Ngày 18-11-2015
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Vua vũ trụ, Vua hiền từ
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi DCCT
02:34 18/11/2015
Chúa Nhật XXXIV THƯỜNG NIÊN, năm B
Đn 7, 13-14 Kh 1, 5-8 Ga 18, 33b-37

VUA VŨ TRỤ,VUA HIỀN TỪ

Lễ Chúa Kitô Vua được Giáo Hội mừng trọng thể vào Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ để nhắc nhở chúng ta về một Vị Vua Kitô quyền năng tuyệt đối, Đấng tạo dựng vũ trụ, con người. Ngài có toàn quyền trên trời dưới đất. Nhưng Vị Vua này lại là Vị Vua nhân từ, hay chạnh lòng thương xót. Vị Vua hiền lành và khiêm nhường, cưỡi lừa đi vào thành thánh Giêrusalem được trẻ em Do Thái, và nhiều người tung hô, nhưng Ngài đi vào Giêrusalem để chấp nhận ý của Thiên Chúa Cha là chết để cứu chuộc nhân nhân loại. Thánh lễ này đã được Đức Cố Giáo Hoàng Piô XI thiết lập để công khai trình bày lập trường, quan điểm của Giáo Hội về Vương quyền của Chúa Giêsu.

Sách Đanien đoạn 7, 13-14 trong bài đọc I miêu tả về Vương quyền và Vương quốc của một con người. Vương quyền, Vương quốc của Ngài sẽ tồn tại muôn đời, không một sức mạnh nào có thể phá hủy nổi. Đấng được ban cho quyền năng, vinh dự và vương quốc mà ngôn sứ Đanien đã nói tới chính là Đức Kitô mà sách Khải Huyền của thánh Gioan khẳng định lại rõ ràng, dứt khoát là Đức Kitô, Đấng đã dùng Máu của mình mà rửa hết mọi người sạch mọi tội lỗi, là Đấng đã yêu thương chúng ta. Do đó, bài sách Khải Huyền làm sáng tỏ về Vương quyền của Đức Kitô đã được Cựu Ước loan báo, đề cập đến từ trước.

Hai đoạn trích trọng sách ngôn sứ Đanien và sách Khải huyền đưa chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng của thánh Gioan hôm nay. Đây là câu chuyện xoay quanh tước hiệu “ Vua “ mà Philatô đã chất vấn Chúa Giêsu khi những kẻ bắt Ngài trao nộp Ngài cho Ông. Thực tế, trước mặt Philatô, Chúa Giêsu đã im lặng. Bởi vì, tước hiệu “ Vua người Do Thái “ là do dân chúng gán cho Ngài, chứ không phải tự Ngài nói lên để người Do Thái tung hô Ngài. Thực ra, đây là lời kết án của các vị lãnh đạo tôn giáo và của những người ghét, chống đối Chúa Giêsu, đã dùng tước hiệu này để kết tội Chúa Giêsu, gán ghép cho Ngài muốn lật đổ những người cầm quyền Do Thái ủng hộ quân xâm lược là Đế Quốc Roma.

Chúa Giêsu im lặng trước câu hỏi này của Philatô, bởi vì Ngài hiểu rất rõ đây chỉ là lời họ dựa trên sự bịa đặt của dân Do Thái để kết án Ngài. Và khi đứng trên cương vị để thẩm vấn Chúa Giêsu về tước hiệu “ Vua Do Thái “. Chúa Giêsu xác nhận Ngài là Vua, nhưng là Vua thiêng liêng, nước của Ngài không thuộc thế gian này. Vương quyền của Chúa Giêsu không phải là Vương quyền chính trị. Vương quyền của Ngài là Vương quyền thượng giới. Nước của Ngài không được thiết lập do sức mạnh, Ngài không có vũ khí. Những người lãnh đạo tôn giáo, và dân sự lúc đó luôn nghĩ về một vị Vua theo ý trần gian. Họ đứng trên quan điểm chính trị để lên án Chúa, nhưng thực ra Chúa Giêsu thiết lập Vương quốc của Ngài dựa trên sự thật vì Ngài là Con Thiên Chúa. Chính vì thế, nhưng ai làm Con Thiên Chúa là sống trong sự thật vì họ đón nhận Đức Kitô. Với nhãn giới của Chúa Giêsu, Vương quyền của Ngài không tách rời sự thật. Philatô không thể nào hiểu được sự thật khi Ông đang đối diện với Chúa Giêsu là Sự Thật. Philatô đứng trên bình diện chính trị. Ông đại diện cho quyền bính ở trần gian. Còn Chúa Giêsu là chính Sự Thật. Do đó, Philatô không thể nào hiểu nổi việc của Chúa Giêsu.

Hôm nay, Giáo Hội toàn cầu mừng lễ Chúa Kitô Vua để nhắc nhở cho mọi Kitô hữu về cùng đích của lịch sử cứu rỗi. Đây là lời tuyên tín về một Vị Vua Giêsu nhân từ, hiền lành, khiêm tốn. Vị Vua hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một : Vua Vũ Trụ, Vua con người,Vị Vua đến để phục vụ, chứ không đến để được phục vụ, hầu hạ. Giáo Hội luôn có sứ mạng loan báo về Nước Trời, nghĩa là Vương quốc của Đấng cứu thế. Tuy nhiên, Vương quốc ấy không chỉ đóng khung ở nước Do Thái mà phải được loan truyền khắp nơi, tới tận cùng trái đất. Nước Thiên Chúa không thuộc thế gian này nhưng Nước Trời lại được xây dựng bằng những con người bằng xương bằng thịt. Do đó, người Kitô hữu không được thờ ơ với những thực tại trần thế mà phải góp tay xây dựng Nước Đời và Nước Trời hài hòa đúng theo ý Chúa muốn.

Lạy Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ, Vua loài người, xin giúp chúng con biết sống hiền hòa, khiêm nhường và bác ái như Chúa là Vua nhưng đã đến để phục vụ con người, yêu thương, cứu vớt con người. Xin cho chúng con tấm lòng đơn sơ, chân thật để chúng con biết xây dựng Vương quốc yêu thương của Chúa giữa thế giới này. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao Philatô lại không hiểu sự thật là gì ?
2.Vương quốc của Chúa Giêsu là Vương quốc nào ?
3.Nước Chúa ở đâu ?
4.Chúng ta hiểu thế nào về tước hiệu “ vua “ ?
 
Vua vương quốc yêu thương và an bình
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
08:54 18/11/2015
VUA VƯƠNG QUỐC YÊU THƯƠNG VÀ AN BÌNH

Lễ Chúa Giêsu Kitô Vua Vũ Trụ

(Ga 18, 33b-37)

Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội long trọng cử hành lễ Chúa Kitô là Vua vũ trụ với niềm vui khôn tả, đồng thời quả quyết rằng Người là Vua và là Chúa chúng ta.

Đã từ lâu, trong ngôn ngữ thông thường, người ta đã gán cho Chúa Giêsu Kitô tước hiệu Vua ; Đúng, Người là Vua trên hết các vua, là Chúa trên hết các Chúa, trổi vượt trên hết mọi loài, thống trị lòng người, Người hiển trị đến muôn đời. Chúa Giêsu là vua lòng người, với tình yêu và lòng trùi mến, Người lôi kéo mọi con tim đến với mình. Người là "Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận thần tính và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang..." (Ca nhập lễ).

Lễ Chúa Kitô Vua tương đối mới, nhưng có nền tảng Thánh Kinh và thần học sâu xa. Từ tước hiệu vua, được áp dụng cho Chúa Giêsu thật quan trọng trong các Tin Mừng, chính Tin Mừng cung cấp cho chúng ta một bài đọc đầy đủ về dung mạo cũng như sứ vụ của Đấng Cứu Thế. Khởi đi từ "Vua người Do thái", dẫn đến tước hiệu "Vua của thế giới", "Chúa của vũ trụ và lịch sử", vượt qua mọi kỳ vọng của dân Do thái.

Trọng tâm tiến trình mạc khải về vương quốc của Vua Giêsu, còn tiềm ẩn bí mật về cái chết và sự phục sinh của Người. Khi bị treo trên thập giá, các thượng tế, luật sĩ và kỳ lão nhạo báng Người rằng : "Nếu ông là vua Do thái ; thì hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta tin nào" (Mt 27, 42).

Trong thực tế, Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa đã tự ý nộp mình chịu khổ hình và chịu chết trên cây Thánh Giá, một nghịch lý của Vua Giêsu thể hiện thánh ý Chúa Cha trên sự bất tuân của tội lỗi. Chính sự hiến mình làm của lễ đền tội này mà Chúa Giêsu đã trở thành Vua vũ trụ, như Người đã tuyên bố với các tông đồ sau khi sống lại, "Thầy đã được trao mọi quyền năng trên trời dưới đất" (Mt 28, 18).

Quyền bính của Chúa Kitô Vua ở đây là gì ? Hẳn không phải là quyền bính của các vua trần thế và những kẻ có thế lực ; nhưng là quyền năng thiêng liêng có thể ban sự sống thần linh để giải thoát chúng ta khỏi sự dữ, đánh bại sự thống trị của thần chết. Ðây là quyền năng yêu thương, một quyền năng có thể rút từ sự ác ra sự lành, làm cho tâm hồn chai đá ra mềm mỏng, mang lại hòa bình cho những cuộc xung đột, biến tăm tối thành hy vọng. Vương quốc của Chúa Kitô không hề áp đặt bất cứ điều gì và luôn tôn trọng tự do của con người. Khi Philatô hỏi Chúa Giêsu rằng : "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" (Ga 18, 33) Bị hỏi, nhưng với tư cách là Vua, Chúa Giêsu không trả lời câu hỏi của Philatô, mà Chúa hỏi lại ông : "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" (Ga 18, 35)

Khi thi hành sứ mạng công khai, đã có lần đám đông dân chúng muốn tôn Chúa lên làm vua, nhưng Người lại chốn khỏi Vương quốc thế trần, đúng như Chúa nói với Philatô : "Nước tôi không thuộc về thế gian này"(Ga 18, 36). Chúa là Vua không có quân đội, không khí giáp.

Cung điện Người ở đâu ? Thưa, Người ngự trị trong lòng chúng ta. "Vua không có cung điện" nhưng toàn trái đất thuộc về Người. Nhờ Người mà thế giới này được tác tạo. Trước Philatô, kẻ có quyền ra án tử cho Chúa, Chúa khẳng định, "Tôi đến trần gian để làm chứng cho Chân Lý" (Ga 18, 37).

Vậy chúng ta theo ai : Thiên Chúa hay ma quỷ? Sự thật hay giả dối? Tùy chúng ta lựa chọn. Chọn theo Chúa Kitô không bảo đảm cho chúng ta sự thành công theo những tiêu chuẩn thế gian, nhưng bình an và niềm vui thì chỉ mình Người mới có thể mang lại cho chúng ta. Với Người, chúng ta có thể xây dựng yêu thương và an bình. Chúa là "Vua, của một vương quốc gồm những người tội lỗi!" Chúng ta phải thường xuyên lặp lại : Xin thương đến con là kẻ tội lỗi, để chúng ta nhìn anh em mình với lòng từ bi. Họ cũng là những tội nhân nghèo như chúng ta. Chúa là Vua của những người nghèo! Chúng ta biết tình yêu đầy ân sủng của Thiên Chúa là sự giàu có của chúng ta, chúng ta sẽ không bao giờ thiếu nó. Chúa là "Vua của một vương quốc huynh đệ!" Hãy là những người anh em yêu thương nhau! Trong mắt Chúa Giêsu, Bình an và Tình yêu lan tỏa. Vì vậy, Tin Mừng trình bày Chúa Giêsu, Vua vũ trụ bị kết án, Philatô là kẻ xét xử Người.

Khi nói : "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Philatô hỏi lại: "Vậy ông là Vua ư?" Chúa Giêsu đáp : "Quan nói đúng. Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng Tôi"(Ga 18, 36-37).

Chúng ta đang ở trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian. Chúng ta có bổn phận làm cho tình yêu, sự dịu dàng, hiền lành, vẻ đẹp trở lại vương quốc này. Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, Người đã không đến để xét xử nhân loại, nhưng là để cứu. Người là Đấng công chính duy nhất, thế chỗ cho tội nhân.

Để phục vụ Đức Giêsu Vua, chúng ta phải chấp nhận làm việc mỗi ngày cho Triều Đại cánh chung đang đến... điều ấy không xảy ra mà không có chiến đấu : Vâng, Vua chúng ta yêu cầu chúng ta cầm sẵn vũ khí trong tay để chiến đấu, chống lại "các thế lực của bóng tối" (Cl 1, 13). Cùng với Người, chúng ta nắm chắc phền thắng (x. Ga 16, 33), nhưng với điều kiện là chúng ta cũng tham gia chiến đấu, chiến đấu hàng ngày với ba thù là ma quỉ, thế gian và xác thịt… vì "những ngày là xấu xa! "(Ep 5, 16) và rằng "cả thế giới nằm dưới sự thống trị của ma quỷ"(1 Ga 5, 19).

Làm cho Chúa hiển trị, tiên vàn vẫn là làm cho Chúa hiển trị trong lòng chúng ta... khi tuyên xưng đức tin trong cuộc sống hàng ngày cách cá nhân hay cộng đoàn, chúng ta không xấu hổ! (LG §31). Lời Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói cùng dân chúng ngày 15 tháng 6 năm 1993 vẫn còn vang vọng : "Hãy đi đến các ngả đường, sống đức tin của chúng con với niềm vui vẻ, hãy mang đến cho mọi người Ơn cứu độ của Đức Kitô, ơn ấy phải thâm nhập vào trong gia đình, trường học, trong các nền văn hóa và đời sống chính trị!" Đừng sợ phải đi ngược dòng! Làm cho Đức Kitô hiển trị, là trở nên tông đồ lôi kéo nhiều linh hồn về với Chúa là Vua Vương Quốc Yêu Thương và An Bình.

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Hồng Y Parolin nói về mối đe dọa của ISIS: Vatican có thể là mục tiêu
Giuse Thẩm Nguyễn
09:12 18/11/2015
Đức Hồng Y Parolin nói về mối đe dọa của ISIS: Vatican có thể là mục tiêu, nhưng chúng ta không lùi bước.

(EWTN News/CAN)- Qua cuộc tấn công bạo động vào Paris hôm Thứ Sáu tuần trước, Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Hồng Y Parolin nói rằng trong khi các nước nhỏ cũng có thể là mục tiêu của bọn cực đoan, nhưng họ sẽ không cho phép mình bị “ tê liệt” bởi sợ hãi.

Đức Hồng Y cũng ủng hộ hành động quân sự toàn cầu chống lại ISIS, nhóm đã nhận trách nhiệm tấn công vào hôm Thứ Sáu, bằng cách lập lại lời tuyên bố của Đức Giáo Hoàng Phanxico vào tháng Tám năm 2014 trên đường trở về Rome từ Nam Hàn rằng “ ngăn chặn xâm lược bất công là hợp pháp” khi nói đến sự can thiệp của quốc tế vào Iraq.

“Việc xảy ra ở Pháp đưa đến thực tế rằng không ai có thể tự cho mình ra ngoài danh sách của mối đe dọa của khủng bố.” Đức Hồng Y Pietro Parolin đã như vậy trong cuộc phỏng vấn của tờ La Croix xuất bản ngày 15 tháng 11.

“Vatican có thể là mục tiêu vì vai trò lãnh đạo tôn giáo. Chúng ta sẽ tăng cường an ninh tại Vatican và vùng phụ cận. Nhưng chúng ta sẽ khôngcho phép mình bị tê liệt vì sợ hãi.”

Đức Hồng Y Palolin đã trả lời như vậy sau khi những kẻ khủng bố Hồi Giáo tiến hành hàng loạt các cuộc tấn công ở Paris ngày 13 tháng 11, giết chết 120 người, 350 người khác bị thương và 99 người trong số này đang trong tình trạng nguy kịch.

Nhiều báo cáo cho biết một băng hình do ISIS phát hành sau các cuộc tấn công cho biết là các nước thành viên khác của Liên Minh Quân Sự do Hoa Kỳ đứng đầu chống lại Iraq và Syria có thể là mục tiêu khủng bố kế tiếp, có thể là London, Washington, Rome và Iran.

Dù Đức Giáo Hoàng Phanxico và thành phố Vatican có thể là mục tiêu của bọn khủng bố, Đức Hồng Y Parolin nói rằng Đức Giáo Hoàng sẽ vẫn tiếp tục công việc của Ngài. “Những đe dọa này không làm thay đổi một chút nào cả chương trình làm việc của Đức Giáo Hoàng.”

Ngài nhắc đến ý kiến của Đức Giáo Hoàng vào ngày 14 tháng 11, một ngày sau cuộc tấn công Paris, trong đó Đức Giáo Hoàng gọi những cuộc tấn công ấy là “ một cuộc thế chiến thứ ba cắn lẻ.”

Đức Hồng Y giải thích thêm rằng “cắn lẻ” là nói về cuộc chiến tranh không có tuyên chiến, một cuộc chiến không cân xứng. Một cuộc chiến không xảy ra ở chiến trường mà lại nhắm vào các nạn nhân gồm trẻ em vô tội, người lớn và người già.”

Cũng có nghĩa là “chúng ta sẽ không biết việc “cắn lẻ” tiếp sẽ xảy ra ở đâu.” Ngài nói. Nhóm khủng bố đã cảnh báo rằng đây mới chỉ là bước đầu. Hành động khủng bố của nhóm Hồi Giáo cực đoan này có thể xảy ở bất cứ nơi đâu.

Khi được hỏi là Tòa Thánh có cùng quan điểm với Đức Giáo Hoàng Phanxico là “ngăn chặn xâm lược bất công là hợp pháp” khi tiến hành ném bom ở Syria không? Đức Hồng Y trả lời là “ Có, vì bạo lực mù thì không thể chấp nhận được, bất kể nó từ đâu.”

Đức Giáo Hoàng đã lên tiếng ủng hộ việc quốc tế can thiệp vào tình hình Iraq khi trên đường về Roma sau khi thăm Nam Hàn vào ngày 4 tháng 8 năm 2014.

Đức Giáo Hoàng nói với các phóng viên “ Trong những trường hợp có sự xâm lược bất công này, tôi chỉ có thể nói là hợp pháp để ngăn chặn xâm lược.”

“Tôi muốn nhấn mạnh đến động từ “ngăn chặn”. Tôi không nói là “ bỏ bom” hay “tiến hành chiến tranh”, nhưng “ ngăn chặn”nó.

Đức Hồng Y Parolin giải thích rằng Đức Giáo Hoàng không nói về cái gì mới, nhưng lấy ra từ giáo lý Công Giáo ở đoạn 2308 rằng “Mỗi công dân và mỗi chính quyền đều có bổn phận làm việc chung để tránh chiến tranh,” chính quyền “ sẽ không bị khước từ quyền tự bảo vệ chính đáng” khi sự nguy hiểm về chiến tranh còn tiếp tục, khi mà chưa có một uy quyền quốc tế có thẩm quyền và có trong tay những lực lượng đầy đủ và khi tất cả những cố gắng duy trì hòa bình bị thất bại.

“Vì vậy, người chịu trách nhiệm có quyền trang bị vũ khí đánh đuổi kẻ xâm lược để bảo vệ cộng đồng”, Đức Hồng Y Parolin nói như vậy.

Được ban hành bởi Thánh Giáo Hoàng Paul II, Giáo Lý Công Giáo là bản tóm tắt và phác thảo về những giáo huấn của Giáo Hội Công Giáo.

Đoạn 2309, Giáo lý Công Giáo đưa ra những “điều kiện nghiêm ngặt” khi dùng lực lượng quân sự để tự vệ và những yếu tố trong học thuyết mệnh danh là “ chiến tranh công chính.”

- Những thiệt hại mà kẻ xâm lược gây ra cho quốc gia hay cho cộng đồng các quốc gia phải có tính cách lâu dài, nặng nề và chắc chắn.

- Tất cả những biện pháp nhằm chấm dứt tình trạng này đã tỏ ra không thực hiện được hay vô hiệu.

- Có đủ điều kiện nghiêm chỉnh để thành công.

- Việc xử dụng vũ khí sẽ không mang lại những tai hại và những xáo trộn nghiêm trọng hơn là tai hại mà ta muốn loại bỏ.

Đức Hồng Y nói rằng những điều kiện này cũng phù hợp với “ việc phòng vệ chính đáng trong phạm vi biên giới để bảo vệ công dân và đẩy lùi khủng bố.”

“Trong trường hợp có sư can thiệp của nước ngoài, cần phải có sự hợp pháp qua cộng đồng thế giới và làm rõ vai trò của Tòa Thánh là tuân thủ những điều kiện này, không chỉ nhằm ngặn xâm lược.” Ngài nói.

Đức Giáo Hoàng cũng đã phát biểu vào tháng Tám năm 2014 dựa vào Giáo Lý Công Giáo là phương tiện ngăn chặn xâm lược cần phải được cân nhắc và bạo lực không được dùng như là cái cớ cho những mục tiêu khác.

“Ngăn chặn xâm lược bất công là hợp pháp” nhưng Ngài lại lấy làm tiếc rằng “ nhiều lần mượn cái cớ này, các cường quốc đã kiểm soát các quốc gia khác.”

Đức Giáo Hoàng nói tiếp, “ một quốc gia đơn lẻ không thể đánh giá làm thế nào để ngăn chặn kẻ xâm lược không công bằng.”

Trong cuộc phỏng vấn dành cho báo La Croix, Đức Hồng Y nói rằng “ không có gì biện minh cho những việc đã xảy ra ở Paris, và rằng một cuộc vận động toàn cầu các lực lượng là cần thiết để phản ứng lại.

Cuộc vận động như thế đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng về an ninh, cảnh sát, truyền thông cũng như giáo dục mọi người về việc từ bỏ lòng hận thù. Tìm kiếm sự đối thoại, dù khó khăn nhưng vẫn luôn có hy vọng. Vẫn theo Đức Hồng Y thì hiện nay ngài không lạc quan lắm để có sự đối thoại với nhóm cuồng tín.Tuy nhiên qua những người Hồi Giáo thì có thể tìm thấy phần nào của giải pháp đối thoại ấy.

Đặc biệt chúng ta sắp mừng Năm Thánh của Lòng Thương Xót Chúa. “Trong thế giới tan tác vì bạo lực, thì bây giờ là cơ hội chạy đến lòng thương xót của Chúa. Đức Giáo Hoàng muốn năm Thánh mở ra để con người có thể nhận ra nhau, thông cảm được với nhau và vượt qua lòng hận thù. Sau cuộc tấn công vừa qua, lòng mong muốn đó lại được củng cố. Chúng ta nhận được lòng thương xót của Chúa để chấp nhận thái này đối với người khác.”

Đức Hồng Y nói rằng Hồi Giáo cũng gọi Thiên Chúa là Đấng Thương Xót, đó là một tên gọi đẹp nhất. Ngài hy vọng rằng người Hồi Giáo cũng sẽ tham gia vào năm Thánh như mong muốn của Đức Giáo Hoàng.

 
ĐTC: Hãy là cánh cửa Lòng Thương Xót của Thiên Chúa
Linh Tiến Khải
12:39 18/11/2015
VATICAN 18/11/2015 - Giáo Hội được khích lệ mở các cửa của mình để cùng Chúa đi gặp gỡ các con cái đang đi trên đường, đôi khi không chắc chắn, đôi khi bị lạc hướng trong các thời điểm khó khăn này. Đặc biệt các gia đình kitô được khuyến khích mở cửa cho Chúa đang chờ đợi bước vào dem theo phước lành và tình bạn của Người.

Kính thưa quý vị thính giả, ĐTC Phanxicô đã nói như trên với hàng chục ngàn tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 18-11 hôm qua. Trong bài huấn dụ về đề tài: “Gia đình cánh cửa của sự tiếp đón”, ĐTC nói: với suy tư này chúng ta đã tới ngưỡng cửa của Năm Thánh gần kề. Trước mắt chúng ta là cánh cửa, không phải chỉ là cánh cửa thánh, mà là cánh cửa khác; cánh cửa lớn của Lòng Thương Xót Chúa, và đó là cánh cửa đẹp, tiếp đón sự sám hối của chúng ta bằng cách cống hiến cho chúng ta ơn tha thứ của Ngài. Cửa được rộng mở một cách quảng đại, nhưng chúng ta phải có một chút can đảm để bước qua ngưỡng cửa. Mỗi một người trong chúng ta có trong chính mình những điều trĩu nặng, có đúng thế không? Tất cả mọi người, đúng không? Tất cả chúng ta là những người tội lỗi! Chúng ta hãy lợi dụng lúc đang đến này, và hãy bước qua ngưỡng cửa của lòng thương xót này của Thiên Chúa, là Đấng không bao giờ mệt mỏi tha thứ, không bao giờ mệt mỏi chờ đợi chúng ta. Ngài nhìn chúng ta, Ngài luôn luôn ở bên cạnh chúng ta. Hãy can đảm lên! Chúng ta hãy vào qua cửa này!

Từ Thượng Hội Đồng Giám Mục, mà chúng ta đã cử hành trong tháng 10 vừa qua, tất cả mọi gia đình và toàn thể Giáo Hội đã nhận được một khích lệ gặp gỡ nhau trên ngưỡng cửa của cánh cửa rộng mở ấy. ĐTC nhấn mạnh điểm này như sau:

Giáo Hội được khích lệ mở các cánh cửa của mình để cùng Chúa đi gặp gỡ các con cái đang đi trên đường, đôi khi không chắc chắn, đôi khi bị lạc hướng trong các thời điểm khó khăn này. Đặc biệt các gia đình kitô được khuyến khích mở cửa cho Chúa đang chờ đợi bước vào đem theo phước lành và tình bạn của Người. Và nếu cánh cửa lòng thương xót của Thiên Chúa luôn luôn mở rộng, thì cả các cánh cửa các nhà thờ của chúng ta, tình yêu thương của các cộng đoàn, các giáo xứ, các cơ cấu, các giáo phận của chúng ta cũng phải rộng mở, để như thế tất cả chúng ta có thể đi ra đem theo lòng thương xót này của Thiên Chúa. Năm Thánh có nghĩa là cánh cửa lớn của lòng thương xót Chúa, nhưng cũng có nghĩa là các cánh cửa nhỏ của các nhà thờ chúng ta rộng mở để cho Chúa vào, hay biết bao lần để cho Chúa đi ra, Chúa người tù của các cơ cấu , của ích kỷ và biết bao nhiêu điều khác nữa của chúng ta.

