao sáng trên cao. Cây Noël thường được trưng bày từ 24 tháng 12 đến lễ Hiển linh.

Đức Gioan-Phaolô II: Thông tình yêu

Trong giờ đọc kinh truyền tin chủ nhật 19-12-2004, Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II đã diễn giải ý nghĩa cây thông Giáng sinh như sau:

‘‘Ta thường trưng bày bên cạnh máng cỏ một cây thông Giáng sinh, vốn là truyền thống tốt đẹp lâu đời nhằm ngợi ca cuộc sống. Vào mùa đông rét mướt, cây thông vẫn xanh tươi để nói rằng cuộc sống không bao giờ bị hủy diệt. Các quà tặng Giáng sinh được bày dưới gốc cây. Biểu tượng này muốn nói rằng cây Giáng sinh là cây nhân sinh mang hình ảnh Đức Kitô. Đây chính là món quà Thiên Chúa ban cho nhân trần. Thông điệp về cây thông Giáng sinh còn mang ý nghĩa cuộc sống xanh tươi như tặng vật của tình bạn và lòng yêu thương, là sự tương trợ huynh đệ và sự tha thứ, là sự chia sẻ và lắng nghe tha nhân. (Le message du sapin de Noël est donc que la vie reste verte et qu'elle est un don, non matériel mais d'elle-même, dans l'amitié et l'affection, dans l'entraide fraternelle et le pardon, dans le partage et l'écoute de l'autre).

Thông điệp về cây thông Noël được cả thế giới lắng nghe. Nhiều gia đình Việt Nam không phân biệt lương giáo có tục lệ bày cây thông Giáng sinh. Ở Tây phương, ngay từ thế kỷ XVII, Pháp, Đức, Áo và hai miền Lorraine và Alsace trưng bày thông Giáng sinh. Vào năm 1738, hoàng hậu Maire Leszczynska, vợ vua Louis XV cho bày thông Noël trong lâu đài Versaille. Năm 1837, công chúa Hélène cho bày thông ở điện Tuileries.

Sœur Thu Hài dòng Đa Minh là sinh viên năm thứ 3 Đại Học Công Giáo Paris đã kể câu chuyện về cây thông Giáng sinh trong giờ Kitô học cuối năm: Vào mùa đông buốt giá, chim rừng đều lạnh run. Tất cả rừng cây đều rụng lá. Chỉ riêng thông vẫn còn cành lá xanh tươi để loài chim có chỗ mà nương thân. Cũng như cây trúc, cây thông tấm thân ngay thẳng, chiếc lá thon dài là biểu tượng của lòng khiêm cung. Thông và trúc cố gắng vươn cao để cùng gió vi vu, cùng chim hót hòa thành cung đàn bất tận:

Thông và trúc vi vu trong sương tuyết,
Nhạc thiên cung mừng Thiên Chúa giáng sinh.
Tiếng chim hót trên cành nghe mải miết,
Lời vi vu tựa như tiếng cầu kinh.


Nhạc Giáng sinh của Pháp có bài Mon beau sapin, là chuyển thể cổ ca Đức O Tannenbaum do Ernst Anschütz cải biên vào năm 1824. O Tannenbaum còn một một lời ca khác do Melchior Franck soạn năm 1615. Từ 1939, tiểu bang Maryland (Hoa Kỳ) đã chọn O Chrismas Tree làm ca khúc chính thức.
Chúng ta cùng nghe lại Mon Beau Sapin:
Mon beau sapin (O Tannebaum)
.
Traditionnel allemand
Voir également la version anglaise O Christmas Tree
-Fichier SON MIDI
Extraits MP3:
par Jack Lantier
CD "Super Noël"
par Jean Planel "Noël de légende"
CD "60 comptines et formulettes"
par Les Quatre Barbus
CD "Noël Autour du monde"
Par Les Djinns

Mon beau sapin, roi des forêts,
Que j'aime ta verdure
Quand par l'hiver,
Bbois et guérêts,
Sont dépouillés
De leurs attraits,
Mon beau sapin, Roi des forêts,
Tu gardes ta paru-re.
Toi que Noël planta chez nous
Au saint anniversaire,
Joli sapin
Comme ils sont doux
Et les bonbons
Et les joujoux
Toi que Noël planta chez nous
Par les mains de ma mère.
Mon beau sapin, tes verts sommets
Et leurs fidèles ombrages,
De la foi qui
Ne ment jamais
De la constance
Et de la paix
Mon beau sapin, tes verts sommets
M'offrent la douce image.

O Tannebaum, O Tannebaum,
Wie treu sind deine Blätter
Du grünst nicht nur
Zur Sommerzeit
Nein auch im Winter
Wenn es schneit
O Tannebaum, O Tannebaum,
Wie treu sind deine Blätter
O Tannebaum, O Tannebaum,
Du kannst mir sehr gefallen
Wie oft hat nicht
Zur Weihnachtszeit
Ein Baum von dir
Mich hoch erfreut
O Tannebaum, O Tannebaum,
Du kannst mir sehr gefallen
O Tannebaum, O Tannebaum,
Dein Kleid will mich was lehren.
Die Hoffnung und
Beständigkeit
Gibt Trost undKraft
Zur jeder Zeit
O Tannebaum, O Tannebaum,
Dein Kleid will mich was lehren.

Chúng tôi lấy mấy ý chính trong bài O Tannenbaum để soạn một đoản khúc mừng Giáng sinh như sau:

Thông xanh lá bền gan qua thử thách,
Cả bốn mùa xanh lá chẳng hề phai.
Một màu xanh lòng thủy chung mộc mạc,
Thông vi vu mừng sinh nhật Ngôi Hai.

Thông xanh màu lòng trông mong hy vọng,
Trước cuồng phong thông đứng vững can trường.
Không nao núng dù đông hàn vô vọng,
Thông kiên trung lòng tin cậy mến thương.


Paris, ngày 20 tháng 12 năm 2009
 
Lan man từ Chuyện Tấm Thiệp
Lm. Lê Công Đức
10:53 19/12/2009
Quá nửa tháng 12, sắc màu Nô-en ngập tràn phố xá. Cái lạnh se sắt tụt xuống dưới không độ, và bầu trời mùa đông xam xám - chợt mưa bay, chợt nắng nhẹ, chợt tuyết rơi - không làm chồn chân dòng người lũ lượt dạo phố, mua quà. Tôi ghé vào một bưu điện gần nhà, khu trung tâm Paris, mua vài tấm thiệp Giáng Sinh gửi người thân. Thiệp ‘Nô-en’ có rất nhiều, nhưng thiệp ‘Giáng Sinh’ tìm hoài không thấy! Nào thông xanh, nào nến sáng, nào chuông vàng, nào ông già tuyết, nào tuần lộc..., nhưng tìm mãi không ra một tấm thiệp có hình em bé Giêsu, dù chỉ nhạt mờ! Chợt nhớ, từ lâu đã từng nghe, đất nước và dân tộc này một thời là “trưởng nữ của Giáo Hội.” Nhưng thời ấy đã xa lắm rồi...

