Ngày 11-12-2017
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Tổng Giám Mục Henryk Hoser: Tính chân thật của các cuộc hiện ra tại Medjugorje vẫn còn là vấn đề
Đặng Tự Do
08:21 11/12/2017
Đặc sứ của Đức Thánh Cha tại Medjugorje đã bổ sung thêm vào những nhận xét gần đây của ngài về các cuộc hành hương chính thức của các giáo phận, và than thở rằng báo chí đã “phóng đại quá mức”.

Trong cuộc phỏng vấn với thông tấn xã Aleteia tuần trước, Đức Tổng Giám Mục Henryk Hoser nói: “Từ nay trở đi, các giáo phận và các tổ chức khác có thể tổ chức các cuộc hành hương chính thức đến Medjugorje. Các hình thức tôn sùng Đức Mẹ tại Medjugorje đã được cho phép. Điều này không bị cấm nữa, và không cần phải thực hiện trong bí mật.”

Tuy nhiên, trong một cuộc phỏng vấn với tờ Il Giornale Hoser của Ý, ngài than thở rằng:

“Những gì tôi đã nói là sự thật, nhưng có lẽ nó đã bị phóng đại. Hoàn toàn xác thực rằng các cuộc hành hương cầu nguyện có thể được tổ chức ở Medjugorje, không có vấn đề gì, miễn là những cuộc hành hương này có tính linh đạo và không liên quan đến những tuyên bố cho rằng Đức Mẹ đã hiện ra đối với những thị nhân.”

Ngài cũng làm sáng tỏ rằng trong khi các giám mục được tự do tổ chức các cuộc hành hương đến địa điểm này để cầu nguyện với Đức Mẹ, những tuyên bố cho rằng Đức Mẹ đã hiện ra đối với những thị nhân vẫn chưa được xác nhận.

Ngài nói: “Vấn đề của những thị nhân vẫn chưa được giải quyết.”

“Những vấn đề này đang được nghiên cứu tại Vatican. Tài liệu này đang nằm trong phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và được nhiều người chờ đợi. Dĩ nhiên chúng ta cần một tuyên bố chính thức từ Đức Giáo Hoàng, ngài có thể đã nghiên cứu bản báo cáo của ủy ban do Đức Hồng Y Ruini chủ tọa.”
 
Tân Thủ tướng Ba Lan mới: Ước mơ của tôi là tái Kitô Giáo Liên Hiệp Âu Châu
Đặng Tự Do
09:01 11/12/2017
Tân Thủ tướng Ba Lan Mateusz Morawiecki nhận xét rằng châu Âu nên quay trở lại với các giá trị tốt đẹp của Kitô Giáo bắt nguồn từ căn cội Kitô giáo truyền thống của mình.

Mateusz Morawiecki, là tân thủ tướng sẽ được xác nhận trong tuần này, cho biết giấc mơ của ông là “tái Kitô Giáo Liên Hiệp Âu Châu” trong một cuộc phỏng vấn với một kênh truyền hình Công Giáo.

Ba Lan là một “quốc gia tuyệt vời, đáng tự hào”, ông nói với TV Trwam, và thêm rằng Ba Lan sẽ không chịu “khuất phục” trước các nhà lãnh đạo châu Âu.

Những nhận xét của ông đã được đưa ra sau khi Quốc hội Châu Âu thông qua một nghị quyết đe dọa trừng phạt Ba Lan nếu quốc gia này thông qua một loạt các biện pháp hạn chế phá thai và cấm phá thai vì lý do thai nhi bị khuyết tật.

Nghị viện Liên Hiệp Âu Châu cũng chỉ trích kế hoạch cải cách tư pháp, buộc hai phần năm thẩm phán Tòa án Tối cao phải nghỉ hưu và tái cấu trúc cơ quan bổ nhiệm các tân thẩm phán.

Nghị quyết cho biết các biện pháp đã được đề xuất ra là vì Ba Lan “vi phạm nghiêm trọng các giá trị của châu Âu”. Liên Hiệp Âu Châu cũng yêu cầu Ba Lan “tôn trọng các quyền của phụ nữ, bằng cách cung cấp việc ngừa thai miễn phí và dễ tiếp cận mà không có sự phân biệt đối xử”.

Ông Morawiecki nhớ lại cựu tổng thống Pháp François Hollande, nói: “Tôi nhớ rằng một cựu tổng thống nói với chúng tôi hồi đầu năm nay rằng bạn có giá trị, chúng tôi có tiền. Tôi thích giúp phương Tây có những giá trị thích hợp.”

Ông Morawiecki sẽ thay thế bà Beata Szydło, đương kim thủ tướng Ba Lan đã nộp đơn từ chức vào tuần trước sau cuộc tái tổ chức trong Đảng cầm quyền Pháp luật và Công Lý. Bà Szydło, có con trai là một linh mục, sẽ vẫn giữ một vị trí chính trong chính phủ Morawiecki.
 
Một nước Hồi Giáo hãnh diện trưng bày tranh Công Giáo Salvator Mundi - Đấng Cứu Chuộc Trần Gian
Nguyễn Long Thao
12:06 11/12/2017
Abu Dhabi - Bức tranh nổi tiếng Salvator Mundi - Đấng Cứu Chuộc Trần Gian - của họa sĩ thời Phục Hưng, Leonardo da Vinci, đã được bán đấu giá vào tháng 11 năm 2017 với số tiền kỷ lục là hơn 450 triệu USD. Nay bức tranh này sẽ được trưng bày tại bảo tàng ở Abu Dhabi, của vương quốc Arab Emirates. Bảo tàng ở Abu Dhabi nhưng mang tên Louvre của Pháp. Sở dĩ Abu Dhabi lấy tên bảo tàng viện là Louvre ví thứ nhất bảo tàng mới thiết kế theo viện bảo tàng Louvre ở Pháp.Thứ hai viện bảo tàng mới mượn rất nhiều nghệ phẩm của Louvre, thứ ba muốn cho nhiều du khách thăm bảo tàng viện này như ở Pháp.

Bức tranh Salvator Mundi mô tả hình ảnh Chúa Kitô nhưng điều đặc biệt là được trưng bày cho công chúng trong một nước mà đa số dân chúng theo Hồi Giáo. Tuy nhiên, không giống với Saudi Arabia, tự do tôn giáo được tôn trọng ở Arab Emirates

Giám đốc viện bảo tàng cho biết sẽ không công bố danh tính người sở hữu bức tranh. Theo tờ New York Times, chủ sở hữu bức tranh là một hoàng tử Saudi. Cuộc đấu giá bức tranh chỉ kéo dài trong 20 phút.

Tưởng cũng nên nói thêm vào năm 2015, bức tranh ‘Phụ Nữ Algiers” của Pablo Picasso bán được với giá 179.4 triệu dollars. Như vậy bức tranh Đấng Cứu Chuộc Trần Gian của Leonardo da Vinci hiện giờ có giá cao nhất thế giới.

Nguyễn Long Thao
 
Tòa Thánh lên viếng về vụ thành Jerusalem
LM. Trần Đức Anh OP
17:19 11/12/2017
VATICAN. Tòa Thánh quan tâm theo dõi diễn biến tình hình ở Trung Đông, đặc biệt về thành Jerusalem, Thành Thánh đối với các tín hữu Kitô, Do thái và Hồi giáo trên toàn thế giới.

Trong thông cáo công bố hôm 10-12-2017, Phòng báo chí Tòa Thánh, cho biết ĐTC bày tỏ đau buồn với những cuộc đụng độ trong những ngày qua, gây nên nhiều nạn nhân. Ngài tái kêu gọi mọi người hãy tỏ ra khôn ngoan và thận trọng, đồng thời ĐTC dâng những lời cầu nguyện sốt sắng để các vị hữu trách của các dân nước, trong lúc đặc biệt trầm trọng này, dấn thân ngăn chặn một cái vòng bạo lực mới, bằng lời nói và việc làm, đáp ứng khát vọng hòa bình, công lý và an ninh của dân chúng tại phần đất đang chịu nhiều đau thương.

Mối lo âu về viễn tượng hòa bình trong vùng, trong những ngày này, là đối tượng của nhiều sáng kiến, trong đó có các khóa họp của Liên Minh Arập và các tổ chức cộng tác Hồi giáo được triệu tập trong những ngày này. Tòa Thánh nhạy cảm đối với các mối quan tâm ấy, và nhắc lại những lời tha thiết của ĐGH Phanxiô, tái khẳng định lập trường vốn có về tính chất đặc biệt của thành Thánh và sự cần thiết phải tôn trọng qui chế hiện nay, phù hợp với những nghị quyết của Cộng đồng quốc tế và nhiều lần được hàng giáo phẩm của các Giáo Hội và cộng đồng Kitô ở Thánh Địa yêu cầu.

Đồng thời Tòa Thánh tái khẳng định xác tín theo đó chỉ có một giải pháp thương thuyết giữa người Israel và Palestine mới có thể mang lại một nền hòa bình ổn định và lâu dài, bảo đảm sự sống chung hòa bình của hai quốc gia có biên giới được quốc tế nhìn nhận” (Rei 10-12-2017)

Trước đó, hôm 9-12-2017, ĐHY Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Tòa Thánh, đã bày tỏ lo âu về tình hình tại Thánh Địa sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố công nhận Jerusalem là thủ đô của Israel và di chuyển đại sứ quán Mỹ về đây.

Tuyên bố với đài truyền hình Công Giáo Italia TV2000, ĐHY Parolin nói: ”Tình trạng thật đáng lo âu. Chúng tôi hy vọng nó không khơi lên một tiến trình gia tăng bạo lực và căng thẳng.. Chúng tôi mong sự khôn ngoan và thận trọng như ĐTC nói trong lời kêu gọi [hôm 6-12] vừa qua] được đề cao. Chắc chắn quyết định di chuyển đại sứ quán Mỹ như thể làm cho nhiều vấn đề thêm phức tạp”.

Hôm thứ sáu, 7-12 vừa qua, tức là hôm sau ngày tổng thống Donald Trump tuyên bố quyết định di chuyển Đại sứ quán Mỹ về Jerusalem, các vụ biểu tình và bạo động của người Palestine tại miền Gaza và Cisjordani đã làm cho 2 người chết và 750 người bị thương. Không quân Israel đã oanh kích các kho võ khí ở Gaza làm cho 2 người chết, để trả đũa lực lượng Hamas từ Gaza bắn 2 hỏa tiễn vào lãnh thổ Israel.

Nhiều cuộc biểu tình đã diễn ra tại một số thủ đô các nước Hồi giáo như Amman của Giordani, Kairo Ai Cập, Baghdad, hoặc tại các nước như Thổ Nhĩ kỳ, Pakistan, Indonesia và Bangladesh (KNA 9-12-2017)
 
Hãy can đảm ra khỏi sự cay đắng của bản thân, để được Chúa ủi an
Tứ Quyết SJ
17:24 11/12/2017
Hãy để cho mình được Chúa ủi an, và bớt đi những phàn nàn than phiền. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng nay tại nhà nguyện Marta.

Để cho mình được ủi an

Trong bài đọc trích sách ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa hứa sẽ an ủi dân Ngài. Cũng thế, thánh Inhaxio nói: thật là tốt cho chúng ta khi chiêm ngắm sứ mạng an ủi của Chúa Kitô. Một cách nào đó, điều ấy tựa như những người bạn đang an ủi nhau. Chúng ta cũng hãy nghĩ tới buổi sáng ngày Phục Sinh được kể trong Tin Mừng thánh Luca. Lúc ấy, Chúa Giê-su hiện ra với các tông đồ và các ông vui mừng dường nào, các ông không thể tin được, các ông vui mừng xiết bao. Và rất nhiều lần, ơn an ủi của Chúa đến với chúng ta cũng tuyệt vời như thế!