Tiếp tục bài huấn dụ ĐTC nói: Chúa không bao giờ xô cửa mà vào: cả Ngài cũng xin phép vào; Chúa xin phép vào, chứ không xô cửa. Sách Khải Huyền nói: “Ta đứng ngoài cửa và gõ - Nhưng chúng ta hãy tưởng tượng coi Chúa gõ cửa trái tim chúng ta - Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa chiều với người ấy và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3,20). Và thị kiến lớn cuối cùng của của sách Khai Huyền nói tiên tri về Thành của Thiên Chúa như sau: “Các cửa thánh sẽ không bao giờ đóng ban ngày”, điều này có nghĩa là luôn mãi, bởi vì “sẽ không còn đêm nữa” (Kh 21,25). Trên thế giới có những nơi, trong đó người ta không đóng cửa bằng khóa, vẫn còn có như vậy. Nhưng có biết bao nơi khác các cửa bọc sắt là điều bình thường. Chúng ta không được đầu hàng trước ý tưởng phải áp dụng hệ thống này, cũng là hệ thống an ninh, cho cuộc sống chúng ta, cho cuộc sống của gia đình, của thành phố và xã hội của chúng ta. Lại càng không thế áp dụng cho cuộc sống của Giáo Hội. Sẽ thật là điều kinh khủng! Một Giáo Hội không tiếp đón, cũng như một gia đình khép kín trong chính mình, làm nhục Tin Mừng và khiến cho thế giới cằn cỗi đi. Không có các cửa đóng kín trong Giáo Hội, Không có gì hết! Tất cả đều rộng mở!

Việc phối hợp biểu tượng của các cánh cửa, các ngưỡng cửa, các lối đi ngang qua, các biên giới trở thành nòng cốt. Cửa phải canh giữ chắc chắn rồi, nhưng không được khước từ. Không được xô cửa mà vào, trái lại phải xin phép, để cho sự hiếu khách toả sáng trong sự tự do tiếp đón, và bị lu mờ trong yêu sách xâm chiếm. Cánh cửa mở ra một cách thường xuyên, để xem bên ngoài có ai đang chờ đợi không, hay có người không có can đảm và cả sức mạnh để gõ cửa. Có biết bao nhiêu người đã mất tin tưởng, không có can đảm gõ cửa trái tim kitô của chúng ta, gõ cửa các nhà thờ của chúng ta… Và họ đứng đó, không có can đảm, chúng ta đã lấy đi lòng can đảm của họ, xin làm ơn đừng bao giờ để cho điều này xảy ra! Cánh cửa nói rất nhiều về gia đình và cả về Giáo Hội nữa. Việc canh cửa đòi hỏi thái độ cương quyết chú ý, đồng thời nó phải gợi hứng cho sự tin tưởng lớn lao. Tôi muốn bầy tỏ lòng biết ơn đối với tất cả những ai giữ cửa: giữ cửa các chung cư của chúng ta, các cơ quan dân sự, và chính các nhà thờ. Thường khi sự quan tâm và tử tế của người canh cửa có khả năng cống hiến một hình ảnh nhân bản và tiếp đón bên trong gia đình, bắt đầu ngay từ cửa vào. Có nhiều điều cần học hỏi nơi các anh chị em canh cổng các nơi gặp gỡ và tiếp đón của thành phố của con người! Xin cám ơn nhiều tất cả anh chị em là những người giữ biết bao nhiêu cửa, dù đó là cửa nhà hay cửa của các các nhà thờ! Nhưng luôn luôn với một nụ cười, luôn luôn cho thấy sự điếp đón của căn nhà đó, của nhà thờ đó, như thế người ta cảm thấy hạnh phúc và được tiếp đón tại nơi ấy.

ĐTC nói thêm trong bài huấn dụ:

Thật ra chúng ta biết rõ là chính chúng ta cũng là những người canh giữ và phục vụ Cánh Cửa của Thiên Chúa. Và Cánh Của của Thiên Chúa tên là gì? Ai biết trả lời ? Ai là Cánh Cửa của Thiên Chúa? Chúa Giêsu.

Ai là Cánh của của Thiên Chúa? Hãy nói to lên! Chúa Giêsu! Ngài soi sáng cho chúng ta trên tất cả mọi cánh cửa cuộc sống, bao gồm cả các cánh cửa sinh tử của chúng ta. Chính Ngài đã khẳng định điều đó: “Ta là cửa: ai qua Ta mà vào sẽ được cứu thoát; nó sẽ vào, sẽ ra và tìm được đồng cỏ” (Ga 10,9). Chúa Giêsu là Cửa khiến cho chúng ta vào và ra. Vì chuồng chiên của Thiên Chúa là một chỗ ẩn náu, chứ không phải là một nhà tù! Nhà của Thiên Chúa là một nơi ẩn náu, không phải là một nhà tù, và cánh cửa có tên gọi là gì? Một lân nữa! Có tên gọi là gì? Chúa Giêsu! Và nếu cửa đóng thì chúng ta nói: “Lậy Chúa xin mở cửa”. Chúa Giêsu là cửa và Ngài làm cho chúng ra vào và ra. Các kẻ trộm là những người tránh cửa vào: thật là lạ, các kẻ trộm luôn luôn tìm vào từ phía khác, từ cửa sổ, từ mái nhà, nhưng tránh cửa, bởi vì họ có các ý xấu và họ lẻn vào chuồng chiên để lừa dối chiên và lợi dụng chúng. Chúng ta phải đi qua cửa và lắng nghe tiếng Chúa Giêsu_ nếu chúng ta nghe giọng của tiếng Người, chúng ta được chắc chắn, chúng ta được cứu thoát. Chúng ta có thể vào không sợ hãi và ra không nguy hiểm. Diễn văn rất hay đẹp này của Chúa Giêsu cũng nói tới người giữ chiên có bổn phận mở cửa cho Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,2). Nếu người giữ lắng nghe tiếng của Mục Tử, thì khi đó mở cửa và khiến cho tất cả các con chiên mà Mục Tử đem theo vào trong, tất cả, kể cả các con chiên lạc trong rừng, mà Mục Tử đã đi tìm đem về. Người canh giữ không chọn chiên - ông hay bà thư ký giáo xứ không chọn chiên – không, họ không chọn! Tất cả các con chiên đều được mời, họ được chọn bởi Mục Tử nhân lành. Người canh giữ cũng vâng theo tiếng của Mục Tử. Đó, chúng ta có thể nói rằng chúng ta phải như người canh giữ chiên ấy. Giáo Hội là cổng nhà của Chúa, Giáo Hội là cổng nhà, chứ không phải là bà chủ nhà của Chúa.

Thánh Gia Nagarét biểt rõ một cánh cửa mở hay đóng có nghĩa là gì, đối với ai chờ đợi một người con, đối với ai không có nơi nương thân, đối với ai phải thoát hiểm nguy. Ước chi các gia đình kitô biến ngưỡng cửa nhà mình trở thành một dấu chỉ bé nhỏ to lớn của Cửa Lòng Thương Xót và tiếp đón của Thiên Chúa. Chính như thế mà Giáo Hội sẽ phải được nhận ra, trong mọi góc của thế giới này: như người canh giữ của Thiên Chúa là Đấng gõ cửa, như sự tiếp đón của một Thiên Chúa không đóng sầm cửa lại trước mặt bạn, lấy cớ bạn không phải là người nhà. Với tinh thần này chúng ta tất cả đến gần Năm Thánh, sẽ có cửa thánh, nhưng có cửa lòng thương xót của Thiên Chúa vĩ đại! Ước chi cũng có cửa con tim chúng ta để tiếp nhận tất cả, ơn tha thứ của Thiên Chúa, hay trao ban sự tha thứ và tiếp đón tất cả những ai gõ cửa chúng ta.

ĐTC đã chào nhiều đoàn hành hương khác nhau. Với các đoàn Ba Lan ngài đặc biệt chào nhóm đại diện Công đoàn độc lập Liên đới Solidarnosc. Ngài nói: “Từ 35 năm qua Công đoàn của anh chị em dấn thân cho thế giới lao động, trên bình diện thể lý cũng như trí thức, và bảo vệ các quyền căn bản của con người và xã hội. Anh chị em hãy trung thành với dấn thân đó, để các quyền lợi chính trị và kinh tế không thắng vượt các giá trị làm thành bản chất của tình liên đới nhân loại. Tôi xin phó thác tất cả các thành viên của công đoàn cho sự che chở của bổn mạng của anh chị em là chân phước linh mục Jerzy Popieluszo.

Chào các nhóm nói tiếng Ý ĐTC nhắc cho mọi người biết hôm qua là lễ cung hiến Vương cung thánh đường kính hai thánh Phêrô Phaolô. Ngài cầu chúc chuyến viếng thăm mộ hai thánh Tông Đồ củng cố niềm vui đức tin của mọi người.

Chào giới trẻ, người đau yếu và các đôi tân hôn ĐTC cầu mong chứng tá của các Tông Đồ bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu, thắp lên nơi người trẻ ước muốn yêu Chúa với tất cả sức lực. Ngài xin các khổ đau vinh quang của hai thánh Phêrô Phaolô trao ban an ủi và hy vọng cho người đau yếu, và giúp các cặp vợ chồng mới cưới biến gia đình họ trở thành đền thánh của Tình Yêu, không gì có thể chia lià được.

Buổi tiêp kiến đã kết thúc với Kinh Lậy Cha và phép lành toà thánh ĐTC ban cho mọi người.
 
Thiên Chúa không xô đẩy cửa, Người xin phép được bước vào
Bùi Hữu Thư
19:04 18/11/2015
Bài giáo lý bằng tiếng Pháp
Rome, 18 tháng 11, 2015 (ZENIT.org)
Đức Thánh Cha Phanxicô giải thích trong bài giáo lý về gia đình: Thiên Chúa không xô đẩy cánh cửa, Người xin phép được bước vào.” Ngài cũng nói về một Giáo Hội chỉ ao ước chào đón: “Một Giáo Hội không hiếu khách hay một gia đình khép kín làm cho Phúc Âm bị nhục và làm cho thế giới trở nên cứng rắn.”

Một bài giảng rất thiên về Mẹ Maria vì việc Truyền Tin cho Đức Mẹ đòi hỏi sự ưng thuận của ngài.

Đức Thánh Cha tiếp cận cánh cửa của gia đình với Cửa Thánh, là cánh cửa của Lòng Thương Xót.

Sau đây là bản văn đầy đủ của bài giáo lý của Đức Thánh Cha Phanxicô bằng tiếng Pháp.

Bài Giáo Lý bằng tiếng Pháp

"Anh chị em thân mến, chúng ta đang đi gần tới ngưỡng cửa của Năm Thánh, trước mặt chúng ta là cánh cửa to lớn của Lòng Thương Xót Chúa đang đón nhận sự xám hối của chúng ta và ban cho chúng ta ân sủng của sự tha thứ của Người. Cánh cửa này thông thường được mở rộng, nhưng chúng ta phải can đảm bước qua ngưỡng cửa ấy.

"Trong những giai đọan khó khăn này, Giáo Hội được khuyến khích mở rộng các cánh cửa để cùng bước ra với Chúa Kitô và gặp gỡ các con cái của Người. Cũng thế, các gia đình Công Giáo cần mở cửa đón Chúa Kitô bước vào, vì Người đang đứng đợi chờ, để ban cho chúng ta phúc lành và tình bạn của Người. Chúa không xô đẩy cánh cửa, nhưng Người xin phép được bước vào.

"Tại nhiều nơi các cánh cửa bọc thép đã trở nên bình thường. Một Giáo Hội không hiếu khách hay một gia đình khép kín làm cho Phúc Âm bị hạ nhục và làm cho thế giới trở nên cứng rắn. Cánh cửa nói lên được rất nhiều về gia đình, cũng như Giáo Hội, Chúa Giêsu chính là cánh cửa, cho chúng ta bước vào và bước ra.”

"Chúng ta phải can đảm bước qua cửa này không hãi sợ và lắng nghe lời Chúa Giêsu. Giáo Hội cần được khắp mọi nơi nhận biết như một dấu chỉ của sự đón chào của một Thiên Chúa không bao giờ khép kín cánh cửa với lý do bạn không trực thuộc vào gia đình này! "
 
Thượng Hội Đồng về Gia Đình năm 2015, Tường Trình Sau Cùng, Phần III, chương 1
Vũ Văn An
21:15 18/11/2015
PHẦN III

Sứ mệnh của gia đình

56. Ngay từ đầu lịch sử, Thiên Chúa đã yêu thương con cái Người cách quá đáng rồi (LG, 2), để họ có được sự sống viên mãn trong Chúa Giêsu Kitô. Qua các bí tích khai tâm Kitô Giáo, Thiên Chúa mời gọi các gia đình tự khai tâm vào sự sống này, để công bố và thông truyền nó cho người khác (xem LG, 41). Như Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhắc nhở ta một cách mạnh mẽ, sứ mệnh của gia đình luôn vươn ra để phục vụ các anh chị em mình. Đây là sứ mệnh của Giáo Hội mà mỗi gia đình đều được mời gọi tham gia một cách độc đáo và ưu tiên. “Do phép rửa mà họ đã lãnh nhận, mọi thành viên của dân Thiên Chúa đều trở thành một môn đệ truyền giáo” (EG, 120). Khắp thế giới, trong thực tại gia đình, ta thấy thật nhiều hạnh phúc và niềm vui, nhưng cũng có nhiều đau khổ và phiền muộn. Ta muốn nhìn thực tại này bằng đôi mắt Chúa Kitô đã nhìn lúc Người còn đi lại giữa người của thời Người. Thái độ của ta phải là thái độ khiêm tốn hiểu biết. Ước muốn của ta là được đồng hành với mỗi gia đình và với mọi gia đình để họ tìm được cách tốt hơn mà vượt qua các khó khăn họ gặp trong cuộc hành trình của họ. Tin Mừng luôn là dấu chỉ mâu thuẫn. Giáo Hội không bao giờ quên rằng mầu nhiệm vượt qua là mầu nhiệm trung tâm đối với Tin Mừng được ta công bố. Tin Mừng này muốn giúp các gia đình thừa nhận và nghinh đón thánh giá khi thánh giá xuất hiện trước mặt họ, để họ có thể cùng vác thánh giá này với Chúa Kitô trên con đường tiến về niềm vui phục sinh. Nhiệm vụ này đòi “một hoán cải mục vụ và truyền giáo, một hoán cải không thể nào để sự vật nguyên trạng được” (EG, 25). Do đó, hóan cải có ảnh hưởng sâu xa đối với phong thái và ngôn ngữ. Điều chủ yếu là tiếp nhận một thứ ngôn ngữ có nhiều ý nghĩa. Việc công bố buộc phải đem lại được kinh nghiệm này: Tin Mừng Gia Đình đáp ứng những hoài bão sâu xa nhất của con người nhân bản, đáp ứng phẩm giá của họ và đáp ứng sự thể hiện trọn vẹn tính hỗ tương, sự hiệp thông và tính sinh hoa trái. Đây không phải là vấn đề định ra một qui luật, nhưng là công bố ơn thánh, một ơn thánh ban cho ta khả năng sống phù hợp với các ơn phúc của gia đình. Ngày nay, việc lưu truyền đức tin khiến cho vấn đề ngôn ngữ trở thành bắt buộc hơn bao giờ hết, nó phải có khả năng vươn tới mọi người, nhất là người trẻ, để thông truyền vẻ đẹp của tình yêu gia đình và nắm bắt ý nghĩa của những hạn từ như cho đi, tình yêu vợ chồng, lòng trung thành, tính sinh hoa trái, việc sinh sản. Nhu cầu phải có một ngôn ngữ mới mẻ và hoàn toàn thỏa đáng phát sinh trước hết trong việc dẫn nhập trẻ em và giới trẻ vào chủ đề tính dục. Nhiều cha mẹ và nhiều người khác từng dấn thân vào công tác mục vụ cảm thấy khó khăn trong việc tìm ra ngôn ngữ thích đáng mà đồng thời lại trang trọng, một ngôn ngữ có thể trình bầy được bản chất tính dục về phương diện sinh học với tính bổ túc nhằm phong phú hóa lẫn nhau, với tình bạn, tình yêu, và với việc tự hiến của người đàn ông và người đàn bà.

Chương 1

Việc huấn luyện gia đình
Việc chuẩn bị hôn nhân


57. Không thể giản lược hôn nhân Kitô Giáo vào một truyền thống văn hóa hay vào một qui ước luật pháp: nó là lời mời gọi chân thực của Thiên Chúa; lời mời gọi này đòi ta phải biện phân cẩn thận, cầu nguyện không ngừng và trưởng thành thỏa đáng. Để những điều này diễn ra, đòi phải có các khóa huấn luyện nhằm đồng hành với các cá nhân hay các cặp theo phương thức: song song với việc thông truyền các nội dung đức tin, còn có việc trình bầy kinh nghiệm sống của toàn thể cộng đồng Giáo Hội. Sự hữu hiệu của phương thức này còn đòi phải cải thiện việc huấn giáo tiền hôn nhân, thường rất yếu về nội dung; việc huấn giáo này vốn là thành phần cần phải có của thừa tác mục vụ thông thường. Ngoài ra, việc chăm sóc mục vụ cho những người sắp sửa kết hôn cũng nên được lồng vào cam kết tổng quát của cộng đồng Kitô Giáo nhằm trình bầy một cách thuyết phục và thoả đáng sứ điệp Tin Mừng về phẩm giá con người, quyền tự do của họ và việc phải tôn trọng các quyền lợi của họ. Ba giai đoạn liệt kê trong Familiaris Consortio (xem số 66) cần được chú ý rất nhiều: chuẩn bị xa, qua việc chuyển giao đức tin và các giá trị Kitô Giáo; chuẩn bị gần, trùng hợp với các lộ trình giáo lý và các kinh nghiệm sống trong cộng đồng Giáo Hội; chuẩn bị hôn nhân cận kề, thành phần của phương thức rộng lớn hơn thuộc chiều kích ơn gọi.

58. Bên trong các biến đổi văn hóa hiện nay, nhiều mô thức đã được thường xuyên trình bầy nhằm tương phản với viễn kiến Kitô Giáo về gia đình. Tính dục thường bị tách biệt khỏi bối cảnh yêu thương chân chính. Ở một số quốc gia, nhiều chương trình huấn luyện còn được nhà cầm quyền công cộng áp đặt nhằm chất vấn quyền tự do của Giáo Hội trong việc truyền giảng các giáo huấn của mình và quyền phản đối lương tâm của các nhà giáo dục. Mặt khác, dù vẫn là diễn đàn sư phạm hàng đầu, gia đình không thể là nơi duy nhất để giáo dục về tính dục. Vì thế, điều chủ yếu là sử dụng các khóa mục vụ có tính trợ lực đúng nghĩa, dành cho cả các cá nhân lẫn các cặp, đặc biệt lưu ý tới tuổi dậy thì và tuổi thiếu niên; trong các khóa học này, cần giúp các đối tượng khám phá ra vẻ đẹp của tình dục trong tình yêu. Kitô Giáo tuyên bố rằng Thiên Chúa đã dựng nên nhân loại, có nam có nữ, và đã chúc lành cho họ để họ tạo nên một thân xác và lưu truyền sự sống (xem St 1:27-28; 2:24). Sự khác nhau của họ, sự bình đẳng về nhân phẩm của họ, là dấu ấn tốt đẹp của công trình sáng tạo. Theo nguyên tắc Kitô Giáo, linh hồn và thân xác, cả tính dục sinh học và vai trò văn hóa – xã hội của phái tính nữa là những điều có thể phân biệt nhưng không thể tách biệt được. Do đó, có nhu cầu phải mở rộng các chủ đề huấn luyện trong các khóa tiền hôn nhân, để chúng trở thành các khóa giáo dục đức tin và tình yêu, hòa nhập với hành trình khai tâm Kitô Giáo. Dưới ánh sáng này, cần phải nhắc nhớ tầm quan trọng của các nhân đức, trong đó có đức trong sạch, vốn là điều kiện quí giá để phát triển tình yêu liên bản vị. Lộ trình huấn luyện nên trình bầy diện mạo con đường dẫn tới việc biện phân ơn gọi bản thân cũng như ơn gọi của cặp vợ chồng tương lai, bảo đảm để có được một hợp lực lớn hơn giữa các lãnh vực mục vụ khác nhau. Khóa chuẩn bị hôn nhân cũng nên có sự hướng dẫn của các cặp vợ chồng trong tư thế đồng hành với những người sắp kết hôn trước khi họ thực sự kết hôn và sống những năm đầu đời kết hôn của họ, nhờ thế gia tăng được giá trị của thừa tác vụ hôn nhân. Việc lượng gía các mối liên hệ bản vị về phương diện mục vụ sẽ hỗ trợ việc từ từ cởi mở tâm trí hướng tới sự viên mãn của chương trình Thiên Chúa.

Cử hành hôn phối

59. Phụng vụ hôn phối là một biến cố độc đáo, diễn ra trong bối cảnh gia đình và xã hội trong khung cảnh lễ lạc mừng vui. Dấu lạ đầu tiên của Chúa Giêsu đã diễn ra tại một tiệc cưới ở Cana: rượu ngon từ phép lạ của Chúa, thứ rượu đem niềm vui tới cho ngày ra đời của một gia đình mới, quả là rượu mới của Giao Ước giữa Chúa Kitô và những người đàn ông đàn bà mọi thời. Việc chuẩn bị hôn nhân thu hút sự chú ý của những người sẽ kết hôn trong một thời gian dài. Đây là thời gian quí báu đối với họ, với các gia đình và bạn bè của họ, một thời gian cần được phong phú hóa bằng chiều kích thiêng liêng và Giáo Hội thích đáng. Việc chuẩn bị hôn nhân là dịp thuận lợi để mời nhiều người tham dự việc cử hành các bí tích Hòa Giải và Thánh Thể. Cộng đồng Kitô hữu, nhờ việc tham dự thật lòng và hân hoan, sẽ chào đón gia đình mới vào hàng ngũ của họ, như là một Giáo Hội tại gia, để nó cảm thấy mình là một phần trong gia đình Giáo Hội. Phụng vụ hôn phối cần được chuẩn bị bằng một nền giáo lý khai nhiệm (mystagogic) nhằm dẫn cặp đính hôn tới chỗ nhận ra rằng việc cử hành giao ước của họ đã được hòan thành “trong Chúa”. Vị chủ tế thường có dịp nói chuyện với một cử tọa gồm những người ít tham dự vào đời sống Giáo Hội hay những người thuộc một tuyên tín hay một cộng đồng khác của Kitô Giáo. Thành thử, đây là một dịp may rất quí để công bố Tin Mừng Chúa Kitô, một Tin Mừng có thể thúc đẩy các gia đình hiện diện khám phá lại đức tin và đức mến vốn phát sinh từ Thiên Chúa.

Những năm đầu cuộc sống hôn nhân

60. Những năm đầu cuộc sống hôn nhân rất quan yếu và nhậy cảm trong đó, vợ chồng phát triển ý thức ơn gọi và sứ mệnh của họ. Ở đây ta thấy cần có sự đồng hành mục vụ tiếp sau việc cử hành bí tích. Giáo xứ là nơi có thể dùng các cặp vợ chồng có kinh nghiệm để giúp đỡ các cặp vợ chồng trẻ này và cuối cùng là sự giúp đỡ của các hiệp hội, các phong trào trong Giáo Hội và các cộng đồng mới. Điều chủ yếu là khích lệ nơi các người phối ngẫu thái độ nền tảng biết chào đón hồng phúc con cái. Chúng tôi xin nhấn mạnh tới tầm quan trọng của đời sống thiêng liêng trong gia đình, của việc cầu nguyện, và của việc tham dự Thánh Thể Chúa Nhật, mời gọi cặp vợ chồng cùng nhau đến thường xuyên để thăng tiến việc phát triển đời sống thiêng liêng và tình liên đới trong các đòi hỏi cụ thể của đời sống. Việc đích thân gặp gỡ Chúa Kitô bằng cách đọc Lời Chúa, tại cộng đoàn và tại nhà, nhất là dưới hình thức “lectio divina” (vừa đọc Thánh Kinh vừa cầu nguyện), giúp ta có được một nguồn linh hứng cho cuộc sống hàng ngày của mình. Phụng vụ, các thực hành đạo đức và các Thánh Lễ cử hành cho các gia đình, nhất là dịp kỷ niệm ngày cưới, nuôi dưỡng đời sống thiêng liêng và chứng tá truyền giáo của gia đình. Thông thường, trong các năm đầu của cuộc sống hôn nhân, vợ chồng hay hướng nội nhiều hơn, hậu quả là phần nào tự cô lập với cuộc sống cộng đồng. Do đó việc củng cố mạng lưới liên hệ giữa cặp vợ chồng và việc tạo ra các mối dây nối kết có ý nghĩa là một điều chủ yếu để gia đình Kitô hữu trưởng thành. Các phong trào và các nhóm trong Giáo Hội thường xuyên (giúp) bảo đảm các thời điểm phát triển và huấn luyện này. Nhờ tổng nhập các hỗ trợ này, Giáo Hội địa phương tiến hành được sáng kiến điều hợp việc chăm sóc mục vụ cho các gia đình trẻ. Ở các giai đoạn đầu của cuộc sống hôn nhân, việc thất vọng đối với ước muốn có con có thể gây ra tâm trạng chán ngán. Thường vì thế mà tạo ra cơ sở cho khủng khoảng, một khủng hoảng mau chóng dẫn tới chia lìa. Vì các lý do này, sự gần gũi của cộng đồng đối với các vợ chồng trẻ là điều cũng rất quan trọng; gần gũi bằng việc các gia đình có uy tín nâng đỡ họ cách kín đáo về phương diện xúc cảm.