... Và bỗng thấy mình vô duyên khi chỉ là ‘khách qua đường’ lại thầm tiêng tiếc cho người về một điều mà chính người không hề tiếc, thậm chí đó là điều mà người tự hào. Người Pháp, ngót 60 phần trăm là Công Giáo, vẫn tự hào về tính thế tục (sécularisation) nơi xã hội và quốc gia của họ. Dấu mốc quyết định của tính thế tục này là Sắc Luật ‘Séparation’ hồi 1905, cách đây vừa hơn một thế kỷ, trong đó nền Đệ Tam Cộng Hòa dứt khoát tách rời nhà nước khỏi nhà thờ. Nghe cứ như một cuộc hôn nhân có nhiều vấn đề, đến nỗi cuối cùng phải chọn giải pháp ‘đường anh anh đi, đường em em đi’ vậy!

Không biết những người trong Giáo Hội thời đó có thấy phũ phàng và có buồn tiếc nhiều về cuộc ‘ly thân’ bất khả kháng ấy không. Thực ra, bình tâm mà ngẫm thì chắc ai cũng thừa nhận rằng cuộc ‘ly thân’ ấy là một bước nhảy văn minh hơn trong đời sống xã hội Pháp: một xã hội muốn thượng tôn nguyên tắc tự do lương tâm, tự do tôn giáo; trong đó nhà nước hoàn toàn trung lập về tôn giáo, không can thiệp hay dính dáng đến bất kỳ tôn giáo nào.

‘Ly thân’ là để ‘nàng’, hay ‘chàng’, hay cả hai, được giải phóng; nhưng trách nhiệm đối với ‘con cái’ thì vẫn còn: Những cơ sở thờ tự của các tôn giáo tồn tại trước 1905 vẫn tiếp tục là cơ sở thờ tự, nhưng thuộc tài sản nhà nước và nhà nước có bổn phận bảo trì. Mấy tháng trở lại đây, ai đi ngang qua ngôi nhà thờ Saint-Sulpice (to lớn ước gấp đôi nhà thờ Chính Tòa Đà Nẵng) gần Vườn Luxembourg, sẽ thấy những giàn giáo tua tủa và những cần cẩu gầm gừ chỗ tháp chuông tiền đường. Thế nhưng các cha của giáo xứ và bà con giáo dân vẫn khỏe re, chẳng phải lo gì. Hỏi ra mới biết việc bảo trì nhà thờ ấy là bổn phận của nhà nước, không phải của ‘mình’. Thế đấy, thật ngộ, một nhà nước đặc trưng tính thế tục và không can thiệp hay dính dáng gì đến tôn giáo, lại có bổn phận sửa chữa tái thiết nhà thờ! Thoạt nghe hay nhìn thấy chuyện như vậy, dễ tưởng đó là cái gì nhập nhằng, giẫm chân. Nhưng thực ra, đó chỉ là chuyện sòng phẳng, rạch ròi, và.. . “theo đúng qui định của pháp luật”.

Tính thế tục của quốc gia được thấy bàng bạc trong các ngóc ngách đời sống văn hóa xã hội. Người Pháp vô tư chọn Sarkozy làm người lãnh đạo của mình vì tài kinh bang tế thế của ông; còn chuyện ông li dị hai lần và kết hôn ba lần chỉ là chuyện riêng của ông ấy, chẳng liên can gì – (người Mỹ hẳn sẽ thấy như vậy là liên can nhiều lắm đấy!)

Một đàng, tính thế tục ấy có thể phản ảnh một cấp độ văn minh; song đàng khác, trong thực tế, không phải là nó không đi quá xa, khiến cho Giáo Hội phải rầu. Một ví dụ là mô hình PACS (Pacte Civil de Solidarité, tạm dịch: Khế Ước Dân Sự về Sống Chung) mà mới hồi tháng trước người Pháp kỷ niệm 10 năm tồn tại của nó cách khá tưng bừng. Đây là một sắc luật công nhận sự sống chung giữa hai người, đồng giới hay khác giới, với cộng đồng tài sản, với sinh con đẻ cái (nếu sinh đẻ được!), mà.. . không phải là hôn nhân! Trong 10 năm qua, hơn 500.000 đôi (đa số là nam-nữ, song cũng có một số là nam-nam hoặc nữ-nữ) đã chọn ký loại khế ước này. Và biểu đồ thống kê cho thấy con số đang trên đà tăng rất nhanh. Tính riêng năm 2008, nếu cả nước có 273.500 đôi nam nữ kết hôn dân sự chính thức, thì cũng có đến 146.084 đôi chọn kết hợp với nhau theo mô hình PACS này. Bên ta, chuyện ‘sống thử’ tuy là trào lưu leo thang đến mức báo động khẩn cấp rồi, song cũng còn đỡ, vì quốc hội chưa làm luật để hợp pháp hóa nó theo kiểu PACS của dân tây.

Người Pháp, cũng như nhiều dân khác, đang ở trong một căng thẳng giữa một bên là tính thế tục chính đáng của cơ cấu xã hội và bên kia là chiều kích tín ngưỡng tâm linh vốn là nhu cầu sâu xa vẫn ray rứt nơi con người, cá nhân hay cộng đồng. Sự căng thẳng này phần nào bộc lộ, chẳng hạn, như hồi năm 2000 họ đã bãi bỏ điều 30 của Sắc Luật ‘Séparation’, là điều vốn qui định “cấm dạy tôn giáo trong các lớp học ở trường công.” Rồi năm 2003, thêm một tu chính nữa theo chiều hướng mở rộng, liên quan đến các qui định về các dấu hiệu tôn giáo công khai tại trường học. Năm sau, 2004, Nicholas Sarkozy – lúc bấy giờ vừa mới chuyển từ bộ trưởng Nội Vụ sang làm bộ trưởng Kinh Tế và Tài Chánh – đã đề nghị trao cho nhà nước các phương tiện để có thể kiểm soát hữu hiệu tài chánh của các tôn giáo, cách riêng của Hồi Giáo (là cộng đồng trong thực tế đang được rót tiền đáng kể bởi những người đồng đạo ở Cận Đông và Trung Đông.) Sự kiểm soát này, theo ông, nhằm giúp giải phóng Hồi Giáo ở Pháp khỏi những sự giám hộ đáng ngờ, và có thể hạn chế những trệch hướng về phía quá khích và khủng bố, vốn có thể bộc phát giữa lòng các cộng đồng Hồi Giáo Pháp.

Xem thế, mối căng thẳng đạo / đời của người Pháp cũng mang trong mình nó những dấu hiệu tích cực đấy chứ. Họ đã vất vả nhiều, và va vấp cũng nhiều, mới ‘có’ được sự căng thẳng của ngày hôm nay, một sự căng thẳng xem chừng đáng được đặt tên là ‘thiện chí’, vì cả hai đầu của sợi dây đều muốn chứng tỏ thiện chí của mình. Và khi người ta có thiện chí thì người ta có quyền hy vọng.