Thật không dễ để chấp nhận mình được an ủi. Có lẽ đi an ủi người khác thì dễ hơn là để cho mình được ủi an. Bởi vì biết bao lần chúng ta bị gắn chặt vào những tiêu cực, chúng ta bị gắn chặt vào những vết thương là hậu quả của tội lỗi bên trong. Và như thế, biết bao lần chúng ta thích ở lỳ, thích thu mình lại, thích cứ ở mãi trên giường, thích ở lại trong sự cô lập như thế. Nhưng Chúa Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay rằng: Hãy trỗi dậy, hãy đứng dậy! Luôn luôn như thế: Hãy đứng lên!

… là những “bậc thầy” về cái nhìn tiêu cực

Vấn đề là chúng ta tựa như những bậc thầy về cái nhìn tiêu cực. Chúng ta dễ ở lại trong những vết thương của tội lỗi, và chúng ta không muốn cầu nguyện xin ơn an ủi.

Có những người muốn nuôi sự oán giận với trái tim cay đắng. Những suy nghĩ và thái độ kiểu ấy dẫn đến chỗ thất bại. Chúng ta thử nghĩ đến người nằm bên hồ Si-lô-ê 38 năm. Ông cay đắng nói rằng, khi nước hồ chuyển động, chẳng có ai giúp ông ấy. Đối với những tâm hồn ấy, thì cay đắng lại đẹp hơn là tình yêu dịu ngọt. Và nhiều người thích trái đắng như thế. Có một loại cội rễ của cay đắng, có một loại cay đắng cội rễ, đó là tội nguyên tổ. Khi cay đắng như thế, nó không cho phép chúng ta có được niềm vui.

Khi cay đắng, chúng ta không còn biết ca ngợi Chúa nữa, mà lại luôn phàn nàn than phiền. Sự càm ràm ấy tựa như giai điệu của cuộc sống. Với ông Giona cũng thế, ông phàn nàn và trách Chúa, ông chạy trốn Thiên Chúa. Sau đó, ông bị chết đuối, bị cá nuốt. Thay vì vui vẻ trước sự hoán cải của dân chúng, thì ông lại than phiền vì Thiên Chúa đã không phạt dân, đã tha cho dân, đã cứu dân.

Có vị linh mục nọ, tuy rất tốt lành, nhưng than phiền về mọi sự. Cha ấy ban bí tích giải tội với đầy lòng thương xót. Cha ấy đã già. Nhưng khi mọi người trong nhà xứ hỏi cha ấy nghĩ thế nào về giờ chết, và cha ấy sẽ nói gì khi đến cửa thiên đàng, cha ấy kể: “Khi gặp thánh Phêrô, điều đầu tiên tôi sẽ hỏi: Hỏa ngục ở đâu?” Thế đó, thay vì chào thánh Phêrô, thì cha ấy lại hỏi về hỏa ngục, thật là luôn có cái nhìn tiêu cực. Sau đó, thánh Phêrô cho cha ấy nhìn thấy hỏa ngục. Cha ấy lại hỏi: “Có bao nhiêu người bị kết án?”… Luôn luôn có lối nhìn tiêu cực như thế. Khi đứng trước sự cay đắng, thói tham nhũng, và những phàn nàn oán trách, hôm nay Hội Thánh nói với chúng ta một lời, chỉ một lời thôi: đó là hãy can đảm, hãy can đảm.

Hãy can đảm vì Chúa đến cứu chúng ta

Thật vậy, ngôn sứ I-sai-a mời gọi chúng ta: hãy can đảm lên vì Chúa đến để cứu chúng ta. Trong bài Tin Mừng hôm nay, một số người đã khiêng người tê bại tới để gặp Chúa. Vì có đám đông, nên họ phải dỡ mái nhà và thả giường có người tê bại từ trên mái nhà xuống, trước mặt Chúa Giêsu. Họ không nghĩ rằng, ở đó đang có các người biệt phái và luật sỹ, điều họ muốn và quan tâm là làm sao cho người bệnh được chữa lành.

Thật không dễ chút nào, khi chúng ta biết để cho mình được Chúa an ủi. Vì để làm được điều ấy, chúng ta phải gạt bỏ sự ích kỷ của mình, phải ra khỏi cái cay đắng và càm ràm than trách của bản thân, phải ra khỏi rất nhiều thứ. Hôm nay, thật là tốt để chúng ta làm việc xét mình, tự hỏi lòng mình: Tâm hồn tôi đang trong tình trạng nào? Tôi có cay đắng không? Tôi có buồn không? Lời ăn tiếng nói của tôi ra sao? Tôi có ngợi khen Thiên Chúa vì biết bao điều tốt đẹp, hay là tôi chỉ biết càm ràm than trách? Nguyện xin Chúa ban cho ta ơn can đảm. Bởi vì khi ấy, khi can đảm như thế, Chúa sẽ đến và cứu độ chúng ta. Hãy cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy đến và cứu độ chúng con!
 
Tòa án bác bỏ quảng cáo Giáng Sinh của tổng giáo phận Washington trên tàu điện
Giuse Thẩm Nguyễn
19:42 11/12/2017
(EWTN News/CNA) Một tòa án liêng ban đã bác bỏ yêu cầu của Tổng Giáo Phận Washington được chạy hàng quảng cáo trên các xe tàu điện nhằm giúp cho người ta hiểu rõ thật sự về ý nghĩa của lễ Giáng Sinh.

Thư ký ban Truyền Thông của Tổng Giáo Phận Washington là Ed Mcfadden đã nói rằng “Chúng tôi thất vọng về việc tòa án từ chối yêu cầu khẩn cấp của chúng tôi để được chạy quảng cáo trong chiến dịch quảng bá về Mùa Giáng Sinh có tên là “Tìm món quà hoàn hảo” (Find the Perfect Gift).

“Trong khi thất vọng về phán quyết sơ bộ nói rằng không còn chỗ cho phần quảng cáo của chúng tôi trên xe buýt, chúng tôi sẽ tiếp tục theo đuổi việc quảng cáo này cũng như bảo vệ quyền lợi của chúng tôi để chia sẻ thông điệp về ngày Lễ Giáng Sinh tại các công viên công cộng.”

Quyết định của tòa án quận bác bỏ yêu cầu của Tổng Giáo Phận Washington sau khi Công Ty Vận Chuyển Thành Phố Washington (WMATA) từ chối cho chạy quảng cáo trong chiến dịch, căn cứ vào chính sách năm 2015 nhằm cấm quảng bá hay bài bác tôn giáo trong các quảng cáo.

Tổng Giáo Phận có phần trình bày quảng cáo gồm Ngôi Sao Bethlehem và “Tìm Món Quà Hoàn Hảo” trên trang nhà www.findtheperfectgift.org và dấu hiệu #PerfectGift.

Có một bảng quảng cáo chứa một câu Kinh Thánh đã được đặt tại các bến xe buýt của thành phố thuộc phần điều hành bởi Sở Giao Thông Vận Tải của Thành Phố, chứ không thuộc Công Ty Vận Chuyển Thành Phố Washington. Những quảng cáo trên xe buýt này đã có từ cả mười năm nay nhưng nó chỉ chạy tới những vùng dân cư không đông lắm.

Chánh Án Amy Berman Jackson của tòa án quận cho biết rằng sở dĩ bà quyết định không cho phép quảng cáo của Tổng Giáo Phận Washington trong hệ thống WMATA vì bà tin rằng nó sẽ không có lý nếu dựa trên căn bản về quyền tự do tôn giáo hay tự do ngôn luận. Bà viết rằng:

“Phần quảng cáo này không đề cập đến vấn đề chung chung, nhưng là một đề tài về tôn giáo, mục đích duy nhất là hướng quần chúng về website: www.findtheperfectgift.org nhằm cổ vũ tôn giáo. Trang nhà này nói rõ “Chúa GIÊSU là món quá tuyệt hảo. HãY tìm kiếm món quà tuyệt hảo về tình yêu của Thiên Chúa trong mùa Giáng Sinh này.”

Giuse Thẩm Nguyễn
 
TT. Donald Trump :“Thành phố bảo hộ cho người dân Mỹ, không bảo hộ cho bọn tội phạm nước ngoài.”
Giuse Thẩm Nguyễn
19:50 11/12/2017
(CNSNews.com) Thương cảm cho cái chết của “ một phụ nữ Hoa Kỳ bị giết” bởi một người nước ngoài cư trú bất hợp phát đã từng có tới bẩy lần bị kết án trọng tội – và nay được tuyên án thả tự do, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã cho rằng những chính sách của thành phố bảo hộ là đã bảo vệ kẻ đã giết Kate Steinle khỏi bị trục xuất.

Tuần trước, TT Trump đã tuyên bố rằng thành phố San Francisco, một thành phố bảo hộ, phải chịu trách nhiệm về cái chết của Steinle.

“Cái chết của Kate Steinle là một bi kịch mà lẽ ra đã có thể tránh khỏi. Bà bị bắn bởi một tên tội phạm nước ngoài cư trú bất hợp pháp và đã có tới 7 lần kết án trọng tội và lẽ ra phải trục xuất tới năm lần, nhưng hắn đã được tự do để gây nguy hại cho một công dân Hoa Kỳ vô tội bởi vì những nhà lãnh đạo mỵ dân từ chối bảo vệ biên giới của chúng ta và bởi vì thành phố San Francisco là một thành phố bảo hộ.”

“Trong các tiểu bang và thành phố bảo hộ, người dân vô tội Hoa Kỳ sống nhờ vào lòng thương của bọn tội phạm nước ngoài bởi vì chính quyền tiểu bang và địa phương không tuân thủ luật pháp của chính quyền liên bang và cản trở cơ quan công lực thi hành luật di trú của chúng ta.”

“Tuần trước, trong một bản tuyên án bất công cuối cùng, kẻ giết bà Kate đã hoàn toàn được vô tội về mọi cáo buộc nghiêm trọng. Một lý do nữa làm người dân Hoa Kỳ rất bực mình bởi các thành phố bảo hộ và những chính trị gia chủ trương mở cửa biên giới. Họ đã trở thành vật chắn cho bọn tội phạm nước ngoài thoát khỏi sự cưỡng chế của luật liên bang và những rắc rối liên quan đến ý niệm về một thành phố bảo hộ.”

TT Trump nói rằng thay vì bảo hộ bọn tội phạm nước ngoài, các thành phố bảo hộ cần chú tâm vào việc bảo vệ người dân của mình:

“Chúng ta khóc thương cho những gia đình nạn nhân Hoa Kỳ, dù nguồn gốc từ đâu, không còn người thân xum họp với gia đình trong mùa Giáng Sinh năm nay, do hậu quả của những luật di dân của chúng ta không được thực hiện. Không người Hoa Kỳ nào lại phải chia lìa người thân bởi vì những tội phạm có thể tránh được, gây ra bởi những kẻ cư ngụ bất hợp pháp trên đất nước chúng ta.

“Những thành phố của chúng ta phải bảo hộ người dân Hoa Kỳ, chứ không phải bọn tội phạm nước ngoài.”