Việc đào tạo linh mục và các nhân viên mục vụ khác

61. Việc canh tân thừa tác mục vụ là điều chủ yếu dưới ánh sáng Tin Mừng gia đình và giáo huấn của Huấn Quyền. Để việc canh tân này diễn ra, điều cần là phải cung cấp được một nền đào tạo cực kỳ thích đáng cho các linh mục, phó tế, các tu sĩ nam nữ, các giáo lý viên và các nhân viên mục vụ khác; các tác nhân này phải cổ vũ việc hoà nhập các gia đình vào cộng đồng giáo xứ, nhất là nhân dịp họ được huấn luyện về đời sống Kitô hữu để lãnh nhận các bí tích. Cách riêng, các chủng viện, trong diễn trình huấn luyện về nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ, nên chuẩn bị để các linh mục tương lai trở nên các tông đồ của gia đình. Trong việc huấn luyện để được thụ phong, việc phát triển xúc cảm và tâm lý của họ không được coi nhẹ, mà phải là thành phần trực tiếp của các khóa học thích đáng. Cung cách và các khóa huấn luyện chuyên biệt dành cho các nhân viên mục vụ sẽ làm họ trở thành thích đáng để được lồng vào việc chuẩn bị hôn nhân trong một phạm vi rộng lớn hơn của đời sống Giáo Hội. Trong thời gian huấn luyện, các ứng viên linh mục nên sống với gia đình riêng của họ trong một thời gian thích đáng và được hướng dẫn để cảm nghiệm được cuộc sống mục vụ của gia đình. Sự hiện diện của giáo dân và gia đình, nhất là sự hiện diện của phái nữ, trong việc huấn luyện linh mục sẽ gia tăng việc đánh giá tính đa dạng và tính bổ túc của các ơn gọi khác nhau trong Giáo Hội. Sự cống hiến của thừa tác vụ vô giá này có thể nhận được sức sống và tính bền vững của nó nhờ một liên minh đổi mới giữa hai hình thức khác nhau của ơn gọi bước vào tình yêu: hình thức của hôn nhân, là hình thức nở hoa trong gia đình Kitô Giao, đặt căn bản trên tình yêu và chọn lựa, và hình thức sống tận hiến, là hình ảnh hiệp thông của Nước Trời, bắt đầu với việc chấp nhận người khác một cách vô điều kiện như một hồng phúc Chúa ban. Trong việc hiệp thông các ơn gọi, một sự trao đổi các hồng phúc phong phú đã được khởi động; sự trao đổi này đem lại sức sống cho cộng đồng Giáo Hội và và làm giầu cho cộng đồng này (xem Cv 18:2). Ta có thể coi việc linh hướng cho các gia đình như là một trong các thừa tác vụ của giáo xứ. Đã có gợi ý cho rằng văn phòng gia đình của giáo phận và các văn phòng mục vụ khác nên tăng cường sự hợp tác của họ trong lãnh vực này. Trong việc tiếp tục huấn luyện hàng giáo sĩ và các nhân viên mục vụ, điều đáng ước ao là nên chú ý tới sự chín chắn trong các khía cạnh xúc cảm và tâm lý, bằng cách dành cho nó những phương tiện thích đáng; sự chín chắn này là điều không thể miễn chước được để các ngài đồng hành mục vụ với các gia đình cũng như đương đầu với nhiều tình huống khẩn trương đặc thù do bạo hành gia đình hay lạm dụng tình dục gây ra.

Còn tiếp
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam tại tổng giáo phận Melbourne
Khắc Thái
20:49 18/11/2015
 
94 Bạn trẻ lãnh nhận bí tích hôn phối tại xứ Thuận Nghĩa, GP Vinh
Jos Đức Tiến
23:43 18/11/2015
94 Bạn trẻ lãnh nhận bí tích hôn phối tại xứ Thuận Nghĩa, GP Vinh

Hôn nhân là một giao ước ký kết giữa một người nam và một người nữ, với ý thức tự do và trách nhiệm, để sống yêu thương và giúp đỡ nhau trong tình nghĩa vợ chồng; để sinh sản và giáo dục con cái trong nhiệm vụ làm cha làm mẹ.

Hôn nhân và gia đình là một vấn đề được Hội Thánh Công Giáo và rất nhiều tầng lớp chức trách trong xã hội quan tâm, đặc biệt trong thời đại ngày hôm nay khi mọi xu hướng hưởng thụ và lối sống bồng bột, cảm tính nơi các bạn trẻ được in dấu. Nhiều đôi vợ chồng trẻ trong xã hội ngày nay đã có những kết cục thương tâm, những sự chia ly hay không hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Trước những tình cảnh đó, việc giáo dục hôn nhân và gia đình luôn được coi là một chương trình giáo dục cần thiết nhằm giúp cho các đôi nam nữ hiểu biết, chắc chắn và trưởng thành hơn trước quyết định lớn lao của cuộc đời là tiến tới hôn nhân. Cũng theo chương trình đó, giáo xứ Thuận Nghĩa đã thường xuyên tổ chức các khóa học hôn nhân và gia đình để các bạn trẻ có điều kiện được tham gia học tập. Để thuận tiện cho việc học tập và đám cưới, các bạn trẻ thường tập trung vào hai khoá: tháng 06 và tháng 10.

Xem Hình

Khoá tháng 10 năm nay được khai giảng ngày 8/10/2015 và kết thúc ngày 17/11/2015 với 47 đôi nam nữ tham gia học tập dưới sự hướng dẫn và giảng dạy của thầy Giuse Nguyễn Văn Nhân, Trưởng Ban giáo lý xứ. Thật đáng mừng khi mà tất cả các học viên đều đã vượt qua kỳ thi sát hạch.

Đúng 7h15 ngày 18/11/2015, Cha quản xứ Antôn Nguyễn Văn Đính đã tổ chức tĩnh tâm cho các đôi bạn trẻ. Sự lắng đọng sâu sắc cùng sự nghiêm túc của các bạn trẻ đã thể hiện sự trưởng thành và trách nhiệm trong tình yêu của mình trước sự linh hướng của Cha quản xứ. Ngoài ra, khi Cha Antôn đề cập về khó khăn cũng như các việc cần làm và nên tránh trong đời sống hôn nhân và gia đình là một lần nữa các đôi bạn trẻ trắc nghiệm về quyết định của mình. Sau khi tĩnh tâm, Cha quản xứ đã giúp các đôi bạn trẻ được lãnh nhận bí tích Giao hòa để chuẩn bị cho nghi thức lãnh nhận bí tích hôn phối.

Vào lúc 19h00 cùng ngày, thánh lễ hôn phối được bắt đầu dưới sự tham dự của các thân nhân, ân nhân và bạn bè gần xa của các đôi bạn trẻ cùng toàn thể giáo dân giáo xứ Thuận Nghĩa. Với tính chất cao trọng của một giao ước giữa người nam và người nữ trước mặt Thiên Chúa và Hội Thánh, Thánh lễ đã được diễn ra rất long trọng và sốt sắng. Trong bài chia sẻ, Cha quản xứ Antôn đã nhấn mạnh về 3 bí quyết để gìn giữ tình yêu và hạnh phúc gia đình là cảm thông, tha thứ và hy sinh. Ngài nói: “Yêu trước hết là cảm thông, cảm thông để được hiểu nhau hơn... Yêu là tha thứ, tha thứ là tiếp tục yêu... Yêu là hy sinh, hy sinh để dâng trao đời sống riêng cho nhau. Tóm lại, trong đời sống hôn nhân, mọi người phải biết sống vì nhau, cho nhau để xua tan đi những hiểu lầm vụn vặt và những khó khăn gặp phải trong cuộc sống”. Thật vậy, khi đã ý thức được sự tự do và trách nhiệm của mình trong đời sống hôn nhân, đôi nam nữ sẽ biết cố gắng sống yêu thương, cảm thông, hy sinh và tha thứ để giúp đỡ nhau sống trọn vẹn nghĩa vợ chồng, chăm lo cho gia đình sau này.

Sau phần chia sẻ, các đôi bạn trẻ được lãnh nhận bí tích hôn phối một cách trọng thể. Qua đó chính thức chịu trách nhiệm về quyết định của mình, tiến tới hôn nhân, dấn thân vào đời sống vợ chồng, đón nhận nhau như một xương một thịt trước mặt Thiên Chúa và mọi người.

Kết thúc thánh lễ, đại diện cho 47 đôi nam nữ cất tiếng tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Cha quản xứ và toàn thể mọi người. Đặc biệt là cha mẹ và người thầy đã dẫn dắt mình trong cuộc hành trình tìm hiểu đời sống hôn nhân và cho đến lúc này đã được kết hợp thành vợ thành chồng. Họ cũng nói lên quyết tâm của mình trong việc gìn giữ hạnh phúc trong tình yêu của mình bằng sống theo tinh thần phúc âm, noi theo gương gia đình thánh tâm, sống theo 3 bí quyết mà Cha quản xứ đã nhấn mạnh và qua lời cầu nguyện của tất cả mọi người.

Cầu chúc cho tất cả các đôi nam nữ đã thề hứa sống tình nghĩa vợ chồng hôm nay luôn hạnh phúc, sống can đảm vượt qua mọi gian nan và thử thách trên con đường mà Chúa đã mời gọi họ hôm nay.

Jos. Đức Tiến

 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Ai ra lệnh bỏ sử học Mác để mất gốc
Phạm Trần
09:21 18/11/2015
AI RA LỆNH BỎ SỬ HỌC MÁC ĐỂ MẤT GỐC ?

Đề nghị không giữ môn Lịch sử “độc lập” và “bắt buộc” phải học đối với học sinh của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) đã bị các nhà Giáo dục hàng đầu Việt Nam lên án có chủ tâm tiến đến “xoá bỏ môn Lịch sử trong nền giáo dục phổ thông" .

Cuộc tranh luận từ ngoài xã hội đến Quốc hội được tập trung vào Dự thảo “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể” , sau 3 năm nghiên cứu và thu nhận ý kiến của Bộ GD&ĐT.

Theo đề nghị này thì môn học Lịch sử từ bậc Tiểu học (từ lớp 1 đến 5) lên Trung học cơ sở (từ lớp 6 đến lớp 9) rồi qua Trung học Phổ thông (từ 10 đến 12) được tuần tự biến dạng từ "Cuộc sống quanh ta" đến "Tìm hiểu xã hội" sang "Khoa học xã hội" và sau cùng gọi là "Công dân với Tổ quốc", theo lời Gíao sư Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (HKHLSVN).

Nhưng trong ruột của môn mới “Công dân với Tổ quốc” của Dự thảo, Bộ GD&ĐT lại lồng ghép môn Lịch sử với hai môn học có từ trước không ăn nhậu gì với nhau là “Giáo dục công dân” và “An ninh quốc phòng”

Các nhà sọan thảo của Bộ giáo dục gọi cách tập trung hổ lốn này là “tích hợp” với các môn khác nhưng Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận lại khoe với Quốc hội hôm 16/11 (2015) rằng tuy tích hợp nhưng môn Lịch sử “không bị coi nhẹ và tôi khẳng định được coi trọng hơn so với chương trình hiện hành”.

Tuy nhiên khi bị Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng vặn hỏi muốn ông “nêu quan điểm của mình về việc nên để môn Lịch sử là môn tích hợp hay độc lập”, thì ông Luận tỏ ra lúng túng và cho biết: “Ban soạn thảo lắng nghe ý kiến người dân sẽ có báo cáo với Ban Tuyên giáo trung ương, Hội đồng lý luận Trung ương, Ủy ban Văn hóa Giáo dục Thanh niên Thiếu niên Nhi đồng của Quốc hội và các hiệp hội.”

Rõ là chuyện nói vuốt đuôi cho xuôi buồm thuận gió. Khi sọan thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể , Bộ GD&ĐT không hề hỏi ý kiến Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam; chưa hề tổ chức thảo luận rộng rãi với các nhà giáo, thầy cô dạy môn sử, nhân dân hay với Mặt trận Tổ quốc là nơi quy tụ cả trăm Tổ chức nghề nghiệp, xã hội và chính trị.

Đến khi bị tứ phía chỉ trích, tạt nước lạnh vào mặt thì ông Luận mới “lắng nghe”, mới cầu thị nhưng vẫn phải tâu lại với Ban Tuyên giáo Trung ương và Hội đồng lý luận Trung ương xin ý kiến những ông bà chuyên nghề “lý luận Mác-Lênin” bảo thủ, giáo điều, chậm tiến và lạc hậu thì ông chưa mất chức hãy còn may !

TIẾNG NÓI CHUYÊN MÔN

Nhưng Tổ tiên người Việt từng có câu “họa vô đơn chí”. Các nhà giáo, chuyên gia lịch sử hàng đầu Việt Nam trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (HKHLSVN) và một số Đại biểu Quốc hội, trong đó có ông Dương Ttrung Quốc (đơn vị Đồng Nai), Nhà sử học, Tổng thư ký HKHLSVN cũng nghi ngại đối với đề án coi nhẹ môn Lịch sử vào lúc lãnh thổ và chủ quyền biền đảo của Việt Nam đang bị Trung Quốc đe dọa.

Giáo sư Phan Huy Lê nói : “ Thông tin nói trên đã làm xã hội kinh ngạc vì nếu môn Sử bị xoá sổ sẽ gây hậu quả to lớn. Một thế hệ trẻ sẽ lớn lên, trở thành công dân chỉ biết lờ mờ, thậm chí biết sai về lịch sử dân tộc, không biết cội nguồn tổ tiên, những thành tựu dựng nước và giữ nước của cha ông.

Trên thế giới, hầu hết nước văn minh xem Lịch sử là môn cơ bản và bắt buộc trong nền giáo dục quốc dân. Với yêu cầu của giáo dục phổ thông, môn học nào cũng quan trọng, nhưng xét về chức năng giáo dục thì các môn quốc ngữ, quốc văn, quốc sử và toán học là cơ bản nhất, hay còn gọi là cốt yếu, cốt lõi nhất và đều mang tính bắt buộc" (Trích từ hội thảo “Môn lịch sử trong giáo dục phổ thông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức ngày 15-11 ở Hà Nội)

Giáo Sư Trần Thị Vinh (Khoa Sử, Đại học Sư phạm Hà Nội) giải thích, theo tường thuật của báo chí Việt Nam :“Ba môn Giáo dục đạo đức, Lịch sử, Giáo dục quốc phòng - An ninh có đối tượng, mục tiêu, nội dung, phương pháp giảng dạy khác nhau. Lịch sử là môn khoa học cơ bản giúp học sinh thông hiểu kiến thức lịch sử cốt lõi của nhân loại, dân tộc. Đối tượng là toàn bộ tiến trình phát triển của nhân loại, khu vực, dân tộc. Còn mục tiêu của môn Quốc phòng an ninh là đảm bảo cho học sinh có hiểu biết ban đầu về quốc phòng, an ninh nhân dân, mang tính thực hành cao do tính chất rèn luyện kỹ thuật, chiến thuật. Còn môn Đạo đức là giáo dục những giá trị đạo đức truyền thống, ý thức tuân thủ pháp luật, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân...”

Theo Nghị định 116/NĐ-CP ngày 10/07/2007 thì các đối tượng của giáo dục quốc phòng - an ninh gồm :” Học sinh, sinh viên Việt Nam trong các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp nghề, cao đẳng, cao đẳng nghề và đại học (sau đây gọi là trung học phổ thông đến đại học), học viên các trư¬ờng thuộc cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi là các trường chính trị, hành chính, đoàn thể); bồi dư¬ỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho cán bộ đảng viên, công chức các cấp, các ngành…”

Các thành phần này được học về: “Truyền thống chống giặc ngoại xâm, tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; đư¬ờng lối, quan điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước về quốc phòng, an ninh; công tác quốc phòng, an ninh của Đảng và Nhà nư¬ớc; các văn bản pháp luật về quốc phòng, an ninh; phổ cập những kiến thức cần thiết về lực lư¬ợng vũ trang nhân dân; nghệ thuật quân sự Việt Nam; phòng, chống chiến lược "Diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam; kiến thức cơ bản cần thiết về kỹ thuật, chiến thuật quân sự, phòng thủ dân sự.”

Như vậy rõ ràng môn Lịch sử, khi được lồng chung với Quốc phòng-an ninh thì không còn gía trị chính chuyên nữa.

Vì vậy, Phó Gíao Sư Vũ Quang Hiển (Khoa Lịch sử, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) mới lên án: “ Cắt ghép và xuyên tạc lịch sử vốn là cách làm của những người muốn bôi nhọ lịch sử dân tộc và nhân loại. Ngày càng có nhiều công bố trên phương tiện thông tin đại chúng làm lung lạc tinh thần thế hệ trẻ Việt Nam bằng cách lắp ghép và xuyên tạc lịch sử theo một logic chủ quan đã định trước, nhưng lại núp bóng "cách nhìn mới" về lịch sử. Vì vậy, việc giáo dục lịch sử thiếu tính hệ thống và toàn diện sẽ đặt thế hệ trẻ Việt Nam đứng trước hiểm họa thấy rõ.”

Trong khi đó, Nhà sử học, Đại biểu Quốc hội Dương Trung Quốc đã công khai hoài nghị:“Bộ GD&ĐT luôn lập luận không bỏ môn Lịch sử nhưng theo tôi, đó chỉ là cách nói và chúng tôi rất nghi ngờ”. (báo Người Lao Động, 8/11/2015)

Giáo Sư Vũ Dương Ninh, ĐHQG Hà Nội, cũng lo lắng: “ Đúng là từ trước đến nay, chưa bao giờ Bộ GD-ĐT có một văn bản, một chỉ thị nào coi nhẹ môn lịch sử hoặc loại bỏ môn sử nhưng thực tế hoàn toàn khác. Vị trí của môn sử và vài môn khác đã bị đẩy lùi dần và đến nay thì mất tên chính danh trong chương trình THPT. Nó bị lẫn vào môn khoa học xã hội (tự chọn) trong chương trình cho học sinh theo phân ban khoa học tự nhiên, chỉ còn là môn chính thức đối với học sinh chọn ban khoa học xã hội. Có nghĩa là lớp trí thức trẻ tương lai, ngoại trừ số ít chọn ngành khoa học xã hội, sẽ không hiểu hoặc hiểu biết lơ mơ về lịch sử của dân tộc mình, đất nước mình.”

Thiếu tướng Nguyễn Thiện Minh (Vụ trưởng Giáo dục Quốc phòng, Bộ Giáo dục và Đào tạo), theo báo chí Việt Nam, cho rằng: “ Vị trí của môn Lịch sử trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục phải được đặt đúng tầm quan trọng của nó. Đó là môn học cốt lõi nhất trong các môn học cốt lõi, phải được hệ thống lại, bổ sung cho đủ nội dung, không thể lồng ghép vào một môn học khác.”

Ông nói: "Nếu không coi trọng lịch sử, chúng ta sẽ nhận lại hệ luỵ không thể lường trước cho chính chế độ, an nguy của đất nước."

Gọi dự thảo của Bộ GD&ĐT là “ép duyên”, chắp vá, thiếu cơ sở khoa học”, GS Đỗ Thanh Bình, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, cho rằng: “ Có những vấn đề đặt ra mà những người làm chương trình phải tính toán lại, đừng chỉ vì cố hoàn thành dự án mà để lại hậu quả, sẽ tác động không tốt tới xã hội. Trước hết, chương trình này sẽ dẫn đến hệ lụy làm “teo” môn lịch sử trong trường phổ thông, lớp trẻ không còn biết sự hy sinh của các bậc tổ tiên để có đất nước như ngày nay. Chương trình vừa mới “thai nghén” đã gặp phải nhiều ý kiến tâm huyết trái chiều, liệu khi hoàn thành, đưa vào thực tiễn thì “tuổi thọ” của nó có được lâu dài? Giáo dục không thể là nơi thí nghiệm.”

Vậy ai, hoặc những ai là Tác gỉa của quyết định liều lĩnh cố ý làm lu mờ môn Lịch sử dân tộc ?

CHỦ QUYỀN HÒANG-TRƯỜNG SA ĐÂU ?

Cũng rất kinh ngạc khi nghe Giáo sư Phan Huy Lê cho biết: “ Trong sách Giáo Khoa lịch sử, địa lý đang lưu hành hoàn toàn chưa đề cập lịch sử xác lập, thực thi và đấu tranh bảo vệ chủ quyền với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Hội nghị khẩn thiết đề nghị Bộ GD-ĐT bổ sung ngay nội dung về chủ quyền của Việt Nam với 2 quần đảo này, không thể chờ đợi đến khi biên soạn lại SGK - phải vài ba năm sau mới hoàn thành.”

Đề nghị bổ sung sách Lịch sử của HKHLSVN để xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên Hòang Sa và Trường Sa và cuộc chiến chống quân Khmer đỏ ở Tây Nam (miền Nam) đã được đặt ra từ năm 2012, nhưng Bộ Giáo dục vẫn tai điếc thì không biết lỗi tại ai và lệnh không làm đến từ đâu ?

Nhưng nếu là quyết định của Bộ Chính trị thì hành động này phải bị lên án và Quốc hội phải có nhiệm vụ điều tra để trả lời cho dân biết.

Bằng chứng làm ngơ chủ quyền ở Biển Đông của đảng Cộng sản Việt Nam không mới. Tuy vẫn ra rả nói Hòang Sa-Trường sa là của Việt Nam, nhưng hành động thì ngược lại, và được chứng minh trong sách “Những sự kiện Lịch sử Việt Nam-1975-2000” của Viện sử học-Viện Khoa học Xã hội VN.

Cuốn sách do Nhà xuất bản Giáo dục in phổ biến đã không ghi một chữ nào về Trận chiến xâm lược của quân đội Trung Quốc đã chiếm 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa ngày 14/03/1988.

Trong khi ấy thì tài liệu của Bách khoa Tòan thư (mở) viết: “Hải chiến Trường Sa 1988 là tên gọi của cuộc chiến trên biển Đông năm 1988 khi Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa đưa quân chiếm đóng bãi đáCô Lin, bãi đá Len Đao và bãi đá Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa. Do ba bãi đá này không có quân đội đồn trú nên Hải quân Nhân dân Việt Nam phải đưa quân ra bảo vệ, đánh trả và cuộc chiến nổ ra vào ngày 14 tháng 3 năm 1988. Phía Việt Nam mất ba tàu vận tải của hải quân Việt Nam, 64 thủy binh Việt Nam đã thiệt mạng. Trung Quốc bị hư hại tàu chiến, thương vong 24 thủy binh. Kể từ đó Trung Quốc đã chiếm đóng bãi đá Gạc Ma và hai nước cùng cho hải quân ra đóng giữ một số đá ngầm khác mà hai bên cùng tuyên bố chủ quyền.

Trong các tài liệu của Hải Quân Việt Nam, sự kiện này được biết đến với tên gọi CQ-88 (Chủ quyền-88).”

Về cuộc chiến ở Hòang Sa giữa Quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân Trung Quốc tháng 1/1974 thì sách này chỉ viết vắn tắt: “Ngày 19 tháng Một-1974, Trung Quốc cho hải quân tiến đánh quân ngụy Sài Gòn và chiếm quần đảo Hòang Sa. Ngày 20 tháng Một-1974, Trung Quốc cho máy bay nèm bom xuống ba đảo Hữu Nhật, Quang Anh và Hòang Sa, sau đó quân Trung Quốc đánh chiếm phần phía tây của quần đảo Hòang Sa. Đồng thời Bội Ngọai giao Trung Quốc ra tuyên bố về tình hình quần đảo Hòang Sa để biện hộ hành động của họ.

Đại diện chính quyền Sài Gòn tại Liên Hiệp Quốc gửi Công hàm thông báo hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của Trung Quốc tại Hòang Sa cho Hội đồng Bảo an và Tổng Thư ký Liện hợp quốc. Chính quyền Sài Gòn thông báo tình hình Trường Sa cho các bên Định ước Pari và các nước khác trên thế giới.”

Có 74 chiến sỹ Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh tại cuộc chiến này, nhưng cuốn sách không nói gì đến họ, coi như họ không phải là “người Việt của phe mình” !

Vì vậy mà dù đã có nhiều tầng lớp nhân dân, Trí thức và cựu đảng viên công khai xuống đường biểu dương và ghi ơn 74 lính VNCH, nhà nước vẫn lờ đi và còn không cho tổ chức truy điệu 64 chiến sỹ đã hy sinh ở Trường Sa vì sợ mất lòng Trung Quốc.

Bách khoa Tòan thư (mở) viết: “Báo chí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không đề cập gì đến việc Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa . Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu nhận định về phản ứng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước việc Trung Quốc chiếm Hoàng Sa: "Một điều lạ, là trong khi dư luận phản ứng như thế ở miền Nam, mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có phản ứng gì.”

Cho đến bây giờ, 41 năm sau trận Hòang Sa, và 27 năm sau trận Trường Sa, nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (hậu thân của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) vẫn chưa dám in sách Sử để xác nhận chủ quyền lãnh thổ ở Hòang Sa và Trường Sa là một nghi vấn sợ hãi Trung Quốc sẽ lật ngửa quân bài nhìn nhận chủ quyền của Trung Hoa trên 2 quầo đào này trong Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958.

Một điều ngạo ngược khác của Dự thảo “Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể” là khi cố tình làm lu mở môn học Lịch sử Dân tộc thì Bộ Giáo dục lại ca tụng Chủ nghĩa ngọai lai Mác-Lênin.

Dự thảo viết: “Nội dung giáo dục phổ thông bảo đảm tinh giản, hiện đại, thiết thực, thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, phù hợp với đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi học sinh; giáo dục nhân cách, đạo đức, văn hoá pháp luật và ý thức công dân; tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hoá, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.”