Ở Việt Nam mình, mối căng thẳng đạo / đời đang có thừa, cách riêng trong mối tương quan giữa Giáo Hội Công Giáo và nhà nước Cộng Sản. Lịch sử của mối tương quan này đầy gai góc, như những gì đã diễn ra từ năm 1945 cho đến nay: từ đối đầu kịch liệt đến chấp nhận sống chung với ít hay nhiều miễn cưỡng. Mối tương quan này sẽ diễn biến theo chiều hướng nào, nó có cho phép hy vọng gì không? Câu trả lời, dĩ nhiên, tùy ở thiện chí của cả hai đầu sợi dây. Thiện chí là ‘muốn điều tốt’. Người Công Giáo Việt Nam không thể ‘muốn điều tốt’ dùm cho những người Cộng Sản đang nắm quyền. Nhưng nguyên việc bảo đảm rằng điều mình mong muốn cho chính mình là điều thật sự tốt cũng không hề đơn giản. Có thể mình vẫn muốn hay vẫn mơ một ‘hoàng kim thời đại’ nào đó chăng? Thiển nghĩ, cuộc ‘ly thân’ giữa nhà nước và nhà thờ ở Pháp, và tính thế tục mà họ quyết chọn cho thể chế của họ từ đó đến nay, dù có trầy trật, cũng có thể giúp mình như một phép thử...

Chợt nghĩ, việc không tìm thấy Hài Nhi Giêsu trên các tấm thiệp Nô-en chỉ là chuyện.. . nhỏ thôi. Tôi mua mấy tấm thiệp Nô-en không có Chúa, tự nhủ rằng “Chắc Chúa cũng chẳng quyết đòi cho được có mặt trên những tấm thiệp này.” Nghĩ thì nghĩ vậy, mà sao tư tưởng vẫn cứ còn lan man...

Paris 19.12.2009
 
Thông Báo
Phân Ưu: Bào Huynh Đức Cha Vicentê Nguyễn Văn Bản Qua Đời
Vietcatholic
22:25 19/12/2009
Phân Ưu:

Được tin Ông Vicentê Nguyễn Văn Luyện



Bào huynh Đức Cha Vicente Nguyễn Văn Bản

vừa tạ thế tại Úc Châu ngày 19 tháng 12 năm 2009.

Xin hiệp ý cầu nguyện cho linh hồn Vicentê Nguyễn Văn Luyện

Toàn thể Ban Giám Đốc và Ban Biên Tập VietCatholic thành kính phân ưu cùng Đức Cha Vicentê Nguyễn Văn Bản và tang quyến.

LM Trần Công Nghị

Giám Đốc VietCatholic
 
Tin Đáng Chú Ý
Ông Nguyễn Minh Triết bị Tổng thống Slovakia chất vấn về nhân quyền tại Việt Nam
Thế giới mới
17:32 19/12/2009
BRATISLAVA - Chủ tịch nhà nước CSVN Nguyễn Minh Triết trong chuyến công du Âu châu tưởng đã thoát được các cuộc biểu tình của người Việt hải ngoại, vì đến thăm 3 nước là Ý Ðại Lợi, Tây Ban Nha và Slovakia là 3 nước có rất ít người Việt cư ngụ, nhưng cũng không thoát khi bị lãnh đạo Slovakia đặt thẳng vấn đề đàn áp nhân quyền tại Việt Nam.

Trong cuộc hội đàm với Tổng thống Slovakia là ông Ivan Gasparovic, Nguyễn Minh Triết đã bối rối khi bị ông này yêu cầu Cộng sản Việt Nam tôn trọng nhân quyền và chấm dứt đàn áp người dân trong nước. Họ Nguyễn đã phải biện minh rằng luật của mỗi nước một khác, dựa trên điều kiện địa lý và lịch sử khác nhau nên không thể áp dụng luật của nước này cho nước khác.

Hãng thông tấn CTK của Slovakia sau đó trích lời Tổng thống Gasparovic nói dù luật như thế nào đi nữa, mỗi nước đều phải bảo đảm vè nhân quyền cho người dân, ông nói nhân quyền không phải chỉ là vấn đề của Việt Nam hay Slovakia, mà là một vấn đề toàn cầu.

Trước đó nhiều tổ chức phi chính phủ tại Slovakia kể cả Amnesty International và People in Danger, đã vận động để chuyện nhân quyền được đưa vào nghị trình hội đàm giữa hai nguyên thủ quốc tế. Tuy nhiên không như hồi Chủ tịch Trung cộng Hồ Cẩm Ðào thăm viếng Slovakia vào tháng 6, đã không xảy ra cuộc biểu tình phản đối nào trong chuyến thăm viếng của Nguyễn Minh Triết.

Trước đó Nghị Viện Âu châu đã chỉ trích vấn đề nhân quyền của Việt Nam và thông qua một nghị quyết yêu cầu Hà Nội ngưng đàn áp những người đòi hỏi tự do ngôn luận và tự do tín ngưỡng. Hà Nội đã cực lực bác bỏ các cáo giác về vi phạm nhân quyền và cũng đưa ra câu trả lời cũ rích là vì các Dân biểu Âu châu không nắm vững tình hình thực tế tại Việt Nam.

NGUYỄN MINH TRIẾT BỊ QUAY VỀ VIỆC CẤM INTERNET

Tin Bratislava - Trước khi bị Tổng thống Slovakia đặt vấn đề nhân quyền, Chủ tịch nhà nước Cộng sản Việt Nam là Nguyễn Minh Triết đã từng bị báo chí quay về vấn đề Việt Nam xiết chặt Internet. Trong một cuộc phỏng vấn dành cho một tờ báo trung tả ở Tây Ban Nha, tưởng rằng tờ báo này sẽ đặt những câu hỏi để ca ngợi chế độ Cộng sản như những lần trước, nhưng Nguyễn Minh Triết đã bất ngờ khi bị hỏi về việc nhà cầm quyền cấm Internet.

Người lãnh đạo nhà nước Cộng sản Việt Nam đã bối rối trả lời rằng Việt Nam không cấm Internet, nhưng cấm việc lạm dụng Internet. Ký giả Velazquez-Gaztelu của nhật báo El Pais hỏi tại sao Việt Nam lại ra lệnh chặn mạng xã hội Facebook để bị các nơi chỉ trích? Nguyễn Minh Triết không trả lời thẳng vào câu hỏi mà chỉ nói vòng vo khi cho rằng thông tin phổ biến trên Internet phải tuân thủ luật pháp quốc gia, tại Việt Nam không cho phép phổ biến những tin khích động nổi loạn chống nhà nước xã hội chủ nghĩa, phá hoại đoàn kết dân tộc, vi phạm an ninh quốc gia và Quốc Phòng, xúi dục bạo động, tuyên truyền văn hóa và lối sống không phù hợp với văn hóa Việt Nam, cũng như tin không đúng hay xuyên tạc làm ảnh hưởng đến thanh danh của cá nhân và tổ chức.

Họ Nguyễn nhấn mạnh rằng Việt Nam không cấm sử dụng Internet mà chỉ cấm việc lạm dụng Internet mà thôi. Nhân chuyến viếng thăm các nước Âu châu, phái đoàn Cộng sản Việt Nam đã đến thăm quốc vương Tây Ban Nha và gặp gỡ Thủ tướng quốc gia này là ông Zapatero. Khi được hỏi liệu Việt Nam trong tương lai có thể có một nền dân chủ đa nguyên và bầu cử tự do hay không, Nguyễn Minh Triết đã không trả lời câu này mà chỉ bào chữa rằng Việt Nam đặt tiêu chuẩn cho dân chủ là trong khuôn khổ luật pháp của Việt Nam, không thể bị áp đặt bởi các nước khác.