TT Trump nói rằng, bảo vệ người dân phải là ưu tiên số một mà bất cứ chính trị gia nào cũng phải ghi tạc vào lòng:

“Chúng ta có thể có những quan niệm khác nhau về kỹ thuật chi tiết trong đường lối về ngân sách hay vận chuyển, nhưng không một giới chức dân cử nào lại có thể bất đồng ý về việc là những ưu tiên cao nhất của chúng ta phải là sự an toàn, thịnh vượng của mọi người dân trong đất nước của chúng ta.”

Giuse Thẩm Nguyễn
 
Chung quanh việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính ở Úc
Vũ Văn An
20:51 11/12/2017
Theo tin Rod Mcguirk, Associated Press, ngày 7 tháng 12, Hạ Viện Úc đã thông qua luật hôn nhân đồng tính, tiếp theo quyết định của Thượng Nghị Viện và cuộc trưng cầu ý dân trước đó.

Mừng vui như cha chết sống lại

Khung cảnh ở Hạ Viện lúc thông qua đạo luật cho thấy một sự vui mừng không khác gì sự vui mừng của một quốc gia vừa chiến thắng một kẻ thù ghê gớm. Lịch sử sẽ phê phán thái độ vui mừng quá trớn ấy. Chẳng qua là sự vui mừng của những kẻ đang đắm tầu vớ được chiếc phao cứu nạn. Cả Turnbull lẫn Shorten đều đang cần được vực dậy trong công luận người Úc.

Từ nay, hôn nhân được luật pháp định nghĩa không còn là sự kết hợp chỉ dành cho 1 người đàn ông và 1 người đàn bà mà là giữa “hai người” tuy vẫn loại bỏ những người khác. Các cụ bảo thủ nên vui mừng vì chưa đến độ “giữa hai hữu thể” (vật + người).

Đạo luật được đa số thông qua, không bị thách thức, dù 5 nhà lập pháp đã đăng ký việc họ chống lại dự luật. Thượng Viện đã thông qua dự luật vào tuần trước với 43 thuận và 12 phiếu chống. Tổng Toàn Quyền Cosgrove đã ký ban hành đạo luật ngay ngày hôm sau trước nụ cười tươi như hoa của Turnbull, người đang có nhiều nguyên cớ để méo mặt. Vẫn có 1 tháng để đạo luật có hiệu lực và lúc ấy, người ta sẽ thấy những đám cưới đồng tính đầu tiên, và dĩ nhiên, các phiên tòa liên tiếp giữa những người vui mừng nhờ luật và những người “khổ tâm” vì luật. Tiền bạc và thì giờ của dân Úc vì những vụ như thế sẽ vơi đi rất nhiều. Các cụ nào lăm le nắm quyền cai trị hẳn phải tính đến chuyện này khi đưa ra ngân sách hàng năm. Đừng vội mừng như cha chết sống lại!

Tự do tôn giáo và ngôn luận

Các tu chính nhằm bảo đảm các quyền tự do ngôn luận và tôn giáo cho những người chống đối hôn nhân đồng tính thẩy đều bị bác bỏ, mặc dù các vấn đề này có thể được xem xét sau. Chính phủ đã cử một ban (panel) để khảo sát việc làm thế nào bảo đảm các quyền tự do tôn giáo một khi hôn nhân đồng tính trở thành một thực tại tại Úc.

Các nhà lập pháp vận động cho quyền bình đẳng hôn nhân lý luận rằng cuộc trưng cầu toàn quốc bằng bưu điện hồi tháng 11 đã truyền lệnh phải có sự thay đổi về định nghĩa của hôn nhân mà thôi, nên việc thay đổi luật lệ không nên bị trì hoãn bởi các xem xét khác.

Đạo luật này cho phép các giáo hội và các tổ chức tôn giáo tẩy chay các đám cưới đồng tính mà không vi phạm các đạo luật cấm kỳ thị.
Những người dân sự hiện đã có quyền chủ tọa các đám cuới (civil celebrants) cũng được quyền từ chối không chủ tọa các đám cưới đồng tính. Nhưng những người đăng ký sau đạo luật này thì không được miễn trừ.

Một trong các tu chính bị bác bỏ liên quan đến quyền được tự do nói lên các quan điểm truyền thống về hôn nhân mà không sợ bị luật trừng phạt. Nó được đề xuất bởi Tổng Trưởng Tư Pháp George Brandis và được Thủ Tướng Malcolm Turnbull ủng hộ, cả hai đều bỏ phiếu thông qua đạo luật.

Cựu Thủ Tướng Tony Abbott, người hết lòng tranh đấu cho hôn nhân đúng nghĩa, nói với Hạ Viện rằng cả Thủ Tướng Turnbull lẫn Thủ Lãnh Đối Lập Shorten đều đã thất bại, không giành được các bảo vệ chi tiết cho các quyền tự do ngôn luận, lương tâm và tôn giáo như đã hứa. Ông bảo: “một lời đoan hứa đã được các nhà lãnh đạo của Hạ Viện này đưa ra và lời đoan hứa này chưa được thực hiện thỏa đáng”.

Ông nêu trường hợp 1 thiếu niên Úc bị mất việc vì chống lại hôn nhân đồng tính và một giám mục bị lôi ra tòa cấm kỳ thị của tiểu bang vì “tội” cổ vũ hôn nhân đúng nghĩa, để cho rằng “điều cuối cùng ta nên muốn làm là bắt người Úc phải chịu các hình thức kỳ thị mới thay cho các hình thức cũ đã biến đi một cách đúng đắn”.

Ngây ngô mùi dê

Điều buồn cười là nhà lập pháp của phe chính phủ, Ông Trevor Evans, loại bỏ khả thể một vụ tương tự như vụ Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đang thụ lý trong đó, một nhà làm bánh từ khước làm bánh cưới cho một cặp đồng tính vì việc này trái với niềm tin tôn giáo của ông. Nhà lập pháp này nói rằng: “Ở đây, ta hãy trung thực, vì để một vụ như thế xẩy ra tại Úc, nó cần phải có một cặp đồng tính lưu ý tới việc đấu tranh nhiều hơn là sự thành công trong đám cưới của họ, phải có một nhà kinh doanh lưu ý tới tín lý tôn giáo hơn là tới thành công trong nghiệp vụ tiểu thương của họ, và cả hai phải dấn thân vào một cuộc tranh đấu.

“Người Úc đặc trưng có thể nghi vấn thiện chí của những người trong cuộc như vụ này nhưng viễn tượng nhỏ nhoi nó có thể xẩy ra không đáng để ta phải giành cho nó cuộc bình luận và tranh luận hết trang này sang trang nọ”.

Làm như người Úc “biết điều” hơn người Mỹ không bằng. Nhưng ở Mỹ làm gì có cảnh người ủng hộ đồng tính cụng đầu người phản đối đồng tính. Mà người phản đối đó từng là Thủ Tướng Chính Phủ?

Nhiều vị giáo phẩm ở Úc cũng có cùng một quan điểm ngây ngô như nhà lập pháp trên. Nhưng lại tự hào là mình có mùi chiên như lời khuyên của Đức Phanxicô mà họ cho là “đồng minh” với họ trong việc ủng hộ hôn nhân đồng tính, trong khi đoàn chiên trực tiếp của họ thì bỏ phiếu phản đối hôn nhân đồng tính hàng loạt. Thành thử đó đâu phải mùi chiên mà là mùi “dê”.

Lớn hơn cả hôn nhân đồng tính

Nói như Evans là nói bừa, mà không hiểu tầm cỡ của vụ trước Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ, tức vụ Masterpiece Cakeshop Ltd v. Colorado Civil Rights Commission, trong đó, nhà làm bánh Kitô hữu Jack Phillips tranh đấu cho quyền không phải nướng bánh cho các nghi lễ đồng tính vốn đi ngược lại niềm tin tôn giáo của ông.

Vụ này được các phân tích gia luật pháp coi là vụ va chạm lớn nhất giữa tự do tôn giáo và việc luập pháp bảo vệ người đồng tính kể từ phán quyết năm 2015 Obergefell v. Hodges hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính.

Emilie Kao, Giám Đốc Trung Tâm DeVos về Tôn Giáo và Xã Hội Dân Sự của Qũy Heritage cho rằng: “Vấn đề này còn lớn hơn cả hôn nhân đồng tính. Vì nó đề cập tới quyền tự do của mọi người Hoa Kỳ được sống, được nghĩ, được nói và được làm việc theo các niềm tin của mình”.

Vụ này sẽ được tối cao Pháp Viện Hoa Kỷ xử vào năm tới. Nhưng cho tới nay, người ta cho rằng lá phiếu của Chánh Án Kennedy sẽ là lá phiếu quyết định, như ông từng là năm 2015 với phán quyết công nhận hôn nhân đồng tính. Chỉ có điều, trong phát biểu miệng đầu tháng 12 này, ông có vẻ nghiêng về tự do tôn giáo, khi bênh vực việc khoan dung đối với những người bất đồng về tôn giáo, một điều ông coi là “chủ yếu trong một xã hội tự do” và chỉ trích ủy ban dân quyền Colorado không tôn trọng hoặc khoan dung đối với các niềm tin tôn giáo của nhà làm bánh.

Hãy nghe phát biểu của chánh án Kennedy: “khoan dung là điều chủ yếu trong một xã hội tự do. Và khoan dung là điều có ý nghĩa nhất khi có sự hỗ tương. Đối với tôi dường như tiểu bang, trong lập trường của mình ở đây, đã không khoan dung và tôn trọng các niềm tin tôn giáo của Ông Phillip… Và, vì đây là chuyện cung cấp ăn uống (accommodations), nên ta giả thiết là còn nhiều tiệm khác, các tiệm bánh khác sẵn có đó. Vậy tại sao lại không qua một tiệm bánh khác? Tại sao lại đi kiện Ông Phillips và mưu toan làm hại việc kinh doanh của ông? Có các giải pháp khác cho việc tạo ra chiếc bánh ngọt này hay không? Đây là một tóm lược lý thú một số sự kiện chủ chốt thuộc vấn đề này, do một tiếng nói báo chí có tính biểu tượng cao về chủ đề này:

'… Tôi nghĩ quả là một sai lầm thiếu khôn ngoan khi kiện nhà làm bánh. Sống và để người ta sống có lẽ là một đáp ứng tốt hơn nhiều. Các xác tín tôn giáo của nhà làm bánh đâu phải là chuyện tầm phào hoặc hiển nhiên thiếu thiện chí, nghĩa là ông ta chỉ bất thình lình trưng dẫn khi cung cấp cho người đồng tính. Chủ nghĩa triệt để của ông khiến ông từ chối không làm cả bánh Halloween nữa là. Nói cho đúng hơn, ông nói ông sẵn sàng cung cấp bất cứ hình thức bánh ngọt nào theo yêu cầu của khách hàng cho các cặp đồng tính, như bánh sinh nhật chẳng hạn, ngoại trừ thứ bánh thiết kế cho các lễ nghi mà xác tín tôn giáo của ông vốn chống đối. Và các xác tín tôn giáo này không thể bị bác bỏ một cách tùy tiện được (cho dù bạn thấy chúng phi lý). Chống đối hôn nhân đồng tính vốn là cột trụ không bị thách thức của mọi tôn giáo lớn của thế giới hàng bao thời đại qua'.