Vậy giá trị cốt lõi và nhân văn của những trang sử oai hùng Việt Nam trong công cuộc giữ nước và dựng nước từ thời Hồng Bàng đến nay đã bị Bộ GD&ĐT cất ở xó nào ?

Lịch sử cũng có mắt và bất diệt đấy. Không ai có thể bóp méo và xuyên tạc để mất gốc được đâu. -/-

Phạm Trần

(11/015)
 
TT Ngô Đình Diệm và năm 1963
Hà Minh Thảo
23:56 18/11/2015
TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ NĂM 1963

(tiếp theo và hết)

Vì cương quyết bảo vệ Chủ quyền Quốc gia và luôn hy sinh để tranh đấu cho sự Độc lập Dân tộc, Tổng thống Ngô đình Diệm đã trả lời Phó Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson, ngày 09.05.1961, khi đang viếng thăm chính thức Việt Nam rằng chính phủ Việt Nam Cộng hòa rất biết ơn sự viện trợ quân sự và cố vấn Mỹ. Nhưng, việc gửi Quân đội tác chiến Hoa kỳ đến Việt Nam, ông nhất quyết từ chối : « Nếu quý Vị mang Quân đội Mỹ vào Việt Nam, tôi phải giải thích thế nào đây với đồng bào tôi? Với người Việt, hình ảnh hãi hùng của Quân đội Viễn chinh Pháp còn ghi sâu trong tâm trí họ. Sự hiện diện Quân đội Mỹ sẽ làm cho dân chúng dễ tin những lời tuyên truyền của cộng sản. Sự can thiệp của bất cứ quân đội ngoại quốc nào vào Việt Nam cũng đem lại sự bất lợi cho Việt Nam, vì làm cho cuộc chiến đấu của chúng ta mất chính nghĩa ». Tháng 11.1961, Đại sứ Frederick Nolting nhận được yêu cầu từ tòa Bạch ốc phải gặp Tổng thống Diệm về vấn đề quân chiến đấu Mỹ (được xem như ‘chia sẽ trách nhiệm’). Nhưng, ông Diệm trả lời : « Chắc Đại sứ cũng hiểu, những đề nghị ấy đụng chạm tới vấn đề trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam, Việt Nam không muốn là một nước bị bảo hộ (Vietnam does not want to be a protectorate) ».

Cùng lúc việc bổ nhiệm Henry Cabot Lodge vào chức vụ Đại sứ tại Việt Nam, đám chủ chiến* Mỹ William A. Harriman, Roger Hilsman, George W. Ball, Getsinger và James V. Forrestal đã đồng ký một công điện mang số 243 chỉ thị cho ông Lodge thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ chính phủ Ngô đình Diệm. Đây là loại công điện tối mật cần hành động lập tức (top secret and operation immediate). Đô đốc Harry Felt, Tư lệnh Mỹ tại Thái Bình Dương, cũng đã góp ý kiến vào việc soạn công điện này. Công điện đã được đánh đi khẩn cấp vào tối thứ bảy 24.08.1963 ghi rõ: ‘Chính phủ Mỹ không thể để cho Nhu nắm quyền. Chúng ta sẽ cho Diệm cơ hội để tách rời ra khỏi Nhu và bè đảng của Nhu và thay vào đó bằng những nhân vật có khả năng trong giới quân nhân và chính trị có thể tìm thấy. Tuy nhiên, sau khi dùng mọi nỗ lực mà Diệm vẫn khước từ và chống lại, chúng ta sẽ phải đối diện với một khả thể: chính ông Diệm cũng không thể nào được để tồn tại’.

* Những phản đối từ Tổng thống Ngô đình Diệm không làm ông Kennedy hài lòng, nhưng đã làm bực bội các cố vấn của ông tại tòa Bạch ốc. Chúng biết bản tính Tổng thống là do dự, thiếu cương quyết và dễ thay đổi ý kiến. Các thất bại tại vịnh Con Heo (Cuba) năm 1962, vụ Lào 1962 và Việt Nam 1963 là những thí dụ. Do đó, khi một đề nghị hay quyết định của Tổng thống Mỹ bị Vị đồng nhiệm Việt Nam chống đối là họ tức tối vì chính họ là những kẻ đã soạn thảo những đề nghị hay quyết định đó. Những kẻ hung hãn nhất trong họ là Hillsman và Harriman, những tên thực dân không chấp nhận Tổng thống một nước nhận viện trợ của Mỹ lại dám hành động như Nguyên thủ một quốc gia có chủ quyền. Do đó, chúng đã tìm một lý do để đảo chính chống vị Tổng thống dân cử Việt Nam Cộng hòa và ‘cơ may’ đã đến : Đó là vụ Phật giáo.

Để hoàn thành ‘vụ Phật giáo’, nhà cầm quyền Washington đã phải dùng ‘hung thần’ Henry C. Lodge (một ứng viên Phó Tổng thống thất cử năm 1960) vào ngôi vị Đại sứ Mỹ tại Sài gòn. Ngày 27.08.1963, khi trình ủy nhiệm thư lên Tổng thống Ngô đình Diệm, hắn đã lên tiếng thăm dò:

1.- Việt Nam nhường hải cảng Cam Ranh cho Hoa kỳ 99 năm ;

2.- Việt Nam chấp thuận để Hoa kỳ đưa 200.000 quân vào lãnh thổ mình ;

3.- Tổng thống Ngô đình Diệm đặt Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa dưới quyền chỉ huy của các Tướng lãnh Quân đội Hoa kỳ ;

4.- Tổng thống Diệm phải đưa ông cố vấn Ngô đình Nhu ra nước ngoài.

Tổng thống Ngô đình Diệm đã lờ đi toàn bộ.

III./ KỲ THỊ PHẬT GIÁO NĂM 1963 : CÓ THẬT hay KHÔNG ?

Ngày 06.05.1963, Đổng lý văn phòng Phủ Tổng thống Quách Tòng Đức theo chỉ thị của Tổng thống đã gởi công điện số 5159 yêu cầu các địa phương áp dụng quy định chỉ treo cờ tôn giáo trong khuôn viên cơ sở tôn giáo. Hôm sau, trong khi Phật tử Huế và Thừa thiên sửa soạn làm lễ Phật đản thì cảnh sát đến tận nhà buộc họ hạ cờ Phật giáo. Sau đó, Phật giáo và chính quyền đã đạt được thỏa thuận cho phép treo Phật kỳ trong ngày lễ Phật đản và những xe thông tin đi loan báo là đồng bào cứ treo cờ như thường lệ. Nhưng lúc đó, bao nhiêu dồn nén trong quần chúng được khơi dậy và họ quyết định sẽ nhân cơ hội này đấu tranh chống chính quyền, đòi quyền bình đẳng tôn giáo và dễ dàng lôi cuốn được mọi Phật tử.

Ngày 08.05.1963, đến dự lễ Phật đản ở chùa Từ Đàm, Thiếu tướng Lê văn Nghiêm, Tư lịnh Quân đoàn I và Vùng I Chiến thuật, Đại biểu Chính phủ Hồ đắc Khương và Tỉnh trưởng Nguyễn văn Đẳng đều khăn đóng áo dài vừa với tư cách chính quyền vừa với tư cách Phật tử. Trong bài thuyết pháp, Thượng tọa Thích Trí Quang, một vị sư bị các nhà phân tích CIA (Central Intelligence Agency, Cơ quan Tình báo Trung ương) mô tả là một kẻ mị dân, chống Công Giáo (năm 1966, ông xách động đồng đạo mang bàn thờ Phật xuống đường) … lên tiếng công kích chính quyền rất nặng nề và tố cáo sự kỳ thị tôn giáo, bất bình đẳng tôn giáo và có tính cách kêu gọi Phật tử tranh đấu cho Phật Pháp. Lúc 19 giờ 30, Phật tử tụ tập thật đông tại chùa Từ Đàm. Bỗng nhiên ban tổ chức loan báo thay đổi chương trình : thay gì có đốt pháo bông như đã dự định thì mời mọi người đến tập trung tại Đài Phát thanh Huế. Nơi đây, ông Quản đốc Ngô Ganh đang sửa soạn để phát vào lúc 8 giờ 15 chương trình Lễ Phật Đản đã thu thanh trước và đã được kiểm duyệt theo thể lệ chung. Đám đông tập trung quanh Đài Phát thanh, nhiều Thượng tọa, Đại đức và thanh niên Phật tử xông thẳng văn phòng Quản đốc buộc ông phải thay đổi chương trình phát thanh bằng loan đi cuộn băng mà họ đã thu buổi lễ ban sáng với bài thuyết pháp của Thượng tọa Trí Quang. Ông Ngô Ganh từ chối vì ông chỉ được phép cho truyền thanh những cuộn băng nào đã được kiểm duyệt. Khi đám đông tràn vào sân Đài, ông gọi điện thoại cầu cứu với Thiếu tá Đặng Sỹ, Phó Tỉnh trưởng Nội an. Sau khi nhận lịnh giải tán từ cấp trên, Thiếu tá Sỹ tập họp các đơn vị thi hành lịnh tại sân Tiểu khu và giải thích cho quân nhân các cấp rõ về lệnh dùng súng Garant và lựu đạn MK3. Đây là lựu đạn thuộc loại huấn luyện có mục đích làm cho tân binh quen với tiếng nổ, cũng dùng khi tấn công địch nhưng không có tác dụng giết người và, nếu đứng gần chỗ nổ, có thể bị chói tai và bị thương nhẹ. Đại úy Lê nguyên Phu, Tiểu khu phó, nhắc chỉ ném MK3 nơi không có người như vào bãi cỏ hay gốc cây.

Nhận lịnh từ thượng cấp, các sĩ quan hiện diện đều đồng ý là phải hết sức thận trọng vì đây là vấn đề thuộc phạm vi tôn giáo, dù có giải tán một cách êm đẹp cũng vẫn bị mang tiếng là đàn áp. Trong lúc họ bàn thảo kế hoạch đối phó thì Đài Phát thanh đang lâm nguy trầm trọng do gạch đá bị đám đông ném, bay vun vút vào. Từ Đà nẵng, Thiếu tướng Nghiêm gọi điện thoại hỏi tình hình và ra lệnh cho ông Sỹ: ‘Việc đã gấp rồi giải tán thì giải tán ngay đi’. Ông Sỹ, sau hai đợt giải tán bằng xe phun nước và Quân cảnh cùng Cảnh sát vô hiệu, đã cho 2 trung đội lính tiến theo đội hình ngang với ba xe phóng thanh kêu gọi đồng bào giải tán, gạch đá tung cùng hàng ngàn tiếng la ó, đả đảo, hoan hô. Tỉnh trưởng Đẳng yêu cầu Thượng tọa Trí Quang : « Thầy dùng micro, Thầy nói dùm như thế này nguy hiểm quá ». Thầy ngần ngại: « Bây giờ tôi phải nói với Phật tử sao đây? ». Đám đông vẫn tiến vào Đài. Thầy Trí Quang đứng ở cửa Đài và nói : « Phật tử cứ bình tĩnh, mọi việc Thầy đang tìm cách giải quyết »… Nhưng vô hiệu.

Thiếu tá Sỹ đi trên xe cơ giới đang tiến vào Đài khoảng 50 thước thì bổng có một tiếng nổ kinh hồn và tiếp theo một tiếng nổ khác. Lúc ấy lối 22 giờ 30. Một cận vệ ông la lớn ‘Nổ ! Thiếu tá coi chừng Việt cộng’. Theo các sĩ quan ở gần Đài thì tiếng nổ làm rung chuyển tất cả và ánh sáng từ phía nổ phát ra một tia sét mà họ đều chưa nghe thấy một tiếng nổ nào lạ tai như vậy. Cảnh tượng trở nên vô cùng hỗn loạn và kinh hoàng. Đồng bào xô đẩy nhau tìm đường thoát thân trong tiếng khóc kêu la… Tám người tử thương, không xác chết nào được toàn thây do sức hơi (soufflement) ép, chứ không bởi mảnh (écletements).

Không tìm được thủ phạm : chính quyền nghi Việt cộng ; Phật giáo buộc tội chính quyền. Hoa kỳ buộc chính phủ phải thỏa mãn 5 đòi hỏi của Phật giáo. Vì Đại sứ Nolting đang nghỉ phép, nên xử lý thường vụ William Trueheart phúc trình, ngày 11.06.1963, về Bạch ốc : 1. Không có dấu hiệu là các lãnh đạo Phật giáo bị ảnh hưởng cộng sản ; 2. Họ xử dụng báo chí ngoại quốc cho cuộc đấu tranh và một số trong họ hy vọng lật đổ chính quyền ; 3. Vẫn còn cơ may Tổng thống Diệm sẽ giải quyết thỏa đáng vấn đề Phật giáo.

Cùng ngày phúc trình được gởi đi, Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu (hay ‘bị thiêu’, 52 năm sau, nghi vấn vẫn còn đặt ra), một thành công tuyệt vời để báo chí và truyền hình Mỹ, rồi dư luận và, cuối cùng, chính quyền Hoa kỳ kết luận : tại Việt Nam, Phật giáo đang bị bách hại. Lúc xảy ra vụ tự thiêu, Tổng thống Ngô đình Diệm, Chủ tịch Quốc hội và ngoại giao đoàn đang hiệp dâng Thánh Lễ cầu hồn cho Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII tại Vương cung Thánh đường do Đức Cha Phao lô Nguyễn văn Bình, Tổng Giám mục Sài gòn, chủ lễ. Thánh Lễ vừa xong, Bộ trưởng Nội vụ Bùi văn Lương đến bên ông Diệm để báo tin vụ tự thiêu. Tổng thống khựng lại, mặt biến sắc thương tiếc ‘có gì mà phải làm như vậy !’. Theo giới thân cận xác nhận thái độ Tổng thống lúc đó thật bàng hoàng, đau xót… Là một Kitô hữu đạo đức, Giáo lý Công Giáo không cho phép tự hủy mình, ông thấy mình có phần trách nhiệm.

Trong cuộc bầu cử Tổng thống năm 1971, ông Dương văn Minh tranh cử chống Tổng thống Nguyễn văn Thiệu và vấn đề ông Diệm chết được đặt ra. Khi được phỏng vấn, ông Minh tuyên bố ông Thiệu phải chịu trách nhiệm về cái chết của anh em ông Diệm : « Thiệu, lúc đó là một đại tá tham gia cuộc đảo chánh, đã không đem quân vào dinh Tổng thống đúng thời điểm để ngăn chận họ trốn thoát ». Nếu 2 ông bị bắt giữ ngay trong dinh Gia Long, họ đã không bị giết. Đồng thời, một quyển sách tựa đề ‘Làm Thế nào để Giết một Tổng thống’ xuất hiện. Đọc trong đó, chúng ta có giải đáp cho những thắc mắc vụ nổ tại Đài Phát thanh Huế đêm 08.05.1963 :

1./ Thủ phạm mang tên Scott.

Tại phiên tòa xử Thiếu tá Đặng Sỹ ngày 02.06.1964, các chuyên viên quân cụ đã phân tích các loại chất nổ M26 và MK3. Giả thuyết M26 đã bị loại và MK3, dù các thẩm phán đặc biệt lưu ý, nhưng rồi cũng bị loại vì, tuy có thể làm chết người do áp lực của hơi nổ, nhưng tác dụng không thể nào đạt tới con số thương vong cao như vậy nhất là ở nơi có khoảng trống.

Năm 1966, Đại úy Scott, cố vấn Tiểu đoàn 1/3 Sư đoàn I Bộ binh, cho biết sự thật. Năm 1965, miền Trung đang sôi động trong ngọn lửa Phật giáo đấu tranh. Nhân một cuộc trò chuyện tình cờ bắt qua chuyện Phật giáo lúc đó, ông Scott nói với Đại úy Bửu đại ý ‘Phật giáo miền Trung sẽ không thành công trong vụ này’ vì không tạo đủ yếu tố để thành công như năm 1963. Tuy có khí giới tinh thần, nhưng không được đồng minh ủng hộ : Hoa kỳ không giúp đỡ Phật giáo nữa. Vụ 1963 thì tôi biết rõ’. Đại úy Bửu hỏi : « Năm 1963, ông ở đâu? ». Scott nói: « Tôi hiểu rõ Phật giáo có thể còn hơn các anh. Tháng 05/63 tôi ở Đà nẵng và đến Huế một ngày trước khi xảy ra vụ nổ tại Đài Phát thanh Huế. Chỉ người ngây thơ tin Việt cộng gây ra vụ nổ đó. Tội nghiệp cho Thiếu tá Sĩ đang ở tù vì bị kết tội đã đàn áp Phật giáo và làm chết 8 Phật tử. Người ta tin đó là tiếng nổ của Plastic Việt cộng hay lựu đạn của chính quyền Việt Nam? Đó là một chất nổ đặc biệt của CIA…

2./ Vợ chồng Bác Sĩ Wuff.

Trong cơn hổn loạn sau tiếng nổ kinh hồn tại Đài Phát thanh, một viên chức Mỹ đến hiện trường để lo chụp hình quay phim nhưng bị nhân viên công lực không cho. Vợ chồng Bác sĩ Wuff, người Đức thuộc Đại học Y khoa Huế, xin vào trong Đài để săn sóc nạn nhân nhưng bị từ chối. Ông này đã nhanh tay chụp được mấy tấm hình nạn nhân và vài chiếc xe cơ giới Bảo An đang đậu trước Đài. Đêm đó, họ cắt và ghép những hình này để cho thấy xe cơ giới cán người và, trong nội sáng ngày 09.05.1963, những tấm hình ghép này được gởi về Saigon và mấy ngày sau xuất hiện trên báo chí Tây Đức, Pháp, Mỹ. Một chi tiết cần lưu ý năm 1965, ba Bác sĩ Đức ở Đại học Y khoa Huế kể cả Wuff chụp hình và ráp nối hình đêm 08.05.1963 đều bị an ninh Sư đoàn I thời Tướng Nguyễn chánh Thi làm Tư lịnh, trong một cuộc hành quân tại khu Nam Đồng khánh khám phá được tài liệu mật cho biết rằng họ đều là người Đông Đức vượt qua Tây Đức và là những điệp viên cộng sản thuộc loại quốc tế.

[Mời đọc thêm. Trong khi làm Thủ tướng, Tướng Nguyễn Khánh muốn làm hài lòng Đại sứ Mỹ Henry C. Lodge và Thích Trí Quang đã dùng ‘Tòa án Cách mạng’ để tuyên án tử hình ông Ngô đình Cẩn cùng Trung úy Phan quang Đông và cả hai bị xử bắn ngày 09.05.1964. Không thể để ‘bọn lợi dụng cách mạng để đàn áp Công Giáo’ đối với Thiếu tá Đặng Sĩ, ngày 07.06.1964, Khối Công dân Công Giáo đã tổ chức cuộc biểu tình lớn với khoảng cả 100.000 người tại Công trường Lam Sơn. Chiều hôm đó, ông Khánh đã phái Tướng Albert Nguyễn Cao đến gặp Đức Cha Nguyễn văn Bình, Linh mục Trần tử Nhãn, Dòng Chúa Cứu Thế, và gia đình Thiếu tá Đặng Sĩ cho biết : ‘Thiếu tá Đặng Sĩ sẽ không bị tuyên án tử hình và đừng quan tâm đến bản án tòa sẽ tuyên trong ngày mai. Tòa chỉ tuyên án để thỏa mãn những đòi hỏi của Phật giáo mà thôi. Trong một thời gian ngắn, khi tình hình lắng dịu, Đặng Sĩ sẽ được trả tự do’.

Ngoài ra, ngày 24.11.1963, Thiếu tá Đặng Sĩ bị bắt, giải vào Sài gòn giam tại Nha An ninh Quân đội. Buổi chiều, ông được đưa đến gặp Thiếu tướng Đỗ Mậu để vị tướng này nói ‘Anh khai cho ông Ngô đình Thục đã ra lệnh cho anh đàn áp Phật giáo ở Huế thì anh sẽ được trả tự do’. Ông Sĩ từ chối vì không đúng sự thật. Hôm sau, một Trung úy đã cho ông Sĩ biết ‘nếu đồng ý khai theo ý của Thiếu tướng thì sẽ được cho vào làm việc tại Sài Gòn, vẫn mang cấp bậc cũ và còn được cho một chiếc xe Peugeot 203 mới nữa’. Ông Sĩ đề nghị ‘Nếu Thiếu tướng đã chỉ thị rõ ràng như vậy thì xin viết tay ra lệnh cho tôi thì tôi mới thi hành’. Đỗ Mậu viết trên một mảnh giấy nhỏ ‘Lưu ý Đặng Sĩ đừng khai dài dòng, chỉ nói mục đích chính cuộc đàn áp. Hỏi Ngô đình Thục đã ra lệnh cho y khi nào?’. Sau đó, một Đại úy nhắc lại ‘Theo ý của Thiếu tướng, Thiếu tá chỉ khai một lời duy nhất: Chính ông Ngô đình Thục đã ra lệnh cho Thiếu tá ngày nào, giờ nào, trực tiếp hay qua trung gian... Chỉ cần viết một trang, rồi ký tên là đủ, không cần dài dòng’. Viết xong, trở về phòng giam, ông Sỹ liên lạc nhờ một người quen ở Nha An ninh Quân đội để nhờ photocopy chỉ thị viết tay của Đỗ Mậu và đem đến trao cho bà vợ ông Sĩ để trao cho Đức Tổng Giám mục Nguyễn văn Bình gởi cho Hội đồng Giám mục Hoa kỳ hầu báo cho thẩm quyền Mỹ].

Mời chúng ta trở lại cuộc khủng hoảng Phật giáo.

Cuộc thương nghị giữa Phái đoàn Liên phái (Phật giáo do Thượng tọa Thích tâm Châu làm Trưởng đoàn) khởi đầu từ 14.06.1963 với Phái đoàn Liên bộ (Phó Tổng thống Nguyễn ngọc Thơ và hai Bộ trưởng Nguyễn đình Thuần, Bùi văn Lương). Ngày 16.06.1963, Bản Thông cáo chung được ký kết gồm 5 điểm để giải quyết 5 nguyện vọng do Tổng hội Phật giáo Việt Nam đề ra. Chữ ký chưa khô mực, ngay chiều cùng ngày, hơn 100 tăng ni, trong đó có Thượng tọa Thích tâm Châu đã biểu tình trước Dinh Đại sứ Mỹ để yêu cầu chính quyền Mỹ và các nước khối Tự do phải áp lực chính quyền Việt Nam thực thi đứng đắn Bản Thông cáo chung. Sau cuộc biểu tình, một số tăng ni lại kéo nhau về Chùa Xá Lợi mở đầu cuộc tuyệt thực… Mỗi lần biểu tình, tuyệt thực và, lại thêm, tự thiêu như vậy cung cấp thêm cho báo chí ngoại quốc những đề tài mới lạ và hấp dẫn.

Do đó, để tái lập trật tự, nhất là để tránh sự ‘nổi loạn’ lan tới giới sinh viên, học sinh, chính quyền Việt Nam phải ra tay bằng tấn công các chùa Xá lợi và Aán quang, những địa điểm tổ chức tuyệt thực và xuất phát các vụ xuống đường, sáng sớm ngày 21.08.1963, do Lực lượng Đặc biệt và Cảnh sát phụ trách. Các đơn vị hành quân truy lùng, bắt giữ đám Cộng sản trà trộn vào các chùa, cũng như các thành phần bất hảo phá rối trị an. CIA đã biết trước cuộc tấn công và báo cho Thượng tọa Thích trí Quang chạy trốn vào USAID (United States for International Development, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa kỳ) và, sau đó, đến Tòa Đại sứ Mỹ để được sự bảo vệ của Henry C. Lodge cho đến ngày 04.11.1963, chùa Xá Lợi. Đồng thời, Tổng thống cũng ban bố lịnh Thiết Quân luật trên toàn quốc và giao cho Quân đội trách nhiệm bảo vệ an ninh trật tự. Tại Thủ đô, quyền hành được trao cho Thiếu tướng Tôn thất Đính, Tư lịnh Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật, Tổng trấn Sài gòn Gia định.

--> Lời Tổng thống Ngô đình Diệm.

- Tại Dinh Gia Long, nhân ngày Quốc khánh 26.10.1963, trong bầu không khí khác biệt với những năm trước, sau những lời chúc của đại diện các cơ quan, đoàn thể, Tổng thống chỉ đáp từ rất vắn tắt, rồi đột nhiên, với một giọng cương quyết, nhấn mạnh từng chữ để tuyên bố: « Tình thế biến chuyển, vận nước đổi thay ra sao, sử sách sau này sẽ ghi rõ… Riêng về phần tôi, nếu tôi tiến, quý vị hãy theo tôi, nếu tôi lùi, cứ giết tôi. Nếu tôi chết, quý vị hãy theo gương tôi! ». Nói xong, Tổng Thống cáo từ, rồi rút lui.

- « Tôi không phải là thần thánh, tôi chỉ là một người bình thường, tôi chỉ biết thức khuya, dậy sớm làm việc, một lòng hiến dâng đời tôi cho đất nước và dân tộc ».

- « Sau khi tôi chết, người Mỹ sẽ vào Việt Nam. Khi thua, Mỹ rút về nước, họ sẽ bỏ nước đi theo ». (họ : những kẻ theo đảo chính)

IV./ ĐẢO CHÍNH VÌ TỔ QUỐC HAY VÌ THAM VỌNG CỦA CÁC TƯỚNG ?