(Nguồn: http://www.tapchithegioimoi.com/tm.php?recordID=1882)
 
Văn Hóa
Về Belem
Cao danh Viện
07:38 19/12/2009
Tôi làm một cuộc hành hương
Về nơi Con Chúa Thiên Đường giáng sinh
Bê lem xa! Be lem xinh!
Be lem ở tại trong tình yêu tôi

Khởi đầu tôi chọn chổ ngồi
Thong dong thần trí, thảnh thơi cõi lòng
Bàn chân đưa bước vào trong
Đi tìm hang đá giữa đồng hắt hiu

Lúa đồng no hạt tình yêu
Nên hang đá Chúa có nhiều cỏ rơm
Tình yêu chia sẻ áo cơm
Chuồng bò khiêm tốn ngát thơm hương nồng

Tình yêu tịnh khiết trinh trong
Kết thành máng cỏ ấm lòng Hài Nhi
Tình yêu hỉ xả từ bi
Thành vàng,mộc dược,khiêm quỳ ba vua

Bác ái là cánh sao tua
Vô vàn nhân đức thay lừa thở hơi
Thiện tâm chờ đón Ngôi Lời
Đêm đông giáng thế tuôn rơi phúc lành

Ân tình hóa giải chiến tranh
Belem nên đẹp màu xanh an bình
Vẳng đưa tiếng hát câu kinh
Nên lời ru mẹ ngọt tình ầu ơ

Cuộc hành hương, đẹp như thơ
Tôi về dọn lại đền thờ trong tôi
Bê lem ở tại đây rồi
Xin Ơn Giáng Thế làm người trong tôi.
 
Chúa gần đến
Ngô xuân Tịnh
07:39 19/12/2009
Sion hỡi hãy nổi hiệu tù và
Vang thật xa bao rộn rã niềm vui
Vua nguoi sắp ngự đến rồi
Hồng ân cứu rỗi từ Trời trao ban

Ơn cứu độ mở đàng giải thoát
Nhũng tâm hồn tan nát lo âu
Rửa lòng thống hối lệ sầu
Đón Người ngự đến không lâu nữa rồi

Vương quốc Người muôn phương lan rộng
Sẽ vô cùng triều đại của Người
Người là Thiên Chúa bởi Trời
Toàn năng thống trị muôn nơi hòa bình

Từ Thiên đình Ngôi Lời hằng hữu
Là Ngôi Hai Thiên Chúa cửu trùng
Toàn năng toàn trí vô song
Ngai vàng từ bỏ xuống cùng thế nhân

Vua Tình-Yêu hóa thành nhục thể
Trong cung lòng Đức Mẹ đồng trinh
Con-Chiên vẹn sạch trắng tinh
Hồng ân cứu độ chương trình trao ban.
 
Hài nhi và mục đồng
Đinh văn Tiến Hùng
07:49 19/12/2009
Chúa xuống từ trời cao,
Lấp lánh muôn vì sao,
Không trung đầy huyền diệu,
Vang tiếng nhạc đón chào.

Hạnh phúc ôi Be-lem,
Một làng nhỏ nghèo hèn,
Hồng ân đang lan tỏa,
Tràn ngập trong màn đêm.

Chúa Hài Nhi ra đời
Chiên bò năm thở hơi,
Sưởi thân Người lạnh lẽo,
Ngoai trời tuyết vẫn rơi.

Bọn mục đồng quanh miền,
Nằm say giấc ngủ yên,
Bỗng giật mình tỉnh dậy,
Nghe Thiên sứ báo tin:

“Mau tìm đến Be-lem,
Nơi máng cỏ mà xem,
Một Hài Nhi giáng thế,
Trong khung cảnh khó nghèo.”

Bọn mục đồng giục nhau:
“Ta cùng đến cho mau,
Mừng Vương Nhi cứu độ,
Nhân loại đợi từ lâu.”

Này đây Cha Mẹ Người
Bên Con Trẻ xinh tươi,
Lặng nghiêng mình chiêm bái,
Chúa Giáng Thế cứu đời.

Chúa xuống từ trời cao,
Lấp lánh muôn vì sao,
Mục đồng được mời gọi,
Ôi hạnh phúc ngọt ngào.!
 