Và do đó, nếu có các giải pháp thay thế, như tìm một tiệm bánh khác, tại sao phải áp đặt điểm này? Tại sao phải cầm vũ khí cưỡng bức một ai đó khi bạn có thể dễ dàng để họ yên, mà bạn vẫn có thể cử hành đám cưới của bạn? Điều này đặc biệt đúng, khi phần lớn luận điểm bào chữa cho việc bình đẳng hôn nhân là: nó không buộc bất cứ ai ở ngoài cuộc hôn nhân ấy phải chấp thuận hay không chấp thuận nó”.

Tranh đấu công lý cho mọi người

Tưởng cũng nên biết năm 2012, Jack Phillips, chủ nhân Masterpiece Cakeshop ở Lakewood, Colorado, nói với hai người đàn ông tới tiệm của ông để đặt làm chiếc bánh cưới rằng ông không thiết kế bánh cho các đám cưới đồng tính. Ông đề nghị bán cho họ chiếc bánh đã làm sẵn hay bất cứ thứ sản phẩm nào khác của tiệm ông. Hai người không chịu, hùng hổ ra khỏi tiệm và sau đó nộp đơn kiện bị kỳ thị tại Ủy Ban Dân Quyền Colorado, mặc dù “hôn nhân” đồng tính chưa hợp pháp tại Colorado lúc đó.

Tháng 12 năm 2013, một chánh án hành chánh ra phán quyết chống lại Ông Phillips, nói rằng thiết kế và sáng tạo bánh ngọt cho đám cưới đồng tính không phải là ngôn luận được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ. Ủy Ban ra lệnh cho Ông Philips phải khởi sự thiết kế bánh cưới theo yêu cầu của khách hàng đồng tính hoặc ngưng hoàn toàn việc thiết kế bánh cưới. Ngoài ra, Ủy Ban còn ra lệnh cho Ông Phillips và nhân viên của Ông phải hoàn tất một chương trình cải tạo và mỗi tam cá nguyện phải phúc trình cho chính phủ việc tuân theo chỉ thị này.
Ông Phillips thua cuộc kháng án ở cấp tiểu bang và Tòa Án Tối Cao của Tiểu Bang từ chối không thụ lý vụ này. Các luật sư của Ông Phillips với Liên Minh Bảo Vệ Tự Do, một tổ chức Kitô Giáo chuyên lưu tâm tới luật lệ công cộng, đã yêu cầu thành công Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ tiếp nhận vụ kháng cáo. Với các tư liệu đệ trình và các luận chứng miệng được đưa ra ngày 5 tháng 12 vừa qua, Tối Cao Pháp Viện sẽ phán quyết vào mùa Hè tới.

Các nhà phân tích luật pháp cho rằng Tối Cao Pháp Viện có thể sẽ đưa ra một phán quyết rộng rãi áp dụng chung cho các nhà buôn bán liên quan tới cưới xin để các tiểu bang và tòa thị chính áp dụng luật cung cấp đồ ăn vào trường hợp hôn nhân đồng tính.

Emilie Kao cho rằng “tôi chắc chắn các quan tòa có thể phán quyết về các quyền của mọi người được mua các hàng hóa và dịch vụ thiết yếu. Luật lệ cung cấp đồ ăn công cộng khởi nguyên nhằm giúp người ta có thể mua được các hàng hóa và dịch vụ căn bản. Họ có thể làm thế mà không buộc những người như Jack Phillips phải phát biểu các sứ điệp nghệ thuật khi sứ điệp này vi phạm các niềm tin của họ”.

Tuy nhiên, Tối Cao Pháp Viện cũng có thể chỉ ban hành một phát quyết hạn hẹp chuyên biệt cho vụ Masterpiece này mà thôi. Gerard Bradley, giáo sư luật của Đại Học Notre Dame, nói rằng Tòa có thể trả vụ này lại cho Tiểu Bang Colorado để xử lại vì có dư bằng chứng cho thấy một trong các Ủy Viên của Ủy Ban Dân Quyền Colorado ngồi xử vụ án nhưng đã thiên vị chống lại tiệm bánh.

Bradley cho rằng Tối Cao Pháp Việm tìm cách tránh né bàn đến vấn đề bao quát hơn tức cân bằng quyền lợi của người đồng tính với quyền tự do tôn giáo. Ông cho hay chánh án Kennedy dường như có thái độ này khi ông bênh vực cả hôn nhân đồng tính lẫn quyền tự do tôn giáo. “Nói các khác, ông không biết phải làm gì. Cũng có thể Chánh Án Kennedy sẽ đứng về phía Ông Phillips, nhưng sẽ viết một ý kiến chỉ liên quan tới các sự kiện đặc thù của vụ này thôi, chứ không giải quyết nhiều khung cảnh cưới xin khác của người đồng tính”.

Douglas Laycock, giáo sư luật tại Trường Luật của Đại Học Virginia, người chuyên nghiên cứu các vụ tự do tôn giáo, nói rằng nếu Tối Cao Pháp Viện ban hành một phán quyết hạn hẹp, có lẽ họ sẽ quyết định vụ án dựa vào quyền tự do thực hành tôn giáo hơn là tự do ngôn luận, và giới hạn vào các đám cưới mà thôi”.

Căn cứ vào các câu hỏi của các chánh án, người ta cho rằng Tối Cao Pháp Viện có thể sẽ quyết định cần phải hạn chế ra sao quyền tự do ngôn luận trong các vụ buôn bán liên quan tới cưới xin. Thí dụ, việc bảo vệ quyền tự do ngôn luận có áp dụng cho các nhiếp ảnh viên, các nghệ sĩ trang điểm, các nhà thiết kế tóc, các nhà may và các đầu bếp hay không?

Các chánh án Ruth Bader-Ginsburg, Stephen Breyer, Elena Kagan và Sonia Sotomayor gợi ý đủ hạng người có thể từ khước phục vụ các đám cưới đồng tính. Chánh án Breyer lý luận rằng nếu nghiêng về phía Ông Phillips, thì Tối Cao Pháp Viện sẽ không thể viết một phán quyết mà không “làm hại tới mọi luật dân quyền khác từ Năm Hai”.

Garnett, thuộc Chương Trình Giáo Hội, Nhà Nước & Xã Hội, cho hay chỉ một số rất nhỏ các vụ liên quan tới các nhà buôn bán chuyện cưới xin phản đối cung cấp điều họ coi là dịch vụ có tính sáng tạo hay nghệ thuật cho các nghi lễ đồng tính mà thôi.
Ông nói: “và bất cứ phán quyết nào cho các tiệm bánh cũng sẽ giới hạn về phạm vi vào các tình thế trong đó chính phủ buộc sự phát biểu và các dịch vụ có sẵn tại một nơi khác. Chứ sẽ không mở rộng tới việc cung cấp thường lệ hay các hàng hóa và dịch vụ thông thường trong lãnh vực thương mại”.

Emilie Kao thì cho rằng Tối Cao Pháp Viện sẽ dựa vào các tiền lệ của họ: “Họ vốn có một số tiền lệ nói rằng việc phát biểu nghệ thuật là tự do ngôn luận được bảo vệ và khi có ý định thông đạt một sứ điệp, thì đó là ngôn luận”. Thành thử thiết kế và sáng tạo chiếc bánh cưới chính là ngôn luận được Tu Chính Án Thứ Nhất bảo vệ.

Kao nói tiếp: “Jack Phillips không tranh đấu Tu Chính Án Thứ Nhất cho riêng Ông. Ông tranh đấu cho mọi người. Ông muốn mọi người có thể có tự do làm việc theo các niềm tin của mình”.

Kao cho rằng khi phán quyết vụ hôn nhân đồng tính (Obergefell), chánh án Kennedy đã viết rằng các cá nhân có thể chống đối cuộc hôn nhân của hai người cùng phái tính dựa vào các tiền đề tôn giáo hay triết học đáng kính của mình, nên bà tin vụ Masterpiece là dịp để Tối Cao Pháp Viện cổ vũ đối thoại, tính đa nguyên và lòng khoan dung bằng cách bảo vệ cả hai bên của cuộc tranh luận về hôn nhân.

Người có tín ngưỡng và thực hành tín ngưỡng ngay lành ở Úc nói riêng và những người chống đối hôn nhân đồng tính nói chung, mà căn cứ vào kết quả trưng cầu thì vẫn chiếm đa số, nếu xét theo tổng số 16 triệu thư gửi đi (chưa tới 8 triệu người minh nhiên ủng hộ hôn nhân đồng tính), chỉ mong được như trên: tôi tôn trọng tự do của anh thì anh cũng nên tôn trọng tự do của tôi. Chỉ là chuyện công lý căn bản, không ngô nghê, mùi dê như một số người ủng hộ hôn nhân đồng tính, trong đó, có các cụ “vítvồ” Công Giáo “ấm ớ hội tề”.
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Trăng Rằm Mùa Giáng Sinh
Vũ Đình Huyến Lm.
09:28 11/12/2017
TRĂNG RẰM MÙA GIÁNG SINH
Ảnh của Vũ Đình Huyến, Lm. (CRM)
Sáng dậy ngước mắt ngẩng lên trời
Tưởng mẹ maria đáp xuống trăng
Lòng con nhớ tới mẹ vô nhiễm
Dọn lòng con đón Chúa giáng sinh
(VĐH)
 
VietCatholic TV
TV Thời Sự Giáo Hội Và Thế Giới Ngày Nay, Thứ Hai 11/12/2017
VietCatholic Network
00:39 11/12/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây


Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô. VietCatholic xin kính chào quý vị và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria. Kính thưa quý vị và anh chị em, chương trình Truyền Hình của chúng tôi hôm nay gồm có các tin chính như sau:

1- Kinh Truyền Tin với Đức Thánh Cha, Chúa Nhật 10 tháng 12.

2- Đức Giáo Hoàng Phanxicô muốn điều chỉnh Kinh Lạy Cha.

3- Đức Thánh Cha tiếp ân nhân tặng hang đá và cây thông Giáng Sinh.

4- Hai bổ nhiệm Tổng Giám Mục quan trọng trên thế giới.

5- Đức Cha Dominic Mai Thanh Lương, Giám Mục tiên khởi Việt Nam tại Hoa Kỳ đã qua đời.

6- Nghị sĩ Công Giáo chỉ trích cuộc vận động ''ly hôn không có lỗi'' tại Anh.

7- Hai Giám Mục Anh Giáo xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo.

8- Vua nhạc Rock Johnny Hallyday của Pháp Tuyên Xưng Đức Tin Qua Âm Nhạc vừa qua đời.

9- Giới thiệu Thánh Ca: Một lần cho muôn đời.

Xin mời quý vị theo dõi phần tin chi tiết
 
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 11/12/2017: Câu Chuyện Ngạc Nhiên
VietCatholic Network
07:55 11/12/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây


1. Nhân đức khiêm nhường

Nhân đức khiêm nhường là một ơn không thể thiếu trong đời sống người Kitô hữu. Đức Thánh Cha chia sẻ như thế trong thánh lễ sáng thứ Năm 7 tháng 12 tại nhà nguyện Marta.

Bài đọc trích sách tiên tri Isaia có nói: “Từ gốc Giêsê, sẽ đâm ra một chồi non. Từ chồi non ấy, Thần Khí Chúa sẽ ngự xuống, tức thần khôn ngoan và thông suốt, thần chỉ dẫn và sức mạnh, thần hiểu biết và đạo đức. Thần Khí ấy sẽ làm cho Ngài biết kính sợ Chúa.” Đó là những ơn phúc của Chúa Thánh Thần. Và mỗi Kitô hữu là một chồi non như thế. Mỗi người tiến triển từ những chồi non để nên thành toàn, để trở nên viên mãn trong Chúa Thánh Thần. Đó là cuộc sống của người Kitô hữu.

Chúng ta cần ý thức rằng, mỗi người chúng ta là đều là chồi non, và chồi non ấy cần lớn lên, cần được lớn lên trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Chồi non cần lớn lên cho đến lúc thành toàn, cho tới khi viên mãn trong Thần Khí. Nhiệm vụ của người Kitô hữu là gì? Đó là luôn luôn bảo vệ mầm non ấy, để mầm non ấy có thể lớn lên trong chúng ta, để bảo đảm rằng mầm non ấy có thể tăng trưởng, có thể lớn mạnh trong Thánh Thần.

Vậy đâu là lối sống của các Kitô hữu? Đó là sống như Chúa Giêsu đã sống. Đó là sống khiêm nhường như Chúa. Chúng ta cần có đức tin và đức khiêm nhường để có thể tin rằng: mầm non bé nhỏ ấy, ơn sủng ấy có thể ngày càng tiến triển, lớn mạnh, sung mãn trong Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần khiêm tốn để tin rằng, Chúa Cha là Chúa trời đất. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói: Chúa Cha đã giấu không cho những người khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng đã tỏ cho những người đơn sơ bé mọn. Khiêm nhường có nghĩa là trở nên bé nhỏ, bé nhỏ như hạt giống, như mầm non. Biết mình bé nhỏ, để biết được rằng mình cần Chúa Thánh Thần làm cho mạnh mẽ tiến về phía trước, để vươn tới sự viên mãn thành toàn.

Nếu có ai đó tin rằng: khiêm tốn có nghĩa là lịch sự, là học thức, là nhã nhặn… thì nên nhắm mắt lại thầm thì cầu nguyện, và sẽ thấy rằng: “Không, khiêm tốn không phải như thế!” Nếu như vậy, làm thế nào để biết rằng mình khiêm tốn hay không?

Có một dấu hiệu, một dấu chỉ, một tín hiệu, chỉ có một: Đó là chấp nhận chịu sỉ nhục. Khiêm tốn mà không có chịu sỉ nhục, thì chưa phải là khiêm tốn. Người khiêm nhường là những người nam người nữ, là những người có khả năng chịu đựng biết bao nhục nhã, có khả năng nhận lấy những sỉ nhục, giống như Chúa Giêsu đã chịu đựng. Chúa chịu sỉ nhục ghê gớm, Chúa bị sỉ nhục ghê gớm.

Chúng ta biết về gương lành của biết bao vị thánh. Các ngài không những chịu đựng bị sỉ nhục, không những chấp nhận những sỉ vả, mà các ngài còn mong ước, còn xin cho được nên giống Chúa Giêsu. Xin Chúa ban cho mỗi người chúng ta ơn sủng ấy, để Ngài gìn giữ những người bé nhỏ hướng tới sự viên mãn trong Thần Khí, để chúng ta không quên đi cội rễ của sự khiêm nhường là chấp nhận chịu sỉ nhục.

2. Câu Chuyện Ngạc Nhiên

Tại miền Provence thuộc miền Nam nước Pháp, có một máng cỏ khá nổi tiếng. Ða số các nhân vật trong máng cỏ, du khách thường để ý đến một con người nhỏ bé với hai bàn tay mở ra trống trơn, nhưng gương mặt lại để lộ một vẻ ngạc nhiên khó tả. Chính vì thế mà người ta đặt tên cho nhân vật này là “ngạc nhiên”.

Người địa phương thường giải thích về sự ngạc nhiên trên gương mặt của nhân vật này bằng một câu chuyện như sau: Một hôm tất cả các nhân vật trong máng cỏ, kể cả mấy chú bò lừa, đều tỏ ra khó chịu đối với nhân vật có tên là “ngạc nhiên” này, bởi vì anh ta không có gì để mang tặng cho Chúa Hài Nhi, ngoài hai bàn tay trắng của anh. Họ sỉ vả anh như sau: “Mày không biết xấu hổ sao? Mày đến chầu Hài Nhi Giêsu mà không mang theo gì cả?”.

Nhưng con người có tên là “ngạc nhiên” ấy không để lộ một phản ứng nào, đôi mắt của anh vẫn mở to và chăm chú nhìn vào Hài Nhi Giêsu.

Những lời rủa sả cứ tiếp tục trút xuống trên anh, đến độ Ðức Maria phải lên tiếng để biện hộ cho anh như sau: “Quả thực anh “ngạc nhiên” đã đến với Hài Nhi Giêsu với hai bàn tay trắng. Nhưng anh đã mang đến món quà cao đẹp nhất: đó là sự ngạc nhiên của anh! Ðiều này có nghĩa là Tình Yêu bao la của Thiên Chúa đã chiếm trọn tâm tư của anh”.

Và Ðức Mẹ kết luận như sau: “Thế giới này sẽ kỳ diệu biết bao nếu luôn có những con người như anh “ngạc nhiên”, biết ngây ngất vì ngạc nhiên”.

Người ta thường nói: “ngạc nhiên” là khởi đầu của khám phá. Có biết ngạc nhiên, có biết đặt câu hỏi, người ta mới đặt ra giả thuyết rồi mới tìm tòi, khảo sát và khám phá... Sự tiến bộ của loài người bắt nguồn từ chính sự ngạc nhiên.

Trong lĩnh vực siêu nhiên cũng thế, Thiên Chúa đã ban cho con người khả năng biết ngạc nhiên, biết chiêm ngắm để khám phá ra Tình Yêu bao la của Ngài. Cả vũ trụ là một quyển sách luôn được mở ra để mời gọi con người tìm đọc được Lời Ngỏ yêu thương của Chúa. Lịch sử của nhân loại, cuộc đời của mỗi người cũng là một kỳ công, qua đó Thiên Chúa không ngừng bày tỏ Tình Yêu của Ngài.

Ðức Kitô Phục Sinh mang lại cho chúng ta sức sống mới với đôi mắt mới. Với đôi mắt mới ấy, chúng ta không ngừng được mời gọi để đi vào sự ngạc nhiên và ngây ngất trước Tình Yêu của Thiên Chúa. Tình Yêu ấy nhiệm màu đến nỗi chúng phải vượt qua nhãn giới bình thường của chúng ta để nhìn thấy được và cảm nếm được những gì không nằm trong sự đo lường, tính toán của chúng ta. Do đó, người có cái nhìn ngạc nhiên và ngây ngất luôn phó thác cho Tình Yêu của Chúa... Trong lúc thịnh vượng, họ thốt lên lời ca chúc tụng tri ân đã đành, mà đứng trước thất bại, khổ đau, mất mát, họ vẫn có thể nhìn ra dấu ấn Tình Yêu của Chúa.

3. Ba loại ngăn trở trong tâm hồn

Trong tâm hồn mỗi người đều có ơn thánh: chúng ta phải tìm thấy ơn ấy, nài xin Chúa nâng đỡ, để nhận ra chúng ta là những tội nhân. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ trong đó ngài tập trung đề cập đến động lực ẩn sau những ngôn từ sáo rỗng, những lời tự biện minh, hoặc những càm ràm trách móc. Ngài cũng cảnh báo về loại tinh thần chỉ thay đổi hời hợt vẻ bề ngoài, của những người luôn nói rằng mọi thứ sẽ thay đổi mà thực chất chẳng đổi thay gì.

Ân sủng của Thiên Chúa thì lớn hơn những ngăn trở của tội lỗi. Đó là kinh nghiệm, là sức mạnh thúc đẩy đời sống người Kitô hữu. Có loại “ngăn trở mở - ngăn trở hiển hiện” phát sinh từ ý muốn ngay lành, ví như trường hợp của thánh Phaolô. Thánh nhân bước đầu đã chống lại ân sủng, đã ngăn trở Chúa vì ngài quá nhiệt thành với Lề Luật, nhưng rồi ngài bị thuyết phục và làm theo thánh ý Thiên Chúa. Chúa Giêsu Phục Sinh nói với Phaolô và Phaolô đã hoán cải. Ngăn trở theo kiểu của Phaolô là một loại ngăn trở mạnh mẽ và cởi mở, vì đã mở ra cho ân sủng để rồi hoán cải. Thế đó, tất cả chúng ta đều là người tội lỗi cần hoán cải.

Thế nhưng, có những “ngăn trở ẩn giấu” và rất nguy hiểm vì không ai nhìn thấy. Mọi người đều muốn che giấu những ngăn trở ấy, những cản trở ân sủng Chúa. Chúng ta phải tìm cách đưa chúng ra trước mặt Chúa, để Ngài có thể thanh tẩy chúng ta. Những ngăn trở ẩn giấu ấy ví như trường hợp của các Tiến sĩ Luật trong vụ kết án thánh Têphanô. Thánh nhân mạnh mẽ lên tiếng tố giác các Tiến sĩ Luật vì họ chống lại Chúa Thánh Thần nhưng lại làm như thể là họ đang tìm kiếm vinh quang Thiên Chúa. Khi nói ra sự thật ấy, thánh nhân đã nhận lấy phúc tử đạo.

Có ba loại ngăn trở ẩn giấu. Thứ nhất là ngăn trở ẩn giấu dưới lời nói trống rỗng. Trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói, không phải tất cả những người nói “Lạy Chúa! Lạy Chúa!” là sẽ được vào Nước Trời. Trong dụ ngôn về hai người con được cha sai đi làm vườn nho cũng thế: một đứa nói không rồi sau đó có đi làm, một đứa nói có rồi sau đó lại không đi. Có kiểu nói vâng, luôn luôn là vâng, nhưng chỉ mang nghĩa xã giao mà thôi, vì thực sự lại có nghĩa là không. Thế nên, có người luôn miệng nói có và rằng chúng tôi sẽ thay đổi mọi thứ, nhưng thực ra thì chẳng làm gì. Đó là kiểu sáo rỗng.

Thứ hai là kiểu biện minh. Có người luôn luôn có lý do hợp lý để phản đối. Ở đó không có mùi thơm của Thiên Chúa, nhưng là mùi hôi của ma quỷ. Người Kitô hữu không cần biện minh cho bản thân. Vì khi tìm mọi cách biện minh cho vị thế của mình, chúng ta không còn đi theo điều Chúa mời gọi nữa.

Thứ ba là những lời trách móc. Khi bạn trách móc và xét đoán người khác, thì bạn quên nhìn lại bản thân và quên rằng chính bạn cũng cần sám hối, và như thế là chống lại ơn sủng, là giống như người Pharisêu trong dụ ngôn về người thu thuế và người Pharisêu cầu nguyện trong đền thờ.

Để kết luận, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em đừng sợ nếu mỗi người trong chúng ta nhận thấy những ngăn trở trong cõi lòng mình. Vì những điều ấy hiển hiện trước mắt Chúa. “Lạy Chúa, xin hãy nhìn con đang cố che đậy, đang cố làm điều ấy và tránh lời Ngài.” Nói như thế thì có đẹp không? Không. “Lạy Chúa, với sức mạnh lớn lao, xin hãy giúp con. Ân sủng của Ngài sẽ chiến thắng ngăn trở của tội con. Lạy Chúa, con là kẻ tội lỗi, xin cứu giúp con!” Đó là cách cầu nguyện để chuẩn bị tâm hồn đón chờ Chúa Giáng Sinh.

4. Chúa Giêsu đem đến sự đổi mới không theo kiểu trang điểm mà là đổi mới thực sự tâm hồn

Chúng ta hãy trở về với Chúa Giêsu, vì Người đã thực hiện cuộc sáng tạo mới, khi giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ tại nhà nguyện Santa Marta khi phân tích bài đọc trích sách ngôn sứ Isaia trong đó vị tiên tri nói sa mạc sẽ nở hoa, người mù sẽ thấy, kẻ điếc nghe được. Tất cả những điều ấy nói với chúng ta về sự đổi mới. Tất cả đổi thay từ xấu xí sang xinh đẹp, từ xấu xa đến tốt lành. Có một sự thay đổi để trở nên tốt hơn. Đây là những gì mà người dân được báo trước về điều mà Đấng Cứu Thế mang tới.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chữa lành. Người thực thi con đường của những đổi thay cho dân chúng và đó là lý do người ta đi theo Chúa. Điều này rất đặc sắc. Người ta đi theo Chúa vì sứ điệp của Chúa đụng vào tâm hồn con người. Dân chúng chứng kiến Chúa chữa lành con người và thế là dân chúng đi theo.

Thế nhưng Chúa Giêsu không chỉ làm thay đổi từ xấu thành đẹp, từ ác thành thiện, mà Người làm nên một sự biến đổi. Không phải là biến đổi theo kiểu làm đẹp, kiểu trang điểm, mà là biến đổi tận căn từ nội tâm. Sự biến đổi sâu xa ấy là cuộc sáng tạo mới. Thiên Chúa đã sáng tạo thế giới, con người sa ngã trong tội lỗi, và Chúa Giêsu thực hiện cuộc tái tạo, cuộc sáng tạo mới. Đây chính là sứ điệp của Tin Mừng. Bạn thấy điều ấy rất rõ: trước khi chữa lành cho người bất toại, Chúa đã tha tội cho anh. Khi ấy Chúa thực hiện cuộc sáng tạo mới nơi anh và Chúa thực hiện quyền năng sáng tạo. Khi làm như thế, Chúa làm cho một số người bị sốc, một số người cảm thấy chướng tai gai mắt. Các luật sĩ bắt đầu lý luận và thì thầm, vì họ không chấp nhận quyền năng của Chúa. Chúa Giêsu nói rằng, Người có thể làm cho chúng ta từ những kẻ tội lỗi trở thành những con người mới.

Chúa đến chữa lành tâm hồn và thực hiện cuộc sáng tạo mới nơi chúng ta. Hãy thay đổi! Vì đó là sức mạnh của ân sủng mà Chúa Giêsu đem đến. Chúng ta phải vượt thắng cám dỗ rằng “Con không thể làm như thế”. Thay vào đó, thì hãy “biến đổi”, hãy để Chúa Giêsu thực hiên cuộc sáng tạo mới nơi bạn. Chính Chúa đã nói: “Can đảm lên!”

Tất cả chúng ta đều là tội nhân, nhưng hãy nhìn vào gốc rễ của tội lỗi, và ở nơi đó, Chúa đã cúi xuống mà thực hiện cuộc tái tạo, Ngài thực thi công lý, và bạn sẽ là con người mới. Nhưng nếu chúng ta nói: “Vâng, vâng, con có tội, con đi xưng tội… với đôi lời, và rồi con lại tiếp tục như cũ…”, nếu cứ như thế, chúng ta sẽ chẳng được Chúa biến đổi. Không phải là chúng ta chỉ tin và thế là xong chuyện. Không! Tội lỗi của chúng ta có tên tuổi hẳn hoi, nào là con đã làm điều này điều kia và con cảm thấy xấu hổ trong lòng! Con mở tâm hồn ra với Chúa mà nài xin: “Lạy Chúa, xin cứu chữa con, xin cứu chữa con!” Và như thế chúng ta can đảm bước đi trong đức tin tinh tuyền.

Thường thì chúng ta cố tình che giấu sự nguy hiểm trầm trọng của tội lỗi, ví như khi chúng ta đầy lòng ghen tị. Khi che giấu như thế thì thật là tệ hại! Điều ấy giống như nọc độc của con rắn, và nó sẽ ra sức phá hủy. Hãy đi vào tận gốc rễ của tội lỗi chúng ta, hãy dâng những tội lỗi và nết xấu ấy cho Chúa, vì Người có cách giúp chúng ta gỡ bỏ những tội lỗi ấy, và trong đức tin Người sẽ dẫn chúng ta tiến về phía trước.

Để kết luận, Đức Thánh Cha nói:

Có vị thánh nọ thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa, Ngài có vui không?” Chúa nói: “Không!” – “Nhưng thưa Chúa, con đã dâng tất cả cho Chúa rồi mà!” – “Không, có cái gì đó còn thiếu thiếu…” Người ấy tiếp tục kiên nhẫn cầu nguyện, cầu nguyện, và thưa lên: “Con xin dâng lên Chúa điều này? Lạy Chúa, có được không?” – “Không!” – “Vẫn còn thiếu điều gì đó…” – “Nhưng lạy Chúa, con đã quên điều gì?” – “Đó là tội của con! Hãy dâng tội của con cho Ta!” Đó là điều mà hôm nay Chúa mời gọi chúng ta: “Hãy đến đây! Dâng tội lỗi của con cho Ta, và Ta sẽ làm cho con trở thành con người mới.” Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để tin như thế.
 
Thế Giới Nhìn Từ Vatican 13/12/2017: Nhìn lại những chuyến tông du của Đức Thánh Cha trong năm 2017.
VietCatholic Network
20:56 11/12/2017
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Thắp sáng cây thông và hát thánh ca Giáng Sinh tại Vatican

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Lúc 4 giờ rưỡi chiều 7-12, hang đá khổng lồ và cây thông giáng sinh đã được khánh thành tại Quảng trường thánh Phêrô, trước sự hiện diện của Đức Hồng Y Giuseppe Bertello, Chủ tịch phủ Thống đốc thành Vatican, chính quyền và giáo quyền miền Elk bên Ba Lan, và Đan viện Montevergine, cùng với đông đảo các tín hữu.

Trước đó, vào ban sáng cùng ngày, Đức Thánh Cha đã tiếp kiến hai phái đoàn tổng cộng 4 ngàn người gồm các ân nhân đã tặng hang đá và cây thông Giáng Sinh được đặt tại Quảng trường thánh Phêrô.

Cây thông đỏ cao 28 mét, đường kính 10 mét ở gốc, do miền Elk bên Ba Lan tặng và chở qua 2.200 cây số đến Vatican hồi đầu tháng 12 này.

Hang đá máng cỏ năm nay do Đan viện Biệt Hạt Montevergine dòng Biển Đức, thuộc miền Campania nam Italia, thực hiện theo nghệ thuật hang đá hồi thế kỷ 18, theo truyền thống cổ kính nhất ở miền Napoli. Hang đá được bố trí trên diện tích 80 mét vuông của hang đá, chiều cao tối đa là 7 mét, với 20 pho tượng bằng đất nung.

Trong buổi tiếp kiến, Đức Thánh Cha nhiệt liệt cám ơn các ân nhân cũng như chào thăm chính quyền và đại diện các tổ chức đã cổ võ sáng kiến này, đặc biệt là Đức Viện Phụ Đan viện Montevergine và Đức TGM giáo phận Warmia, và Đức Giám Mục giáo phận Elk của Ba Lan.

Ngài đề cao cây thông và hang đá như những biểu tượng làm chúng ta thấy cụ thể hơn điều chúng ta cảm nghiệm trong sự Giáng Sinh của Con Thiên Chúa. Đó là những dấu hiệu sự cảm thương của Chúa Cha trên trời, sự tham gia và gần gũi của Chúa đối với nhân loại: con người không cảm thấy bị bỏ rơi trong tăm tối của thời gian, nhưng được viếng thăm và đồng hành trong những khó khăn của họ.

Đức Thánh Cha nói thêm rằng “cây thông hướng lên cao khích lệ chúng ta cũng hướng về những hồng ân cao cả nhất (Xc 1 Cr 12,31), nâng mình lên trên những mây mù che phủ, để cảm nhiệm điều đẹp đẽ và vui mừng được chìm đắm trong ánh sáng của Chúa Kitô.” Cây thông năm nay được đưa từ Ba Lan, là dấu chỉ niềm tin của một dân tộc, qua dấu hiệu này, muốn biểu lộ lòng trung thành của mình đối với Tòa Thánh Phêrô”.

Về hang đá, năm nay được làm theo nghệ thuật miền Napoli và lấy hứng từ các công việc từ bi thương xót, Đức Thánh Cha nói: “Các công việc này nhắc nhở chúng ta điều Chúa nói: “Tất cả những gì các con muốn người khác làm cho các con, thì cả các con cũng hãy làm cho họ” (Mt 7,12). Hang đá là nơi gợi ý, qua đó chúng ta chiêm ngắm Chúa Kitô, khi mang lấy những lầm than của con người, Ngài mời gọi chúng ta cũng hãy làm như vậy, qua những hoạt động từ bi bác ái.

Thông thường, cây thông Giáng sinh được dựng lên vào đầu mùa Vọng. Một số gia đình ở Mỹ và Canada dựng cây Giáng sinh cả tuần trước Lễ Tạ Ơn. Ở Ý và Á Căn Đình, cùng với nhiều quốc gia ở châu Mỹ Latin, cây Giáng sinh được dựng lên ngày 08 tháng 12 lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội và được giữ cho đến ngày 6 tháng 1, Lễ Hiển Linh. Một số gia đình Công Giáo còn giữ cho đến Lễ Dâng Chúa vào đền thánh.

Đầu thế kỷ 20, cứ 5 gia đình ở Bắc Mỹ thì có một gia đình có cây Giáng sinh, nhưng ngày nay hầu như gia đình nào cũng có cây Giáng Sinh. Vào những năm đầu thế kỷ 20, người dân Bắc Mỹ thường trang trí cây thông bằng vật trang trí do chính tay họ làm ra. Vật trang trí truyền thống của người Canada và người Mỹ gốc Đức gồm có quả hạnh nhân, bánh hạnh nhân với nhiều hình dạng thú vị khác nhau. Những hạt bắp chiên nhiều màu sắc, được trang trí cùng những quả phúc bồn tử và các chuỗi hạt. Cũng vào thời gian này bắt đầu xuất hiện những dây đèn trang trí trên cây Giáng sinh, nhờ nó cây thông rực rỡ hơn nhiều lần. ánh sáng trang trí bằng đèn điện kéo dài hơn và an toàn hơn rất nhiều so với ánh sáng toả ra từ những ngọn nến. Tại Liên Xô cũ, sau cách mạng tháng Mười, với chủ trương tận diệt tôn giáo, cây Giáng sinh bị cấm, nhưng phong tục này lại được lặng lẽ phục hồi sau năm 1935, và người ta gọi là Cây năm mới. Tại châu Âu, những cây thông thuộc chi Lãnh sam thường được sử dụng làm cây Giáng sinh, bên cạnh đó là chi Vân sam, và đặc biệt là Thông Nordmann hiện nay rất được ưa chuộng.

2. Đức Thánh Cha kêu gọi tổng thống Trump tôn trọng hiện trạng của thành Thánh Giêrusalem

Đức Thánh Cha Phanxicô đã bày tỏ những quan ngại của ngài trước quyết định của Tổng thống Mỹ Donald Trump công nhận Giêrusalem là thủ đô của Israel.

Đức Giáo Hoàng nói ngài “không thể giữ im lặng” trước “những tình huống phát sinh trong những ngày gần đây”, và kêu gọi tôn trọng “hiện trạng của thành phố, phù hợp với các nghị quyết liên quan của Liên hợp quốc”.

“Giêrusalem là một thành phố độc đáo, thánh thiêng đối với người Do Thái, Kitô hữu và người Hồi giáo, là những người tôn kính nơi Thánh của các tôn giáo tương ứng của mình, và thành phố này có một ơn gọi đặc biệt cho hòa bình.

“Tôi cầu nguyện xin Chúa rằng căn tính này sẽ được duy trì và tăng cường vì lợi ích của Thánh Địa, Trung Đông và toàn thế giới, cũng như xin cho sự khôn ngoan và thận trọng sẽ chiếm ưu thế, để tránh thêm các yếu tố căng thẳng mới trong một thế giới đã lung lay và được ghi dấu bằng quá nhiều những xung đột tàn bạo”

Tổng thống Trump đã công bố rằng Hoa Kỳ công nhận thành phố này là thủ đô của Israel, và Hoa Kỳ sẽ di chuyển sứ quán của mình từ Tel Aviv đến đó.

Mặc dù tiến trình xây dựng sứ quán mới sẽ mất vài năm, Trump đã chỉ đạo Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ “bắt đầu tiến trình”.

Một quan chức Mỹ nói: “Chính sách của Mỹ là thành thật vì thực tế Giêrusalem là thủ đô của Israel. Nó đã là thủ đô của người dân Israel kể từ thời cổ đại. Không ai có thể phủ nhận điều đó, đó chỉ là một thực tế.”

Tình trạng của thành phố vẫn còn đang trong vòng tranh cãi. Người Palestine nhấn mạnh rằng không có hy vọng về một thỏa thuận hòa bình, trừ khi họ có thể sử dụng phần phía đông thành phố này làm thủ đô của họ, nhưng người Israel cho rằng cả thành phố là của riêng họ.

Một phát ngôn viên của Tổng thống Palestine Mahmood Abbas mô tả động thái này là “không thể chấp nhận”.

Ông Abbas cũng được tường trình là đã gọi cho Đức Thánh Cha Phanxicô để bày tỏ mối quan ngại của ông về động thái này.

Các nhà lãnh đạo Liên đoàn Ả rập và từ Thổ Nhĩ Kỳ, cho đến Ai Cập, Jordan, Ả-rập Xê-út và Iraq đã kêu gọi Tổng thống Trump xem xét lại.

3. Chuyến đi của Đức Thánh Cha đến Cairo, Ai Cập

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Chuyến tông du của Đức Thánh Cha trong hai ngày 28 và 29 tháng Tư tại Ai Cập được nhiều người quan tâm vì tầm ảnh hưởng của chuyến tông du này đối với hòa bình thế giới, và công cuộc đối thoại với Hồi Giáo và Giáo Hội Chính Thống Giáo Coptic. Ngoài ra, trong 18 chuyến tông du hải ngoại của Đức Thánh Cha, chuyến tông du này là chuyến đi rất nguy hiểm xét vì tình hình an ninh tại Ai Cập.

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong các bài đọc lễ Vọng Phục sinh, chúng ta nghe bài trích sách Xuất Hành, đoạn nói về việc con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn.

Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Môsê rằng: “Có gì mà kêu đến Ta? Hãy bảo con cái Israel cứ lên đường. Còn ngươi, đưa gậy lên, và giơ tay trên biển, hãy phân rẽ biển ra, cho con cái Israel đi vào giữa lòng biển khô cạn. Còn Ta, Ta sẽ làm cho lòng người Ai Cập ra chai đá, chúng sẽ rượt theo sau các ngươi. Bấy giờ Ta sẽ tỏ vinh quang cho Pharaon, toàn thể quân lực, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết. Người Ai Cập sẽ biết Ta là Chúa khi Ta tỏ vinh quang cho Pharaon, chiến xa và kỵ binh của vua ấy biết”.

Những người Coptic ngày nay là dòng dõi người Ai Cập đã được đề cập trong bài trích sách Xuất Hành này, nghĩa là dòng dõi của dân tộc do các vua Pharaon lãnh đạo. Trong tổng số 95 triệu dân Ai Cập ngày nay, họ chiếm 10%. 90% còn lại là những người ngoại bang, là những người Ả rập tràn vào Ai Cập theo cơn lũ của những cuộc thánh chiến Hồi Giáo do Muhammad gây ra.

Năm 1952, theo sau cuộc cách mạng Ai Cập nhằm xóa bỏ chế độ thực dân của Anh, người Coptic, đa số theo Chính Thống Giáo và Công Giáo bị coi là công dân hạng hai, và ở nhiều vùng nông thôn, họ bị đuổi tận giết tuyệt. Hàng mấy thập niên sau cuộc cách mạng 1952, người ta vẫn còn phải chứng kiến những cuộc di cư khổng lồ của người Coptic ra nước ngoài để tránh bị diệt chủng. Bên cạnh hơn 9 triệu người Coptic vẫn còn sống bên trong lãnh thổ Ai Cập còn có khoảng 2 triệu người Coptic sinh sống tại hải ngoại.

Các Kitô hữu Coptic vẫn còn sống bên trong lãnh thổ Ai Cập thường bị công khai phân biệt đối xử và chính phủ nước này chủ yếu là do người Hồi giáo nắm giữ thường xuyên bị chỉ trích vì đã làm ngơ trước cảnh ngộ của họ. Vì thế, từ thời Đức Giáo Hoàng Piô thứ 12, tình cảnh của các Kitô hữu Coptic luôn là một mối âu lo của các triều Giáo Hoàng.

4. Đức Bênêđíctô thứ 16 lên tiếng bênh vực các Kitô hữu Coptic và phản ứng từ Ai Cập

Chỉ sáu năm trước, vào ngày 1 tháng Giêng năm 2011, một quả bom đã phát nổ bên trong một nhà thờ Chính Thống Coptic ở Alexandria, khiến 23 người chết. Một ngày sau đó, tại Rôma, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI lên án hành động tàn bạo này trong buổi đọc Kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật 2 tháng Giêng.

Ngài nói: “Tôi rất buồn khi hay tin về vụ tấn công nghiêm trọng chống lại cộng đồng Kitô giáo Coptic ở Alexandria, Ai Cập. Những hành động hèn nhát gieo rắc chết chóc như thế, cũng như vụ ném bom vào nhà các tín hữu Kitô tại Iraq nhằm buộc họ phải ra đi, xúc phạm đến Thiên Chúa và toàn thể nhân loại, là những người chỉ mới hôm qua đã cầu nguyện cho hòa bình và bắt đầu một năm mới với đầy hy vọng…Với các thành viên trong gia đình của họ, và nhân dân Ai Cập, tôi bày tỏ lời chia buồn chân thành của tôi và bảo đảm với anh chị em những lời cầu nguyện của tôi xin Chúa ban ơn chữa lành cho những người phải đau khổ vì biến cố này.”

Một tuần sau đó, hôm 10 tháng Giêng, 2011, trong cuộc gặp gỡ với ngoại giao đoàn cạnh Tòa Thánh, Đức Thánh Cha Bênêđíctô thứ 16 nói:

“Đối với những nhà cầm quyền và các nhà lãnh đạo Hồi giáo, tôi lặp lại lời kêu gọi chân thành của tôi rằng các đồng bào Kitô hữu của họ phải được sống an ninh, trong khi tiếp tục đóng góp cho xã hội mà họ là những thành viên đầy đủ… Có cần tôi lặp lại điều này không? Ở Trung Đông, các Kitô hữu là những công dân đích thực có gốc gác nguyên thủy ở đó, trung thành với tổ quốc của họ và đảm nhận những nhiệm vụ của họ đối với đất nước họ. Đương nhiên là họ đáng được hưởng tất cả các quyền công dân, tự do lương tâm, tự do tín ngưỡng và tự do trong việc giáo dục, giảng dạy và sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng”.

Giáo sĩ Ahmad al-Tayeb, vốn dĩ đã bất mãn với Đức Bênêđíctô thứ 16 sau diễn từ của ngài tại Đại học Regenburgs hôm 12 tháng Chín, 2006 lập tức lên tiếng chỉ trích Đức Bênêđíctô là “có thành kiến với Hồi Giáo” và “xen vào nội bộ Ai Cập”. Một ngày sau đó, chính phủ Ai Cập của tổng thống Hosni Mubarak triệu hồi đại sứ cạnh Tòa Thánh về nước.

5. Đức Phanxicô lên tiếng và phản ứng của Ai Cập

Những gì đã xảy ra sáu năm trước đây, tức là vào tháng Giêng, 2011, đã lặp lại tương tự như vậy trước chuyến tông du của Đức Phanxicô. Bom đã nổ trong hai vụ tấn công khủng bố nhắm vào các tín hữu Kitô Coptic. 45 người chết và 125 người khác bị thương trong ngày Chúa Nhật Lễ Lá đẫm máu.

Và khi đến Cairo, Đức Thánh Cha Phanxicô, cũng lặp lại tương tự những gì Đức Bênêđíctô thứ 16 đã từng nói:

“Tôi cũng nghĩ đến nạn nhân các vụ tấn công vào các nhà thờ Coptic, trong tháng Mười Hai vừa qua và mới gần đây thôi ở Tanta và Alexandria. Với các thành viên của gia đình họ, và với mọi người dân Ai Cập, Tôi xin gửi lời chia buồn và lời cầu nguyện tận đáy lòng tôi xin Chúa ban cho họ được mau chóng chữa lành các vết thương.”

Lần này, người ta không rút đại sứ về nước, nhưng đứng dậy vỗ tay!

Ahmad al-Tayeb, Đại Imam của Đại Học Al-Azhar, trường thần học quan trọng bậc nhất trong thế giới Hồi Giáo Sunni, không những đã vỗ tay mà chính ông còn phụ họa với Đức Giáo Hoàng trong việc lên án những hành vi bạo lực tôn giáo.

Ông Tayeb thậm chí đã mở đầu diễn từ của mình bằng cách kêu gọi tất cả mọi người trong hội trường đứng dậy và yên lặng trong một phút để tưởng niệm các nạn nhân khủng bố và như một cử chỉ liên đới và an ủi gia đình họ!

Hôm thứ Sáu 28 tháng Tư, các kênh truyền hình toàn thế giới truyền đi hình ảnh Đức Giáo Hoàng và ông Tayeb ôm nhau thắm thiết, và ông ta lộ một vẻ xúc động mạnh khi Đức Thánh Cha Phanxicô gọi ông là “người anh em của tôi”.

6. Chuyến tông du của Đức Thánh Cha đến Fatima

Chuyến tông du thứ hai của Đức Thánh Cha trong năm 2017 là chuyến đi đến Fatima nhân dịp kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra tại đây. Hoàn toàn khác với chuyến tông du tại Ai Cập mà chúng tôi vừa đề cập, chuyến tông du này của Đức Thánh Cha mang đậm mầu sắc tôn giáo.

Lúc 2h chiều ngày thứ Sáu, 12 tháng 5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã khởi hành từ sân bay Fiumicino của Rôma để bay sang phi trường quân sự Monte Real của Leiria, Bồ Đào Nha.

Đức Thánh Cha đã đáp xuống phi trường Monte Real của Leiria, Bồ Đào Nha. Sau nghi thức đón tiếp chính thức, Đức Thánh Cha đã có cuộc họp với tổng thống Marcelo Rebelo de Sousa của Bồ Đào Nha tại căn cứ không quân Monte Real. Sau đó, ngài đã di chuyển bằng trực thăng tới sân vận động Fatima và rồi đi xe đến ngôi đền.