Ngày 01.11.1963, nhân danh Quân đội Việt Nam Cộng hòa, các tướng Trần thiện Khiêm, Dương văn Minh… đã sai thuộc cấp nổ súng giết các chiến hữu theo lịnh ngoại bang, như vào các Đại tá Hồ tấn Quyền (Tư lịnh Hải quân), Lê quang Tung (Tư lịnh Lực lượng Đặc biệt) và Thiếu tá Lê quang Triệu (Lực lượng Đặc biệt)… Lối 13 giờ, tên CIA Lucien E. Conein mang vô bộ Tổng Tham mưu một bao tiền là ba triệu đồng và một máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với Toà Đại sứ Mỹ. Cuộc tạo phản bắt đầu lúc 13 giờ 30…

Khoảng 19 giờ, ông Cao xuân Vỹ, Thủ lãnh Thanh niên Cộng hòa, đưa Tổng thống và ông Ngô đình Nhu cùng 2 Đại úy Đỗ Thọ và Bằng (sỹ quan tùy viên) đến nhà ông Mã Tuyên (Bang trưởng người Hoa và Trưởng Thanh niên Cộng hòa quận 5). Tại đây, hai ông Diệm, Nhu và Đại úy Thọ tạm trú qua đêm. Từ nửa đêm cho đến sáng, chuông điện thoại reo liên tiếp. Gần sáng, Tổng thống nói cho ông Mã Tuyên biết Lữ đoàn Phòng vệ đã ngưng tiếng súng rồi. Sau đó, hai ông ngồi cầu nguyện. Sau khi cám ơn ông Mã Tuyên và gia đình, tài của ông đưa Tổng thống, ông Nhu và Đại úy Thọ đến nhà thờ Thánh Phanxicô Xaviê (còn có tên Cha Tam).

Tại đây, là những tín hữu kính sợ Đức Kitô, Thiên Chúa Chân Thật, Người đã hứa ‘Phúc cho ai xây dựng hòa bình’ thì ‘Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa’, nên hai người Công Giáo tốt Ngô đình Diệm và Ngô đình Nhu đã ‘xây dựng hòa bình’ qua việc tham gia vào chính trị xứng đáng ‘được gọi là con Thiên Chúa’. Do đó, ngày 02.11.1963, trước khi chấm dứt cuộc lữ thứ trần gian, hai ‘con Thiên Chúa’ này, sau khi gặp Linh mục (là Đức Kitô thứ hai) đã lãnh nhận những Bí tích cuối cùng và Lương thực đi đường, xứng đáng được Chết Lành hầu Linh hồn Gioan Baotixita và Giacobê được Ngôi Hai Thiên Chúa đón vào Thiên Đàng. Sau đó, Tổng thống nhờ Đại úy tùy viên Đỗ Thọ mượn điện thoại nhà xứ gọi về Tổng tham mưu thông báo là hiện Tổng thống đang ở nhà thờ Cha Tam Chợ lớn.

V./ NHỮNG KẺ GIẾT NGƯỜI VÀ CHẠY TỘI.

Dù biết ‘Dinh Gia Long thất thủ được coi như chế độ sụp đổ’, nhưng vẫn có đôi ba Tướng còn sợ uy quyền Tổng thống (như Khiêm, Lễ, Oai chủ trương

‘nhổ cỏ phải nhổ tận gốc’) nên nghĩ xa hơn về hậu họa nếu ông Diệm còn sống. Do đó, kế hoạch giết ông được bàn cãi trong Hội đồng Tướng lãnh. Vì tham vọng quyền lợi mỗi người trong họ, nên cuộc thảo luận tạo nên hố chia rẽ bắt đầu đào lên giữa họ. Các tướng ít quyền, do mặc cảm cấp bực thua kém, đã tự động bỏ ra về. Cuộc bỏ phiếu được thực hiện bằng lựa chọn 1 trong 3 ký kiến:

1.- Tha cả 2 và cho đi ngoại quốc.

2.- Giết cả 2.

3.- Giết Nhu, tha Diệm.

Tướng Kim là người đi nhận phiếu, bỏ vào nón của ông. 9 phiếu đầu đòi giết cả hai. Dương văn Minh, lá phiếu trên tay không bỏ phiếu và nói ‘Tôi xin được tha cho Tổng thống và ông Nhu’. Tướng Kim, im lặng một lúc, rồi đề nghị: « Ý kiến anh Chủ tịch là tha cả hai. Tôi đề nghị anh em là nên theo ý kiến của anh Chủ tịch ». Tất cả đều đồng ý tha. Tướng Minh giao cho tướng Khiêm phụ trách việc đón hai ông Diệm và Nhu cùng dặn đưa 2 ông về trình diện Hội đồng Tướng lãnh.

Tướng Khiêm kéo hai Đại tá Dương ngọc Lắm, Huỳnh văn Tồn, và Đại úy Dương hiếu Nghĩa (đều là đảng viên Đại Việt) về phòng riêng để cho biết ý kiến của Mỹ (qua CIA Conein) là phải giết ông Diệm. Sau đó, Lắm và Tồn ra trước để điều động lực lượng. Nghĩa ở lại để Khiêm bàn chi tiết hơn. Khi rời phòng Khiêm, Nghĩa gặp Đại úy Phan hoà Hiệp. Ông này hỏi Nghĩa :

- Có chuyện gì mà hồi nãy anh Lắm nói với tao ‘Ê, các cậu được lịnh vô Chợ lớn đón Tổng thống. Hễ thấy gì thì cũng yên lặng, chớ có lộn xộn coi chừng bay cái đầu đó nghen !’

Nghĩa nói nhỏ ‘Anh Tư Mắt Kiếng (tướng Khiêm) có lịnh giết ông Diệm rồi’.

Lúc 7 giờ ngày 02.11.1963, một đoàn quân xa gồm 3 chiếc Jeep, 2 thiết vận xa M113, 2 quân xa GMC chở đầy lính vũ trang cùng các quân nhân : Tướng Mai hữu Xuân, hai Đại tá Dương ngọc Lắm và Nguyễn văn Quan, bốn Đại úy Nguyễn văn Nhung, Dương hiếu Nghĩa và Phan hòa Hiệp đến nhà thờ Cha Tam để đón hai anh em Tổng thống. Đại tá Lắm chào và nói ‘ Thừa lệnh Trung tướng Chủ tịch Hội đồng Quân nhân Cách mạng, chúng tôi đến đón cụ và ông cố vấn’… Đại úy Nhung sai hai lính chạy đến đẩy hai ông lên xe M113 và kéo cửa lên. Tùy viên Đỗ Thọ và Linh mục đi theo hai ông. Sĩ quan tùy viên vừa đưa chiếc cập da cho Tổng thống và Nhung chớp lấy ngay. Sau đó, Nhung đuổi Đại úy Thọ và cha Jean trở lên nhà thờ. Đoàn xe lăn bánh.

Thượng sĩ trưởng xe M113 hỏi nhỏ anh Hạ sĩ xạ thủ đại liên ‘Này mày, sao không để 2 ông ấy đi xe jeep cho tiện, đút vào đây làm chi cho cực ?’. Vị hạ sĩ ghé vào tai tao nói giọng lạnh như tiền ‘Ông ngu bỏ mẹ đi. Nếu người ta muốn ‘đón’ thì đi bằng xe jeep. Còn muốn ‘giết’ thì còn gì kín đáo hơn là hầm chiếc xe này’. Nghe xong, vị Thượng sĩ bất giác lạnh từ xương sống lên tới đầu. ‘Giết ? Sao lại giết? Có gì mà đến nỗi phải giết ? Đối phương đã đầu hàng, đã xin chịu thua, nhất là đã chỉ chỗ cho mình đến mà đưa người ta đi. Vậy thì cách chức, đuổi cổ người ra khỏi ngước đã là nhục lắm rồi, cớ chi mà phải giết ?’.

Chiếc M113 rầm rộ rời nhà thờ cha Tam, chạy đến đường Đồng Khánh và tới đường Nguyễn Trãi thì đoàn xe đâu mất, chỉ còn một xe jeep chạy đầu, với ngồi đứng 5, 6 người, súng ống chỉa lên trời, lựu đạn đeo lủng lẳng xem thật hùng dũng. Hết đường Nguyễn Trãi, bước vào đường Võ Tánh và ngừng lại trước trụ sở Tổng Nha Cảnh sát Quốc gia, nhưng không một bóng dáng cảnh sát, chỉ toàn binh sĩ Sư đoàn 5, thuộc quyền chỉ huy của Đại tá Nguyễn văn Thiệu, súng lăm lăm cầm tay canh gác rất cẩn mật. Từ trong một xe jeep khác chạy ra, trên xe có một Đại tá. Ông chỉ tay lên chiếc M113 và ra lệnh:

- Xuống! xuống hết! Tất cả ở ngoài đứng chờ lệnh, chỉ có chiếc xe này được chạy vào với một tài xế và… anh kia.

Theo tay chỉ thì anh kia là anh chàng hạ sĩ xạ thủ đại liên. 8 người trên xe M113 nhảy xuống, đồng số phận với những người trên xe jeep ở bên ngoài... ngắm cảnh. Tưởng đến đây là hết: giết hay giam hai ông ở đây. 20 phút sau, chiếc M113 lại lù lù chạy ra, tới cửa nó chạy chậm lại để lính đu lên, rồi xe rú lên vọt chạy ngược lại đường Võ Tánh rồi quẹo phải, đến đường Cộng Hòa. Mắt chàng hạ sĩ dại đi, mặt tái mét, mười ngón tay như muốn co rúm lại khi vị Thượng sĩ thì thầm bên tai :

- Ông Diệm, ông Nhu đâu ?

- Ở dưới.

- Sao rồi ?

- Ông Nhu bị tra tấn khủng khiếp rồi bị xiết cổ chết bằng dây điện.

- Còn ông Diệm ?

- Ông bị đè cổ ra trói thúc ké rồi ném vào thùng xe.

- Chết hay sống ?

- Không biết.

- Người ta là ai ?

- Không biết.

Chiếc M113 cùng xe jeep chạy qua đường Pétrus Ký thì tới ngã rẽ Hồng Thập Tự, bên kia là Lý Thái Tổ, đường Hùng Vương, bên trái là Nguyễn Hoàng, thì gặp lại đoàn xe Đại tá Lắm, các Đại úy Nhung, Hiệp, Nghĩa. Như vậy, đội hình mau chóng được xếp lại. Qua ngả tư Cao Thắng, Hồng Thập Tự, khoảng bên hông bệnh viện Từ Dũ thì tạm ngừng vì bên kia chạy ngược chiều là đoàn xe nhiều chiếc của tướng Mai hữu Xuân. Lúc đó có một số đồng bào thấy lạ nên đổ xô đến. Xuân xuống xe đứng bên này đường, nhìn về xe Đại úy Nhung, ra tay trái 3 lần đưa lên 2 ngón tay, rồi đưa tay phải qua khỏi đầu, ngón tay trỏ được duỗi ra co vào đến 4 lần (giống như bóp cò súng). Nhung gật đầu rồi đưa tay lên chào. Đoàn xe Xuân chạy đi thì 3 chiếc xe bên này cũng lăn bánh. Mới chạy được một quảng ngắn thì phải ngừng vì xe lửa sắp chạy qua.

Trong giây phút chờ đợi, đột nhiên Đại úy Nhung từ trên xe jeep bên hông xe M113 nhảy sang xe này và hét : -Xuống ! Xuống !

Bảo xuống thì tất cả nhảy xuống. Tiếp theo, mọi người bỗng nghe nhiều tiếng súng nổ. Âm thanh không chát chúa, vì chỉ nổ trong lòng chiếc thiết vận xa M113. Biết chuyện gì đã xảy ra, vị Thượng sĩ ngước mặt lên trời cao xanh thăm thẳm, cắn chặt môi cố ngăn những giọt nước mắt không chảy ra để thấy tâm hồn như bị chẻ đôi, để thấy cõi lòng như đang trải qua cơn giông bão tang thương thê thảm nhất cuộc đời.

Về đến bộ Tổng tham mưu, thi hài hai ông Tổng thống Ngô đình Diệm và cố vấn Ngô Đình Nhu được đưa vào bệnh xá Bộ Tổng tham mưu để khám nghiệm. Theo chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, Giám đốc bệnh xá và cũng là người đã tiến hành vụ khám nghiệm thì hai ông Diệm, Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Xác ông Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị đánh đập trước khi bị bắn. Xác ông Nhu bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu.

Lối 10 giờ ngày 02.11.1963, Đài phát thanh Sài gòn loan tin vắn tắt ‘Anh em ông Diệm bị bắt tại Chợ lớn, và đã tự tử!’ Dư luận không tin là nhị Vị tự sát vì ai cũng biết: Tổng Thống Diệm và bào đệ là những người ngoan đạo, mà đạo Thiên Chúa cấm tự sát.

Nghe tin Tổng thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát, Tổng thống Đài loan Tưởng giới Thạch thương tiếc nói rằng: « Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề về vụ ám sát xấu xa nầy, Trung hoa Dân quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp... Tôi khâm phục ông Diệm, Ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu ». Đồng thời, cái chết của anh em Ngô Đình Diệm cũng đã làm cho các lãnh tụ Á châu, đồng minh của Mỹ giật mình. Tổng thống Hồi quốc (Pakistan), Ayub Khan, đã nói với Tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon: « Cuộc thảm sát Tổng thống Ngô đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Đồng Minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hưu ích hơn nữa khi là kẻ thù của Hoa kỳ ».

Lúc 20 giờ ngày 08.11.1963, Linh mục Claude Larre, Đại diện Đức Khâm sứ Tòa Thánh tại Sài gòn (Đức Khâm sứ đang họp Công đồng chung Vatican 2), cử hành Thánh lễ An táng cho Tổng thống Gioan Baotixita Ngô đình Diệm và ông Giacôbê Ngô đình Nhu.

Hà Minh Thảo
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Bạn trẻ xứ đạo tôi, họ đâu cả rồi?
Tu sĩ Vinh sơn Nguyễn Văn Hanh CSC
08:44 18/11/2015
Bạn trẻ xứ đạo tôi, họ đâu cả rồi?

Những năm gần đây, xã hội Việt Nam tuy còn tụt hậu so với nhiều nước trong khu vực nhưng tôi nhận thấy có một sự tiến triển chóng mặt trên tất cả các lãnh vực. Sự phát triển ấy được sánh ví như cơn vũ bão, nó mang lại cho những vùng nó quét qua cả những cơn mưa dầm, thấm đất khô hạn và cả những tàn cây quật đổ nghiêng ngả, hay nói cho đúng hơn đó là: lợi cũng có mà hại cũng nhiều. Cơn vũ bão ấy dường như nó xuyên thủng mọi bức tường, rào chắn. Bức tường và rào chắn ấy vốn được xây dựng và tồn tại bởi không gian và thời gian, thể lý và tâm lý, văn hóa và xã hội, người nam và người nữ, giới trẻ và giới già….và ngay cả tôn giáo nữa. Bài viết này xin được trình bày cụ thể về những biến đổi của xã hội ảnh hưởng đến các bạn trẻ trong giáo xứ của tôi.

Lối sống công nghiệp

Ngày xưa, dân tộc Việt Nam tồn tại văn hóa thôn làng. Mỗi làng đều có một “ lũy sắt thành đồng” là lũy tre làng. Lũy tre làng được coi như bức thành kiên cố, vững trãi để bảo vệ dân khỏi mọi hiểm nguy đến từ bên ngoài. Như bảo vệ khỏi những mối đe dọa của hùm beo, hay cả mối đe dọa của quân thù… Có những làng giàu hơn, họ làm thêm một cái cổng làng như là “ phép rào” nhiệm mầu “nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Vậy là còn gì có thể chắc chắn hơn khi được bảo vệ “hai trong một”(hai thành trì trong một làng).

Quả là sự an toàn là có thật. Lịch sử đã chứng minh, nhờ hai thành trì này mà dân tộc ta tồn tại cả Nghìn năm văn hiến. Có người nhận định rằng, cũng bởi lũy tre làng mà văn hóa người Việt được tồn tại mãi. Nước Nam ta phải trải qua cả nghìn năm đô hộ giặc Tầu, thế mà người Việt không bị đồng hóa…

Ấy vậy mà chỉ có khoảng 30 năm thôi, ta thấy dường như lũy tre làng mất dần đi, mất đi như “miếng thịt trong tổ con chim diều hâu” ấy! Nó đã bị cái gọi là “ hiện đại” “đồng hóa” và thay đổi. Cái 30 năm đã làm phôi pha đi cái nghìn năm! Làn sóng của xã hội hiện đại ấp đến trên khắp quê hương Việt Nam, cho dù đó là thành phố hay đồng quê, dù là người Kinh hay người Thượng…

Xã hội hiện đại đến, mang theo các nhà máy công nghiệp, những khu mua sắm và vui chơi có cơ hội “trổ hết nụ, mở hết hoa”. Xứ đạo quê tôi tuy xa thành thị, làn sóng hiện đại nó cũng ghé hỏi thăm và ở lại với dân làng.

Từ khi vị khách “không mời mà đến” là anh “ hiện đại” ghé xứ đạo tôi, diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp để nhường chỗ đón anh. Các con đường làng được mở rộng để phục vụ anh. Thế là những hàng tre quê hương bị phá bỏ để giải tỏa mặt bằng. Ngay cả đến cổng làng cũng bị quật đổ đến tội nghiệp vì lý do rất “ ngây thơ”: cổng bé quá xe ra vào không được!

Khi lũy tre bị phá đi rồi, cổng làng bị tháo dỡ, dân trong làng tha hồ mà hưởng làn gió tự do! Làm thế nào để sắm xe gắn máy mà chạy, nhà gác tường, ti vi, tủ lạnh…khi mà đất nông nghiệp không đủ để nôi sống các thành viên? Thế là dân tình đua nhau vào các công ty, xí nghiệp để lao động. Có người bỏ bê quê cũ lên đường đi lao động xa nhà: vào Nam ra Bắc hay đi cả nước ngoài. Vậy là lý do cố hữu khiến người ta vượt lũy tre, cổng làng để đi lao động tại các công ty xí nghiệp là Kinh Tế. Ngày xưa, điều giới trẻ sợ nhất và thách đố nhất là: “tậu trâu, cưới vợ, làm nhà”…Ngày nay, trâu không được coi là đầu cơ nghiệp nữa (vì anh hiện đại đã mang máy vào rồi) cho nên nỗi sợ của giới trẻ là “tậu việc làm”. Khi bạn có việc làm, lúc đó bạn mới nghĩ đến lấy vợ và làm nhà. Vậy đầu sỏ là anh kinh tế; anh là mấu chôt của vấn đề. Chính vì anh mà giới trẻ quê tôi hình thành ra một phương châm hiện đại, và phương châm ấy trở thành ngạn ngữ thời hiện đại của giới trẻ là: “làm ngày không đủ, tranh thủ làm đêm”.

Do bị cuốn hút vào trong thế giới hiện đại mang theo dư trấn: “ công nghiệp hóa” cho nên giới trẻ quê tôi không thoát khỏi vòng kiềm tỏa này. Ngày xưa, trong xứ đạo có việc gì là hô một tiếng, thanh niên đánh nhanh thắng nhanh ngay! Ngày nay, khi Giáo xứ có công việc gì thì leo teo mấy cụ già. Khi được Giáo xứ mời công tác, nhiều bạn trẻ nói: “ Giáo xứ cứ làm đi, chúng con sẽ cùng nhau bỏ tiền ra cho Giáo xứ để thuê người”, vì công ty đâu có cho chúng con nghỉ…”.Nghe hay thì thật là hay, nhưng suy đi nghĩ lại thấy nó chua cay thế nào ấy!

Vậy là Giáo xứ mất giới trẻ như thể dân làng mất hàng tre. Xứ đạo vốn truyền thống bao đời vậy mà giờ đây, không khỏi chơ hơ chểnh hểnh như “bò mất hàm trên”! (con bò vẫn hoạt động được dù không có răng hàm trên). Giáo xứ không có giới trẻ thì thiếu sống động, chưa nói đến nhiều hệ luận mục vụ! Như vậy, vấn đề của giới trẻ trong giáo xứ thời hiện đại là, do đặc thù của xã hội này nó đã tách giới trẻ ra khỏi Giáo xứ, gia đình và làng xóm. Vậy nên, khi nghĩ về lũy tre làng ta mới thấy giá trị nó của thời xa xưa. Lũy tre đã bảo vệ dân làng và Giáo xứ sống yên hàn, lưu giữ kỷ cương và lề thói tốt lành.

Thế giới ảo dẫn đường chỉ hướng

Những năm gần đây sự phát triển của công nghệ thông tin, cách riêng là internet đã có những tác động làm thay đổi tất cả mọi thang giá trị của cuộc sống giới trẻ. Câu chuyện này trở nên vấn đề to bằng mấy cái đình làng. Nhiều bạn trẻ chạy theo những giá trị ảo – những giá trị không có thực ảnh hưởng lớn đến kinh tế, sức khoẻ, tinh thần và sự phát triển hoàn thiện nhân cách. Ngày xưa, người ta nói đến “tứ đổ tường” gồm có: cờ bạc, rượu chè, trai gái hút hít…Ngày nay cũng thế “tứ đổ tường” ấy được chắp thêm đôi cánh của truyền thông và internet. Phương tiện hiện đại này mang trong mình sự trá hình bằng sự “ảo tùng chảo”!

Nhiều bạn trẻ tìm kiếm mình trong những trò chơi game mang tính toàn cầu. Một cuộc chiến đấu thần kỳ mang tên “ Liên Minh Huyền Thoại”. Nó rất hấp dẫn. Liên Minh Huyền Thoại đưa người chơi vào một cuộc chiến tranh, chém giết. Nó sẵn sàng thưởng cho người chơi những vũ khi tối tân, và những quân phục tốt nhất để tác chiến nếu đương sự thắng trận…Như vậy, môn chơi này đánh đúng vào tâm lý giới trẻ. Bạn là người anh hùng! Bạn là một dũng tướng tài ba. Danh dự này, bạn đâu dễ đạt được trong giảng đường hay trong công việc của bạn. Môn chơi này sẽ ban cho bạn cách danh hiệu “mơ được ước thấy”. Thế là bạn trẻ đã tìm thấy mình rồi, tìm mình trong chính mình, mình tôn vinh mình…Than ôi! Đây chỉ là cái hư danh, mà cái hư danh hoàn toàn ảo. Bạn trẻ không ngờ rằng mình trở thành tín đồ của “ông thần game”. Họ phải dành thì giờ để phụng sự nó, tế lễ nó bằng tiền bạc, sức khỏe… Thành Phố Huế tuy nhỏ bé, nếu tính sơ qua cũng có cả nghìn quán game. Trong khi đó thành phố này chỉ có khoảng 10 ngôi nhà thờ, 200 ngôi Chùa…Nếu ta bỏ thì giờ ra để lần lượt đến từng quán game, vào ban ngày hoặc ban đêm thì nhận ra, quán nào cũng kín người chơi. Họ mặc đồng phục của học sinh cấp I,II,III hay ngay cả những sinh viên của trường đại học. Nhiều bạn trẻ đã lạc vào “cõi tiên” này, họ đã đánh mất thời giờ, học hành, tương lai bằng trò chơi này. Trong khi đó, các lớp Giáo lý thì vắng vẻ, nhà thờ và lễ lậy không đi vì họ đã có một nơi khác để đi, quán game để về.

Nếu nhiều bạn trẻ dính vào game thì số không nhỏ bạn trẻ khác lao vào facebooks. Nhiều bạn trẻ do lạm dụng nó mà đưa đến những hậu quả khôn lường. Gần đây, báo chí đã đưa một số trường hợp vì facebooks mà đưa đến cái chết thương tâm. Mới nhất là vụ bạn H, 15 tuổi, ở Đồng Nai tự vẫn vì bạn trai tung video sex lên facebooks là ví dụ điển hình.

Chính việc chạy theo những giá trị ảo mà đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến tỷ lệ phá thai ở Việt Nam thuộc top đầu thế giới. Do bắt chước những lối sống, trào lưu trên các trang báo mạng “lá cải” mà nhiều người nghĩ, có người yêu là sành điệu, cho rằng mình đã trưởng thành và nhiều trải nghiệm hơn người khác khi “yêu kểu mì ăn liền” và “sống thử”. Bên cạnh đó, sự né tránh các vấn đề giới tính, sức khoẻ sinh sản của nền giáo dục nước nhà đã đẩy học sinh đến những hệ luỵ đáng buồn. Giáo viên thiếu kinh nghiệm đã dạy cho học sinh những điều mơ hồ về giới tính, tình dục, sức khoẻ sinh sản. Họ né tránh, tạo sự tò mò khiến học sinh phải tự tìm hiểu ở những nguồn khác, qua bạn bè, film ảnh. Mới đây dân mạng truyền tay nhau cách dạy con trai rất “bá đao” của một ông bố Việt Nam. Ông bố ấy cho rằng, trên Facebook hoàn toàn là ảo. Cô gái có bộ mặt kém sắc thì lên Facebook thành mỹ nữ. Trong lời dạy của ông Bố ấy có đoạn: “… Thậm chí con càng phải thận trọng hơn khi tìm vợ trên Phây (Facebook) vì bây giờ photoshop đã rất phổ biến, đặc biệt là từ khi cái Camera 360 xuất hiện thì mọi giá trị đã đảo lộn hết cả. Nếu vụ nổ vũ trụ cách đây hơn 60 triệu năm được cho là nguyên do làm tuyệt chủng loài khủng long trên trái đất thì Camera 360 chính là lý do làm tuyệt chủng loài cá sấu trên Phây (nhớ là trên Phây thôi nhé, chứ ngoài đời vẫn còn đầy) (cá xấu là cô gái xấu). Thật vậy, thách đố của giới trẻ trong thời hiện đại là thế giới ảo. Các bạn trẻ không phân định được hay dở, tranh tối tranh sáng, làm họ lóa mắt mất rồi. Thế là họ quên đường về.