Từ Điển Thuật Ngữ Công Giáo
Từ Điển Thuật Ngữ Báo Chí Công Giáo: Solovyevism – Squint
Nguyễn Trọng Đa
02:27 19/12/2009
Solovyevism
Thuyết Solovyev. Là thuyết về Giáo hội và Nhà Nước của Vladimir Solovyev (1853-1900), nhà thần học Chính Thống giáo Nga đã trở lại đạo Công giáo. Ông chủ trương rằng Kitô học đầy đủ là nền tảng cho mối quan hệ của Giáo hội và Nhà Nước trong xã hội. Chủ trương này hướng tới một điểm cân bằng giữa hai thái cực lạc giáo, đó là thuyết Cảnh giáo của Nestor và lạc thuyết Nhất tính. Một cách tiếp cận theo thuyết Cảnh giáo có thể tách rời Giáo hội và Nhà Nước, giống như có thể phân chia Chúa Kitô thành hai ngôi vị là thần vị và nhân vị. Còn cách tiếp cận theo thuyết Nhất tính có thể hòan tòan hòa nhập Nhà Nước vào Giáo hội, giống như nhập hòan tòan nhân tính của Chúa Kitô vào thần tính của Ngài. Thái độ đúng đắn là duy trì Giáo hội và Nhà Nước phân biệt với nhau, nhưng Giáo hội phải thần hóa xã hội bằng giáo lý và các Bí tích của mình, và Nhà Nước xây dựng luật phù hợp với các nguyên tắc và tập tục này.
Son
Con, con trai. Về thần học, làm con là sự phái sinh một người từ bản thể của một người khác, và người này thông chuyển cùng một bản tính cho người kia. Quả đúng là có một người Con trong Chúa Ba Ngôi, sinh bởi Chúa Cha. Trong nghĩa lọai suy, mọi thiên thần và con người đều là con cái của Chúa, bởi vì họ đều chia sẻ các phẩm tính Thiên Chúa như sự hiểu biết và sự tự do, và tất cả những ai sống trong tình trạng ân sủng đều là con cái của Chúa.
Son Of God
Con Thiên Chúa. Là Ngôi Thứ Hai trong Ba Ngôi Thiên Chúa, đã làm người, chịu khổ hình và chịu chết để chuộc tội cho nhân loại. Do đó Chúa Kitô là Con thật sự và tự nhiên của Thiên Chúa, như được Chúa Cha chứng thực trong thị kiến được ghi lại khi Chúa Kitô chịu phép Rửa, “Con là Con của Cha" (Lc 3:22), và như được thánh Phaolô mô tả: “Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các ngôn sứ; nhưng vào thời sau hết này, Thiên Chúa đã phán dạy chúng ta qua Thánh Tử. Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ, đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài" (Dt 1:1-2).
Son Of Man
Con Người, Con loài người. Là tước hiệu được dùng nhiều nhất của Chúa Kitô trong Tân Ước, xuất hiện 82 lần, trong đó chỉ có một lần trong Cv 7:56, còn 81 lần trong các Tin Mừng. Là một tước hiệu của Đấng Mêsia (Đn 7:2-14), từ ngữ xác định tính siêu việt của Đấng Cứu Thế, trong khi vẫn nhấn mạnh đến nhân tính của Chúa, trái với tước hiệu “Con Thiên Chúa," nhấn mạnh đến thiên tính của Chúa.
Sons Of God
Con cái Chúa. Là một tước hiệu dùng trong Kinh thánh để chỉ các thiên thần, dân Chúa chọn, các ngôn sứ, và trong Tân Ước, những người tin vào Chúa và làm theo ý Chúa.
Sophrosyne
Tinh thần sáng suốt, điều độ. Là nhân đức chừng mực như điều độ, tránh thái quá hoặc bất cập trong thực thi một khuynh hướng luân lý.
Sorrow
Sự đau khổ, sự buồn phiền. Là sự đau khổ hoặc đau buồn do nghịch cảnh gây ra cho bản thân. Sự sầu buồn còn nặng nề hơn sự mất mát hay sự bất hạnh cho người cảm thấy có lỗi, như trong trường hợp phạm tội; hoặc sự sầu khổ có thể là hòan tòan lây lan, gây sự cảm thông cho người khác. Cốt yếu của khái niệm sầu buồn là nó nhắc đến điều đã xảy ra và hậu quả của sầu khổ còn được cảm nghiệm. (Từ nguyên tiếng Anh trung cổ sorge, sầu buồn; từ ngữ Anh cổ sorh, sorg, lo lắng, sầu khổ.)
Sorrowful Mother, Sanctuary Of
Đền thánh Đức Mẹ Sầu Bi. Là đền thánh Đức Mẹ được thành lập năm 1926 tại Portland, bang Oregon (Mỹ), và được xây dựng trên hai thế đất, một đền ở ngang mặt đường cái, và một đền ở trên đỉnh một vách đá. Một tổ hợp tượng Chúa Chịu Nạn bằng cẩm thạch nổi bật giữa khu vực. Ở thế đất thấp hơn là một cái hang, và dưới vòm hang đá có bàn thờ màu trắng, chung quanh có hoa và nho. Trên tường vách đá là bản sao tranh điêu khắc Pietà (Đức Mẹ Sầu Bi) của Michelangelo, với các thiên thần bằng đồng cầm đuốc. Ở phía tây của giảng đường là tượng Chúa Kitô vác thánh giá, đang nhìn Đức Mẹ đứng trên đỉnh của vách đá cao 150 feet (46m). Các chặng đường Thánh Giá xếp lác đác ở dưới đồi, và có thêm tượng thánh Philip Benizi đang cầu nguyện, đấng lập Dòng Tôi Tớ Đức Mẹ, là Dòng phụ trách coi sóc đền thánh.
Sorrowful Mysteries
Năm sự thương. Là năm mầu nhiệm thứ hai của chuỗi Mân Côi, gồm có: 1. Chúa Kitô hấp hối trong Vườn Gethsemane (Ghết-sê-ma-ni); 2. Chúa Kitô chịu đánh đòn; 3. Chúa Kitô chịu đội mão gai; 4. Chúa Kitô vác thập giá; và 5. Chúa Kitô bị đóng đinh.
Sosthenes
Sosthenes, ông Xốt-thê-nê. Là trưởng hội đường ở Corinth (Cô-rin-tô) trong thời thánh Phaolô. Khi thánh Phaolô tìm cách giảng cho các thành viên của hội đường, ngài bị chống đối và bị nói lộng ngôn (Cv 18:5-8). Trong cơn phẫn uất, người Do thái đánh đập ông Sosthenes, có lẽ họ tin rằng ông không xử vụ họ trình báo cách đủ mạnh mẽ (Cv 18:12-17). Chắc là ông Sosthenes trở lại đạo sau đó. Thánh Phaolô nhắc đến một người đồng hành tên là Sosthenes trong lá thư viết cho tín hữu ở Corinth (I Cr 1:1). (Từ nguyên Hi Lạp s_sthen_s, giữ sức mạnh.)
Soteriology
Cứu độ học. Là phần của Kitô học bàn thảo về công cuộc cứu độ của Chúa Kitô. Phần này tìm hiểu sự sa ngã của loài người nơi ông Adam (A-đam) và tội lỗi của loài người, vốn cần có một Đấng Cứu Chuộc, và tìm hiểu học thuyết ân sủng mà nhờ đó tội và hậu quả của tội được tẩy sạch, và nhất là tìm hiểu mầu nhiệm hai phần của Chúa Kitô như là Đấng Cứu Chuộc và là Đấng Trung Gian của loài người. (Từ nguyên Hi Lạp sòt_rion, cứu thóat; từ chữ s_t_r, người cứu chuộc; từ chữ s_zein, cứu; từ chữ saos, an tòan.)
Soul