Lúc 18:15, Đức Thánh Cha đã thăm và cầu nguyện tại nguyện đường nơi Đức Mẹ đã từng hiện ra với các trẻ mục đồng và đọc kinh Mân Côi cùng một con số đông đảo hàng trăm ngàn tín hữu hành hương, được bắt đầu vào lúc 21:30.

Sáng Thứ Bẩy 13-5, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự thánh lễ trọng thể tôn phong lên bậc hiển thánh 2 chân phước thiếu nhi đã được Đức Mẹ hiện ra cách đây đúng 100 năm: Phanxicô và Giacinta Marto.

7. Tầm quan trọng của Fatima

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Những đôi mắt của thế giới Công Giáo đã hướng về ngôi đền Bồ Đào Nha, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 Đức Mẹ hiện ra tại Fatima. Và người ta không chỉ nghĩ đến Fatima bởi vì Đức Giáo Hoàng đến đó. Ngài không phải là vị Giáo Hoàng đầu tiên đến đây - ngài là vị giám mục Rôma thứ tư đến thăm ngôi đền này. Người ta chú ý vì tầm quan trọng của Fatima, và, một trăm năm sau biến cố Đức Mẹ hiện ra, Fatima còn quan trọng hơn bao giờ hết.

Tại Fatima, Đức Mẹ đã nói thẳng thừng không quanh co. Mẹ đã nói rõ với chúng ta rằng tất cả những tội lỗi đều có những hậu quả nhất định, và những hậu quả này thật đáng sợ.

Hỏa ngục là một chủ đề bị bỏ quên trong thần học Công Giáo và trong các bài giảng thuyết những năm về sau này, và nó cần phải được đặt lại đúng vị trí của nó trong cả hai trường hợp. Thật rất là lạ lùng khi chúng ta cố ý lờ đi khái niệm hỏa ngục, bởi vì 100 năm qua kể từ năm 1917, thế giới đã chứng kiến sự tăng trưởng kinh hoàng những ví dụ rất cụ thể về địa ngục mà con người đã tạo ra cho nhau. Tại sao chúng ta lại khó tin vào hỏa ngục ở bên kia thế giới – là một nơi hoàn toàn không có tình yêu thương của Thiên Chúa - khi mà trước mắt chúng ta là những bức tranh và những âm thanh mô tả sống động về những địa ngục trên trái đất mà con người đã tạo ra cho đồng loại của mình: các hố chôn người trong Thế giới Chiến tranh Thứ nhất, các quần đảo ngục tù Gulag, các trại tử thần Đức Quốc xã, và những cánh đồng chết tại Campuchia; và cơ man những thí dụ kinh hoàng khác vẫn còn đang tiếp diễn chung quanh chúng ta.

Những ví dụ đáng sợ này lẽ ra đã quá đủ để thuyết phục chúng ta rằng chúng ta có khả năng gây ra các tội lỗi gian ác và các hành động gian ác ấy có những hậu quả thật kinh khủng. Có lẽ các nhà giảng thuyết và nhà thần học đương đại né tránh đề cập đến hỏa ngục, vì sợ mích lòng cử tọa của mình.

8. Nước Nga trở lại

Biến cố 100 năm Đức Mẹ đã lôi kéo thế giới chú ý đến một lời hứa khác của Đức Mẹ là nước Nga sẽ trở lại.

Đức Mẹ nói tại Fatima:

“Nếu nhân loại đáp ứng lời kêu gọi của Mẹ, nước Nga sẽ trở lại và thế giới sẽ có hòa bình. Nếu không, nước Nga sẽ truyền bá những thuyết sai lầm trên toàn thế giới, sẽ gây ra nhiều cuộc chiến tranh và bách hại Giáo Hội. Kẻ lành sẽ chịu tử đạo, Đức Thánh Cha sẽ chịu nhiều đau khổ, nhiều quốc gia sẽ bị hủy diệt. Nhưng sau cùng, Trái tim Mẹ sẽ toàn thắng. Đức Thánh Cha sẽ dâng nước Nga cho Mẹ. Nước Nga sẽ trở lại và nhân loại sẽ được Chúa ban cho một thời hòa bình.”

Chiến thắng của Trái Tim Vô Nhiễm là lời hứa của Fatima. Cuối cùng, sự gian ác của Lenin, Stalin và Brezhnev đã bị cuốn trôi bởi Trái tim Đức Mẹ. Chiến tranh và đau khổ chìm vào quá khứ, và chỉ có tình yêu là chiến thắng.

7 năm trước đây, vào buổi trưa ngày 13 tháng Năm 2010, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô thứ 16 đã dâng Thánh Lễ trọng thể kính dâng Đức Mẹ Fatima cho khoảng 500,000 khách hành hương.

Trong bài giảng lễ, Đức Thánh Cha nhắc cho mọi người nhớ lại những thời điểm gần kề Đệ Nhất Thế Chiến (1914-1918) khi chủ nghĩa Bolshevik đang hùng bá một phương trời và lôi kéo đông đảo các quốc gia trên thế giới, kể cả các quốc gia vốn có truyền thống Công Giáo.

“Lúc ấy Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra với ba em nhỏ chăn cừu đơn sơ và trao ban cho họ một thông điệp khẩn thiết: Đức Mẹ Maria kêu gọi mọi người mau hoán cải và sám hối và đền tội.”

Đức Thánh Cha trân trọng nhắc lại lời Đức Trinh Nữ Maria đã phán hứa năm xưa là “cuối cùng Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Mẹ sẽ thắng. Nước Nga sẽ trở lại.”

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Lời hứa của Đức Mẹ đã là một hiện thực. Đức Thượng Phụ Kirill của Chính Thống Giáo Mạc Tư Khoa và toàn Nga đã nhận xét như trên khi khánh thành ngôi nhà thờ mới kính Đức Mẹ tại Astrakhan hôm 26 tháng 9 vừa qua.

9. Chuyến tông du của Đức Thánh Cha tại Colombia

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Chuyến tông du thứ 20 từ đầu triều Giáo Hoàng của Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ngài đến vùng đất bị chiến tranh tàn phá trong suốt hơn nửa thế kỷ.

Với chuyến tông du bắt đầu từ ngày 6 và kết thúc vào ngày 11 tháng 9, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiếp bước Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, là các vị Giáo Hoàng đã đến Colombia vào năm 1964 và năm 1986.

Chuyến viếng thăm của Đức Thánh Cha diễn ra vào một thời điểm quan trọng trong tiến trình hòa bình đã được Giáo Hội Công Giáo và chính Đức Giáo Hoàng ủng hộ mạnh mẽ. Chính phủ đã ký một thỏa thuận với nhóm phiến quân FARC hồi tháng 11 năm ngoái sau 52 năm xung đột khiến 260,000 người thiệt mạng, 60,000 người mất tích, và hơn 7 triệu người phải di dời.

Trong chuyến viếng thăm 5 ngày này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã thăm bốn thành phố là thủ đô Bogotà, Villavicencio, Medellin và Cartagena. Ngài đã gặp gỡ các nhà lãnh đạo chính trị và các nhà lãnh đạo Giáo Hội. Bên cạnh đó, Đức Thánh Cha cũng đã gặp các nhóm nạn nhân chiến tranh, các gia đình, những người tàn tật, những người nghèo, và cả với các du kích quân trước đây, cùng với các giám mục Colombia anh em, các Giám Mục trong tổ chức CELAM cũng như các linh mục, nữ tu, và anh chị em giáo dân.

10. Cây Thánh Giá Hòa Giải ở Colombia

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Một trong những câu chuyện cảm động được nhiều người nhắc đến là buổi gặp gỡ bên cạnh cây thánh giá hòa giải giữa Đức Thánh Cha và những người trước đây đã từng coi nhau là những kẻ thù không đội trời chung.

Buổi gặp gỡ đã diễn ra tại công viên các vị lập quốc Colombia, tiếng địa phương gọi là Los Fundadores.

Cây Thánh Giá hoà giải được dựng tại quảng trường các vị lập quốc là cây Thánh Giá đã được rước qua vùng Đông Ianes hồi năm 2012. Dưới đế Thánh Giá có gắn một bảng ghi số các nạn nhân của các vụ bắt cóc, sát hại và mìn chống người gây đổ máu cho vùng này trong cuộc nội chiến dài từ năm 1964 tới 2016.

Sau tiếng kèn truy diệu và một phút thinh lặng cầu nguyện cho những người đã chết. Kế đó là các chứng từ của nhiều người Colombia từng chịu đau khổ cách này cách khác trong cuộc nội chiến tiếp diễn hơn một nửa thế kỷ qua.

Trong diễn từ với những người hiện diện, Đức Thánh Cha nói:

“Tôi hiện diện ở đây không hẳn để nói, nhưng để gần gũi anh chị em và được tận mắt nhìn thấy anh chị em, lắng nghe anh chị em và mở lòng tôi ra đối với chứng tá sống và tin của anh chị em. Và nếu anh chị em cho phép, tôi cũng muốn được ôm và cùng khóc với anh chị em. Tôi muốn chúng ta cùng nhau cầu nguyện và tha thứ cho nhau, tôi cũng cần xin sự tha thứ, để, cùng nhau, chúng ta có thể tìm kiếm và tiến vào đức tin và đức cậy”.

Đức Giáo Hoàng kết thúc các nhận định của ngài bằng lời kêu gọi hòa bình và hoà giải, đặt các ý nguyện này dưới chân Tượng Chịu Nạn Bojayá, tức bức tượng cụt tay cụt chân cứu được từ ngôi thánh đường bị đạn súng cối phá sập khiến 79 người thiệt mạng.

11. Lời cuối cùng Đức Thánh Cha lưu lại cho dân tộc đau khổ Colombia

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Một trong những khoảng khắc cảm động khác là những lời cuối cùng Đức Thánh Cha Phanxicô muốn lưu lại với người dân Colombia.

Ngài nói trong thánh lễ tại cảng Contecar ở thành phố Cartagena vào chiều Chúa Nhật 10 tháng 9, trước khi ra phi trường Cartagena đáp máy bay trở lại Rôma.

Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến, tôi muốn để lại cho anh chị em một từ cuối cùng. Chúng ta không hài lòng với “bước đầu tiên”. Thay vào đó, chúng ta hãy tiếp tục cuộc hành trình mới mỗi ngày, đi gặp người khác và khuyến khích sự hòa hợp và tình huynh đệ. Chúng ta không thể đứng yên. Tại chính nơi này, ngày 8 tháng 9 năm 1654, Thánh Phêrô Claver qua đời, sau bốn mươi năm tự nguyện làm nô lệ, hoạt động không mệt mỏi vì lợi ích của người nghèo. Ngài không đứng yên: bước đầu tiên của ngài được tiếp bước theo sau bởi nhiều người khác. Gương sáng của Ngài lôi kéo chúng ta ra khỏi chính mình để gặp gỡ những người hàng xóm của chúng ta.

Anh chị em thân mến, Colombia cần đến anh chị em. Hãy tiến ra ngoài để gặp gỡ họ. Dẫn dắt họ đến việc chấp nhận hòa bình, không bạo lực. Hãy là “những nô lệ của hòa bình, mãi mãi”. Hãy là “NHỮNG NÔ LỆ CỦA HÒA BÌNH, MÃI MÃI”