Quảng cáo và phim ảnh

Giới trẻ thời nay đầy rẫy những phương tiện giải trí, thỏa thích kén chọn. Do cả ngày làm mệt nhọc trong công ty, xí nghiệp tối về, họ tự thưởng cho mình xem bộ phim giải trí. Ở Việt Nam Truyền hình phát sóng có đến trên chục kênh; truyền hình cáp thì có tới cả hang trăm kênh…giới trẻ tha hồ lựa chọn. Phần đông giới trẻ thích xem phin Hàn Quốc. Phim Hàn Quốc thì có mô tuýp giống nhau: chết yểu, tình tay ba…Điều đáng nói ở đây là, nếu một điều sai trái mà cứ nói đi nói lại, “tuyên truyền” nhiều lần…thì điều sai sẽ thành đúng. Quảng cáo và phim ảnh là rõ nhất. Nội dung phim Hàn Quốc chung một giuộc, bộ phim này nói ngoại tình, bộ phim kia ly dị, bộ phim khác phản bội…cứ lặp lại như vậy sẽ làm cho giới trẻ lầm tưởng nghiêm trọng rằng, đây là sự “thường” chứ ly dị và ngoại tình không phải bất thường nữa. Thế là “ thấy người ta làm sao mình làm vậy, thấy người ta làm bậy mình làm theo”…Quảng cáo và truyền thông công cộng cũng tuyên truyền kiểu như thế này. Nó có nguy cơ đưa con người đến tình dục áp đặt. Nó áp đặt bằng quảng cáo thuốc tránh thai, cứ sử dụng, bạn có để lại kết quả đâu mà sợ!

Thật vậy, chính thông tin nhiễu nhương kiểu như thế này đã làm băng hoại giới trẻ, thoái hóa biến thái tâm tính thanh niên. Các bạn trẻ vốn đã đối diện đổi thay với thời cuộc, gian dối với lương tâm, cộng thêm sự giáo dục sai trái kiểu như thế này nữa thì không biết đi theo hướng nào.

Nhưng rồi…

Thật may mắn thay, Giáo Hội Công Giáo có ơn ngôn sứ đã không mệt mỏi rao giảng và làm chứng cho sự thật. Giáo Hội luôn dạy con cái mình và tìm đủ mọi phương thế để giúp họ tăng tiến cả vể thể chất, nhân bản và thiêng liêng. Hai kỳ Thượng Hội Đồng Giám mục, lần thứ nhất ngoại thường, lần thứ hai thông thường về Gia đình, Giáo Hội đã mời gọi thế giới hãy trở về với Gia đình để tìm ra phương thế bảo vệ, vì Gia đình đang bị tổn thương. Gia đình như thành trì để bảo vệ giới trẻ, nếu bị tổn thương thì hậu quả xảy ra cho giới trẻ không biết thế nào. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô nói: “ ngay cả tương lai Giáo Hội ngang qua Gia đình”. Giáo Hội kêu mời mọi thành phần có trách nhiệm giáo dục và kiện toàn gia đình. Ở đây, giới trẻ không nằm ngoài mục đích mà Giáo Hội chăm lo. Dẫu rằng, có nhiều thách đố vây bủa giới trẻ, tôi tin rằng, Chúa sẽ ghi nhận những cố gắng của Giáo Hội, để ban lại cho giới trẻ, nhất là giới trẻ xứ đạo tôi có sự chở che của Ngài. Chúng ta tin rằng quyền lực tử thần sẽ không thắng được.

Tusĩ Vinh sơn Nguyễn Văn Hanh CSC
 
Văn Hóa
Một Anh Bằng khác trong người nhạc sỹ tài ba của nước Việt
Phạm Trần
20:43 18/11/2015
MỘT ANH BẰNG KHÁC TRONG NGƯỜI NHẠC SỸ TÀI BA CỦA NƯỚC VIỆT

Có lẽ nhiều người của nhiều thế hệ, từ 1954 cho đến ngày 12/11/2015 khi ông tạ thế ở Orange Hill, California, hưởng thọ 90 tuổi, chỉ biết Anh Bằng là một Nhạc Sĩ tài ba đã để lại cho Văn hoá Việt Nam trên 600 Ca khúc in sâu vào lòng người.

Nhưng gia tài Âm nhạc đồ sộ ấy đã nói với chúng ta những gì về nhân cách của một Anh Bằng mang tên Trần An Bường,sinh ngày 5/5/1926, tại Nga Sơn, Thanh Hoá ?

Tôi nghĩ không ai biết rõ người Nhạc sĩ cùng quê hương với Thi sỹ Hữu Loan, Tác gỉa của Mầu Tím Hoa Sim bất hủ bằng thân nhân và những người bạn chí thân của ông, trong số có Nhạc sỹ Lê Dinh, người sau cùng trong nhóm Lê-Minh-Bằng (Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng) còn sống ở Canada.

Với tôi, nhân cách sống, óc sáng tạo và cách cư xử ở đời rất nhân hậu của Anh Bằng đã cho tôi đến gần ông qua những lần trao đổi khi sức khỏe ông chưa phôi phai.

Khi đôi tai và hai con mắt của ông còn sức cảm nhận được, ông vẫn theo dõi những bài tôi viết về tình hình Việt Nam gửi cho ông. Nhạc sỹ Anh Bằng rất chịu khó đọc và thích trao đổi khi chúng tôi có dịp nói chuyện với nhau.

Dần dà sức khỏe của ông đã lấy đi nhiều sinh hoạt hàng ngày của một Nghệ sỹ cho đến một buổi trưa Hè tháng 6/2015 khi tôi gặp ông tại Trụ sở Trung tâm ASIA (cũng là Trụ sở của Đài Truyền hình SBTN) nhân dịp có việc sang California.

Câu nói đầu tiên của ông khi Nhạc sỹ Trúc Hồ đưa tôi vào phòng là:”Chú, Anh còn nợ Em”.

Ai cũng biết “Anh còn nợ Em” là tên Nhạc phẩm phổ Thơ Phạm Thành Tài nổi tiếng của Anh Bằng đã được rất nhiều Ca sỹ hát từ Hải ngọai về Việt Nam từ mấy năm qua. Nhưng giữa tôi và ông thì “Anh còn nợ Em” có một ý nghĩa khác.

Đó là ông muốn nói đến “món nợ tinh thần” của ông đối với tôi với ngụ ý ông nhắc đến vụ Nhạc phẩm đã đi vào lịch sử, Nỗi Lòng Người Đi, của ông súyt nữa bị đánh cắp bằng tên mới “Tôi Xa Hà Nội”, đã được hai người, nhà báo phê bình Âm nhạc Nguyễn Thụy Kha và Nhạc sỹ đàn Cello Khúc Ngọc Chân ở Hà Nội dàn dựng từ năm 2012.

Chúng tôi cầm tay nhau hàn huyên như hai người tri kỷ xa nhau lâu năm. Câu chuyện trong hơn 1 giờ giữa chúng tôi tập trung vào vụ âm mưu đánh cắp trí tuệ vô tiền khoáng hậu ấy của những người có gốc gác Cộng sản ở miền Bắc mà tôi đã viết bài lên án nhằm phá tan sự mạo nhận thô bỉ này vào năm 2014.

Anh Bằng nhìn thẳng vào mắt tôi nói với bàn tay xiết chặt tay tôi:”Anh cám ơn Chú đã viết về vụ Nổi Lòng Người Đi. Thật tình cho đến bây giờ Anh không hiểu tại sao lại có loại người hèn hạ và liều lĩnh như thế ?”

Tôi đáp:” Thưa Anh, cả Dân tộc Việt Nam đã bị những người Cộng sản đánh cắp nhân cách và cuộc đấu tranh giành độc lập từ năm 1945 kia mà, huống chi là bây giờ lại có những ngưới muốn đánh cắp Nỗi Lòng Người Đi. Sự mất mát của anh, nếu xẩy ra, đâu có bằng mất mát của cả Dân tộc và của cả Nước ?”

Nhạc sỹ gật gù, vừa cười vừa nói:”Chú nói đúng...Chú nói đúng…”

Rồi ông quay qua hỏi tôi:”Tình hình Việt Nam bây giờ ra sao chú ? Văn hoá và đời sống của đồng bào chắc đã thay đổi nhiều ?”

-“Vâng đã thay đổi nhiều lắm anh ạ, nhưng có điều đáng lo là sự gian dối, đạo lý luân thường đã bị đảo ngược trong đời sống và văn hoá của người dân, kể cả một số Trí thức và thế hệ trẻ mới đáng lo anh ạ.”

Anh Bằng:”Tôi có nghe phong phanh nhưng không rõ lắm. Chú trong nghề chắc phải biết nhiều ?”

-Vâng, Em biết vì Em theo dõi hàng ngày Anh ạ.”

Nhạc sỹ Anh Bằng thở dài: ”Sức khòe của Anh bây giờ kém lắm. Gặp chú bây giờ, nhưng chưa biết chốc nữa sẽ như thế nào. Gía mà chú sang đây lúc anh còn khỏe thì thế nào cũng phải mời chú đi ăn để Anh trả nợ chú. Nhờ có bài viết của chú mà dư luận được sáng tỏ.””

Tôi cũng xiết chặt tay ông và nói:” Thưa anh, Em là Nhà báo nên phải theo dõi để lên tiếng, thế thôi.”

Cuộc gặp gỡ giữa tôi và Anh Bằng chuyển qua chuyện ông hỏi về các con tôi rồi kết thúc bằng một loạt chụp hình gữa tôi và ông trước Trụ sờ Trung tâm ASIA, cơ sở Âm Nhạc trình diễn do ông thành lập. Cho đến lúc này tôi mới để ý ông rất thạo việc sử dụng Ipod để chụp hình và còn chỉ dẫn cho người chở ông đi lại biết cách chụp thế nào cho đúng và đẹp.

Chúng tôi chia tay nhau giữa buổi trưa hè nắng ấm Cali, giữa bước đi chậm của Anh Bằng và bàn tay ông cứ muốn níu giữ lấy tay tôi mãi.

CHUYỆN CỦA NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI

Để độc gỉa hiểu được đầu đuôi câu chuyện của một âm mưu ăn cắp Tác quyền có phối hợp đối với Nhạc phẩm Nỗi Lòng Người Đi, tôi xin mở lại hồ sơ của Bài tôi viết năm 2014 để bắt đầu:

“Vấn đề suy thoái đạo đức, ăn gian nói dối, mua bán bằng cấp và chạy chức chạy quyền trong xã hội thời Cộng sản không còn ngạc nhiên mà là thói quen của một bộ phận cán bộ, đảng viên, ngay cả trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.

Lãnh đạo đảng và nhà nước đã nhiều lần nhìn nhận như thế nhưng không sao cải thiện được.

Giáo sư Hòang Tụy, Nhà tóan học nổi tiếng của Việt Nam từng nói: “ Giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối. Ngành giáo dục càng không thể là ngành giả dối. Thế nhưng đã có hơn một nhà khoa học nước ngoài nói thẳng với tôi rằng, điều thất vọng lớn nhất mà ông ta cảm thấy là sự giả dối đang bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội ở các tầng nấc.” (trích Phỏng vấn của báo Dân Trí)

Vì vậy khi đem bi kịch gian dối lồng vào sự bất lực của nhà nước trong cuộc chiến phòng, chống tham nhũng từ bao nhiêu năm mà nay vẫn còn “nghiêm trọng” cũng không phải là một ngọai lệ. Nếu sự dối gian này cũng đã lan sang lĩnh vực Văn nghệ trong thời gian 2 năm qua đối với Tác phẩm Âm Nhạc nổi tiếng “Nỗi lòng người đi” của Nhạc sỹ Anh Bằng thì cũng không ai ngạc nhiên.

Tuy chuyện “tranh quyền Tác gỉa” bài ca lịch sử này đã râm ran từ lâu nhưng không mấy người quan tâm cho đến khi Đài Truyền hình VTV1 loan báo có chương trình Giai điệu tự hào mang chủ đề Người Hà Nội lúc 20h ngày 24/10 (2014), và Ca khúc Nỗi lòng người đi - của nhạc sĩ hải ngoại Anh Bằng sẽ lên sóng VTV1.

Vì vậy ông Khúc Ngọc Chân - nguyên nhạc công cello Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam đã làm to chuyện rằng chính ông ta mới là Tác gỉa của “Nỗi Lòng Người Đi”, có tên gốc là “Tôi Xa Hà Nội” viết năm 1954 !

Câu chuyện bắt đầu như thế này:

Nhạc sỹ Anh Bằng, người có tên thật là Trần An Bường, sinh năm 1926 tại Nga Điền, Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá cùng quê với Nhà thơ Hữu Loan, Tác gỉa của Bài Thơ bất tử “Mầu tím hoa sim”.

Khi bước sang tuổi 88 năm 2014, Nhạc sỹ Anh Bằng đã có một gia tài gần 700 ca khúc nhạc tình, nhạc dân tộc và nhạc trẻ nổi tiếng, trong đó có “Nỗi lòng người đi” ra đời ngày 15/04/1967.

Khi Tác phẩm này in ra, ai cũng thấy chỉ có một mình tên Tác gỉa Anh Bằng in trên Bản nhạc.

Và trong suốt 47 năm qua, qua trình diễn của nhiều thế hệ ca sỹ từ trong nước ra hải ngoại, không có bất cứ một ai dám “cả gan” tranh chấp chủ quyền với ông.

Tại sao ? Bởi vì ông đã viết ra “Nỗi Lòng Người Đi” cho cả một thế hệ người Bắc di cư vào Nam năm 1954, trong đó có gia đình ông, sau khi Việt Nam phải chia đôi đất nước tại Hội nghị Geneve tháng 07/1954.

Nội dung bài hát nói lên tâm trạng rời bỏ quê hương Hà Nội của một Thanh niên đã phải bỏ lại người yêu đi tìm tự do vì không thể nào có thể ở lại miền Bắc sống chung với quân Việt Minh thời ấy.

Lý do dễ hiểu vì Anh Bằng thuộc một gia đình chống Cộng sản như Tiểu sứ ông đã cho biết: “Năm 1935 ông xa gia đình để học Tiểu chủng viện Ba Làng tại huyện Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, sau đó ông lại tiếp tục theo học trung học ở Hà Nội. Vì gia đình anh em ông chống Việt Minh, vào thời kỳ Kháng Pháp, ông bị Việt Minh bắt giam ở trại Lý Bá Sơ. Các anh em ông bị tuyên án tử hình nhưng sau được thả, riêng người anh Trần An Lạc bị Việt Minh thủ tiêu. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống ở khu Bà Chiểu, Sài Gòn cho đến năm 1975.”

Chuyến ra đi lịch sử của Anh Bằng năm 1954 và cuộc di cư vào Nam trong thời gian 300 ngày của trên 1 triệu người dân miền Bắc đã in đậm trong tâm khảm người Việt nam thời ấy. Vì vậy, mỗi khi nghe ai hát “Nỗi lòng người đi” là người dân gốc Bắc, dù ở trong nước hay hải ngọai trong suốt 60 năm qua (20/7/1954 – 20/07/2014), cũng phải rưng rưng nước mắt !

Thế nhưng, tuy đã gần đến tuổi 50 kể từ ngày ra đời 1967, “Nỗi lòng người đi” vẫn không thóat khỏi một tai nạn không ai có thể ngờ tới xẩy đến năm 2012 qua “một việc làm chung” của 2 người ở Hà Nội, Nhà báo phê bình ân nhạc Nguyễn Thụy Kha và Nhạc sỹ Khúc Ngọc Chân, người tự nhận chính ông mới là “tác gỉa thật” của “Nỗi Lòng Người đi” đã được ông Anh Bằng đặt thay cho “tên nguyên thủy” là “Tôi Xa Hà Nội”.

NGUYỄN THỤY KHA-KHÚC NGỌC CHÂN

Lập luận của 2 ông Kha và Chân có một số điểm “rất nên thơ” nhưng họ lại không chứng minh được:

Thứ nhất, hãy nghe ông Nguyễn Thụy Kha kể:”Một buổi sáng cuối thu Hà Nội, có một người nhỏ thó đến văn phòng tôi làm việc ở 59 Tràng Thi – Hà Nội. Ông tự giới thiệu là Khúc Ngọc Chân.

Tôi nhìn mãi mới nhận ra ông đã từng là nghệ sĩ đàn cello ngồi ở Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam từ những năm mới thành lập. Các anh em của ông là Khúc Phác và Khúc Ka Hoàng cũng đều là dân nhạc nổi tiếng từ lâu. Ông Chân họ Khúc, đích thị là con cháu Khúc Thừa Dụ ở Ninh Giang – Hải Dương rồi. Ông nói rằng ông có bài thơ về tổ tiên được khắc trên bia đá tại đền thờ họ Khúc ở quê. Dần dà, ông bắt đầu kể cho tôi nghe về hoàn cảnh ra đời của ca khúc “Nỗi lòng người đi” mà chính ông là tác giả với cái tên đầu tiên là “Tôi xa Hà Nội.”

Thế rồi chuyện tình của Tác gỉa “Tôi Xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân được ông Kha kể: “Vốn yêu âm nhạc, ông Chân tìm đến học đàn với thầy Wiliam Chấn ở gần Hồ Tây. Lúc ấy, cả nhạc sĩ Đoàn Chuẩn và Tạ Tấn cũng đều đến học thầy Chấn nổi tiếng. Qua học thầy mà ông Chân quen với một thiếu nữ Hà Nội tên là Nguyễn Thu Hằng, kém ông hai tuổi. Rồi tình yêu nhen lửa. Họ đã có những ngày đầu yêu thương thật thơ mộng bên bờ Hồ Gươm. Không thể quên những chiều ngồi bên bờ hồ té nước đùa vui với nhau.

Sau thất bại ở Điện Biên Phủ, Pháp buộc phải ký hiệp định Genève. Ông Chân phải theo gia đình về quê. Nỗi nhớ nhung người yêu khiến cho ông cảm xúc bâng khuâng.

Khi trở về Hà Nội, ông Chân mới biết gia đình người yêu đã xuống Hải Phòng, ở khách sạn Cầu Đất chờ di cư vào Nam. Ông tìm xuống Hải Phòng để sống cùng người yêu, chờ tiễn nàng xuống tàu. Những ngày đó, với cây guitar luôn mang theo bên mình, Khúc Ngọc Chân viết Tôi xa Hà Nội tại khách sạn Cầu Đất – Hải Phòng, viết lại những gì đã bâng khuâng trong suốt những ngày tháng qua, những ngày tháng xa Hà Nội:

(1)”Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói bay theo mây chiều

Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ

Ai đứng trông ai bên hồ

Khua nước chơi như ngày xưa.”

Trong khi Anh Bằng viết:

“Tôi xa Hà Nội năm lên mười tám khi vừa biết yêu

Bao nhiêu mộng đẹp yêu đương thành khói tan theo mây chiều

Hà Nội ơi! Nào biết ra sao bây giờ

Ai đứng trông ai ven hồ khua nước trong như ngày xưa.”

Bài của Nguyễn Thụy Kha viết tiếp như ông viết Truyện tình thơ mộng của Khúc Ngọc Chân: “Chàng tròn 18 tuổi. Nàng tròn 16 tuổi. Khi ấy, tuổi ấy yêu đương là bình thường. Nếu nỗi nhớ thương người yêu ngày đó đã khiến cho Hoàng Dương viết ra Hướng về Hà Nội nổi tiếng, thì Khúc Ngọc Chân cũng viết Tôi xa Hà Nội nổi tiếng không kém. Chàng lại tiếp tục dào dạt trở lại cái cảm xúc ấy, cái giai điệu ấy nhịp 3/8 hát chậm và tình cảm (Lento - Espressivo):

(2) “Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say

Đôi tay ngọc ngà dương gian tình ái em đong thật đầy

Bạn lòng ơi! Thuở ấy tôi mang cây đàn

Quen sống ca vui bên nàng

Nàng khóc tơ duyên lìa xa…”

Nhạc Anh Bằng:

“Tôi xa Hà Nội năm em mười sáu xuân tròn đắm say

Đôi tay ngọc ngà dương gian, tình ái em đong thật đầy

Bạn lòng ơi! Ngày ấy tôi mang cây đàn quen sống ca vui bên nàng

Nay khóc tơ duyên lìa tan.”

Nguyễn Thụy Kha còn bi thảm hóa cuộc gặp của đôi tình nhân Nguyễn Thu Hằng-Khúc Ngoc Chân với những dòng:”Không biết trong những ngày ngắn ngủi bên nhau ở Hải Phòng, nàng đã khóc bên chàng bao lần. Chỉ biết rằng họ vẫn an ủi nhau, nàng cứ vào trước, chàng hứa hẹn rằng sẽ vào sau, sẽ tìm nàng ở Sài Gòn. Nàng hãy gắng chờ đợi giữa đô hội phồn hoa:

(3) “Giờ đây biết ngày nào gặp nhau

Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu

Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa dòng đời

Ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi

Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”

Nhưng đọan này lại giống hệt như lời của Anh Bằng:

“Giờ đây biết ngày nào gặp nhau

Biết tìm về nơi đâu ân ái trao nàng mấy câu

Thăng Long ơi! Năm tháng vẫn trôi giữa giòng đời ngậm đắng nuốt cay nhiều rồi

Hồ Gươm xưa vẫn chưa phai mờ.”

Nhưng đến đọan chót của Bài hát thì ông Khúc Ngọc Chân thay đổi:

(4) “Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui

Nhưng riêng một người tâm tư sầu não đi trong bùi ngùi

Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời

Ai nhắn thay tôi đôi lời, chỉ ước mơ mong đẹp đôi.”

Trong khi Anh Bằng đã viết:

“Hôm nay Sài Gòn bao nhiêu tà áo khoe màu phố vui

Nhưng riêng một người tâm tư sầu vắng đi

trong bùi ngùi

Sài Gòn ơi! Mộng với tay cao hơn trời

Tôi hái hoa tiên cho đời để ước mơ nên đẹp đôi.”

NHỮNG MẶT TRÁI BỊ LỘ

Đến đây thì chân tướng không thật bắt đầu lộ ra với giọng văn tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Kha:”Ca khúc được viết xong, Khúc Ngọc Chân đã tập cho nàng hát thuộc lòng, hát đi hát lại đến chan chứa cảm xúc. Khi ấy đã là cuối tháng 11.1954.

Ngày đưa tiễn nàng và gia đình xuống tàu há mồm di cư vào Nam, chàng và nàng cùng xuống một chiếc thuyền con ở bến Bính để đi ra nơi tàu đậu ngoài cửa biển. Thuyền cứ trôi, còn chàng thì cứ bập bùng guitar và hát Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe. Nàng thì vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn thuyền. Một cảnh tượng chia tay thật lãng mạn như trong tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn. Và rồi con tàu đã rời xa đất liền, trôi mãi vào biển cả mênh mang, mang theo nàng và mối tình đầu day dứt cùng giai điệu đượm buồn kia. Còn chàng thì quay về, rồi trở lại Hà Nội. Nhưng nỗi nhớ nàng thì cứ thắp sáng trong những đêm trường cô đơn.”

Lối “tả chân” của Nhà văn Nguyễn Thụy Kha chất chứa đầy đủ những hoạt cảnh cần thiết cho một khúc phim tình cảm của thời bình trên chiếc du thuyền, nhưng chắc chắn không thể có “trong chuyến đò” di cư của người miền Bắc vào Nam của thời 1954. Tất nhiên vào khi ấy, không người di cư tất tưởi nào lại còn đủ bản lãnh để thư thái mà “bập bùng guitar và hát Tôi xa Hà Nội cho nàng nghe”, và nàng cũng “ung dung”, chả quan tâm gì đến bố mẹ và gia đình ngồi quanh để “vừa nghe vừa đập nhịp bằng tay lên mạn thuyền” !

Về trường hợp của cô Nguyễn Thu Hằng, qua ngòi bút điêu luyện không cần có chứng minh, ông Nguyễn Thụy Kha viết: “ Còn nàng, khi vào Sài Gòn, vì mưu sinh, với khả năng văn nghệ và vẻ đẹp của mình, nàng đã đến đầu quân cho một quán bar. Ở đó, nàng vừa làm việc, vừa nhớ người yêu. Ca khúc của chàng đã được nàng tự hát trong những đêm thương nhớ. Hát để nhớ chàng, hát để chia sẻ với bao người khác có tâm trạng nhớ nhung như nàng. Và đương nhiên, một ca khúc hay như thế đã lọt vào thẩm âm của nhiều nhạc sĩ lúc đó cũng đã lìa xa Hà Nội. Chắc chắn trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng. Ca khúc đã có một số phận khác khi được nhạc sĩ nhận thức và tìm cách xử lý. Còn ở Hà Nội, Khúc Ngọc Chân đâu ngờ gia đình ông bao đời không chịu làm cho Tây đã không theo dòng người di cư mà ở lại Hà Nội vừa giải phóng. Vậy là lời hứa với nàng đành lỡ dở theo thời gian.”

Đến đây thì “mùi sắc” chính trị “làm cho Tây” và “Hà Nội vừa giải phóng” đã được Nguyễn Thụy Kha lồng vào âm nhạc. Chả lẽ Nguyễn Thụy Kha không biết đâu phải hơn 1 triệu người bỏ miền Bắc di cư xuống Nam là vì đã “làm cho Tây” nên đã đi theo Tây vào Nam ?

Cũng chẳng lẽ ông Kha không biết lực lượng Việt Minh đã “tiếp qủan” thành phố Hà Nội từ tay quân đội Pháp sáng ngày 10/10/1954 chứ đâu có đánh đấm gì mà bảo là “giải phóng” như Ban Tuyên giáo đảng CSVN đã viết tài liệu tuyên truyền trong dịp kỷ niệm 60 năm mới đây (10/10/1954 – 10/10/2014) ?

Không dừng ơ đây mà Tác gỉa Nguyễn Thụy Kha đã cùng với Khúc Ngọc Chân đong đưa tiếp với nhiều huyền thọai:

Nhà báo này viết: “Ở lại Hà Nội, năm 1956, ông Chân vào học đàn cello ở Trường Âm nhạc Việt Nam. Khi tốt nghiệp thì về công tác tại Dàn nhạc Giao hưởng Việt Nam. Ngày thống nhất đất nước, khi Dàn nhạc Giao hưởng vào biểu diễn ở Sài Gòn vừa giải phóng, ông Chân đi tìm người yêu qua họ hàng thân thiết thì biết tin người yêu vò võ đợi chờ ngày gặp lại đã mất vì mắc bệnh hiểm nghèo năm 1969, khi mới vào tuổi “tam thập nhi lập”. Theo người thân của người yêu, ông đã tìm đến mộ nàng và thắp hương, thầm khóc cho cuộc tình chia phôi bất hạnh. Chính vì người yêu đã mất, nên ông không sao hiểu nổi bằng cách gì mà ca khúc Tôi xa Hà Nội của ông lại lọt vào tay nhạc sĩ Anh Bằng, được ông sửa thành nhịp 4/4 theo điệu Slow và phổ biến “quá trời” tại Sài Gòn.”