Linh hồn. Là phần thiêng liêng bất tử nơi con người, làm linh hoạt thân xác. Mặc dầu là một bản chất tự nó, linh hồn hướng một cách tự nhiên về thân xác; khi tách rời ra, linh hồn là một bản thề “bất toàn”. Linh hồn không có các thành phần, do đó là đơn nhất nhưng có các tùy thể. Các khả năng là các tùy thể riêng biệt. Mọi kinh nghiệm được đưa thêm vào hình thức tuỳ thể của nó. Linh hồn được Chúa tạo dựng riêng rẽ cho mỗi người, và phú vào thân xác khi con người thụ thai. Hơn nữa, Chúa tạo dựng linh hồn trong tương quan với thân xác mà linh hồn kết hợp, để bản chất của các đặc điểm thân xác và linh hồn được gìn giữ vững bền, bao lâu các đặc điểm ấy còn tùy thuộc vào họat động của cơ quan con người. Là một bản thể đơn thuần và thiêng liêng, linh hồn không thể chết. Tuy nhiên linh hồn không là hoàn toàn bản tính con người, bởi vì con người gồm có cả thân xác được linh hồn linh hoạt. Trong triết học, động vật và thực vật cũng được cho là có hồn, vốn hoạt động như là các nguyên lý giác hồn và sinh hồn của sự sống. Không như tinh thần của con người, các hồn này là có thể bị tiêu diệt. Linh hồn lý tính có mọi khả năng của hai loại linh hồn trên đây, và là nguồn gốc của các chức năng giác hồn và sinh hồn trong mỗi con người.
Soul Of The Church
Linh hồn Giáo hội. Là chính Chúa Thánh Thần, Đấng linh hoạt Nhiệm thể của Chúa Kitô. Vì Chúa Kitô là Đầu của Giáo hội, Chúa Thánh Thần là linh hồn của Giáo hội. Giống như linh hồn trong thân xác con người, Chúa Thánh Thần liên kết các thành phần của Giáo hội lại với nhau, với Chúa Kitô là Đầu của họ, vì chính Chúa Thánh Thần là hoàn toàn ở trong Đầu và hoàn toàn ở trong các phần tử của Nhiệm Thể. Chính Chúa Thánh Thần hỗ trợ hàng giáo phẩm trong việc thực thi sứ vụ giảng dạy, mục vụ và tư tế của các ngài. Nhờ ơn của Ngài, chính Chúa Thánh Thần khơi dậy và củng cố mọi hoạt động đơn lẻ nơi các tín hữu. Toàn bộ sự sống và sự tăng trưởng của Kitô giáo phát sinh từ Chúa Thánh Thần, là nguyên lý sự sống của Chúa đang ngự trong Giáo hội.
Source Of Sin
Căn nguyên tội lỗi. Là nguyên lý hoặc nguồn gốc mọi hành vi tội lỗi của con người. Hai nguồn gốc thường được tìm thấy trong Mặc khải, phát sinh từ hai khía cạnh của mọi tội, đó là hướng về sự thỏa mãn chóng qua, và tránh xa sự thiện hảo vững bền. Liên quan đến căn nguyên thứ nhất, nguyên lý của mọi tội có thể gọi là dục vọng, chữ dục vọng theo nghĩa rộng nhất là sự mong muốn không kềm chế cho lạc thú của mình. Liên quan đến căn nguyên thứ hai, nguyên lý của mọi tội có thể gọi là kiêu ngạo, và kiêu ngạo theo nghĩa rộng nhất là thiếu sự phục tùng Chúa. Dục vọng và kiêu ngạo theo nghĩa xấu này có thể được gọi là các mối tội đầu, nhưng nói đúng hơn, chúng là nguồn gốc và mầm của mọi nết xấu, cũng như sự khát vọng hạnh phúc là nguồn gốc của mọi nhân đức.
Soutane
Áo dòng, áo chùng đen. Là áo chùng đen của các giáo sĩ. Là chiếc áo phủ cả người, từ cổ tới mắt cá, có nhiều nút cài, dây thắt lưng hoặc dây thắt nhỏ. (Từ nguyên Pháp; từ chữ Ý sottana, áo mang bên trong [tu phục], từ chữ sotto, dưới; từ chữ Latinh subtus, phía dưới, từ chữ sub, dưới.)
S.P.
S.P., Sanctissime Pater--Đức Thánh Cha.
S.P.
S.P., Summus Pontifex—Đức Giáo chủ, Đức Giáo hòang.
S.P.,S. Petr.
S.P., S. Petr., Sanctus Petrus—Thánh Phêrô.
S.P.A.
S.P.A., Sacrum Palatium Apostolicum—Dinh Tông tòa, Điện Vatican, Dinh Quirinal
S.P.A.
S.P.A., Sacra Paenitentiaria Apostolica—Tòa Cáo giải tông tòa.
Spear
Lưỡi đòng. Là một biểu tượng của cuộc Thương Khó, thường gắn liền với Thánh giá. Đây cũng là biểu tượng của thánh Longinus, viên đại đội trưởng trở lại đạo trên đồi Sọ (Calvary), sau khi ông đâm đòng vào quả tim Chúa Kitô đã chết. Thánh Barnabas và thánh Tôma Tông đồ cũng có lưỡi đòng là biểu tượng của mình trong nghệ thuật.
Speciali Modo
Speciali Modo, Một cách đặc biệt. Từ ngữ áp dụng cho một số trường hợp, mà theo Bộ Giáo luật (1918), được dành đặc biệt cho Tòa Thánh giải quyết, chẳng hạn giả mạo văn kiện Giáo hoàng.
Specialissimo Modo
Specialissimo Modo, Một cách rất đặc biệt. Từ ngữ áp dụng trong Bộ Giáo luật (1918), cho các trường hợp thuộc cấp độ thứ nhất, được dành cho Tòa thánh phán quyết, chẳng hạn vi phạm trực tiếp ấn tòa giải tội.
Species
Hình sắc, hình. Là các dáng vẻ bề ngoài, nhất là dáng vẻ của bánh và rượu sau khi Truyền phép. Từ ngữ “Hình sắc” được Công đồng chung Trent (Denzinger 1652) sử dụng để nhận dạng các tùy thể, chẳng hạn kích thước, trọng lượng, màu sắc, độ bền, mùi và vị của bánh, vốn vẫn còn y nguyên sau khi chuyển bản thể. Chúng không là dáng vẻ bên ngoài thuần túy, như là các đặc điểm vật lý ấy là không có thật. Nhưng chúng vẫn là hình sắc, bởi vì sau khi truyền phép chúng không còn bản thể nằm bên dưới hoặc nơi cho chúng bám vào.
Speculation
Suy đóan, suy lý. Là suy nghĩ hay suy tư về một chủ đề mà không giản lược suy tư của mình vào thực hành. Suy đoán là suy tư để tìm ra sự thật. Đôi khi nó được đồng hóa với trầm ngâm (contemplation.)
Speculative Doubt
Hoài nghi suy lý. Là sự không chắc chắn của tâm trí liên quan đến sự thật hay sai lầm của điều gì đó, hoặc sự lành hay sự dữ, hoặc sự thận trọng của vật gì đó. Nó là hoài nghi suy lý bởi vì nó không quan tâm hiện giờ đến hành vi cá nhân của người ấy.
Sphragis
Sphragis, ấn dấu. Là từ ngữ lúc ban đầu được các Giáo phụ dùng để xác định ấn tích được ban lúc Rửa tội, Thêm sức và Truyền chức thánh. Nghĩa đen nó có nghĩa là một ấn dấu hay dấu nhận dạng, và mô tả sự đồng hóa không phai và không mất với Chúa Kitô, mà người có ấn tích sở hữu. Ấn dấu tồn tại thương xuyên và không phai mờ, nên không gì khác có thể làm đổi thay nó hoặc có thể xoá mối quan hệ độc nhất này với Chúa Kitô.
Spinozism
Triết thuyết Spinoza. Là triết thuyết của Benedict de (Baruch d'Espinoza) Spinoza (1632-77), ở Amsterdam (Hà Lan.) Do các ý tưởng không chính thống của mình, ông bị vạ tuyệt thông, trục xuất ra khỏi hội đường Do thái. Thuyết Spinoza chủ trương rằng mọi hữu thể nằm trong một bản thể, là Chúa hay thiên nhiên. Theo tiền đề này, trí tuệ và vật chất, thời gian, và trong thực tế mọi sự dường như là có thực chỉ là sự biểu lộ của một Thực Tại Duy Nhất, là Đấng (hoặc vật) hiện hữu duy nhất mà thôi. Sự dữ, dù là thể lý hay luân lý, chỉ hiện hữu cho các tâm trí có giới hạn, và biến tan khi được nhìn thấy như là một phần của Đấng Toàn Vẹn Thần Thiêng. Điều chưa rõ là làm sao Spinoza nhìn thấy các sự vật có giới hạn như là phát sinh từ Đấng Vô Cùng. Ông chủ trương rằng một bản thể thần thiêng trở nên có ý thức trong sự đa dạng vô hạn của các thuộc tính. Thuyết Spinoza thường được xem là hình dạng tỉ mỉ nhất của thuyết duy tâm nhất nguyên, và là dạng thức thứ nhất trong ba dạng thức của thuyết phiếm thần đã bị Công đồng chung Vatican I lên án.
Spirit
Tinh thần. Là cái hoàn toàn vô chất. Là tinh thần thuần túy nếu nó không tùy thuộc vào vật chất để hiện hữu hay để hoạt động. Chúa là Tinh thần thuần túy tự hữu; các thiên thần là tinh thần thuần túy thụ tạo. Linh hồn con người được gọi là có tính chất của tinh thần. Mặc dầu linh hồn có thể sống độc lập ngoài thân xác, nó vẫn lệ thuộc thân xác trong đời này để hoạt động, và trong cuộc sống mai sau, nó vẫn giữ sự liên hệ tự nhiên với thân xác, và rồi sẽ kết hiệp cùng thân xác cách vĩnh viễn trong ngày tận thế. (Từ nguyên Latinh spiritus, hơi thở, sự sống, linh hồn, tâm trí tinh thần, năng lực.)
Spiritual
Spiritual, Thánh ca người Da Đen. Theo lối nói âm nhạc, là thánh ca của người Da Đen, thường có đề tài Kinh Thánh và một giai điệu đơn giản giống như bài dân ca.
Spiritual Direction
Linh hướng. Là giúp người khác hiểu được chính bản thân họ, và với ơn Chúa, họ sẽ tăng trưởng trong việc thực hành các nhân đức Kitô giáo.
Spiritual Exercises
Linh thao. Là bất cứ chương trình tu đức nào, nhất là cầu nguyện, suy niệm, và đọc sách thiêng liêng, mà một người đi theo một quy luật sống nào đó cần tuân theo. Cũng là một thời gian thinh lặng và suy tư cầu nguyện, được thực hiện mỗi năm một lần hay nhiều lần hơn trong kỳ tĩnh tâm. Đặc biệt là Linh thao theo thánh Ignatius (I-nhã) Loyola, được vạch ra như một phương pháp giúp sửa chữa đời sống mỗi người, và quyết tâm đi trên con đường thánh thiện. Linh thao của thánh Ignatius được ngài soạn thảo trong một cái hang ở Manresa, Tây Ban Nha, sau khi ngài hoán cải. Linh thao được nhiều Đức Giáo hòang liên tiếp đề nghị như là một chương trình hữu hiệu, để canh tân tinh thần cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân. Nguyên tắc nền tảng là câu mở đầu của Linh thao “Con người được dựng nên để ngợi khen, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa Đấng Tạo thành, và nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình.” Nắm được mục đích của việc mình hiện hữu, tín hữu được hướng dẫn cách thức để đạt tới vận mệnh của mình, bằng cách vượt thắng các xu hướng tội lỗi, và noi gương Chúa Kitô vác Thập giá ở đời này, nhằm sẽ được tôn vinh với Chúa Kitô ở đời sau.
Spiritual Father
Cha linh hướng, Cha tinh thần. Là người khuyên nhủ và hướng dẫn một người trong đời sống tinh thần. Thường là linh mục, cha linh hướng được Giáo quyền chỉ định để hướng dẫn đường thiêng liêng cho các thành viên một cộng đoàn hay một phụng hội, chủng sinh và đại chủng sinh, hoặc nói chung những người tự tận hiến cho đường trọn lành Kitô hữu hoặc việc tông đồ của Giáo hội. Đức Giáo hòang đôi khi được gọi là Người Cha tinh thần của mọi Kitô hữu.
Spiritual Indifference
Lãnh đạm thiêng liêng, thờ ơ, dửng dưng, hờ hững. Là thái độ của ý muốn qua đó một người xa lánh hoàn toàn các thụ tạo khác, vốn có thể ngăn cản sự tiếp cận của người này với Chúa. Đó là kết quả của ơn Chúa và sự huấn luyện khổ tu, nhờ đó một linh hồn là quá gắn bó với ý Chúa, đến nỗi không sự thèm muốn sự lành tạo dựng nào, hoặc việc sợ bất cứ sự dữ nào có thể thay đổi sự cam kết của người ấy với Chúa cả.
Spirituality
Tính thiêng liêng. Là sự phi vật chất tích cực; là tài sản nội tại của hữu thể, độc lập với vật chất, ít là trong yếu tính và trong một số hoạt động.
Spiritual Life
Đời sống thiêng liêng. Là sự sống của Chúa Thánh Thần, ngự trong linh hồn các tín hữu và giúp họ ca ngợi, yêu mến và phụng sự Chúa trong việc thực hành các nhân đức. Nó được gọi là đời sống thiêng liêng bởi vì: 1. nguyên lý linh họat đời sống ấy là chính Thánh thần, “Linh hồn của linh hồn” trong ơn thánh hóa; 2. nó là đời sống siêu nhiên của tinh thần con người; 3. đời sống này sống chủ yếu trong các khả năng tinh thần của trí tuệ và ý chí, mặc dầu nó ảnh hưởng đến toàn con người, thể xác và linh hồn.
Spiritual Marriage
Hôn phối thiêng liêng, hôn phối tinh thần. Là sự kết hợp thanh thản, lâu bền và có sức biến đổi của linh hồn với Chúa. Các sự ngây ngất và xuất thần có thể xảy đến, nhưng chúng được thay thế bằng một sự bình an và thanh thản lạ lùng trong một tình yêu song phương. Thánh Têrêsa thành Avila mô tả tình trạng kết hiệp thân mật với Chúa này như là một trong các tình trạng quên mình hoàn tòan, chỉ suy nghĩ về Chúa và vinh quang Chúa mà thôi, luôn khát mong chịu đau khổ với Chúa Kitô trong tình yêu và trong sự chỉ làm theo ý Chúa. Một sự nhiệt tâm để thánh hóa các linh hồn khác sẽ nảy sinh, sau khi có tình trạng kết hiệp và nghỉ an như thế. Các khô khan nguội lãnh sẽ biến tan, và người ấy chỉ còn nhớ đến sự dịu dàng của Chúa mà thôi.
Spiritual Reading
Đọc sách thiêng liêng. Cũng như Lectio Divina (ngẫm đọc Lời Chúa) được qui định trong đời sống đan tu thời sơ khai, đọc sách thiêng liêng là đọc bất cứ sách nào có thể dẫn đến cầu nguyện và kết hiệp mật thiết với Chúa. Kinh Thánh luôn giữ vị trí ưu tiên trong việc đọc sách thiêng liêng, cùng với tác phẩm của các vị thầy của Giáo hội; nhất là của các Đức Giáo hòang, Giám mục, tác phẩm và hạnh các thánh, và mọi hình thức sáng tác khác với mục đích soi sáng trí khôn, và gây cảm hứng cho ý chí và tình cảm trong việc thờ phượng và phụng sự Chúa.
Spiritual Rebirth
Tái sinh thiêng liêng. Là sự biến đổi của linh hồn diễn ra khi một người được rửa tội. Từ ngữ này được Chúa Kitô sử dụng khi Chúa nói rằng người ta phải tái sinh bởi nước và Chúa Thánh Thần để vào Nước Trời. Nhờ phép Rửa tội, một người được tái sinh cách siêu nhiên, so với việc ra đời cách tự nhiên của người ấy. Cuộc sống siêu nhiên của Chúa được phú vào linh hồn khi con người được Rửa tội, cũng như sự sống con người được phú vào thể xác lúc thụ thai.
Spiritual Relationship
Họ thiêng liêng. Là họ hàng với nhau về tôn giáo, phát sinh từ sự tham gia tích cực vào bí tích Rửa tội và Thêm sức của một người khác. Người đỡ đầu trong hai Bí tích này trở thành bà con thiêng liêng với người mình đỡ đầu. Người ban bí tích rửa tội cũng trở thành có họ thiêng liêng với người được Rửa tội. Việc trở thành có họ thiêng liêng từ sự đỡ đầu Rửa tội trở nên một ngăn trở cho việc kết hôn với người được đỡ đầu.
Spirituals
Nhóm duy tinh thần. Từ ngữ áp dụng cho nhiều nhóm Anh Em Hèn Mọn, chống đối việc sửa đổi bản luật nguyên thủy của thánh Phanxicô, nhất là trong việc tuân giữ đức nghèo ở các thế kỷ 13 và 14. Họ mong muốn giữ luật trong sự nghiêm nhặt thuở đầu, nhưng đã thất bại trong mục tiêu và qua sai lầm của các người lãnh đạo, họ bị dẫn tới lạc giáo và ly giáo. Sự nhiệt tình bị lạc lối của họ, khi cuối cùng họ trở về tuân phục hoàn toàn quyền bính của Đức Giáo hoàng, đã giúp thanh luyện Dòng Phanxicô và hiệp nhất các nhánh Anh Em Hèn Mọn.
Spiritual Vessel
Đấng trọng thiêng. Là một tước hiệu của Đức Trinh Nữ Maria trong kinh Cầu Đức Bà Loreto. Đức Mẹ Maria nhận tước hiệu này bởi vì Mẹ là nơi cư ngụ hoàn hảo của Chúa Thánh Thần, với sự tràn đầy của ân sủng.
Spiritual Works Of Mercy
Thương linh hồn bảy mối. Là bảy hình thức truyền thống để sống bác ái Kitô giáo đối với linh hồn hay tinh thần của người lân cận, trái với các việc thương xác bảy mối nhắm đến nhu cầu thể xác của người khác. Thương linh hồn bảy mối gồm có: lấy lời lành mà khuyên người, mở dạy kẻ mê muội, an ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có lỗi, tha kẻ khinh dễ ta, nhịn kẻ mất lòng ta và cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Nền tảng của bảy hình thức này là giáo huấn của Chúa Kitô và tập tục của Giáo hội từ thời các thánh Tông đồ.
Spiritus Domini
Sách hướng dẫn đại kết Spiritus Domini. Là sách hướng dẫn đại kết, Phần thứ hai, do Hội đồng Giáo hoàng cổ vũ hiệp nhất Kitô hữu xuất bản, bàn đến việc giáo dục đại kết trong các trường cao đẳng. Sách nhấn mạnh đến việc giáo dục thích ứng trong các chủng viện, chú ý đến huấn luyện thiêng liêng và nền tảng tín lý. Trong khi một người được giúp đỡ để thúc đẩy sự hiệp nhất Kitô hữu, người ấy phải nắm vững các điểm chính yếu và các yếu tổ nổi bật của đạo Công giáo Roma. Sách cũng có một phần chi tiết nói về sự cộng tác giữa người Công giáo và anh em Kitô hữu ly khai (ngày 16-4-1970).
Sponge, Liturgical
Miếng bọt biển, miếng vải thấm nước. Trong nghi lễ Byzantine, là “khăn lau” dùng trong Thánh lễ, để lau các ngón tay của chủ tế, để chuyển Bánh thánh từ đĩa thánh vào chén thánh, và các chức năng phụng vụ tương tự. Nó là miếng bọt biển hình tam giác, bọc bằng vải tơ lụa, và là tượng trưng cho miếng bọt biển được dâng lên Đấng Cứu thế trên Thánh Giá.
Sponsor
Người đỡ đầu, Bõ vú. Là người trình diện đứa trẻ lúc Rửa tội và tuyên xưng đức tin nhân danh nó. Người đỡ đầu đóng vai trò như một người đại diện chính thức của cộng đoàn đức tin, và cùng với cha mẹ đứa trẻ, xin cho đứa trẻ được rửa tội. Chức năng của người đỡ đầu sau khi đứa trẻ Rửa tội là thay mặt cho cha mẹ đứa trẻ, nếu họ không có khả năng hoặc không thể giáo dục giáo lý cho nó. Còn được gọi là cha mẹ đỡ đầu, người đỡ đầu được yêu cầu có mặt trong lễ Rửa tội, ngay cả khi người được Rửa tội là người lớn nữa. Chỉ cần một người đỡ đầu là đủ, cùng phái tính với người được Rửa tội; nhưng hai (không nhiều hơn) người đỡ đầu cũng được phép, nghĩa là một người nam và một người nữ. Hai người đỡ đầu có họ thiêng liêng với người được rửa tội, chứ không có họ thiêng liêng với nhau. Theo thói quen, cũng có người đỡ đầu khi chịu phép Thêm sức, nhưng tập tục này là không phổ biến toàn cầu. (Từ nguyên Latinh spondere, thực hiện cam kết long trọng.)
Spoon
Cái thìa, cái muỗng. Là các muỗng dùng trong phụng vụ của Nghi lễ Đông phương để chuyển cho các tín hữu một phần Mình Thánh nhúng trong Máu Thánh. Cái muỗng cũng dùng để tính vài giọt nước được hòa với rượu ở phần Dâng lễ trong Thánh lễ. Và một muỗng có nước có thể đưa cho bệnh nhân, giúp người ấy nuốt Mình Thánh dễ dàng.
Spouse (Bride) Of Christ
Hiền thê Chúa Kitô. Trước tiên là Giáo hội, được Chúa Kitô thành lập, mà thánh Phaolô mô tả tỉ mỉ như là người kết hôn với Chúa Kitô. Hiền thê Chúa Kitô cũng là một người nữ khấn giữ khiết tịnh với Chúa, để trở nên giống Chúa Kitô hơn và kết hiệp mật thiết với Chúa hơn. Nơi một số nhà huyền nghiệm, chẳng hạn các thánh Teresa thánh Avila và Catarina thành Siena, có sự kết hiệp phi thường trong khi cầu nguyện với Chúa Cứu Thế.
Sprinkling
Rảy nước thánh. Là việc rảy nước thánh từ xa để nước rơi xuống đầu nhiều người trong nghi thức Rửa tội. Đây là cách duy nhất để một thừa tác viên có thể rửa tội nhiều người cùng lúc. Ngày nay nghi thức này hiếm khi sử dụng, nhưng trong quá khứ đôi khi vẫn cần thiết, khi chỉ một nhà truyền giáo phải rửa tội cho một đám đông người.
Squint
Lỗ chiêm ngưỡng. Là một lỗ hổng nhỏ ở vách tường nhà thờ, giúp cho những ai ở ngoài nhà thờ có thể nhìn vào và tham dự các nghi thức ở bàn thờ. Qua lỗ chiêm ngưỡng này, các ẩn sĩ và ẩn tu có thể tham dự Thánh Lễ.
 

© 2024 - VietCatholic News - Designed by VietCatholic News