Rồi ông Kha và ông Chân kể tiếp như người chết đuối vớ được phao giữa dòng nước xoáy:”Ông Chân nói rằng đó là điều may mắn. Khi ấy, nếu ca khúc lan ra mà lại ghi tên ông là tác giả, chắc ông khó mà ngồi yên ở Dàn nhạc Giao hưởng cho đến khi về hưu. Nhưng vì ca khúc ghi là của tác giả Anh Bằng, nên những ca từ rất thực của ông diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà Nội tạm bị chiếm lại trở thành một vệt đen mang đậm nỗi ấm ức của bao người di cư ở bên kia chiến tuyến. Lại nữa, vì Anh Bằng đổi tên ca khúc thành Nỗi lòng người đi nên vệt đen kia hóa thành có thực khi đất nước bị chia cắt. Cũng chính vì thế mà cho đến nay Nỗi lòng người đi (vốn là Tôi xa Hà Nội) vẫn chưa được cho phép hát lại.”

BẢO VỆ TÁC QUYỀN VÀO CUỘC

Nhưng làm sao mà ông Chân có thể “hát lại” được, bởi vì Trung tâm bảo vệ quyền Tác gỉa Âm Nhạc Việt Nam ở Hà Nội (Vietnam Center for Protection of Music Copyright, VCPMC) đã bác lời xin bảo vệ quyền lợi cho ông vì ông “đã không chứng minh được quyền Tác gỉa” của mình.

Nguyên văn điện thư của Bà Đinh Thị Thu Phương, Phó Qủan lý, đặc trách ngọai vụ của Trung Tâm gửi Nhạc sỹ Anh Bằng về tác quyền như sau:

From: "Dinh Thu Phuong"

Date: September 24, 2014 at 1:08:06 AM PDT

To: ,

Subject: Fwd: NOI LONG NGUOI DI

Kính gửi Nhạc sĩ Anh Bằng,

Cháu nhận được email kèm theo bản nhạc của bác đã lâu, nhưng phải chờ thẩm định, rồi lại vì bận nhiều việc quá nên hôm nay cháu mới hồi âm tới bác được, mong bác thứ lỗi.

Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân ủy quyền cho VCPMC ca khúc Tôi xa Hà Nội từ ngày 24.4.2014, tuy nhiên sau đó phát hiện có sự song trùng với ca khúc Nỗi lòng người đi của bác. VCPMC đã yêu cầu 2 bên cung cấp chứng cứ bằng văn bản, nhưng ông Khúc Ngọc Chân không có, vì vậy VCPMC đã quyết định ngừng bảo vệ, quản lý và khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội. Điều đó có nghĩa VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc Nỗi lòng người đi của nhạc sĩ Anh Bằng. Cháu xin chúc mừng bác ạ.

Đây là việc thường xuyên phải giải quyết của VCPMC, mong bác giải thích với mọi người rằng chỉ thuần túy là việc tranh chấp dân sự bình thường, ai không đủ chứng cứ là thua, có thế thôi, không phải là âm mưu chính trị gì đâu (như có bài viết ở hải ngoại phỏng đoán) vì sự việc nó quá tầm thường không đáng để suy diễn làm ảnh hưởng đến chính sách đại đoàn kết dân tộc của Nhà nước Việt Nam.

Để thực hiện khoản 1, 2 Điều 3 của Hợp đồng ủy quyền (mà cô Trương Mỹ Dung – học trò của bác ở Việt Nam đã thay mặt bác ký với VCPMC) một lần nữa cháu đề nghị bác vui lòng gửi qua email cho cháu toàn bộ ca khúc của bác mà bác đang có, nếu đã là xuất bản phẩm trước 1975 tại Sài Gòn thì bác scan cho cả mặt ngoài và mặt trong của bản nhạc khổ giấy A3, ca khúc nào chưa xuất bản hoặc viết sau 1975 chưa in thì bác gửi cho cháu bản chép tay cũng được. Cháu cảm ơn bác trước.

Cháu xin gửi kèm theo đây 1 quyết định của Giám đốc VCPMC và 1 mẫu Hợp đồng ủy quyền để bác tham khảo.

Trân trọng kính chào bác – người nhạc sĩ tài danh mà tác phẩm luôn hướng tới và dành cho tình yêu con người cùng quê hương đất nước Việt Nam. Chúc bác vui khỏe và dồi dào sức sáng tạo.

Kính thư,

--

Dinh Thi Thu Phuong (Ms)

Deputy Manager of External Relations Divison,

Cellphone: +84 91 660 5156

Vietnam Center for Protection of Music Copyright (VCPMC)

66 Nguyen Van Huyen Str, Cau Giay District., Hanoi, Vietnam

Phone: +844 3762 4718 (ext: 268) / Fax: +844 37624717

Office hour: 8am - 5pm GMT+7, Mon-Fri

www.vcpmc.org.

Ngoài ra, Giám đốc Trung Tâm, Nhạc sỹ Phó Đức Phương cũng ra Quyết định ngày 12 tháng 09 năm 2014 có 3 điểm, nguyên văn như sau:

Điều 1: Ngừng bảo vệ qủan lý và khai thác 1 ca khúc “Tôi xa Hà Nội” của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân.

Điều 2: Những ca khúc khác của Nhạc sĩ Khúc Ngọc Chân vẫn được bảo vệ, qủan lý và khai thác bình thường.

Điều 3: Quyết định này có hiệu lực từ ngày ký. Các phóng ban chức năng của Trung tâm chịu trách nhiệm thi hành quyết định này.

(Phó Đức Phương-Ký tên và đóng dấu).

Bài viết của Nhà báo phê bình âm nhạc Nguyễn Thụy Kha xuất hiện trong Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay số 804 và được Website Giai Điệu Xanh đăng lại ngày 21/12/2012 còn tiếp tục sai lầm rằng: “Tìm hiểu về nhạc sĩ Anh Bằng qua nhiều luồng thông tin, qua trang mạng Google thì thấy rằng điều ông Chân thổ lộ rất có cơ sở. Nhạc sĩ Anh Bằng tên khai sinh là Trần An Bường. Ông sinh năm 1925 tại thị trấn Bỉm Sơn thuộc Ninh Bình. Ông học trung học tại Hà Nội trước khi di cư vào Nam. Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas. Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung tâm Asia Entertainment tại Houston.”

Ngay trong đọan này, ông Kha đã “khẳng định chuyện kể của ông Chấn “rất có cơ sở”, căn cứ theo những gì ông Kha tìm được trên mạng điện tử Google, nhưng ông lại nói sai “Sau ngày 30.4.1975, Anh Bằng sang Mỹ, cư trú tại Houston, bang Texas. Ông vẫn hoạt động văn nghệ trong cộng đồng người Việt và hiện là cố vấn Trung tâm Asia Entertainment tại Houston”, trong khi gia đình Nhạc sỹ Anh Bằng và Trung tâm Asia chưa bao giờ sinh sống hay xây dựng sự nghiệp âm nhạc ở Houston, Texas.

Tuy vậy, tác gỉa Nguyễn Thụy Kha cứ “đong đưa” với chữ nghĩa để tiếp tục thêu dệt rằng: “ Ngày ấy, khi vào Sài Gòn, theo thiển nghĩ của tôi, Anh Bằng chưa được biết đến như Chung Quân, Cung Tiến. Nghe được ca khúc Tôi xa Hà Nội do một thiếu nữ làm ở quán bar hát những khi chia sẻ mà lại không biết xuất xứ. Với khả năng âm nhạc của mình, Anh Bằng đã thuộc được giai điệu này. Ông thấy rất hợp tâm trạng của ít nhất là những thanh niên vừa phải xa Hà Nội di cư vào Sài Gòn. Vậy là cuộc sử dụng một giai điệu mang tâm trạng của thanh niên xa Hà Nội, nhưng để hợp thời thế, Anh Bằng đã chuyển nhịp 3/8 gốc của ca khúc Tôi xa Hà Nội thành nhịp 4/4 dùng tiết điệu Slow.”

Tệ hại hơn, Thụy Kha còn dựa vào lời nói của người duy nhất tự nhận là Tác giả “Tôi xa Hà Nội” Khúc Ngọc Chân để bịa ra rằng: “Còn về ca từ, Anh Bằng đã khéo léo gắn vào đó tên của một nhà thơ tình nổi tiếng là Nguyễn Bính.

Nguyễn Bính là nhà thơ đã từng tham gia chiến tranh tại Nam bộ và có bài thơ Tiểu đoàn 307 được Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc rất hoành tráng. Nhưng sau Hiệp định Genève, ông đã ra tập kết ở miền Bắc. Có lẽ thông tin này, Anh Bằng không biết, nên ông đã tự “vu” cho Nguyễn Bính chịu trách nhiệm ca từ này.”

ANH BẰNG-LÊ DINH LÊN TIẾNG

Nhưng Nhạc sỹ Anh Bằng, đã trả lời câu hỏi của tôi (Phạm Trần) về chuyện Nguyễn Bính như sau:

“ Cảm ơn Anh đã tỏ ra rất quan tâm đến ca khúc NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI của tôi đang bị cướp đọat một cách trắng trợn.

Anh đã xem Bản nhạc được in và phát hành năm 1967 tại Sài Gòn chỉ có tên Tác gỉa là ANH BẰNG trong ca khúc NỖI LÒNG NGƯỜI ĐI. Tuyệt đối không có tên Thi sĩ Nguyễn Bính in bên cạnh như kẻ gian manh, xáo quyệt, vô lương tâm, vô liêm sỉ bịa đặt.

ANH BẰNG xin minh xác như vậy để Anh yên tâm.”

Nhạc sỹ Lê Dinh, người bạn tâm giao của Anh Bằng trong nhóm 3 Nhạc sỹ Lê Minh Bằng (Lê Dinh-Minh Kỳ-Anh Bằng) phản ứng về chuyện này:

“Bài viết này, của báo trong nước, tôi cũng đã đọc cách nay một tuần. Đây chỉ là một bài viết lập lại những lý luận mà họ đã lải nhải như trong nhiều bài trước, không có gì mới lạ.

Nhưng họ không đá động gì tới việc cô Đinh thị Thu Phương, Vietnam Center for Protection of Music Copyright (VCPMC / thuộc Trung Tâm Bảo Vệ Quyền Tác Giả) đã xác nhận với Anh Bằng, qua thư đề ngày 24-09-14, rằng: “Sau khi thẩm định, VCPMC đã quyết định ngừng bảo vệ, quản lý và khai thác ca khúc Tôi xa Hà Nội (của Khúc Ngọc Chân vì không cung cấp chứng cứ bằng văn bản). Và VCPMC chỉ công nhận tính hợp pháp của ca khúc Nỗi lòng người đi của nhạc sĩ Anh Bằng”.

Như vậy, chúng ta xem như việc này đã kết thúc qua lá thư của cô Đinh thi Thu Phương (CVPMC) gửi cho Anh Bằng ngày 24-09-14 (được trích trên đây)

“…Việc lên tiếng của VCPMC là một tiếng chuông cảnh cáo những kẻ giả mạo để ăn cướp công lao của những nhạc sĩ sáng tác, vì không gì dễ bằng, cứ lấy một tác phẩm cũ nổi tiếng nào đó, của một nhạc sĩ nổi tiếng nào đó, chép bằng máy vi tính, sửa lại vài chữ và nói đây là bài nhạc của tôi sáng tác năm đó, năm đó… ông nhạc sĩ này lấy bài nhạc của tôi làm và nói là của ổng. Chủ nhà trở thành kẻ cướp và kẻ cướp trở thành chủ nhà, quá dễ.

May mà có sự quyết định sáng suốt của Trung Tâm Bảo Vệ Quyền Tác Giả, nếu không thì sẽ có loạn trong làng âm nhạc Việt Nam, chứ chẳng không.”

TẠI SAO ĐẾN 2012 MỚI BIẾT ?

Về chủ quyền bài hát, ông Khúc Ngọc Chân tỏ ra lúng túng khi phóng viên báo Thể thao-Văn hoá Việt Nam (Thethaovanhoa.vn) hỏi ngày 15/10/2014 rằng: “ Tại sao đến tận bận bây giờ ông mới nhận Nỗi lòng người đi là của mình. Ông có bằng chứng gì thuyết phục rằng đó chính thức là ca khúc của mình không? Ông đã sáng tác ca khúc đó trong hoàn cảnh nào và liệu ông có còn nhạc bản ngày xưa hay không?”

Ông Chân đáp gọn: “ Bản nhạc ngày xưa sao mà giữ được.Ca khúc của tôi sáng tác hồi đó chính ra chỉ có 2 người biết với nhau là tôi và cô người yêu thôi.”

Về chuyện bảo Anh Bằng ghi tên Nhà thơ Nguyễn Bính vào bản nhạc, ông Chân lại ú ớ khi được báo Thanh niên-Văn hoá (TTVH) hỏi: “ Sau này rồi có ai biết có bài nào nhác nhác như thế của ông Nguyễn Bính không?

Khúc Ngọc Chân: “Không có. Gia đình Nguyễn Bính ở Nam Định cũng không còn ai, con cháu đi hết rồi. Tất cả các tuyển tập thơ Nguyễn Bính không có bài nào như thế.

May cho tôi là khi kể chuyện này với nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha và một số người bạn, có người lên mạng đã copy được bản nhạc Anh Bằng sáng tác đề rằng Nỗi lòng người đi, nhạc Anh Bằng, thơ Nguyễn Bính. Tuy nhiên, sau bài viết đầu tiên của Nguyễn Thụy Kha được đưa lên mạng thì đến ngay cả Thụy Kha đi tìm bản đề thơ Nguyễn Bính cũng không có nữa mà chỉ đề là tác giả Anh Bằng thôi, bỏ phần thơ đi. Nếu mà sự thực phổ thơ Nguyễn Bính thì vẫn để nguyên chứ. Giả dụ là thơ của Nguyễn Bính thật thì không sao, không thì tôi phải là Nguyễn Bính chứ không phải Anh Bằng, bởi Anh Bằng chỉ phổ nhạc thôi mà.”

Nhưng tại sao ông Khúc Ngọc Chân (KNC) không yêu cầu ông Nguyễn Thụy Kha và “một số người bạn” trưng ra bằng cớ về chuyện “đã copy được bản nhạc Anh Bằng sáng tác” có tên Nguyễn Bính trên đó ?

Báo TTVH: “Ông nói rằng Nỗi lòng người đi không phải của Anh Bằng, vậy chỉ cần ông đưa ra bằng chứng xác đáng đó là của ông và nếu thực sự là của ông thì dù cho nhiều người chưa biết thì sẽ biết đến ca khúc này là của ông?

KNC:” Người yêu của tôi đã mất, do vậy tôi không tranh chấp quyền tác giả. Tôi chỉ muốn nói về một số phận khác khi ca khúc được một nhạc sĩ nhận thức và xử lý và đã thành một ca khúc hay, đó là điều may mắn. Khi xưa, lúc tôi biết Anh Bằng phổ nhạc, tôi cũng không dám nói ra, bởi Tôi xa Hà Nội với những ca từ rất thực diễn tả nỗi phấp phỏng trong lòng Hà Nội tạm bị chiếm của tôi lại trở thành một vệt đen thì sao?”

CHÂN TRÁI ĐÁ CHÂN PHẢI

Trong ki đó, Nguyễn Mạnh Hà (báo Tiến Phong, 11-10-2014) viết: “Khúc Ngọc Chân khẳng định, mãi tới năm kia (2012) ông mới biết đến sự tồn tại của Nỗi lòng người đi. Bởi ông không thích và rất ít nghe nhạc hải ngoại.

Qua lời kể của ông Chân thì thậm chí Nguyễn Thụy Kha cũng biết đến “nghi án” Nỗi lòng người đi. Ông Chân thuật lại lời ông Kha trong cuộc gặp lần đầu tiên của hai người: “Anh có cái bài Nỗi lòng người đi bên kia người ta nói là bài của anh?!” Nhưng Nguyễn Thụy Kha lại khẳng định không hề biết đến nghi án này cho tới khi Khúc Ngọc Chân kể ra. Tuy nhiên, ông Kha vẫn cảm thông với cách trình bày hơi khó hiểu của ông Chân: “Người ta không phải người ăn nói với công chúng. Nhưng mình biết được cái lõi của vấn đề. Tôi bằng trực giác biết chắc chắn bài này của ông ấy rồi!”.

“Phổ thơ cũng được nhưng đấy là cái sai lầm nhất của Anh Bằng. Toàn bộ gia tài Nguyễn Bính không có bài thơ nào như lời bài “Nỗi lòng người đi”. Mà lúc đấy Nguyễn Bính tập kết ra Bắc ra Hà Nội rồi, không dính dáng đến miền Nam nữa mà viết cái đó. Đấy là kẽ hở của câu chuyện.

Thế rồi Nguyễn Mạnh Hà nhận xét: “Sự vô danh của Khúc Ngọc Chân là một điều bất lợi khi đặt cạnh Anh Bằng- tác giả của hàng trăm bài hát trong đó có Khúc thụy du, Nếu vắng anh, Anh còn nợ em, Tình là sợi tơ… Một điểm yếu nữa trong câu chuyện của Khúc Ngọc Chân mà những người đứng về phía Anh Bằng xoáy vào là có nhiều hình ảnh tư liệu cho thấy tàu há mồm đưa người vào Nam cập sát cảng Hải Phòng. Trong khi ông Chân kể, ông vẫn còn hát Tôi xa Hà Nội cùng người yêu trên thuyền từ bến Bính ra “phao số không” để tiễn nàng lên tàu há mồm. Nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha, người gốc Hải Phòng, cho hay Thu Hằng vào Nam là đợt đầu tiên, tháng 11/1954. Lúc đó tàu há mồm chưa cập vào cảng Hải Phòng. “

Với những gì chúng ta đọc được quanh “vụ án Nỗi Lòng Người Đi” của Nhạc sỹ Anh Bằng cho thấy đã có những thay đổi nguy hiểm trong tâm tư của cả giới làm văn nghệ ở Việt Nam trong thời đại “gian dối đã ngự trị trên, không những con người mà cả nền tảng văn hoá truyền thống lấy nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của dân tộc làm kim chỉ nam cho đời sống hàng ngày.”

Một nền văn hoá loạn xạ như thế phải là mối lo nhức nhối của mọi người, vì như Giáo sư Hòang Tụy đã báo động: “Giả dối hiện nay đang có nguy cơ trở thành nỗi nhục trong khi truyền thống dân tộc Việt Nam không phải là dân tộc giả dối.”

(Hết phần Bài viết năm 2014)

Với câu chuyện kể lại giữa tôi và Nhạc sỹ Anh Bằng, tôi xin khép lại món nợ “Anh Còn Nợ Em” và chắp tay nguyện cầu cho Linh hồn Giuse Anh Bằng-Trần An Bường được hưởng dung nhan Chúa.

Xin thành kính chia buồn cùng Bác gái và Gia đình Nhạc sỹ, người Anh tinh thần trân qúy của tôi.-/-

Phạm Trần

(11/015)
 
Ảnh Nghệ Thuật
rang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Dưới Bóng Mẹ La Vang
Vũ Đình Huyến, Lm (CMC)
21:20 18/11/2015
DƯỚI BÓNG MẸ LAVANG
Ảnh của Vũ đình Huyến, Lm. (CMC)
Con đợi mong một trời mới đất mới
Sống an bình trong thế giới thẳng ngay
Con cầu xin Thượng Đế, Mẹ hằng ngày
Xin dẫn dắt mọi người về quê thật.
(Trích thơ của Nguyên Đỗ)
 
VietCatholic TV
Suy Niệm với Đức Thánh Cha Phanxicô 12/11 – 18/11/2015: Câu chuyện “Cội nguồn sự ác”
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
20:45 18/11/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
1. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới trường tồn, vĩnh cửu

“Đừng rơi vào một hình thức ‘tôn thờ ngẫu tượng nội tại tính cục bộ’ cũng như những phong tục thói quen cố hữu. Nhưng thay vào đó, chúng ta phải luôn biết nhìn vượt lên trên: vượt ra khỏi nội tại tính cục bộ để vươn tới siêu việt tính; vượt ra khỏi những thói quen, phong tục cố hữu để chạm tới điểm kết tận cùng, đó chính là vinh quang Thiên Chúa.” Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ sáng thứ Sáu 13 tháng 11 tại nhà nguyện Santa Marta

Đức Thánh Cha nói: “Thiên Chúa là Đấng đẹp đẽ và vinh quang nhất. Đáp Ca trong thánh lễ hôm nay đã nhắc đến điều ấy: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa”. Tuy nhiên, vấn nạn của con người là thường nghiêng mình bái lạy trước những gì lộng lẫy, huy hoàng. Nhưng sự lộng lẫy đó chỉ phản chiếu vẻ đẹp của Thiên Chúa mà thôi, đến một ngày nào đó chúng sẽ tan biến đi.

Đức Thánh Cha làm nổi bật hai thứ tôn thờ ngẫu tượng mà ngay cả những người có niềm tin cũng có thể mắc phải. Bài đọc thứ nhất và đáp ca nói về vẻ đẹp của các tạo vật nhưng đồng thời cũng chỉ ra sai lầm của những người khi nhìn vẻ đẹp của thụ tạo mà không biết nhìn vượt lên trên để vươn tới Đấng Siêu Việt. Đức Thánh Cha gọi điều này là: “Tôn thờ ngẫu tượng nội tại tính”. Có nghĩa là, người ta chỉ dừng lại ở vẻ đẹp nơi sự vật mà thôi chứ không biết nhìn lên trên và vượt ra ngoài để thấy vinh quang Thiên Chúa.

Ngài nói:

“Có những người đã gắn chặt đời mình với việc tôn thờ ngẫu tượng này. Họ bị ấn tượng mạnh bởi những điều kỳ diệu cùng sức mạnh và năng lực của chúng. Họ không nghĩ rằng có Đấng còn siêu việt hơn những điều ấy nữa, vì chính Đấng ấy đã sáng tạo nên mọi loài, đồng thời cũng là nguồn gốc và tác giả của mọi vẻ đẹp và vinh quang. Chỉ nhìn thấy vẻ đẹp của thụ tạo, rồi tôn phong chúng thành thần thánh mà không nghĩ rằng vẻ đẹp đó chỉ là vẻ đẹp của một buổi hoàng hôn, nó sẽ qua đi chứ không tồn tại mãi. Đây chính là một hình thức tôn thờ ngẫu tượng, gắn bó với những vẻ đẹp sẽ qua đi mà không nhận thấy siêu việt tính. Tất cả chúng ta đều có nguy cơ mắc phải điều này, một thứ tôn thờ ngẫu tượng nội tại tính, khi chúng ta tin rằng các thụ tạo này như là các vị thần và sẽ không bao giờ qua đi. Như vậy, chúng ta đã quên đi buổi chiều hoàng hôn rồi.”

Một hình thức tôn thờ ngẫu tượng khác chính là thần thánh hóa những phong tục, thói quen. Chính điều ấy sẽ làm cho con tim và tâm hồn chúng ta bị điếc. Đức Thánh Cha giải thích điều này bằng cách nhắc lại lời của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay. Đức Giêsu đã mô tả về con người trong thời đại của Nô-ê và thời ông Lót: ‘Thiên hạ ăn uống, cưới vợ lấy chồng’ mà chẳng để ý lưu tâm đến những chuyện khác, cho đến lúc nạn hồng thủy ấp tới hay mưa diêm sinh từ trời đổ xuống tiêu diệt tất cả.

“Như vậy, mọi chuyện xảy ra là do thói quen, xem mọi chuyện bình thường chẳng có gì đáng để ý. Cuộc sống là như thế, ta cứ tiếp tục sống như mình đã sống, chẳng bao giờ nghĩ đến ‘buổi chiều tà hoàng hôn’ của kiếp sống chúng ta. Đây chính là một hình thức tôn thờ ngẫu tượng: gắn chặt vào những thói quen cố hữu và không nghĩ rằng mọi chuyện sẽ kết thúc, qua đi. Thật vậy, ngay cả những thói quen, phong tục cũng có thể được suy tôn thành những vị thần. Cuộc sống là như thế nên chúng là cứ vậy mà sống. Nhưng Giáo Hội giúp chúng ta nhận ra cái điểm tận cùng của mọi sự. Vẻ đẹp này sẽ kết thúc trong một vẻ đẹp khác; thói quen, phong tục này cũng sẽ kết thúc trong một thói quen, phong tục ‘vĩnh cửu’ khác. Đó chính là Thiên Chúa.”

Tiếp tục bài giảng, Đức Thánh Cha khuyến khích: “Chúng ta phải luôn biết ngắm nhìn ‘điều siêu việt’, hay ‘đích điểm cuối cùng’. Thật vậy, Thiên Chúa là Đấng duy nhất siêu vượt lên trên cái tận kết của tạo vật. Chúng ta đừng lặp lại sai lầm chết người là ngoái nhìn lại phía sau giống như vợ ông Lót đã làm; nhưng luôn lao mình về phía trước với một niềm xác tín rằng nếu cuộc sống trần gian này có đẹp và quyến rũ đến thế nào đi nữa, thì cũng chỉ như cái đẹp của một buổi chiều hoàng hôn rồi sẽ phụt tắt.

Chúng ta – những người có đức tin – không là người quay lại đàng sau hay đầu hàng, nhụt chí; nhưng là những người luôn tiến về phía trước. Lao mình về phía trước trong cuộc đời này, biết chiêm ngắm vẻ đẹp và sống với những thói quen vốn có nhưng chúng ta không thần thánh chúng. Bởi vì, tất cả rồi sẽ qua đi. Tạo vật dù có đẹp đi nữa thì cũng chỉ là cái đẹp nhỏ bé, tạm thời, phản chiếu vẻ đẹp và vinh quang khôn tả của Thiên Chúa. Chỉ có vinh quang Thiên Chúa mới trường tồn, vĩnh cửu mà thôi. Đó là điều mà chúng ta cần phải chiêm ngắm và xác tín”

2. Hãy có Lòng Thương Xót

Hãy biết rao giảng Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh khi thuận lợi cũng như khi khó khăn thách đố; dám cứng rắn khiển trách và sửa dạy nhưng trong sự dịu dàng và bao dung. Đức Thánh Cha đã nói như trên trong bài giảng thánh lễ thánh lễ truyền chức Giám mục cho Đức Ông Angelo De Donatis vào lúc 5 chiều ngày 09.11, tại Thánh Đường Gioan Latêranô.

Đức Ông đã là người giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha Phanxicô và giáo triều Roma vào mùa Chay 2014.

Đức Thánh Cha nói:

“Anh chị em rất thân mến, chúng ta cùng nhau suy tư về nhiệm vụ cao cả mà Giáo Hội đã tin tưởng ký thác cho người anh em của chúng ta đây.

Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để cứu độ con người. Đến lượt mình, Đức Kitô cũng sai mười hai Tông đồ đi vào thế giới, với sức mạnh của Thánh Thần, công bố Tin Mừng cho muôn dân và tập họp tất cả lại dưới bóng một vị Chủ Chiên duy nhất, Đấng sẽ thánh hóa và dẫn đưa họ vào vùng đất an toàn.

Và để lưu truyền từ đời này sang đời kia thừa tác vụ Tông đồ, Nhóm Mười Hai đã tập hợp các cộng tác viên lại và sai họ đi qua việc đặt tay trao ban Thần Khí đã được lãnh nhận từ chính Đức Kitô, Đấng đã thiết lập Bí tích Truyền Chức Thánh. Bởi thế, ngang qua sự kế thừa liên tục của các Giám mục trong truyền thống sống động của Giáo Hội, thừa tác vụ đầu tiên này vẫn được duy trì. Qua đó, sứ mạng của Đấng Cứu Thế vẫn tiếp tục và phát triển cho đến thời đại của chúng ta.

Đức Giám Mục cùng với linh mục đoàn hiện diện giữa mọi người là một minh chứng cho sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Vị Linh Mục Thượng Thẩm cho đến đời đời.

Đức Thánh Cha giải thích như sau:

Quả vậy, trong sứ vụ Giám mục, Đức Kitô tiếp tục rao truyền Tin Mừng cứu độ và tiếp tục thánh hóa những người tin ngang qua những Bí tích thánh. Trong tình phụ tử của Giám mục, Đức Kitô tiếp tục làm gia tăng thêm những thành viên mới vào thân thể của Ngài là Giáo Hội. Và với sự khôn ngoan, sáng suốt của Giám mục, Đức Kitô tiếp tục hướng dẫn đoàn dân Chúa trong cuộc hành hương dương thế để tiến vào niềm hạnh phúc vĩnh cửu.

Vì thế, chúng ta cùng chào đón với niềm vui và lòng biết ơn người anh em của chúng ta đây, Đức Ông Angelo De Donatis, vào Giám mục đoàn. Chúc mừng ngài vì được là thừa tác viên của Đức Kitô và là người phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa. Anh em nhớ lời của Đức Giêsu nói với các Tông đồ: ‘Ai lắng nghe anh em là lắng nghe Thầy; ai chối từ anh em là chối từ Thầy; và ai chối từ Thầy là chối từ chính Đấng đã sai Thầy.’

Và cũng như thế với Đức Cha De Donatis, người anh em rất thân mến. Đức Cha đã được Thiên Chúa tuyển chọn, tuyển chọn giữa chư dân và để phục vụ chư dân. Thật vậy, Giám mục là một tước hiệu mang nghĩa phục vụ chứ không phải điều gì đó để tự hào. Giám mục là người có nhiệm vụ phải phục vụ nhiều hơn ai hết, vì như Đức Giêsu đã nói: ‘Ai muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em; ai muốn thành người cầm đầu, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người.’

Hãy biết rao giảng Lời Chúa trong mọi hoàn cảnh khi thuận lợi cũng như khi khó khăn thách đố; dám cứng rắn khiển trách và sửa dạy nhưng trong sự dịu dàng và bao dung. Lời giảng phải đơn sơ để mọi người có thể hiểu được, và đừng giảng dài quá. Bài giảng thông chuyển ân sủng của Thiên Chúa nên cần đơn sơ để mọi người có thể hiểu, và nhờ đó mà họ được thúc đẩy khao khát sống tốt hơn.

Thiên Chúa trao phó Giáo Hội cho Đức Cha, cách cụ thể là Giáo phận Roma. Tôi cũng trao phó các linh mục và chủng sinh trong sự hướng dẫn của Đức Cha, và Đức Cha có đặc sủng để làm điều đó. Hãy là một thừa tác viên, một người phân phát trung tín các mầu nhiệm của Đức Kitô. Và trong cương vị như một người cha, chủ gia đình, hãy luôn noi gương bắt chước vị Mục Tử Nhân Lành, biết tất cả mọi con chiên và tất cả chiên đều biết mình; đồng thời nếu cần thiết, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đàn chiên.

Với trái tim nhân ái, hãy yêu thương như một người cha và cũng có thể như một người anh tất cả những ai Thiên Chúa đã trao phó, trước hết là các linh mục, phó tế, chủng sinh; rồi sau đó, hết thảy những ai nghèo khổ, những người đang bị tổn thương và những người đang cần sự đón nhận và giúp đỡ. Hãy khuyến khích, thúc đẩy các tín hữu cộng tác với nhau trong các dấn thân tông đồ và hãy sẵn sàng lắng nghe họ với một sự nhẫn nại.

Hãy nhớ rằng phải đặc biệt lưu tâm đến những người không thuộc đàn chiên của Đức Kitô, bởi vì họ cũng được Thiên Chúa ký thác cho Đức Cha.

Hãy nhớ rằng Giáo Hội Công Giáo là một Giáo Hội được quy tụ trong mối dây bác ái. Đức Cha đã gia nhập vào Giám mục đoàn nên phải mang nơi mình niềm cảm thức chung với toàn thể Giáo Hội và hãy quảng đại với những ai cần sự trợ giúp. Và, Năm Thánh Lòng Thương Xót sắp bắt đầu, tôi cũng đòi hỏi Đức Cha, như một người anh em thân tình của tôi, hãy có lòng thương xót. Giáo Hội và thế giới đang rất cần tình xót thương.

Đức Cha hãy hướng dẫn các linh mục, chủng sinh bước đi trên con đường của lòng xót thương; có thể hướng dẫn bằng lời nói, nhưng trên hết là bằng thái độ và cung cách sống của mình. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn đón nhận và luôn có chỗ cho mọi người trong trái tim của Ngài. Thế nên, sẽ không có một ai bị đuổi ra ngoài bao giờ. Tôi cầu chúc Đức Cha điều này là Đức Cha có lòng xót thương”

3. Câu chuyện Cội Nguồn Sự Ác

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu người ta hô: “đả đảo bom giết người!”

Sau đó, trong đám đông tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những con người ác tâm tạo ra bom đạn, rồi đem bom bỏ lên đầu người khác mới gây nên tội giết người.”

Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”

Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?” Nhiều người đáp lại: “Chí lý! Chí lý!”

Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo lòng hận thù!”

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời.

Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu cứ lo rửa cho sạch bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ luôn rửa tay trước khi dùng bữa, hô hào mọi người hãy làm như họ, cho rằng đó là việc quan trọng cần làm và họ trách các môn đệ Chúa Giêsu vì các ông nầy bỏ qua tập tục đó.

Nhân cơ hội đó, Chúa Giêsu dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”

Kính thưa quý vị và anh chị em,

Người Nhật Bản có một câu chuyện như sau:

Có hai vị thiền sư vừa xuống núi. Họ đi vào trong một con đường lầy lội. Cơn mưa nặng hạt đã khiến một thiếu nữ xinh đẹp không thể băng qua ngã tư lầy lội được... Lập tức, một trong hai vị thiền sư đến bồng người thiếu nữ trên tay và đưa qua đường. Vị sư khác lấy làm khó chịu nên không mở miệng nói với bạn mình một lời. Mãi một lúc sau, không còn nhịn được nữa, ông ta mới lên tiếng: “Chúng ta là người tu hành, không được phép gần đàn bà, nhất là những cô gái đẹp. Sao anh lại bồng đàn bà trên tay?”.

Vị sư đã bồng người thiếu nữ trên tay mỉm cười đáp: “Tôi đã bỏ cô ta tại chỗ rồi. Còn anh sao cứ mãi mang cô ta tới đây”.

4. Chung sống chia sẻ trong cuộc sống gia đình

Chung sống chia sẻ là phẩm chất đặc thù của cuộc sống gia đình. Nó là hàn thử biều giúp đo lường các tương quan, và đuợc thể hiện tràn đầy trong Bí Tích Thánh Thể, khi tín hữu chia sẻ với nhau Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, là lương thực dưỡng nuôi tình yêu đích thạt và bền lâu.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên với gần 40,000 tín hữu và du khách hành hương năm châu tham dự buổi gặp gỡ ngày thứ Tư 11-11. Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã khai triển đề tài giáo lý: tinh thần chung sống chia sẻ trong gia đình. Ngài nói: Đây là một phẩm chất đặc thù của cuộc sống gia đình mà người ta học từ ngay những ngày đầu của cuộc sống. Nó là thái độ chia sẻ các thiện ích của cuộc sống, và người ta hạnh phúc vì có thể làm như vậy. Nhưng chia sẻ và biết chia sẻ là một nhân đức qúy báu. Biểu tượng của nó, “hình ảnh” của nó là gia đình tụ họp chung quanh bàn ăn. Việc chia sẻ bữa ăn, và vượt ngoài thực phẩm – việc chia sẻ tình yêu thương, các câu chuyện, các biến cố… là một kinh nghiệm quan trọng. Khi có một lễ, một ngày sinh nhật, một ngày kỷ niệm, người ta tìm lại nhau chung quanh một bàn ăn. Trong một vài nền văn hóa người ta cũng có thói quen làm điều này trong dịp tang chế, để gần gũi với người đau khổ vì mất thân nhân.

Đức Thánh Cha khẳng định thêm như sau:

Việc chung sống chia sẻ là một hàn thử biểu chắc chắn giúp đo lường các tương quan: nếu trong gia đình có điều gì đó không ổn, hay một vết thương ẩn kín, thì người ta hiểu ngay tại bàn ăn. Một gia đình mà hầu như không bao giờ ăn chung với nhau, hay tại bàn ăn không nói chuyện với nhau, nhưng nhìn truyền hình hay nhìn điện thoại di động, thì đó là một gia đình “ít có tính cách gia đình”. Khi người ta sử dụng máy vi tính hay điện thoại di động mà không nói chuyện với nhau, thì gia đình ít có tính cách gia đình. Khi con cái gắn chặt với mày vi tính hay điện thoại di động ở bàn ăn, và người ta không lắng nghe nhau, đó không phải là gia đình, đó là một nhà trọ.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ: Chúng ta tất cả đều hiết rằng Kitô giáo có một ơn gọi đặc biệt chung sống chia sẻ. Chúa Giêsu thích giảng dậy tại bàn ăn, và đôi khi Ngài trình bầy Nước Thiên Chúa như một bữa tiệc. Chúa Giêsu cũng lựa chọn bàn ăn để trao ban cho các môn đệ sứ điệp tinh thần của Ngài- ngài làm điều đó trong bữa ăn chiều - cô đọng trong cử chỉ tưởng niệm cuộc Hiến Tế của Ngài: trao ban Mình và Máu làm Của Ăn và Của Uống cứu độ, dưỡng nuôi tình yêu đích thật và bền lâu.

Trong viễn tượng này, chúng ta có thể hiểu rằng trong Thánh Lễ gia đình ở trong nhà mình, chính vì nó đem tới Thánh Thể kinh nghiệm chung sống chia sẻ và rộng mở cho ơn thánh của việc sống chung chia sẻ đại đồng, của tình yêu của Thiên Chúa đối với thế giới. Khi tham dự bí tích Thánh Thể, gia đình được thanh tẩy khỏi cám dỗ khép kín trong chính mình, được củng cố trong tình yêu, trong lòng trung thành và nới rộng các biên giới của tình huynh đệ theo trái tim của Chúa Kitô.

Nhận xét về thời đại ngày nay Đức Thánh Cha nói: Trong thời đại ngày nay, bị ghi dấu bởi biết bao nhiêu khép kín và qúa nhiều bức tường ngăn cách, việc chung sống chia sẻ, do gia đình sinh ra và được bí tích Thánh Thể nới rộng, trở thành một cơ may nền tảng. Bí tích Thánh Thể và các gia đình được Thánh Thể nuôi dưỡng có thể chiến thắng các khép kín đó và xây dựng các cây cầu tiếp đón và bác ái. Phải, Bí tích Thánh Thể của một Giáo Hội tại gia, có khả năng tái trao ban cho cộng đoàn men hoạt động của việc chung sống chia sẻ và sự tiếp đón nhau, là một trường học bao gồm nhân bản không sợ hãi các đối chiếu.

Ký ức về các nhân đức gia đình giúp chúng ta hiểu. Chính chúng ta đã thừa nhận và còn thừa nhận rằng các phép lạ nào có thể xảy ra khi một bà mẹ trông nom chú ý, nuôi nấng và săn sóc con cái của người khác, ngoài con cái của mình. Cho tới ngày hôm qua đây chỉ cần một bà mẹ là đủ trông nom mọi đứa trẻ trong sân! Còn nữa, chúng ta biết rõ một dân tộc có sức mạnh nào, khi các người cha coi con cái như một thiện ích được chia sẻ, họ hạnh phúc và hãnh diện che chở con cái họ. Tiếp dến Đức Thánh Cha ghi nhận các bối cảnh xã hội ngày nay như sau:

Ngày nay nhiều môi trường xã hội đặt ra các chướng ngại cho sự chung sống chia sẻ trong gia đình. Thật thế, ngày nay nó không dễ dàng. Chúng ta phải tìm ra cách thế tái phục hồi nó: nói chuyện với nhau tại bàn ăn, lắng nghe nhau tại bàn ăn. Không thinh lặng, cái thinh lặng ấy không phải là thinh lặng của các nữ đan sĩ, nó là sự thinh lặng của tính ích kỷ: mỗi người có cái của mình hoặc là truyền hình hay máy vi tính… và người ta không nói với nhau nữa. Không, đừng thinh lặng. Hãy thu hồi sự chung sống chia sẻ trong gia đình miễn là bằng cách thích ứng nó với thời đại. Việc chung sống chia sẻ xem ra trở thành một điều mà người ta buôn bán, nhưng như vậy nó trở thành một điều khác. Việc nuôi dưỡng không chỉ luôn luôn là biểu tượng của một sự chia sẻ công bằng các của cải, có khả năng đạt tới những người không có cơm bánh và tình yêu thương. Tại các nước giầu chúng ra bị giản lược vào chỗ tiêu tiền cho việc ăn uống qúa độ, rồi lại sửa chữa việc thái quá ấy. Và dịch vụ vô nghĩa này khiến cho chúng ta không chú ý tới cái đói đích thật của thân xác và của linh hồn. Khi không có sự chung sống chia sẻ, thì có ích kỷ, mỗi người nghĩ tới chính mình. Tệ hơn nữa là việc quảng cáo đã khiến cho nó trở thành một ăn bữa nhỡ buồn chán và một ước muốn ăn bánh ngọt. Trong khi có quá nhiều anh chị em ở bên ngoài bàn ăn. Thật là hơi đáng xấu hổ phải không?

Chúng ta hãy nhìn vào mầu nhiệm Tiệc Bí Tích. Chúa bẻ bánh Mình và đổ Máu Ngài cho tất cả mọi người. Thật thế, không có chia rẽ nào có thể chống lại Hy Lễ hiệp thông này. Chỉ có thái độ giả dối, đồng lõa với sự dữ có thể loại trừ khỏi nó. Mọi xa cách khác không thể chống lại quyền năng không được che chở của bánh được bẻ ra và rượu được đổ ra này, là Bí Tích Thân Mình duy nhất của Chúa. Liên minh sống động của các gia đình kitô đi trước, nâng đỡ và bao gồm, trong năng động của tính hiểu khách của nó, các mệt nhọc và niềm vui thường ngày, cộng tác với ơn của Bí Tích Thành Thể, có khả năng tạo dựng sự hiệp thông luôn mới mẻ với sức mạnh bao gồm và cứu rỗi.

Kết thúc bàì huấn dụ Đức Thánh Cha nói: Như thế gia đình kitô sẽ cho thấy chân trời rộng rãi của nó, là chân trời của Giáo Hội, Mẹ của tất cả mọi người, của tất cả những người bị bỏ rơi và loại trừ, trong tất cả mọi dân tộc. Chúng ta hãy cầu nguyện để sự chung sống chia sẻ này của gia đình có thể lớn lên và chín mùi trong thời gian ơn thánh của Năm Lòng Thương Xót sắp tới.

5. Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh

Chúa Kitô Phục sinh là đích điểm cuộc lữ hành trần thế của chúng ta. Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh, diện đối diện. Chúng ta không chờ đợi một thời gian hay một nơi chốn, nhưng chúng ta đi gặp gỡ một người: đó là Chúa Giêsu. Vì thế vấn đề không phải khi nào xảy ra các dấu chỉ báo trước thời sau hết, nhưng là phải sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ ấy.

Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói như trên trong buổi đọc Kinh Truyền Tin với mấy chục ngàn tín hữu và du khách hành hương trưa Chúa Nhật 15-11.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã quảng diễn ý nghĩa Phúc Âm Chúa Nhật thứ 33 thường niên năm B, liên quan tới diễn văn của Chúa Giêsu về sự thành toàn của Nước Thiên Chúa (x. Mc 13,24-32). Đây là một diễn văn Chúa nói tại Giêrusalem trước lễ Vượt Qua cuối cùng của Ngài. Nó chứa đựng vài yếu tố khải huyền như chiến tranh, đói kém, các tai ương trong vũ trụ. Chúa nói: “mặt trời sẽ ra tối tăm, mặt trăng không còn chiếu sáng, các ngôi sao từ trời sa xuống và các quyền lực trên trời bị lay chuyền” (Mc 13,24-25). Tuy nhiên, các yếu tố này không phải là điều nòng cốt của sứ điệp. Nhân tố chính, mà diễn văn của Chúa Giêsu xoay quanh, là chính Ngài, mầu nhiệm con người của Ngài, cái chết, sự phục sinh và việc Ngài trở lại vào thời sau hết.

Đức Thánh Cha giải thích thêm:

Mục đích cuối cùng của đời sống chúng ta là cuộc gặp gỡ với Chúa phục sinh. Và tôi muốn hỏi anh chị em: có bao nhiêu người trong anh chị em nghĩ tới điều này? Sẽ có một ngày kia tôi sẽ gặp gỡ Chúa diện đối diện. Đó là đích điểm của chúng ta: cuộc gặp gỡ này với Chúa. Chúng ta không chờ đợi một thời gian hay một nơi chốn, nhưng chúng ta đi gặp gỡ một người: đó là Chúa Giêsu. Vì thế vấn đề không phải khi nào xảy ra các dấu chỉ báo trước thời sau hết, nhưng là phải sẵn sàng cho cuộc gặp gỡ ấy. Vấn đề cũng không phải là biết các điều đó sẽ xảy ra như thế nào, mà là biết chúng ta phải hành xử ra sao, hôm nay, trong lúc chờ đợi các điều đó. Chúng ta được mời gọi sống hiện tại, bằng cách xây dựng tưong lai của chúng ta với sự thanh thản và tin tưởng nơi Thiên Chúa. Dụ ngôn cây vả đâm chồi, như dấu hiệu của mùa hè gần tới (x. cc28-29) nói rằng viễn tượng của ngày sau hết không cất chúng ta ra khỏi hiện tại, nhưng làm cho chúng ta nhìn các ngày sống của mình trong một lăng kính của niềm hy vọng. Đó là nhân đức thật khó mà sống được: đức cậy, nhân đức bé nhỏ nhưng là nhân đức mạnh mẽ nhất. Và niềm hy vọng của chúng ta có một gương mặt: đó là gương mặt của Chúa phục sinh, đến trong “quyền năng lớn lao và vinh quang” (c. 26), nghĩa là Ngài tỏ lộ tình yêu bị đóng đanh được hiền dung của Ngài trong sự phục sinh. Chiến thắng của Chúa Giêsu vào thời sau hết sẽ là chiến thắng của Thập Giá, là việc chứng minh cho thấy rằng sự hiến tế chính mình vì yêu thương tha nhân và noi gương Chúa Kitô, là quyền lực chiến thắng duy nhất và là điểm vững chắc duy nhất giữa các đảo lộn và các thảm cảnh của thế giới.

Đức Thánh Cha nói thêm trong bài huấn dụ:

Chúa Giêsu không chỉ là điểm tới cuộc lữ hành trần thế của chúng ta, nhưng là một sự hiện diện thường hằng trong cuộc sống chúng ta: ngài luôn luôn ở bên cạnh chúng ta, Ngài luôn luôn đồng hành với chúng ta. Vì thế khi Ngài nói tới tương lai và dự phóng chúng ta về tương lai, đó là để dẫn đưa chúng ta trở lại hiện tại. Ngài chống lại các ngôn sứ giả, các thị nhân thấy trước ngày tận cùng của thế giới gần kề, và chống lại thuyết định mệnh. Chúa ở bên cạnh chúng ta, bước đi với chúng ta, yêu thương chúng ta. Ngài muốn kéo các môn đệ thuộc mọi thời đại của Ngài khỏi sự tò mò muốn biến các ngày tháng, các tiên báo, các lá số tử vi, và tập trung sự chú ý của chúng ta trên ngày hôm nay của lịch sử. Tôi muốn hỏi anh chị em – nhưng xin đừng trả lời, mỗi người hãy trả lời trong chính mình thôi – có bao nhiêu người trong anh chị em đọc lá số tử vi mỗi ngày? Im lặng nhé! Mỗi người hãy tự trả lời đi. Và khi bạn muốn đọc lá số tử vi, thì hãy nhìn lên Chúa Giêsu, đang ở với bạn. Làm như thế thì tốt hơn cho bạn. Sự hiện diện này của Chúa Giêsu mời gọi chúng ta chờ đợi và tỉnh thức. Chúng loại trừ biết bao thái độ mất kiên nhẫn cũng như ngủ quên, biết bao trốn chạy về phía trước, biết bao tình trạng bị giam cầm trong thời gian hiện tại và trong tinh thần thế tục.

Cả trong thời đại chúng ta nữa cũng không thiếu các tai ương thiên nhiên và tai ương luân lý, cũng không thiếu các thù nghịch và sai lạc đủ loại. Mọi sự đều qua đi – Chúa nhắc cho chúng ta biết thế - chỉ có Ngài, Lời ngài còn lại như ánh sáng dẫn đường, trao ban can đảm cho các bước chân của chúng ta, và Ngài luôn luôn tha thứ cho chúng ta, bởi vỉ Ngài ở bên cạnh chúng ta. Chỉ cần nhìn Chúa và Ngài thay đổi con tim chúng ta. Xin Trinh Nữ Maria giúp chúng ta tín thác nơi Chúa Giêsu, là nền tảng vững vàng của cuộc sống chúng ta, và xin Mẹ giúp chúng ta tươi vui kiên trì sống trong tình yêu của Chúa.

Đức Thánh Cha cũng đã tái mạnh mẽ lên án các hành động khủng bố bạo lực tại Paris khiến cho 129 người chết và 352 người bị thương. Đức Thánh Cha tái chia buồn với toàn dân Pháp và nói:

Tôi muốn bầy tỏ nỗi đớn đâu sâu thẳm của tôi đối với các vụ tấn công khủng bố chiều tối ngày thứ Sáu đã khiến nước Pháp đổ máu, gây ra nhiều nạn nhân. Tôi xin bầy tỏ sự chia buồn sâu xa với tổng thống và mọi công dân của Cộng Hòa Pháp. Tôi đặc biệt gần gũi gia đình những người đã thiệt mạng và nhũng người bị thương. Biết bao nhiêu dã man khiến cho chúng ta kinh hoàng, và người ta tự hỏi làm sao trái tim con người lại có thể nghĩ ra và thực hiện các biến cố kinh khủng như thế, không chỉ đảo lộn nước Pháp mà còn đảo lộn toàn thế giới nữa. Trước các hành động bất khoan nhượng như vậy, không thể không lên án việc xúc phạm tới phẩm giá con người một cách xấu hổ như thế. Tôi muốn mạnh mẽ tái khẳng định rằng con đường của bạo lực và thù hận không giải quyết được các vấn đề của nhân loại và dùng tên của Thiên Chúa để biện minh cho con đường này là một sự phạm thượng.

Tôi xin mời anh chị em hiệp nhất với lời cầu nguyện của tôi: chúng ta hãy phó thác cho lòng thương xót Chúa các nạn nhân không được bênh đỡ của thảm cảnh này. Xin Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của lòng thương xót, dấy lên trong con tim của mọi người các tư tưởng của sự khôn ngoan và các ý hướng hòa bình. Chúng ta hãy xin Mẹ che chở và canh thức trên quốc gia Pháp thân yêu, trưởng nữ của Giáo Hội, trên Âu châu và trên toàn thế giới. Chúng ta tất cả cùng nhau cầu nguyện một chút trong thinh lặng, rồi cùng đọc một kinh Kính Mừng.
 
Thánh Ca
Thánh Ca: Chỉ Có Hôm Nay - Trình bày: Ca Sĩ Kim Thúy
VietCatholic Network
01:14 18/11/2015
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây