Ngày 08-11-2008
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Hãy sống khôn ngoan và tỉnh thức
Lm Nguyễn Hữu Thy
03:34 08/11/2008
Chúa Nhật XXXII Thường Niên/A

Hãy sống khôn ngoan và tỉnh thức!


(Mt 25,1-13)

Trong khi công bố bài Tin Mừng của ngày Chúa Nhật vào cuối năm Phụng vụ và là Chúa Nhật thứ hai trong tháng Các Linh Hồn hôm nay, Giáo Hội đã đề cập đến tương lai của chúng ta, dĩ nhiên không phải đến những ngày những tháng sắp tới, nhưng là đến một tương lai tuyệt đối và vĩnh cửu, một tương lai vượt lên trên mọi phạm trù thời gian và không gian của thế giới này. Ðó là khoảnh khắc mà người ta còn gọi là «bên kia thế giới», là cuộc sống sau cái chết, là «cuộc sống dưới suối vàng», là thời «thế mạt»!

Thánh sử Mát-thêu ghi lại dụ ngôn Mười người trinh nữ này để muốn nhắc nhủ chúng ta phải lưu tâm đến giờ phút quyết định mang tính cách vĩnh viễn đó, khi Thiên Chúa hiện thực vương quyền tình yêu cũng sự công bằng của Người đối với nhân loại. Tiếp đến thánh nhân cũng muốn nhấn mạnh rằng cuộc sống hiện tại, cuộc sống trần thế của chúng ta chỉ là một sự sửa soạn cho giờ phút quyết định đó, chỉ là thời gian chờ đợi và chuẩn bị; bởi vì không một ai có thể biết chính xác khi nào giờ sau hết của mình đã điểm, khi nào sự chết sẽ như là một cửa ngõ dẫn vào trong sự sung mãn đó sẽ xảy ra, khi nào thì thế giới này được thay thế bằng một thế giới tuyệt đối mới mẻ và hoàn hảo!

Trong bài Tin Mừng hôm nay, một hình ảnh về một đám cưới đã được vẽ ra trước mắt chúng ta. Có mười người trinh nữ chờ đón chú rể đã đến chậm hơn thời gian đã dự định. Và qua cách thức hành xử và thái độ sống của họ, các cô gái được chia làm hai nhóm khác nhau: Một nhóm gồm năm cô khôn ngoan, nhóm thứ hai còn lại gồm năm cô khờ dại.

Sự phê phán này khiến chúng ta phải suy nghĩ. Nó liên quan chặt chẽ với chủ ý của bản văn, tức lời kêu mời hãy tỉnh thức. Theo câu chuyện, tất cả các cô trinh nữ đều không đáng trách vì đã thiếp ngủ đi, lý do chàng rể đến chậm. Nhưng điều chính yếu mà các cô không thể thiếu được, đó là sự chuẩn bị. Các cô phải luôn sẵn sàng cho giây phút quyết định sắp xảy tới, phải trang bị đầy đủ cho cuộc tiếp rước chàng rể, cho bữa tiệc cưới!

Ở đây, xét theo ý nghĩa của sự đòi hỏi đó, thì một trong hai nhóm các cô trinh nữ rất đáng trách, vì các cô đã không có sự chuẩn bị chu đáo và đầy đủ trước. Thật ra các cô có sửa soạn, nhưng chỉ sửa soạn cách qua loa cho giây phút trước mắt, tức các cô cũng có thiện ý cầm đèn theo. Còn sự sửa soạn đầy đủ cho một thời gian chờ đợi lâu dài, thì các cô đã không làm, tức các cô mang đèn mà lại không mang theo dầu. Vì thế khi giây phút quan trọng có tính cách định đoạt tới, thì mọi chuyện lại quá trễ! Khi chàng rể tới mà các cô còn chạy đi mua dầu, thì đã quá muộn! Không còn kịp nữa!

Cũng vậy, trong đời sống đời thường, những ai vì khinh suất và lơ đễnh mà bỏ bê, chứ không lo hoàn thành công việc bổn phận của mình và rồi một lúc nào đó muốn tìm cách chuộc lại sự lầm lỗi và thiếu sót đã sai phạm, thì thường là không còn cơ may nữa, thì thường là mọi sự đã quá muộn mằn! Cửa đã được khóa chặt lại rồi! Họ sẽ không còn theo kịp đoàn rước bước vào phòng tiệc cưới, không còn kịp theo chân chàng rể để vào tham dự tiệc cưới và phải đứng ở ngoài; vâng, còn hơn thế nữa: Họ bị coi như những kẻ xa lạ!

Nhưng bây giờ dựa theo câu chuyện dụ ngôn, nhiều câu hỏi khác cũng được đặt ra cho chúng ta. Trước hết, theo tinh thần đức bác ái Kitô giáo của chúng ta, thì xem ra cách cư xử của năm cô trinh nữ khôn ngoan là thiếu độ lượng: Tại sao các cô lại không muốn san sẻ dầu với các cô khờ dại kia? Nhưng nếu đứng vào địa vị các cô gái khôn ngoan, chúng ta có thực sự dám liều và chia sớt dầu với các cô khờ dại kia không? Trong những trường hợp tương tự trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta có dám làm khác hơn các cô không? Ðối với tác giả bài Tin Mừng, xem ra những câu hỏi đó không đóng vai trò quan trọng. Tuy nhiên, chúng ta quan sát và nhận thấy rằng câu chuyện chỉ muốn đưa ra một ví dụ, một dụ ngôn, để muốn nói lên một chủ đích là đối chiếu giữa sự dại khờ và sự khôn ngoan! Và điều đó mang đầy tính cách nghiêm trọng của nó! Ðúng vậy, những tiếng «cửa đóng lại» và «tôi không biết các cô là ai» đã muốn nhắn nhủ chúng ta: Ở đây vấn đề được đề cập tới là những quyết định có tính cách vĩnh viễn, là sự thể: Có được cùng với mọi khách mời vào tham dự tiệc cưới hay vĩnh viễn bị gạt ra ngoài!

Trong khi đó những cô trinh nữ khôn ngoan: Họ sửa soạn cho giây phút hiện tại, nhưng đồng thời còn lo lắng chuẩn bị đầy đủ cho mọi hoàn cảnh bất trắc có thể xảy ra, họ nghĩ tới cả tương lai lâu dài nữa: Họ mang đèn và mang cả dầu theo nữa! Họ ý thức được rằng tiệc cưới sau cùng sẽ được quyết định bởi giây phút hiện tại, và vì thế họ tổ chức cuộc sống của mình một cách tương xứng. Họ có thể được so sánh với người xây nhà trên nền đá vững chắc và với người đầy tớ tốt luôn tỉnh thức chờ đợi chủ mình trở về (x. Mt 24,45-51). «Dầu» mà họ mang theo cùng với đèn là muốn so sánh với thái độ sống nội tâm của họ, một thái độ sống luôn mang đầy hy vọng và tỉnh thức chờ đợi giờ phút chú rể tới.

Vậy, chúng ta hãy cố gắng chuẩn bị sẵn sàng và trở nên khôn ngoan. Tuy nhiên, bài tin Mừng hôm nay không hề đưa ra sự hướng dẫn tỉ mỉ phải chuẩn bị như thế nào – và thiết tưởng điều đó có lẽ cũng không cần thiết! Bởi vì mỗi người đã biết rõ khi nào và ở đâu trong cuộc sống, mình đã hành động một cách chủ quan và khờ dại; trong lúc nào và phải hành động thế nào mới đúng, mới khôn ngoan, nói cách khác: Khi nào và ở đâu cần phải hy vọng vào Thiên Chúa, cần phải chạy đến cùng Người? Ở đâu còn ngự trị sự ích kỷ - kể cả sự ích kỷ tập thể - chỉ tìm kiếm lợi ích riêng cho mình và chiếm đoạt quyền lợi chính đáng của kẻ khác một cách bất công?

Sự khác biệt giữa sự khờ dại và sự khôn ngoan còn được biểu lộ rõ ràng trong các lãnh vực khác của cuộc sống, trong toàn bộ các hành động cũng như trong các bê trễ của chúng ta. Giữa cuộc sống cho giây phút hiện tại và sự định hướng cho tương lai theo lời hứa của Ðức Giêsu, không còn có con đường nào khác ở giữa nữa! Vì thế, chúng ta phải chọn lựa và quyết định cũng như phải hành động cho cân xứng – trong những việc trọng đại cũng như trong những việc nhỏ bé tầm thường – và luôn canh tân đổi mới mãi cho tới khi chàng rể tới! Amen.
 
Bài Giáo Lý mới XI của ĐTC Bênêđictô XVI về Thánh Phaolô: Thánh Phaolô và Biến Cố Phục Sinh
Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ
06:33 08/11/2008
Dưới đây là bản dịch bài Huấn Từ của ĐTC Bênêđictô XVI trong buổi triều yết chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô ngày 5 tháng 11 năm 2008. Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về Thánh Phaolô.

***

Anh chị em thân mến nếu Đức Kitô đã không sống lại, thì lời rao giảng của chúng tôi thật trống rỗng, và đức tin của anh em cũng trống rỗng …. anh em vẫn còn ở trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15:14,17). Với những lời mạnh mẽ này Thánh Phaolô vạch cho chúng ta thấy tầm quan trọng mà ngài gán cho biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thực ra, biến cố này là lời giải đáp cho vấn đề hàm chứa trong bi kịch Thập Giá. Chỉ một mình nó, Thập Giá không thể giải thích được Đức Tin Kitô giáo, trái lại, nó còn là một thảm cảnh ám chỉ sự phi lý của cuộc đời. Mầu nhiệm Vượt Qua hệ tại ở sự kiện “Đấng Chịu Đóng Đinh đã sống lại trong ngày thứ ba như lời Thánh Kinh” (1 Cr 15:4). Như thế chứng thực những truyền thống tiền Kitô giáo.

Đây là điểm then chốt của Kitô học theo Thánh Phaolô: Mọi sự đều xoay quanh điểm trọng tâm này. Toàn thể giáo huấn của thánh Phaolô khởi hành từ và luôn luôn trở về với mầu nhiệm của Đấng mà Chúa Cha đã cho sống lại từ cõi chết. Biến Cố Phục Sinh là một sự kiện cơ bản, và hầu như là một tiền đề (x. 1 Cor 15:12), dựa vào đó mà Thánh Phaolô có thể đưa ra một công thức loan báo Tin Mừng tổng hợp: Đấng đã Chịu Đóng Đinh, và là Đấng đã biểu lộ tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với loài người, đã sống lại và đang sống giữa chúng ta.

Thật là quan trọng để ghi nhận sự nối kết giữa lời loan báo và biến cố Phục Sinh, như công thức Thánh Phaolô vừa đề ra, với những gì mà các cộng đồng Kitô hữu đầu tiên tiền Phaolô đã dùng. Ở đây chúng ta có thể thật sự thấy điều quan trọng của truyền thống có trước Thánh Tông Đồ, và đến lượt ngài muốn truyền lại với lòng kính trọng và chú tâm lớn lao. Văn bản về biến cố Phục Sinh trong chương 15:1-11 của Thư thứ I gửi tín hữu Côrinthô làm nổi bật mối dây liên kết giữa việc ”lãnh nhận” và ”truyền lại”. Thánh Phaolô coi việc công thức hóa truyền thống thành văn tự là điều rất quan trọng, ở cuối đoạn văn mà chúng ta đang nghiên cứu, Thánh Nhân ghi nhận: Dù là tôi hay các vị ấy, thì chúng tôi đều rao giảng như thế, và anh em đã tin như thế” (1 Cor 15:11), như vậy làm nổi bật sự hiệp nhất của lời loan báo (kerygma) và việc rao giảng cho mọi Kitô hữu, và cho tất cả những người sẽ rao giảng sự Phục Sinh của Đức Kitô.

Truyền thống mà ngài kết hợp với cũng là nguồn mạch mà từ đó ngài rút ra. Tính chất sáng tạo của Kitô học của Thánh Phaolô không bao giờ làm tổn thương đến việc trung thành với truyền thống. Lời công bố (kerygma) của các Tông Đồ luôn luôn chiếm địa vị ưu tiên so với việc soạn lại kỹ lưỡng của cá nhân Thánh Phaolô; mỗi lập luận của ngài đều được trích ra từ truyền thống chung, trong đó trình bày Đức Tin được chia sẻ bởi tất cả các Hội Thánh, mà các Hội Thánh này chỉ là một Hội Thánh duy nhất.

Bằng cách này, Thánh Phaolô đưa ra một mẫu gương cho mọi thời đại trong việc phải nghiên cứu thần học và giảng huấn như thế nào. Thần học gia và giảng huấn viên không tạo ra những cái nhìn mới về thế giới và đời sống, nhưng trái lại phải phục vụ chân lý được truyền lại, phải phục vụ thực tại có thật của Đức Kitô, của Thập Giá, và của biến cố Phục Sinh. Nhiệm vụ của họ là giúp chúng ta ngày nay hiểu, đàng sau các từ cổ xưa, thực tại “Thiên Chúa ở cùng chúng ta”, và nhờ đó hiểu được thực tại về sự sống thật.

Thật thích hợp ở đây khi nói đích xác rằng: Trong khi loan báo biến cố Phục Sinh, Thánh Phaolô đã không bận tâm đến việc trình bầy một giáo thuyết một cách có cấu trúc - ngài đã không muốn viết một cẩm nang thần học - nhưng thay vào đó, ngài đưa ra đề tài để trả lời các nghi vấn và các câu hỏi cụ thể mà các tín hữu đã đặt ra cho ngài. Như thế là một bài nói chuyện ngẫu nhiên, nhưng đầy Đức Tin và thần học sống động. Người ta thấy ngài tập trung vào điểm chính: đó là chúng ta đã được “công chính hóa”, nghĩa là đã được trở nên công chính, được cứu độ bởi Đức Kitô, là Đấng đã chết và đã sống lại cho chúng ta. Sự kiện Phục Sinh được làm nổi bật trên mọi sự kiện khác, nếu không có sự kiện này, thì đời sống Kitô hữu trở thành phi lý. Vào buổi sáng Phục Sinh ấy, một điều gì phi thường và mới mẻ đã xảy ra, nhưng đồng thời lại là một điều rất cụ thể, kiểm chứng được bởi những dấu chính xác, được chứng thực bởi nhiều nhân chứng.

Đối với thánh Phaolô cũng như đối với các tác giả khác của Tân Ước, việc Phục Sinh được liên kết với chứng từ của những người đã có kinh nghiệm trực tiếp với Đấng Phục Sinh. Đây là việc thấy và nghe không những chỉ với cặp mắt và giác quan, nhưng còn với một ánh sáng nội tâm, là động cơ thúc đẩy việc nhận ra điều mà các giác quan bên ngoài kiểm chứng như là một dữ kiện khách quan. Vì thế Thánh Phaolô -- cũng giống như bốn Thánh Sử -- coi đề tài về những cuộc hiện ra là điều quan trọng căn bản, và là điều kiện nền tảng cho Đức Tin vào Đấng Phục Sinh, là Đấng đã để lại ngôi mộ trống.

Hai dữ kiện này thật quan trọng: Ngôi mộ trống và Chúa Giêsu đã thực sự hiện ra. Như thế dây chuyền truyền thống này đã được làm bằng chứng từ của các Tông Đồ và các môn đệ đầu tiên, được chuyển qua các thế hệ kế tiếp, đến chúng ta. Kết quả đầu tiên, hay cách đầu tiên để diễn tả chứng từ này là việc rao giảng sự Sống Lại của Đức Kitô như một tổng hợp của sứ điệp Tin Mừng, và tột đỉnh của con đường cứu độ. Thánh Phaolô đã thực hiện tất cả những điều ấy trong nhiều dịp khác nhau: chúng ta có thể tham khảo các Thư của ngài và Sách Tông Đồ Công Vụ, là nơi mà chúng ta có thể thấy điểm chính đối với ngài là làm chứng nhân cho biến cố Phục Sinh.

Cha muốn dẫn chứng chỉ một đoạn văn: Thánh Phaolô ra trước Công Nghị Do thái, như một người bị tố cáo, khi bị bắt tại Giêrusalem. Trong trường hợp thập tử nhất sinh này, ngài đã cho thấy ý nghĩa và nội dung của toàn thể lời rao giảng của ngài: “Tôi bị xét xử vì niềm hy vọng vào việc kẻ chết sẽ sống lại” (Cv 23:6). Thánh Phaolô cũng thường lập lại cùng một điệp khúc này trong các Thư của ngài (x. 1 Thes 1:9tt.; 4:13-18; 5:10), trong đó ngài đã nhắc đến kinh nghiệm gặp gỡ riêng của ngài với Đức Kitô Phục Sinh (x. Gl 1:15-16; 1 Cr 9:1).

Nhưng chúng ta có thể tự hỏi: Đối với Thánh Phaolô đâu là ý nghĩa sâu xa của biến cố Phục Sinh của Chúa Giêsu? Ngài muốn nói gì với chúng ta 2000 năm sau đó? Việc khẳng định rằng “Đức Kitô đã sống lại” có thực tế đối với chúng ta không? Tại sao biến cố Phục Sinh đối với ngài và đối với chúng ta ngày nay lại là một đề tài có tính cách quyết định như thế?

Thánh Phaolô đã trịnh trọng trả lời câu hỏi này ở đầu Thư gửi tín hữu Roma: Ðó là Tin Mừng của Thiên Chúa… về Con của Ngài, là Ðấng sinh ra bởi dòng dõi vua Ðavid theo xác thịt. Nhưng đã được tuyên xưng là Con Thiên Chúa với tất cả quyền năng theo tinh thần thánh thiện, qua việc sống lại từ cõi chết (Rm 1:3-4).

Thánh Phaolô biết rõ và nói nhiều lần rằng Chúa Giêsu luôn luôn là Con Thiên Chúa từ giây phút nhập thể. Điều mới mẻ của việc Phục Sinh bao gồm sự kiện là Chúa Giêsu, được nâng lên khỏi địa vị hèn mọn của cuộc sống trần gian, được đặt làm Con Thiên Chúa với “quyền năng”.  Chúa Giêsu, Đấng chịu xỉ nhục cho đến khi chết trên Thập Giá, giờ đây có thể nói với Nhóm Mười Một: Mọi quyền hành trên trời dưới đất đã được trao cho Thầy” (Mt 28:18). Điều mà Thánh Vịnh 2:8 nói đã được thể hiện: “Hãy xin, Cha sẽ cho con muôn dân làm gia nghiệp, và khắp cùng trái đất thuộc về con.”

Đó là lý do tại sao việc Phục Sinh là khởi điểm của việc loan báo Tin Mừng của Đức Kitô cho mọi dân tộc -- mở đầu Nước Đức Kitô, Nước này không biết một quyền năng nào khác ngoài quyền năng của chân lý và tình yêu. Như thế việc Phục Sinh dứt khoát biểu lộ cho chúng ta căn tính đích thực và tầm vóc phi thường của Đấng Chịu Đóng Đinh: Một phẩm giá khôn sánh và rất cao sang -- Chúa Giêsu là Thiên Chúa!

Đối với Thánh Phaolô, căn tính bí mật của Chúa Giêsu được tỏ lộ trong Mầu Nhiệm của việc Phục Sinh, hơn cả trong việc Nhập thể. Trong khi tước hiệu “Đức Kitô”, nghĩa là “Đấng Mêsia”, “Đấng Được Xức Dầu” trong các Thư của Thánh Phaolô có khuynh hướng trở thành tên riêng của Chúa Giêsu, và tước hiệu “Chúa” xác định liên hệ cá nhân của Người với các tín hữu, thì tước hiệu “Con Thiên Chúa” được dùng để diễn tả mối liên hệ mật thiết của Chúa Giêsu với Thiên Chúa, một mối liên hệ được bày tỏ cách đầy đủ trong biến cố Phục Sinh. Cho nên, chúng ta có thể nói rằng Chúa Giêsu đã sống lại để làm Chúa của kẻ chết và kẻ sống (x. Rm 14:9; 2 Cr 5:15), hay nói cách khác, làm Đấng Cứu Độ chúng ta (x. Rm 4:25).

Tất cả những điều này đem theo chúng những hệ quả quan trọng đối với đời sống Đức Tin của chúng ta: chúng ta được mời gọi để thông phần tận đáy của cuộc sống chúng ta vào toàn thể Cái Chết và sự Sống Lại của Đức Kitô. Thánh Tông Đồ nói: chúng ta “đã cùng chết với Đức Kitô” và chúng ta tin rằng “chúng ta cũng sẽ sống với Người, vì chúng ta biết rằng Đức Kitô, một khi đã sống lại từ cõi chết, thì không còn chết nữa; sự chết không còn quyền lực gì trên Người” (Rm 6:8-9).

Điều này có nghĩa là chia sẻ các đau khổ của Đức Kitô, như là bước đầu trong việc hoàn toàn được đồng hình đồng dạng với Người qua việc sống lại. Đó cũng là điều đã xảy ra cho Thánh Phaolô, mà kinh nghiệm của ngài được diễn tả trong các Thư của ngài bằng một giọng vừa chính xác vừa thực tế: để biết Người, và quyền năng của sự sống lại của Người, và được chia sẻ những đau khổ của Người, nhờ được nên giống như Người trong cái chết của Người, để bằng bất cứ phương thế nào, tôi có thể đạt được sự sống lại từ cõi chết” (Pl 3:10-11; x. 2 Tm 2:8-12). Thần học Thập Giá không phải là một lý thuyết -- mà là một thực tại của đời sống Kitô hữu. Sống trong Đức Tin vào Đức Chúa Giêsu Kitô, sống chân lý và đức ái bao hàm việc từ bỏ chính mình mỗi ngày, bao hàm các khổ đau. Kitô giáo không phải là một con đường thoải mái, ngược lại là một cuộc leo dốc đòi hỏi nhiều cố gắng, nhưng được chiếu soi bằng ánh sáng của Đức Kitô và niềm hy vọng lớn lao phát sinh từ Người.

Thánh Agustinô nói: Các Kitô hữu không được miễn khổ đau, ngược lại, họ còn được thêm một chút khổ đau, vì sống Đức Tin diễn tả lòng can đảm đương đầu với cuộc đời và lịch sử một cách sâu xa hơn. Và với mọi sự, chỉ bằng cách này, là kinh nghiệm đau khổ, chúng ta cảm nghiệm đời sống ở đáy của nó, trong vẻ mỹ miều của nó, trong niềm hy vọng lớn lao được gợi ra bởi Đức Kitô, là Đấng Chịu Đóng Đinh và Phục Sinh. Người tín hữu thấy mình đứng giữa hai thái cực: một bên là sự Sống Lại, là điều đã hiện diện và hoạt động trong chúng ta một cách nào đó (x. Col 3:1-4; Eph 2:6), và bên kia, là sự cấp bách phải thích ứng vào tiến trình này, là tiến trình đưa đến tất cả mọi điều và mọi sung mãn được trình bày trong Thư gửi tín hữu Rôma bằng một hình ảnh táo bạo: giống mọi tạo vật rên siết và đau đớn như đau bụng trong lúc sinh con, bằng cách này chúng ta cũng rên siết trong niềm hy vọng vào sự cứu độ của thân xác chúng ta, vào ơn cứu độ và sự sống lại của chúng ta (x. Rm 8:18-23).

Tóm lại, chúng ta có thể nói cùng thánh Phaolô rằng: người tín hữu chân chính được ơn cứu độ khi tuyên xưng trên môi rằng Chúa Giêsu là Chúa và tin trong lòng rằng Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết (x. Rm 10:9). Điều quan trọng trên hết mọi sự là một tấm lòng tin vào Đức Kitô và “chạm đến” Đấng Phục Sinh trong Đức Tin. Nhưng tin trong lòng thôi thì chưa đủ, chúng ta còn phải tuyên xưng và làm chứng cho Đức Tin ấy trên môi và bằng đời sống của chúng ta, như thế làm cho chân lý của Thập Giá và sự Phục Sinh được hiện diện trong lịch sử của chúng ta.

Bằng cách này, người Kitô hữu tham gia vào một tiến trình mà trong đó người ấy đi từ Ađam thứ nhất, là Ađam thuộc về thế gian, phải hư nát và phải chết, đến chỗ được biến đổi thành Ađam cuối cùng, là Ađam thuộc về Thiên Đàng và không thể hư nát (x. 1 Cor 15:20-22,42-49). Tiến trình này đã được khởi sự bằng biến cố Phục Sinh của Đức Kitô, là nền tảng cho niềm hy vọng là một ngày nào đó chúng ta cũng được cùng Đức Kitô bước vào quê thật trên Thiên Đàng. Được nuôi dưỡng bởi niềm hy vọng này, chúng ta hãy can đảm và vui vẻ tiếp tục cuộc hành trình của mình.

ĐTC Bênêđictô XVI

 
Tiết độ
Tuyết Mai
09:41 08/11/2008
Tiết Độ

Hoa quả của Chúa Thánh Thần là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền từ, và tiết độ (Gl 5:22-23).

Tôi xin được mạn phép lấy một phần hoa quả của Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta để nhắc nhở tôi và anh chị em xem chúng ta có thật sự giữ sự Tiết Độ trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta không nhé!? Có phải Tiết Độ đây có nghĩa là sự chừng mực và vừa phải hay không? Chừng mực và vừa phải chắc hẳn có nghĩa là ta không được làm gì quá mức được ấn định? Nếu không mọi thứ sẽ bị hư hỏng và tiêu hao trước thời kỳ được ấn định của nó? Thưa có đúng không? Trước tiên tôi xin được gợi ý trong cái từ "quá" nghe xem sao cái đã nhé! Có phải đôi khi cái từ "quá" mà chúng ta dùng, nghe kỹ ra thì thấy rất ư là mai mỉa hay rất chói tai cho những người được nghe? Giả như sáng nay vào sở đi làm, nhìn thấy một cô bạn của mình, vừa mới đi làm tóc, vừa uốn vừa cắt ngắn lên, xem rất xinh xắn và lạ con mắt. Bắt cô quay ngang rồi lại quay dọc, ngắm nghía thoáng qua thì thấy rất hạp với khuôn mặt của ta, bèn khen cô là "quá đẹp" nhưng thực sự nếu ai nghe lời khen của mình, có thể họ sẽ cười ruồi trong bụng vì lời khen của mình không được thành thật. Khi ta khen ai đẹp thì thực sự người đó phải đẹp vì đa số người đều đồng ý là người ấy đẹp, như thế thì cái từ đẹp đã là rất chỉnh rồi không thể khen hơn được nữa!? Họa may trong gia đình, người chồng muốn nịnh bà vợ của mình bèn khen lấy khen để là ối chao ơi, sao bà xã của tôi hôm nay làm cái đầu tóc ở đâu mà "đẹp quá trời"? Ấy, tuy bà vợ biết tỏng tòng tong là ông xã của mình khen xạo đấy! Nhưng miệng vẫn toe toét cười sung sướng trong dạ, bởi bỏ tiền đi làm cái đầu tóc đâu có phải rẻ thưa phải không quý ngài? Mà về không được một lời khen, mà nhất là của ông chồng mình, thì quả ông này thật là cù lần và rất đáng để cho đói, không hầu cơm nữa! Đấy mấy ông cũng phải biết tâm lý mấy bà nhé! Dù là chúng tôi biết quý ông chỉ khen là vì cho cái bao tử của quý ông mà thôi! Nhưng ông nào mà dại quá thì bị chúng tôi bỏ đói thì ráng mà chịu.

Đấy là tôi nói vòng vo về cái khen sắc đẹp của quý bà và quý cô, chứ mấy ông thì cho chúng tôi xin miễn khen nhé! Ai mà dại lắm mới đi khen mấy ông, không bị chê là biết mình trung bình rồi đấy! Chứ bảo đảm mấy bà và mấy cô chẳng muốn đi song song ngoài đường với mấy ông xấu trai xập xệ và bê bối đâu! Cứ như Chúa Giêsu nói với các tông đồ xưa là nếu ai không chống đối ta là họ cùng về phía ta.

Rồi thì khi ta dùng từ "quá" cho những thứ khác thí dụ như: Chuối chín quá! Xoài chín quá! Mít chín quá!. ... thì có nghĩa là làm sao thưa anh chị em? Thưa có nghĩa là cho chúng vào thùng rác được rồi! Tiện tôi cũng xin được nhắc nhở cho tất cả anh chị em, xin đừng ăn những trái cây quá ngọt nếu bị bệnh Tiểu Đường nhé! Trái cây chín số lượng đường trong chúng rất là cao, không được ăn.

Chỉ có cái đau khổ thì có thể ta chấp nhận được khi một trong những anh chị em "quá" đau khổ vì người thân của ta đã bỏ ta đi. Như chồng bỏ vợ con đi theo tiếng gọi của con tim. Như người tình đã bỏ ta đi như trong những bài hát truyền cảm mà chúng ta rất thích được nghe trong những ngày mưa gió buồn bã. ... Hay con cái chúng ta chúng trở nên hư hỏng theo băng đảng và sống trong sa đọa đang đánh mất linh hồn của chúng. Như đã nghèo lại còn gặp cái eo, tiền thì không, mà nhà lại có người mang bệnh nan y không thuốc thang, không một miếng bỏ bụng thì hà huống gì mà nuôi người bệnh. Có phải cái nghèo, đau bệnh, tật nguyền, và đói khát là cái mà chúng ta không sao không than khóc cho được và tiếng than không thấu tận Trời sao được!? Tất cả những đau khổ trên lại còn chưa đủ cho những con người giầu có gian ác đang sống nhan nhãn nhởn nhơ chung quanh chúng ta đấy ư!? Họ chà đạp nhân phẩm của những con người nghèo khổ này! Làm công cho họ mà luôn bị đánh đập, tiền trả không xứng đáng với công lao, hăm dọa, và xem người làm công như xúc vật. Tôi thiết nghĩ từ "quá" ở đây rất đúng để dùng cho họ.

Tiết độ, nếu thực sự ta được Chúa Thánh Thần ban cho hoa quả này! Thiết tưởng chúng ta sẽ hiểu được ngay một cách dễ dàng sao là sống cho Tiết Độ, cho vừa phải, cho không lố lăng, cho không làm buồn lòng Thiên Chúa, và cho tha nhân. Tiết độ từ lời ăn tiếng nói. Nói nhiều sẽ cho ta nhiều phiền phức vì những điều ta nói không được suy nghĩ trước? Thường người nói nhiều ít được ai ưa lắm! Nhất là họ nói nhiều về cái mình của họ. Họ nói nhiều để được người đời khen là họ có năng khiếu? Họ nói nhiều để chính họ che lấp cái xấu của họ mà không cho ai có cơ hội để nói được về họ? Tiết độ trong ăn uống cũng vậy! Nếu ta ăn uống cho chừng mực thì có phải bao tử của ta cũng tốt, sức khoẻ của ta cũng tốt, không phải vào ra bệnh viện nhiều, không làm phiền toái cho ai. Sống lâu, sống trẻ, sống khoẻ. Sống một cuộc sống hữu ích cho mình, cho gia đình, và cho đời.

Tiết độ trong vấn đề tiêu xài cũng vậy! Nếu chúng ta biết sống tiêu xài một cách chừng mực mà không phung phí thì chúng ta cũng không phải làm phiền đến ai? Tiêu xài cho đủ thì có phải chúng ta thứ nhất không mang nợ, thứ hai tập cho con cái trong gia đình sống cách chừng mực từ thuở bé, không xài hay sắm sửa một cách phung phí. Đồ chơi con nít mua sắm quá nhiều? Quần áo cũng sắm chật ních tủ nhưng không bao giờ mặc. Ăn chơi cũng không có chừng có mực. Thứ ba nếu tất cả chúng ta tiêu xài và ăn uống có chừng có mực thì quả thật cái Dư chúng ta có chúng ta phải đem chia sẻ cho anh chị em túng quẫn thiếu thốn sống chung quanh chúng ta hằng ngày. Tôi nhớ có đọc được đâu đó nói rằng những gì chúng ta có dư thì không phải là của chúng ta nữa! Mà cái dư của chúng ta có là (belong) thuộc về anh chị em có nhu cầu của chúng ta. Thử hỏi nếu tủ quần áo của chúng ta đầy ắp những quần áo không mặc thì còn chần chờ gì mà không phân phát cho những anh chị em đói nghèo lạnh cóng nơi vỉa hè hay đầu đường mà chúng ta hằng ngày nhìn thấy!? Tủ lạnh chúng ta cũng mua không biết bao nhiêu thức ăn chứa đầy trong đó, đợi đến khi hư thì chúng ta lại đổ cống, thế cái dư đó chúng ta không nuôi được những người nghèo khổ bên đời chúng ta được ư!? Tiền của dư của chúng ta cũng chất và đếm cho nhiều con số, càng nhiều con số càng tốt, trong khi số tiền đó là thuộc về những anh chị em khổ nghèo là những Lazaro sống trước cửa nhà chúng ta hay không?

Vâng, Tiết Độ mà hoa quả Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta có nghĩa là thế đó! Là mọi thứ chúng ta phải biết Tiết Độ để còn biết chia sẻ cho anh chị em khốn cùng sống chung quanh ta và còn rất nhiều ở khắp mọi nơi trên hoàn cầu. Chúa ban cho chúng ta tất cả là nhưng không. Không có Thiên Chúa thì ai ban cho anh chị em và tôi có công ăn việc làm? Không có Chúa ai cho chúng ta sức khoẻ? Không có Chúa ai ban cho chúng ta những gì dư dật, chất đống, chất đầy trong nhà và trong nhà băng của chúng ta? Trong tháng cầu nguyện cho các Linh Hồn, xin tất cả anh chị em hãy rộng lượng mở hầu bao của mình để phân phát cho những anh chị em nghèo tật bệnh và đói nghèo hầu được Chúa tha thứ nhiều tội lỗi chính chúng ta gây nên. Vâng, sự đói nghèo của anh chị em mình, một phần là do chúng ta gây nên, vì chúng ta sống quá ích kỷ, nếu tất cả chúng ta biết chia sớt thì không một ai trên thế giới còn nghèo khổ và đói khát nữa!!!!

Tôi và anh chị em có nghĩ rằng khi Linh Hồn của chúng ta lìa đời khi lên Ngai Tòa Thiên Chúa, Chúa sẽ hỏi chúng ta nhiều lắm không? Chúa sẽ hỏi chúng ta rằng những của Dư Chúa ban cho chúng ta đã làm gì cho có hoa lợi? Chúa sẽ hỏi sao Ta ban cho ngươi đến những 10 nén bạc mà nay hoa lợi của Ta ở đâu? Kê khai chúng ra cho Ta nghe xem thử! Chúng ta lúc bấy giờ có được câu trả lời nào cho đích đáng hay không, hay chúng ta sẽ ỡm ờ mà không tìm ra được một câu trả lời nào!?

Xin Thiên Chúa Ba Ngôi mở lòng, mở trí, mở trái tim, mở tâm hồn, và nhất là mở rộng đôi bàn tay yêu thương rộng rãi của chúng ta ra trong tháng cầu cho các Linh Hồn này! Hầu Linh Hồn mai sau của chúng ta cũng được Thiên Chúa thưởng ban cho một Nơi sáng láng hưởng niềm vui, hoan lạc, vĩnh phúc muôn đời trên Thiên Quốc với tất cả các Thánh, tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, cùng tất cả anh chị em bằng hữu của chúng ta trên Quê Trời, Amen.
 
Chúa Nhật 32A: Suy Niệm Lời Chúa Trinh Nữ Khôn Ngoan
+ TGM Giuse Ngô Quang Kiệt
10:01 08/11/2008
Chúa nhật 32 TN A

TRINH NỮ KHÔN NGOAN

I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA

Mt 25, 1-13: "Bấy giờ, Nước Trời sẽ giống như chuyện mười trinh nữ cầm đèn ra đón chú rể. Trong mười cô đó, thì có năm cô dại và năm cô khôn. Quả vậy, các cô dại mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo. Vì chú rể đến chậm, nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả. Nửa đêm, có tiếng la lên: "Chú rể kia rồi, ra đón đi !" Bấy giờ tất cả các trinh nữ ấy đều thức dậy, và sửa soạn đèn. Các cô dại nói với các cô khôn rằng: "Xin các chị cho chúng em chút dầu, vì đèn của chúng em tắt mất rồi !" Các cô khôn đáp: "Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mà mua lấy thì hơn." Đang lúc các cô đi mua, thì chú rể tới, và những cô đã sẵn sàng được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Rồi người ta đóng cửa lại. Sau cùng, mấy trinh nữ kia cũng đến gọi: "Thưa Ngài, thưa Ngài ! mở cửa cho chúng tôi với !" Nhưng Người đáp: "Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả !" Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.

II. TẤM BÁNH CHIA SẺ

Đám cưới là một sinh họat bình thường của con người. Chúa đã dùng một sinh họat bình thường của xã hội để nói về Nước Trời cho mọi người dễ hiểu. Qua dụ ngôn này, Chúa sánh ví Nước Trời giống như một đám cưới. Chúa chính là chàng rể. Linh hồn là trinh nữ. Giờ Chúa đến là giờ ta từ giã đời này. Tiệc cưới là hạnh phúc Nước Trời. Bóng đêm là những thử thách ta gặp trên đường về Nước Trời. Chàng rể đến muộn nói lên tính cách bất ngờ của giờ chết. Qua dụ ngôn này, Chúa hé mở cho ta mấy chân lý về Nước Trời.

Hạnh phúc Nước Trời là được sống với Chúa. Hình ảnh con người sống với Thiên Chúa được diễn tả thật sinh động qua hình ảnh đám cưới. Cưới ai là cho người ấy được ngang hàng, được chung hưởng địa vị, chia sẻ quyền lợi. Chúa đến cưới lấy con người. Cho con người được vào sống trong nhà Chúa, được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Chúa là nguồn mạch hạnh phúc. Được sống với Chúa và được Chúa yêu thương, linh hồn sẽ không còn mơ ước điều gì hơn nữa.

Con người được Chúa trân trọng. Hình ảnh chàng rể đến giữa đêm khuya thật gợi ý. Chúa đến tận nơi tìm ta. Chúa không triệu ta đến như ông vua ra lệnh cho thần dân. Nhưng Chúa trân trọng đến đón rước linh hồn. Và để đến tìm ta, Chúa phải vượt suối băng ngàn, đi trong đêm hôm khuya khoắt. Chúa yêu thương ta biết bao.

Mọi người được mời gọi. Chúa mong ước mọi người được ơn cứu độ. Chúa mong ước cho ta được hạnh phúc. Dựng nên con người, Chúa muốn mọi người được chia sẻ hạnh phúc với Chúa. Nên cả mười cô trinh nữ đều được tuyển chọn để đi đón chàng rể. Cả mười cô được dự kiến sẽ vào dự tiệc vui với chú rể. Chàng rể đến mong cả mười cô đều tham dự vào đám rước dâu và vào dự tiệc cưới.

Nhưng ai đủ điều kiện mới được vào. Điều kiện được diễn tả như ngọn đèn cháy sáng. Đi rước dâu đòi phải cầm đèn. Đèn ai sáng mới được dự vào đám rước. Đèn tắt bị loại ra ngoài. Những người cầm đèn sáng là những người tha thiết yêu mến Chúa nên chăm lo thực hành lời Chúa, biểu lộ lòng yêu mến Chúa bằng những việc làm cụ thể. Còn những người đèn tắt là những người tuy cũng muốn vào dự tiệc cưới nhưng không chịu chuẩn bị. Họ là những người tin theo phong trào, giữ đạo theo dư luận, có tên trong sổ rửa tội, nhưng đời sống hoàn toàn như người không có đức tin. Có đèn mà không có dầu. Có đèn mà đèn để tắt. Có đạo mà không giữ đạo. Biết luật Chúa nhưng không chịu thực hành.

Các con TNTT thân mến,

Thánh Thể là một bữa tiệc Chúa Giêsu mời gọi ta vào dự. Được dự tiệc Thánh Thể là được đồng bàn với Chúa. Thánh Thể là bữa tiệc hạnh phúc vì trong TT Chúa yêu thương hiến mình cho ta. Thánh Thể là bữa tiệc đem lại sự sống đời đời. Thánh Thể là bữa tiệc cưới trong đó ta được kết hiệp nên một với Chúa. Thật hạnh phúc cho ta.

Vì yêu thương, nên Chúa Giêsu cũng đã từ trời xuống thế tìm ta. Để gặp được con người Chúa đã phải trải qua biết bao vất vả khó nhọc. Nhất là phải chịu nhục nhã và chịu chết nữa. Hôm nay Chúa vẫn ở trong nhà chầu chờ đợi ta.

Trong nhà thờ luôn có ngọn đèn chầu. Khi không có ai thờ phượng Chúa, thì có ngọn đèn chầu lúc nào cũng thắp sáng để thờ phượng Chúa. TNTT nguyện là những ngọn đèn chầu ở bên cạnh Chúa. Mỗi khi các con đến viếng Chúa Giêsu Thánh Thể, các con trở nên những ngọn đèn chầu. Càng có nhiều ngọn đèn chầu và những ngọn đèn càng sáng lâu thì trái tim Chúa càng được sưởi ấm.

Ngọn đèn chầu của các con được sáng lâu và sáng mạnh là nhờ các con sống bí tích Thánh Thể. Như CGS hiến mạng sống để tuân theo thánh ý Đức Chúa Cha, TNTT hãy luôn yêu mến và làm theo ý Chúa. Như CGS hiến mạng sống vì tha nhân, TNTT hãy biết yêu mến mọi người. Như CGS đã quì xuống rửa chân cho các môn đệ. TNTT hãy biết khiêm tốn phục vụ mọi người. Như CGS đã là tấm bánh bẻ ra nuôi dưỡng mọi người, TNTT hãy biết chia sẻ cơm áo với những người nghèo, viếng thăm an ủi những người buồn khổ. Thực hành bí tích Thánh Thể là chất dầu giữ cho ngọn đèn tâm hồn các con luôn cháy sáng. Với ngọn đèn cháy sáng trên tay, các con sẽ an ủi CGS Thánh Thể và khi Chúa đến các con sẽ cầm đèn sáng cùng Chúa vào tham dự hạnh phúc Nước Trời.

III. TẤM BÁNH HÓA NHIỀU

1- Dụ ngôn 10 cô trinh nữ có ý nghĩa gì?
2- Bạn chuẩn bị thế nào để được vào dự tiệc Nước Trời?
3- Chúa đến bất ngờ. Điều này dạy ta phải làm gì để sẵn sàng đón Chúa?
 
Chúa nói với tôi
+ GM JB Bùi Tuần
10:26 08/11/2008
CHÚA NÓI VỚI TÔI

Nếu có ai hỏi tôi: Sau một đời dài theo Chúa, tôi đã cảm nhận được điều gì an ủi nhất? Tôi sẽ thưa: Điều an ủi nhất, mà tôi cảm nhận được là: Chúa nói với tôi.

Chúa nói với tôi:

- qua lời Chúa,

- qua Hội Thánh của Chúa,

- qua những người thiện chí của Chúa,

- qua những biến cố có sự can thiệp của tình xót thương Chúa.

1/ Lời Chúa nói với tôi

Thiên Chúa mà tôi tôn thờ, là một người Cha. Người biết tôi yếu đuối. Nên Người nói với tôi như nói với đứa con dại khờ.

Người gọi tên tôi. Người dạy tôi về cách sống. Tôi hiểu được ý nghĩa và hướng đi đời tôi, nhờ Người bảo ban. Người nói với tôi rõ ràng về từng chi tiết quan trọng của đời sống. Như việc cầu nguyện, việc yêu thương phục vụ, việc bố thí, việc giữ chay, việc tha thứ, việc dấn thân chu toàn bổn phận.

Đức Kitô nói với tôi bằng lời của Người. Hơn nữa, Người còn nói với tôi bằng đời của Người.

Thánh giá của Người luôn ở trước mắt tôi. Thánh giá đó nói về đời yêu thương hy sinh của Người.

Người là tình yêu. Tình yêu ấy sống động, gần gũi. Tất cả tình yêu ấy đều nói với tôi rằng: Thiên Chúa yêu thương tôi. Người đã gọi tôi. Người đã chọn tôi. Người đã sai tôi đi. Không phải vì tôi xứng đáng, nhưng chỉ vì Người thương và muốn như vậy.

Những gì Chúa nói với tôi, cho dù đôi khi dưới hình thức răn đe, cũng vẫn là những lời giải thoát, cứu độ.

Chúa nói nhiều với tôi qua lời Người. Thêm vào đó, Chúa nói với tôi qua Hội Thánh của Người.

2/ Hội Thánh Chúa nói với tôi

Hội Thánh là một quy tụ, tuỳ thuộc phần nào vào dòng lịch sử. Vì thế, qua Hội Thánh, Chúa nói với tôi về dấu chỉ thời đại.

Có lúc nên nhấn mạnh đến sám hối. Có lúc nên đề cao ph?c v? người nghèo. Có lúc nên quan tâm nhiều đến việc đối thoại với xã hội bằng đời sống.

Có nơi nên quy tụ lớn. Có nơi nên quy tụ nhỏ. Có nơi nên tránh những hoành tráng gây gai mắt.

Đức Hồng Y Gantin khuyên tôi: Cai quản là phải thấy trước.

Đức Hồng Y J.P. Cordes gợi ý cho tôi thấy thời nay là thời của các cộng đoàn nhỏ.

Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận hay nhắc nhở tôi về việc đào tạo nhân sự cho Hội Thánh Việt Nam mới.

Qua kinh nghiệm, tôi thấy Chúa hay nói với tôi về sự phải tỉnh thức lắng nghe những dấu chỉ cấp bách.

Chẳng hạn hiện nay là thời điểm khủng hoảng kinh tế. Hội Thánh địa phuong nên tìm ra những cách thích hợp để phục vụ Tin Mừng. Hiện nay cũng là thời điểm, mà nhiều đồng bào ngoài công giáo tại một số nơi không cảm thấy đạo Công giáo là cần thiết cho việc ổn định xã hội. Hội Thánh phải ý thức điều đó, để tìm cách khôn ngoan giới thiệu đạo Chúa, sao cho đạo Chúa trong thời khó khăn vẫn nói lên được Tin Mừng đích thực, khả dĩ hấp dẫn đối với những người ngoài công giáo.

Hiện nay, nhiều người đang nghe được tiếng Chúa nói về những đổi mới cần thiết cho Hội Thánh.

3/ Chúa cũng đang nói với tôi qua những người thiện chí

Những người thiện chí vẫn hiện diện trong Hội Thánh và ngoài Hội Thánh.

Họ là những người đảm đang, tận tuỵ phục vụ người khác và ích chung.

Họ là những người tìm tòi khảo cứu trong nhiều lãnh vực để đẩy lùi sự ác, tăng lên sự thiện.

Họ là những người phấn đấu không mệt mỏi, để xã hội mỗi ngày mỗi nên nhân đạo hơn.

Trước cửa sổ phòng tôi có một cây mai to. Từ mấy ngày nay, tự nhiên nó trổ nụ, nở bông. Mới tháng 9 âm lịch, ngày nào cũng có mưa. Thế mà hoa mai nở, như một xuất hiện sớm của mùa Xuân.

Nhìn những bông mai vàng đến sớm, tôi có cảm tưởng gặp được những nguồn nâng đỡ Chúa gởi đến tôi đúng lúc tôi cần. Sự nâng đỡ của họ không tuỳ thuộc vào mùa. Họ hiện diện như những trái tim tế nhị. Lặng lẽ mà đẹp. Âm thầm mà như nói rất nhiều về tình thương và sự sống. Bông hoa trái mùa nhắc nhở cho tôi sự thực này: Cho dù đời có nhiều giông gió, Chúa vẫn cho tôi gặp được những người thiện chí chính lúc không ngờ.

4/ Chúa nói với tôi qua nhiều biến cố

Tôi đã trải qua nhiều biến cố. Có những biến cố chung của Đất Nước và của Giáo Hội. Có những biến cố riêng chỉ xảy ra cho một mình tôi.

Nhìn lại, tôi thấy rõ sự can thiệp của tình thương Chúa. Mỗi biến cố là mỗi tiếng gọi của tình yêu Chúa. Mỗi biến cố là mỗi lời sám hối, tôi đáp lại tình xót thương Chúa dành cho tôi.

Mỗi biến cố là mỗi lời Chúa sai tôi đi kể lại những gì tình Chúa đã làm cho tôi.

Mỗi biến cố là mỗi cơ hội Chúa gọi tôi: Hãy trở nên bé nhỏ hơn, để Nước Chúa được lan rộng hơn.

Mỗi biến cố là dịp thôi thúc tôi: Hãy chỉ phát triển Tám mối phúc, còn bản thân mình thì nên được chôn vùi.

Chúa nói với tôi: Đó là điều an ủi rất lớn của đời tôi.

Được nghe Chúa nói, được nói với Chúa, tôi xác tín rằng: Chúa nhận tôi làm con của Chúa.

Chúa mãi thương tôi. Chúa đồng hành với tôi. Chúa ở gần tôi. Chúa ở bên tôi.

Lúc này, tôi đang nghe Chúa nói với tôi: Chính vì con yếu đuối, nên hãy tín thác mọi sự của con nơi lòng thương xót Cha.

Tôi hạnh phúc như giọt nước được trở về đại dương.
 
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:53 08/11/2008
BIỂU ĐẠT

N2T


Có một tác gia nổi tiếng trong giới tôn giáo, đối với quan niệm của đại sư thì rất là hiếu kỳ, ông ta nói: “Con người làm thế nào để khai thác được Thiên Chúa ?”

Đại sư thẳng thắn nói với ông ta: “Lấy thinh lặng để hồi phục sự thanh bạch của tâm hồn, ít dùng lý luận của tôn giáo để khỏi làm ô nhiễm sự thanh bạch của Ngài.”

Tiếp đến, ông ta liếc nhìn các học trò giàu có bên cạnh dí dỏm nói: “Khi nói chuyện cũng không cần dẫn chứng tài liệu từ nhiều nguồn khác, để tránh khỏi làm cho không khí thêm trầm trọng.”

(Trích: Huệ nhãn thiền tâm)

Suy tư:

Ở đời, có nhiều kẻ nói nhiều nhưng chẳng ai muốn nghe cả, bởi vì họ nói trên giấy tờ, họ nói bằng những câu dẫn chứng của người khác mà không ăn nhằm gì với đời sống của họ; ở đời, cũng có những người thích kẻ khác nói chuyện bằng cách trích dẫn tài liệu triết gia này, nhà lý luận nọ, mà đôi lúc họ nghe cũng chẳng hiểu gì, bởi vì họ sính văn chương để bày tỏ mình là người hiểu biết.

Tìm kiếm Thiên Chúa không phải tự mình mà gặp được Ngài, bởi vì Ngài không ở trong văn chương lý luận, Ngài cũng không ở trong những tâm hồn kiêu ngạo thích khoe khoang sự khôn ngoan hiểu biết của mình. Nhưng Ngài chỉ tỏ mình ra cho những ai tìm kiếm Ngài trong sự khiêm tốn và tin yêu.

Có một vài người Ki-tô hữu khi nói chuyện với người khác thì thích trích dẫn Thánh Kinh như giảng viên giáo lý lên lớp, nhưng chẳng ai thèm nghe, bởi vì họ nói hay mà thực hành không hay, bởi vì họ chỉ nói mà không thực hành.

Sống đơn sơ khiêm tốn với mọi người, là phương cách giản dị mà hiệu quả nhất để người khác tìm được Thiên Chúa trong cuộc sống của họ...

Đó chính là tùy duyên của chúng ta mà họ biết Thiên Chúa vậy.
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:55 08/11/2008
N2T


39. Nếu con muốn được khi cầu xin, xin mời con khiêm cung lĩnh giáo, học tập cầu nguyện, bởi vì ân sủng từ trời cao sẽ không ở cùng người biếng nhác.

(Thánh Ambrosius)
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Thánh Cha: Quyết định về cái chết không được tùy tiện
Bùi Hữu Thư
15:20 08/11/2008

Đức Thánh Cha: Quyết định về cái chết không được tùy tiện



Ngài nói tôn kính sự sống phải là ưu tiên tiên quyết

VATICAN CITY, ngày 7 tháng 11, 2008
(Zenit.org).- ĐTC Benedict XVI nhắc nhở các tham dự viên của hội nghị quốc tế về ghép cơ phận là trước khi những cơ phận trọng yếu có thể được lấy ra khỏi một cơ thể, phải có sự xác nhận trên mức nghi ngờ là người hiến cơ phận thật sự đã chết.

Khi tiếp các tham dự viên của hội nghị “Một quà tặng cho đời sống. Những điều cần lưu ý khi hiến cơ phận,” ĐTC cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc có sự ưng thuận hiểu biết của gia đình.

Hội nghị đang nhóm họp tại Rôma cho đến ngày thứ bẩy, được Giáo Hoàng Học Viện về Đời Sống, Liên Minh Quốc Tế các Hiệp Hội Y Tế, và Trung Tâm Ghép Cơ Phận Quốc Gia Ý bảo trợ.

ĐTC nói, “Sự ưng thuận có hiểu biết là một điều kiện tiên quyết để việc ghép cơ phận có thể được coi là một sự thỏa thuận sau khi đã thông hiểu, là một điều kiện tiên quyết cho việc sang ghép có thể được coi như là một quà tặng thay vì một hành động cưỡng bách hay bạo hành.”

Ngoài ra, “các cơ phận thiết yếu chỉ có thể được lấy ra “ex cadavere" [từ một thân xác], vẫn có nhân phẩm và cần được tôn kính.”

ĐTC Benedict XVI không thảo luận các chi tiết về tiêu chuẩn để một bệnh nhân được coi là đã qua đời, nhưng ngài nói tiêu chuẩn này không được tùy tiện mà phải có sự đồng ý sâu rộng của cộng đồng khoa học.

Ngài nói, "Trong những năm vừa qua, khoa học đã có nhiều tiến bộ trong việc xác định cái chết của một bệnh nhân. Như thế rất tốt vì các kết quả thâu hoạch đã nhận được sự đồng ý của toàn thể cộng đồng khoa học trong việc tìm kiếm các giải pháp ngõ hầu giúp cho tất cả mọi người có thể biết chắc chắn được.

"Trong một môi trường như vậy, bất kể một chút nghi ngờ tối thiểu nào về việc xác định cái chết cũng không được phép xẩy ra, và khi một sự chắc chắn hoàn toàn không thể đạt tới, nguyên tắc cẩn trọng vẫn phải được áp dụng."

Trích dẫn Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo, ĐTC tiếp, “việc kính trọng sự sống của người hiến cơ phận phải được coi là tiêu chuẩn tiên quyết, để cho việc giải phẫu lấy cơ phận đi chỉ được xẩy ra sau khi biết chắc chắn bệnh nhân thực sự đã qua đời."
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Chương trình sinh hoạt cho Giới Trẻ Công giáo Saigòn
LM Giuse Trần Đình Long
09:47 08/11/2008
Chương trình sinh hoạt cho Giới Trẻ Công giáo Saigòn

1- Để Kỷ Niệm sự kiện Đức Mẹ hiện ra tại Fatima mỗi ngày 13 hàng tháng, BẮT ĐẦU TỪ THÁNG 08-2008, tại Giáo Xứ Chí Hòa sẽ có THÁNH LỄ ĐÚNG 12 GIỜ TRƯA MỖI NGÀY 13 HÀNG THÁNG do cha Giuse Trần Đình Long cử hành và giảng thuyết. Các Thánh lễ theo lịch như sau: Thứ Năm 13/11; Thứ Bảy 13/12.

2- Kể từ tháng 10-2008, các bạn có thể đọc những bài chia sẻ của tập san “nhờ Mẹ đến với Chúa” cũng như chia sẻ trao đổi những suy tư, cảm nghĩ của bạn trên trang blog. Địa chỉ Blog: vn.myblog.yahoo.com/doiquan_aoxanh

Nếu bạn không coi được những bài viết trên Blog bằng tiếng Việt, xin vui lòng copy những bài đó, rồi paste vào Word, và đổi qua Font VNI-Times sẽ đọc được.

3- Trong năm Giáo Dục Kitô Giáo 2008, mời anh chị em tham dự những buổi chia sẻ chuyên đề về Tâm Lý Giáo Dục của Câu Lạc Bộ Mục Vụ Gia Đình, do cha Long phụ trách:

• Thời gian: Mỗi tối thứ Ba Đầu Tháng, từ 18g30 đến 20g30
• Địa điểm: Trung Tâm Mục Vụ, số 6Bis Tôn Đức Thắng, Quận 1 (cạnh Đại Chủng Viện Thánh Giuse)
• Chủ đề chia sẻ tối thứ ba 04 -11: “Giảm Stress trong Gia Đình”
• Chủ đề chia sẻ tối thứ ba 02 -12: “Giải Tỏa Tâm Lý Mặc Cảm”

4- THÁNH LỄ CHO GIỚI TRẺ: Mời các bạn đến tham dự thánh lễ dành riêng cho Giới Trẻ do cha Long cử hành mỗi chiều Chúa Nhật tại:

• Nhà thờ An Lạc (15/2 CMT8-P.5- Tân Bình) lúc 18g15 Chúa Nhật tuần thứ I, II, III trong tháng.
• Nhà thờ Công Lý (62/147A Lý Chính Thắng-P.8- Quận 3) lúc 17g30 Chúa Nhật tuần thứ IV trong tháng.
• Nhà thờ An Nhơn (15/173 Lê Hoàng Phái- P.17- Q. Gò Vấp) lúc 18g00 mỗi chiều Thứ Bảy (Thánh Lễ thay ngày Chúa Nhật)

5- SÂN CHƠI CHO GIỚI TRẺ: Mời các bạn đến với “Điểm Hẹn Giêsu” mỗi tháng tại:

• Nhà thờ Công Lý (62/147A Lý Chính Thắng-P.8- Quận 3) lúc 19g30 tối thứ sáu đầu tháng (tháng này là thứ sáu 7/11)
• Nhà thờ Nhân Hòa (38/24 Ngã tư Trường Chinh và Cộng Hoà, cạnh nhà hàng Thiên Thai. Q. Tân Phú) lúc 20g00 tối Chúa Nhật tuần II trong tháng (tháng này là 9/11)
• Chủ đề sinh hoạt tháng 11: BIẾT SỐNG ĐỂ KHÔNG SỢ CHẾT

6- CÔNG TÁC BÁC ÁI: Nhóm Phục Vụ, Cộng Đoàn Cầu Nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ Chí Hoà đã thực hiện trong tháng 10-2008.

• Tặng 200 phần quà cho các gia đình nghèo trong địa bàn giáo xứ Cồn Én, tỉnh Đồng Tháp.
• Tặng 2 xe đạp cho sinh viên nghèo.
• Tặng 30 bao quần áo cho nhóm công tác xã hội đi Pleiku.
• Trợ giúp Nhà Nuôi Trẻ Mồ Côi của Dòng Thừa Sai Bác Ai Vinh.
• Tặng 30 bao quần áo, mì cho bà con nghèo ở Hà Tĩnh.
• Tặng quần áo, quà cho công nhân cạo mủ cao su nghèo ở Long Khánh.
• Giúp vốn làm ăn cho một vài gia đình khuyết tật ngoại giáo.
• Trợ cấp học bổng cho một số con em của những người khuyết tật bán vé số để các em có điều kiện đến trường.
• Học phí cho một số học sinh, sinh viên nghèo ở quê lên T.P trọ học.
• Thăm viếng, hiến máu và giúp viện phí cho 5 người vợ trẻ bị phỏng toàn thân điều trị ở bệnh viện Chợ Rẫy.
• Tặng 2 xe lăn cho 2 gia đình khuyết tật.
• Sửa chữa nhà, hệ thống nước, tặng quà cho anh em Nhà Cỏ.
• Tặng gạo, mì, chén bát, ly, quần áo cho Trung Tâm Nhân Đạo Quê Hương: nuôi dạy trẻ mồ côi khuyết tật.
• Tặng lịch 2009, ảnh, tượng, tràng hạt, sách kinh và quà cho anh em dân tộc Di Linh.

7- Ngày thứ bảy 22-11-2008, Nhóm Phục Vụ sẽ đi tặng quà cho những gia đình nghèo ở Núi Ba Thê - An Giang. Xin anh chị em cùng chia sẻ công tác bác ái này như Lời Chúa nói: “Phúc cho ai biết xót thương người, thì họ sẽ được xót thương”. Các bạn trẻ muốn tham gia Nhóm Phục Vụ “Đội Quân Ao Xanh” xin liên lạc với cha Long (tusilangtu@yahoo.com), hoặc anh Chiêu (0983494714).

Kính chúc anh chị em tràn đầy ân sủng và bình an nơi Trái Tim Chúa Giêsu qua lời cầu bầu của Mẹ Maria.
 
Những tâm tình trong Tập San Giới Trẻ ''Nhờ Mẹ đến với Chúa''
Giới Trẻ Saigòn
09:56 08/11/2008
Những tâm tình trong Tập San Giới Trẻ "Nhờ Mẹ đến với Chúa"

SỐNG ĐẠO LÀ TỬ ĐẠO

Tử đạo là người làm chứng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô trước mặt mọi người, và cảm nghiệm rằng Đức Giêsu yêu thương và đang hoạt động trong đời sống mình.

Tử đạo là chứng nhân về Đức Giêsu Kitô và Thánh Thần làm cho người ấy trung tín với Đức Giêsu cho đến chết.

Việc tử đạo là kết quả một đời sống chứng nhân bằng cách gắn bó hằng ngày với Chúa Kitô, rồi chóp đỉnh mới là sự chết vì yêu mến Đức Giêsu hơn chính mạng sống mình.

Tử đạo không thể là những người suốt cả đời sống xa Tin Mừng Chúa Giêsu, rồi lúc khó khăn cấm cách gồng mình lên giơ cổ cho người ta chém để làm anh hùng.

Như vậy, tất cả tín hữu đều là chứng nhân của Đức Giêsu Kitô.

Đức Giêsu nói: “Quả thật, quả thật ta bảo các ngươi, giả như hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, thì nó trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, nó mới sinh hoa lắm quả”. (Ga 12, 24)

Đức Giêsu là hạt lúa tinh tuyền được Cha ban cho thế gian để chết đi.

Đức Giêsu là vị tử đạo duy nhất và thứ nhất của nhân loại trước Thiên Chúa Cha. Và Ngài cũng là nhân chứng độc nhất vô song của Cha trước thế gian. Ngài nói: “Ai thấy Ta là thấy Cha” (Ga 14,9). Và Đức Giêsu cũng đã phải chết vì gọi Thiên Chúa là Cha (Mt 26,65; Mc14,63; Lc 22, 70 )

Thiên Chúa đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, nhờ Ngài những kẻ chết vì Danh Ngài cũng sẽ được sống lại vinh quang như Ngài.

Kẻ tin hôm nay đặt cuộc sống vui buồn sướng khổ hằng ngày của mình trong Đức Kitô, như hạt lúa gieo vào lòng đất thân yêu, để Đức Giêsu làm chủ đời mình, không để thế gian làm chủ, quyết tâm trung tín với Ngài đến cùng. Như vậy là kẻ ấy đang sống tinh thần tử đạo thật sự rồi.

Vậy tử đạo là gì ? Nếu không phải là cuộc sống chết đi từng ngày trong Đức Giêsu Kitô để sự sống Đức Kitô được tỏ hiện.

Thư Thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô đã viết: “Trong mọi thời và khắp nơi, chúng tôi mang trong thân mình chúng tôi cuộc tử nạn của Đức Giêsu, ngõ hầu sự sống của Đức Giêsu cũng được tỏ hiện nơi mình chúng tôi” (2Cr 4, 10)

Đức Maria, Mẹ chúng ta. Mẹ không bị người ta giết vì đạo Chúa như các vị tử đạo, nhưng Mẹ là Nữ Vương các Thánh Tử Đạo vì suốt đời Mẹ đã luôn mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa Kitô. Suốt đời Mẹ là chứng nhân tuyệt hảo cho Đức Kitô trước mọi người.

Như vậy Tử đạo có phải là các anh hùng liệt sĩ như người ta vẫn phong tặng không ?

Các vị tử đạo không phải anh hùng như người ta phong cho các Ngài. Các Ngài còn vượt xa hơn nhiều anh hùng thế gian, là người chết vì tranh đấu cho lý tưởng mình theo. Cái chết ấy gây đau khổ cho chính bản thân họ, cho gia đình họ và còn gây hận thù giữa họ và những kẻ gây ra đau khổ chết chóc cho họ.

Các vị tử đạo là những người chết vì yêu mến Đức Giêsu. Sự chết của các Ngài là nguồn hoan lạc cho chính các Ngài, và là hạnh phúc cho gia đình và dân tộc các Ngài. Hơn thế nữa sự chết ấy lại còn sinh hoa trái cứu độ trên những kẻ giết các Ngài. Biết bao người ghét đạo đã được trở lại nhờ máu và lời cầu nguyện của các vị tử đạo.

Cái chết của Têphanô đã nảy sinh sự sống của Phaolô, vị Tông Đồ dân ngoại sau này. Trong lúc Têphanô bị ném đá vì danh Đức Giêsu, thì Phaolô cổ vũ và giữ áo choàng của những kẻ đi ném đá. Kinh Thánh nói: Saolô đã đồng tình vào việc giết ông (Cv 7,58; 8,1)

Mẫu gương của các tử đạo là gì?

Các vị tử đạo đã nhìn vào Đức Giêsu như mẫu gương duy nhất của mình. Đức Giêsu yêu Cha hơn mạng sống của mình, thì trong Đức Giêsu các vị tử đạo cũng yêu mến Thiên Chúa và anh em hơn mạng sống mình.

Khi cổ mang gông, tay bị xiềng đi ra nơi chịu chết, các vị tử đạo luôn cầu nguyện tạ ơn Thiên Chúa. Sự cầu nguyện này xuất phát từ ân huệ được chiêm ngắm sự cầu nguyện tạ ơn của Đức Giêsu khi Ngài đi vào cuộc tử nạn (Mt 26,30).

Lòng yêu thương tha thứ của các vị tử đạo đối với những kẻ đánh đập và giết chết mình cũng xuất phát từ trái tim Giêsu nơi thập giá đã xin Cha Ngài tha thứ cho những kẻ làm khốn Ngài (Lc 23,34)

Những sự lạ lùng và sức mạnh siêu vời của các vị tử đạo như trên, khác hẳn với anh hùng thế gian, do bởi đâu mà có được ?

Sức mạnh siêu vời ấy không tự nơi các vị tử đạo mà có được như vậy. Trước những hình khổ và roi đòn, các vị ấy cũng run rẩy sợ hãi như mọi người chúng ta, và các vị ấy cũng không thể tự mình vui vẻ chúc lành cho những kẻ đánh đập, chửi mắng mình.

Đức Thánh Cha Piô XII trong thông điệp nói về trái tim Đức Giêsu đã viết: “Chính tình yêu siêu nhiên của trái tim Đức Kitô và của Thần Khí Ngài mang cho các vị tử đạo lòng can đảm anh dũng đến chết trong máu đào”

Trong thư gửi giáo hữu Côrintô, Thánh Phaolô viết: “Sức mạnh ấy, kho tàng ấy, chúng tôi chứa đựng trong bình sành, lọ đất (bình sành là thân xác yếu đuối, dòn mỏng của con người). Ngõ hầu quyền lực siêu vời kia thực rõ là của Thiên Chúa chứ không phải xuất phát tự chúng tôi” (2Cr 4,7)

Suy niệm như vậy, ta thấy Đức Giêsu yêu mến các kẻ làm chứng nhân cho Ngài biết bao.

Tình yêu siêu nhiên mà các tử đạo chịu lấy nơi Đức Giêsu Kitô đủ mạnh hơn mọi đau khổ của thế gian, và cuối cùng thắng cả sự chết. Tình yêu ấy còn thấm vào lòng những kẻ làm sự dữ, đổi lòng độc ác của họ nên hiền lành, làm cho họ hồi tâm quay về đón nhận ơn cứu độ của Đức Giêsu.

Về phần mình, các vị tử đạo nhìn nhận sự yếu đuối của các ngài. Chính vì thế, các ngài đã liên lỉ cầu nguyện để được gắn bó với Đức Giêsu trên chặng đường hấp hối đau thương của mình, như Đức Giêsu đã liên kết với Cha nơi vườn cây dầu.

Các Thánh tử đạo Việt Nam là cha ông chúng ta. Các ngài là những công dân Việt Nam lương hảo, thuộc đủ mọi tầng lớp, đủ mọi lứa tuổi: già, trẻ, tráng niên, phụ nữ.

Các Thánh tử đạo Việt Nam cũng còn là các thừa sai ngoại quốc, mà lòng mến của Đức Giêsu đã thôi thúc các ngài dấn thân trên đất nước thân yêu của chúng ta. Máu của các ngài đã được thấm trong máu chiên con là Đức Giêsu Kitô, và đã thấm xuống lòng đất Việt Nam.

Như vậy hạt lúa tinh tuyền gieo vào lòng đất này không phải để nảy lên hận thù nhưng làm bừng lên tình yêu Đức Giêsu Kitô. Tình yêu ấy luôn ôm ấp tất cả dân tộc này vào trái tim cứu độ của Ngài.

Các Thánh tử đạo Việt Nam đã bị vua quan vu cáo cho đủ mọi thứ tội, bị đặt cho nhiều điều xấu xa theo lòng gian dối của họ. Tất cả những hành động ấy chỉ nhằm một mục đích là: tiêu diệt việc rao giảng Tin Mừng Đức Giêsu Kitô. Nhưng trước bạo lực, các ngài đã yên lặng như con chiên bị dẫn đến lò sát, rồi theo Thầy mình đã lặng yên vâng ý Cha bước lên Thập Giá.

Thiên Chúa đã chúc phúc cho các Thánh Tử Đạo Việt Nam, như Kinh thánh nói: “Phúc cho các con khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. Các con hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho các con ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12)

Đức Giêsu Kitô là Thầy và là bạn chí thiết của các vị tử đạo, Ngài đã bao trùm các vị đó bằng vinh quang của Thiên Chúa. Sách khải huyền đã diễn tả thế này: “ Các kẻ mặc áo dài trắng kia là ai vậy ? Họ từ đâu đến?”

Đó là những người từ cuộc quẫn bách lớn lao mà đến, họ đã giặt áo họ trắng tinh trong máu chiên con, vì lẽ ấy họ được ở trước ngai Thiên Chúa. Và Đấng ngự trên ngai căng trướng của Ngài trên họ, họ sẽ không còn phải đói hay khát nữa. Trên họ mặt trời và nóng bức hết thảy sẽ không giáng xuống. Vì chiên con sẽ chăn dắt họ, và sẽ đưa họ tới các nguồn mạch nước sự sống. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ (Khải huyền 7,13 - 17).

Chúng ta không mừng kính các Thánh tử đạo Việt Nam như những bậc anh hùng cái thế, cũng không chỉ cử hành linh đình bên ngoài như một ngày giỗ lớn lao. Nhưng tất cả chúng ta cảm tạ Thiên Chúa đã yêu thương ban cho ông cha chúng ta được phúc thông phần vào việc khai sinh Hội Thánh Việt Nam bằng chính máu mình.

Trong Đức Giêsu, các Thánh tử đạo Việt Nam vẫn đang sống, đang liên kết với từng tín hữu làm chứng nhân trong cuộc sống trần thế hôm nay.

Tất cả chúng ta đều được mời gọi làm chứng nhân cho Đức Kitô ngoài phố chợ cũng như trong gia đình, khi sản xuất cũng như chỗ buôn bán, trong xí nghiệp cũng như ở trong trường lớp, trong Thánh đường cũng như nơi giải trí. Tất cả mọi nơi, mọi lúc, chúng tôi mang trong thân mình cuộc khổ nạn của Đức Kitô, để ánh sáng tình yêu của Đức Giêsu luôn tỏ hiện bằng sự sống lương hảo, hiền từ, vui vẻ, dễ thương, thanh sạch, ngay ngắn, cởi mở đầy yêu thương và sẵn lòng tha thứ của chúng tôi, để cho những người đang ghét đạo Chúa, hoặc không biết Đức Giêsu, nhìn vào chúng tôi là những chứng nhân của Ngài, sẽ yêu mến Đức Giêsu và đón nhận Ngài vào cuộc đời mình.

Đừng để cuộc sống của chúng tôi làm cớ cho người ta ghét đạo và xa rời Đức Giêsu hơn nữa. Đừng để người đời mỉa mai: “Tin Đạo chứ không tin người có Đạo” hoặc: “Họ chỉ giữ Đạo mà không sống Đạo”.

Lạy Đức Giêsu Kitô là Đấng đã yêu mến các Thánh tử đạo, chúng con tin rằng chúng con cũng đang được yêu mến bằng chính trái tim mà Chúa đã yêu mến các vị tử đạo.

Xin cho chúng con được sống đời làm chứng nhân cho Chúa. Dù có phải thiệt thòi về của cải, dù có bị người ta ghét bỏ, hoặc có bị lao đao gian truân cơ cực tối ngày vì dám sống đạo, thì xin Thần Khí Chúa nâng đỡ con và làm cho lòng con được trung tín với tình yêu của Ngài cho đến chết và luôn xác tín rằng Sống Đạo chính là Tử Đạo.

Lm. Giuse Trần Đình Long, sss

------

Điểm Hẹn Tình Yêu

Chí Hoà tên gọi rất thân thương
Điểm Hẹn Tình Yêu của mọi nhà
Ai từng ghé bước dừng nơi ấy
Cũng muốn quay về lại chốn đây.

Vui trong ân tình lời cảm tạ
Dâng về Thiên Chúa suối tình yêu
Người người sánh bước nhịp chân đến
Hội tụ về đây mọi kiếp người.

Sớt chia tình người trong tình Chúa
Đâu còn phân cách già hay trẻ
Sang hèn sướng khổ cũng như nhau
Tất cả hoà chung lời khấn nguyện.

Chí Hòa điểm hẹn của tình yêu
Cho người lữ khách dừng bến đỗ
Giúp kẻ lầm đường biết hồi tâm
Cảm nghiệm sâu xa tình Chúa yêu.

Được biểu hiện qua những con người
Quên mình phục vụ chỉ vì yêu
Âm thầm bé nhỏ nhưng cao cả
Giêsu sống động chốn nơi này.

Ôi đẹp biết bao người mục tử
Dõi bước chân Thầy đến nơi đây
Quy tụ đoàn chiên về một mối
Cùng uống chung mạch suối tình yêu.

Dẫu đời còn trải bao gian khó
Có Chúa trong lòng thấy an tâm
Tin yêu phó thác nhịp chân bước
Ngước trông về Điểm Hẹn Tình Yêu.

Rosa Lima

-----

CHỨNG NHÂN TỪ CAO NGUYÊN

• Ngôn Ngữ Yêu Thương

Liên tiếp ba buổi chiều thứ năm, cộng đoàn cầu nguyện Chí Hoà vui mừng và xúc động khi chứng kiến anh chị em dân tộc K’Hor lên làm chứng cho Lòng Thương Xót của Chúa và Mẹ. Tình Yêu Giêsu đã quy tụ mọi người lại với nhau, không phân biệt tiếng nói hay màu da, người vùng cao hay người miền thấp. Đức tin làm cho mọi người đi chung một đường. Và cầu nguyện là thứ ngôn ngữ duy nhất – ngôn ngữ yêu thương - của tất cả những ai đang cậy trông tín thác vào Chúa. Chính vì thế mà lời cầu nguyện của cả cộng đoàn một lòng một ý với nhau rất là hiệu nghiệm. Ta cầu nguyện cho những anh chị em khác được ơn huệ, và ngược lại mình sẽ được Chúa dủ lòng thương ban ơn cần kíp nhờ anh chị em khác nguyện giúp cầu thay. Đặc biệt là vào giờ đỉnh cao ba giờ chiều, lời kinh trong chuỗi hạt thương xót “vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu, xin Cha thương xót chúng con và toàn thế giới” đã mang lại ơn phúc cho rất nhiều người. Đúng như lời Chúa phán qua thánh nữ Faustina: “Khi con lần chuỗi lòng thương xót là con đem nhân loại đến gần Cha hơn” (Nhật ký Lòng Thương Xót 929).

• Con Hoang Trở Về

Những ai cậy trông vào Chúa sẽ không phải thất vọng bao giờ. Từ buôn làng xa xôi trên cao nguyên Di Linh, một gia đình dân tộc vui mừng đem đứa con trai 17 tuổi của mình đến với cộng đoàn cầu nguyện Chí Hòa để làm chứng và tạ ơn Lòng Thương Xót của Chúa. Nghe lời bạn bè rủ rê, cậu ta bỏ nhà đi bụi. Cha mẹ rất đau khổ lo lắng kiếm tìm khắp nơi, nhưng vô vọng. Khi con người bó tay thì Chúa ra tay. Một người chị em khuyên gia đình này hãy đọc kinh cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa. Lạ lùng thay, chỉ vài ngày sau đó Chúa đã đưa người con hoang ấy trở về bình an. Cậu bẽn lẽn cùng với cha mẹ đứng lên tuyên xưng Lòng Thương Xót của Chúa đã cho gia đình được đoàn tụ.

Ở thôn 4 huyện Di Linh, nạn thanh thiếu niên hư hỏng, đi bụi đời làm cho nhiều gia đình buồn khổ. Thế nhưng khi họ chạy đến cậy trông vào Chúa thì đều được nhận lời. Những đứa con hoang đàng đó không những quay về nhìn nhận lỗi lầm của mình, mà mỗi chiều tối còn đọc kinh cầu nguyện chung với gia đình thôn xóm.

• Chữa Lành Bệnh Tật

Chúa chạnh lòng thương những ai lầm than vất vả, đau yếu bệnh tật. Cộng đoàn cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ giáo xứ Chí Hòa hôm nay quá đỗi vui mừng ngợi khen Chúa vì một người thiếu nữ câm được khỏi. Gần 20 năm nay, em bị bệnh trầm cảm, không muốn mở miệng giao tiếp với ai, dần dần em không phát âm được nữa, chưa hề biết gọi tiếng mẹ, tiếng cha. Gia đình nghe lời khuyên của cộng đoàn cầu nguyện, chạy đến với Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ. Chính nhờ lòng tin và kiên trì cầu nguyện mà Chúa đã cho em dần dần nói được. Em cất tiếng nói lời tạ ơn Chúa và Đức Mẹ trước cộng đoàn mấy ngàn người. Hết sức kỳ diệu! Có những người khác được lành bệnh cũng nhờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa như chị Thủy, chị K’Liên và những anh em khác ở thôn 4 và thôn 6. Họ bệnh tật mấy năm liền, không ăn uống được, mất lòng trông cậy Chúa nên tinh thần sa sút tuyệt vọng. Được người quen mời đi cầu nguyện, phó thác vào Chúa. Lòng tin đã cho họ vực lại niềm hy vọng, tinh thần lạc quan. Nhờ đó họ thấy dần dần khỏe lại. Hiện giờ có thể đi làm, đi buôn bán lại được. Một người khác nữa đau ốm suốt 14 năm, tiêu tốn hết 10 cây vàng mà vẫn không khỏi. Nhưng khi biết cầu nguyện tín thác trọn vẹn cho Lòng Thương Xót Chúa, chị được chữa lành. Chúa đã cất đi những bệnh tật cho anh chị em dân tộc nhờ lòng tin đơn sơ chân thành của họ và lời cầu nguyện của cộng đoàn.

• Thoát Khỏi Ma Men

Ở vùng này có nhiều người chồng bị chứng nghiện rượu. Ngày ngày say xỉn đánh đập vợ con. Họ không chịu đi làm, kéo theo cuộc sống thiếu thốn, buồn chán lại rủ nhau đi nhậu. Cứ thế, một cái vòng luẩn quẩn không sao thoát ra được. Từ lâu ma men làm cho họ quên Chúa, quên Mẹ. Có người làm nô lệ cho rượu chè 40 năm nay, xem như hết hy vọng cứu chữa. Nhưng Lòng Thương Xót của Chúa không chịu thua sự cứng lòng của con người. Chúa đã chạnh lòng thương và mời gọi các anh đến với cộng đoàn cầu nguyện Chí Hoà để được giải thoát. Thâm chí trên chuyến đi cầu nguyện từ Di Linh đến Chí Hòa họ cũng say xỉn trên xe làm nhiều người sợ hãi. Vậy mà sau khi tham dự thánh lễ chiều hôm đó, Chúa đã cho anh quên được rượu. Tình yêu Đức Kitô đã chiếm đoạt lấy anh khiến cho anh không còn vương vấn gì đến hơi men nữa. Lạ lùng thay những việc tay Chúa làm! Từ hôm đó, cuộc sống gia đình êm ấm hạnh phúc, không còn đánh đập hành hạ vợ con vô cớ. Điều quan trọng hơn cả là qua biến cố đó, cả nhà anh đều tin tưởng tuyệt đối vào Tình Yêu và Quyền Năng của Thiên Chúa.

• Đánh Thức Niềm Tin

Vùng đất cao nguyên Di Linh là một trong những nơi được các Cha thừa sai thắp lên ánh sáng Tin Mừng hơn 80 năm trước, nhưng cuộc sống nhiều khó khăn vất vả cũng làm hao mòn đi lòng tin vào Thiên Chúa. Đời sống lặng lẽ khắc khổ khiến người ta không sẵn lòng giúp đỡ nhau, không dễ dàng gì để mượn nhau lon gạo hay cái cuốc. Họ đóng khung lại, không ai quan tâm đến ai, cứ sống co cụm như thế cho đến khi công cuộc rao truyền Lòng Thương Xót của Chúa dậy lên trong các thôn. Những chuyến công tác bác ái của cộng đòan cầu nguyện giáo xứ Chí Hòa và các cộng đoàn khác đã đánh thức niềm tin dường như bị bỏ quên của bà con nơi đây. Những người lớn tuổi nhận ra Lòng Thương Xót Chúa để chuỗi ngày còn lại trên trần gian được hạnh phúc và bình an trong Chúa. Những người trẻ biết bám víu vào Chúa để cuộc đời không lẻ loi, thất vọng. Làng xóm bây giờ biết sống yêu thương đùm bọc nhau. Chiều đến mọi người họp nhau ở nhà ông trùm để đọc kinh Lòng Thương Xót Chúa, lần hạt Mân Côi với nhau. Lời kinh ngân vang hoà trộn trong cộng đoàn có cuộc sống mới thấm đượm tình yêu thương.

• Bột Đã Dậy Men

Men Tin Mừng đã dậy lên từ thôn xóm này đến các thôn làng khác. Niềm tin được đánh thức nơi những con chiên khô khan nguội lạnh từ lâu. Nhà thờ Di Linh không còn thưa thớt vắng lạnh nữa. Bà con kéo đến tham dự thánh lễ đông đảo và sốt sắng. Hạt giống của công cuộc truyền giáo gieo trồng hơn 80 năm trước, bây giờ được mùa trổ sinh hoa trái. Bàn tay dịu dàng của Mẹ đã dẫn dắt hơn 400 anh chị em dân tộc K’Hor đến với Chúa qua bí tích rửa tội trong ngày lễ kính Đức Mẹ Mân Côi 7/10/2008. Dù ở tận trong những thôn xa xôi, cách nhà thờ vài chục cây số, nhưng chủ nhật nào anh chị em dân tộc cũng bầu đòan thê tử, tay bế tay bồng hành hương tiến về nhà Chúa để tham dự thánh lễ ngợi khen chúc tụng Chúa.

Ôi! Lạy Chúa Giêsu, con xin phó thác những anh chị em dân tộc của chúng con trong tình yêu của Chúa. Xin cho những chứng nhân từ cao nguyên bừng sáng lên giữa cuộc đời còn nhiều tăm tối này.

Lạy Mẹ Maria, xin cho chúng con xác tín vào Lời Chúa: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Nguời, còn những thứ khác Người sẽ thêm cho” Amen

Kim Yên

------

DẤU CHÂN TRÊN ĐỒNG THÁP

• Hành Quân Đêm

Chưa bao giờ Đội Quân Ao Xanh trải qua một “đêm hành quân” đáng nhớ như thế. Chuyến công tác cuối tháng Mân Côi là vùng sông nước Đồng Tháp Mười. Nơi chúng tôi đến là Cồn Én – như một ốc đảo nổi lên giữa mênh mông sông nước. Mùa nước nổi, hình dáng nó như nhỏ hơn vì sông nước cứ tha hồ ôm lấy vùng đất có cái tên dễ thương này. Sau nghi thức cầu nguyện dâng hoa nến kính Đức Mẹ bế mạc tháng Mân Côi, đoàn công tác xuất quân lúc 21 giờ. Sau gần 5 tiếng đồng hồ đường trường, xe chúng tôi có mặt ở huyện Thanh Bình lúc gần 2h sáng. Con đường nhỏ hơi xuống dốc, không trăng không đèn, dẫn ra bến đò chừng vài trăm mét, chúng tôi bốc dỡ hàng hóa từ đường lộ xuống đò. Dọc bên đường, đây đó những mái nhà đang say giấc nồng sau một ngày vất vả. Còn chúng tôi vẫn làm việc nhịp nhàng và nhanh chóng dưới sự điều khiển của người tu sĩ lãng tử – người chẳng biết ngại sương gió khổ cực bao giờ.

Chuyến đò xình xịch rẽ nước đưa chúng tôi sang bờ bên kia gọi là Cồn Én. Mọi thứ được chuyển lên bờ an toàn, mỗi người phải mang vác hàng hóa và được lệnh hành quân thẳng về phía trước để đến nhà thờ. Trời tối đen như mực, qua khỏi ngọn đèn leo lét của bến đò, những cánh chim xanh chìm trong màn đêm của vùng đất nổi. Cứ thế, kẻ vác người mang, gần 100 người lặng lẽ đi thành hàng một trên con đường nhỏ sình lầy trơn trợt gần 3 cây số hun hút tối om trước mặt. Đám ễnh ương ếch nhái hai bên bờ ao ruộng cất tiếng hợp xướng nhiều bè khác nhau, cổ võ cho những bàn chân còn lạ lẫm lần đầu tiên đặt chân đến vùng sông nước Đồng Tháp, nhờ vậy mà màn đêm bớt tĩnh mịch. Hơn bao giờ hết, đêm nay chúng tôi được sống trọn vẹn hơn cho đức tin của mình. Vì có ai biết đường đâu? Cứ thế mà đi, băng qua đêm tối và mệt nhọc để đến với những người anh chị em nghèo khó của mình trên con đường mang tên Giêsu, cho dù có lầy lội hơn thế.

• Điểm Hẹn Thầy

Nồi cháo cá lóc nóng hổi bốc hơi thơm ngon như liều thuốc bổ cho chúng tôi sau những giờ hành quân mệt rã rời. Thật cảm động vì cha sở cũng thức cả đêm để chờ đón, các bà các chị thì lo bếp núc, cơm cháo cho chúng tôi. Ráo mồ hôi, đỡ đói bụng thì chuông nhất lễ sáng chủ nhật cũng đổ hồi. Tiếng chuông vang vọng làm chúng tôi tỉnh ra sau một đêm thức trắng. Ai cũng cảm thấy vui vì sắp được tham dự thánh lễ ngay tại mảnh đất Cồn Én này, một nơi mà anh chị em tôn giáo bạn chiếm phần đông. Cuộc sống ở đây còn nhiều khó khăn. Cứ sáu tháng làm, sáu tháng ngồi chơi, mùa màng chẳng được mấy cho nên giới tre và người còn sức lao động hầu như không ở nhà mà bôn ba đi vùng khác để làm thuê kiếm sống. Quê nhà chỉ còn lại người già và trẻ em chăm nhau. Chính vì vậy mà đời sống đức tin cũng bị ảnh hưởng, nhiều người bỏ đạo, quên Chúa.

• Đức Tin Hành Động

Sau thánh lễ, tiếng còi triệu tập chúng tôi bắt tay vào việc trao tận tay bà con, không phân biệt lương giáo, những phần quà mà cộng đoàn cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ giáo xứ Chí Hòa yêu thương chia sẻ. Sự hiện diện của Đội Quân Ao Xanh chuyên chở tấm lòng của cộng đoàn đến với Cồn Én hôm nay, không những hâm nóng lại đức tin của những con chiên khô khan nguội lạnh mà còn giới thiệu Lòng Thương Xót Chúa cho những anh chị em chưa nhận biết Chúa. Thông điệp Thiên Chúa giàu Lòng Thương Xót và yêu thương hết thảy mọi người được vang lên một cách sống động. Sân nhà Chúa hôm nay thật đông vui. Trong khi chờ đợi những anh chị em ngoại giáo đến đông đủ để nhận quà, bà con được thưởng thức những bài hát múa sống động vui tươi của Đội Quân Ao Xanh. Hình ảnh đẹp nhất là các em nhỏ nhìn các anh chị múa và làm theo y hệt. Cha mẹ các em nhìn con em mình mà nở nụ cười vui sướng. Những giây phút chia sẻ cơm áo thật vui và cảm động. Tất cả có 200 phần qua. Mỗi phần cho một gia đình khó khăn là 2 túi quần áo, 12 gói mì tôm, 1 kg đường, 1 gói bột ngọt, 1 gói bánh và 1 bao lì xì 100.000đ. Trái bong bóng to mầu sắc rực rỡ là món quà đặc biệt yêu thích của các thiếu nhi. Nhóm cắt tóc luôn tay làm việc để sửa sắc đẹp cho những mái đầu nhuốm mầu nắng bụi. Niềm vui lan tỏa và dành cho tất cả mọi người. Người lớn cũng vui, trẻ em lại càng vui hơn.

Lòng Thương Xót Chúa tuôn đổ đến đâu làm cho lòng người vui mừng và bình an đến không diễn tả được. Chúng tôi không thể ngờ được rằng không có đủ hình Chúa và Đức Mẹ để tặng cho bà con. Họ cứ tuôn đến và ao ước có tấm hình để như một cách đón rước Chúa và Mẹ về nhà mình. Đức tin lâu nay ngủ quên hôm nay như chợt tỉnh, để không những muốn xin ảnh Chúa cho nhà mình mà còn cho người khác trong xóm trong làng của mình nữa.

Điều bất ngờ làm cho niềm vui thêm trọn vẹn là buổi gặp gỡ thân mật với chính quyền địa phương nơi đây. Những lời hỏi thăm và chia sẻ về công tác bác ái xã hội làm cho họ thấy lạ lùng nhưng vui mừng phấn khởi. Đức tin hành động làm cho những người chưa biết Chúa thấy rõ hơn cách sống Tốt Đời Đẹp Đạo của những người Công Giáo!

Tạ ơn Chúa đã cho chúng con hoàn thành công việc phục vụ tốt đẹp để loan Tin Mừng Cứu Độ của Chúa trên vùng đất nổi xa xôi này. Nguyện xin Chúa gìn giữ và chúc lành cho anh chị em chúng con nơi đây.

• Cù Lao Giêng

Thay cho buổi tĩnh tâm cuối tháng tại nhà dòng, nhân dịp này cha linh hướng cho Đội Quân Ao Xanh được tĩnh tâm ở Cù Lao Giêng. Sau khi hoàn tất công việc, chúng tôi vượt sông Tiền đến với vùng được gọi là đất thánh nổi tiếng với ngôi thánh đường cổ xưa nhất Việt Nam. Khi họp nhau cầu nguyện trong ngôi nhà thờ của Dòng Phanxicô và nhà thờ Cù Lao Giêng, chúng tôi chỉ biết tạ ơn Chúa khi nhìn thấy nhà thờ lớn và đẹp như thế. Quả thật, lòng thương xót của Chúa trải dài qua bao thế hệ và không bao giờ thay đổi vì Người thành tín. Chúa không từ chối một ai và không bỏ rơi một mảnh đất nào. Ngôi thánh đường là niềm tự hào của người dân ở đây và cho cả chúng tôi nữa. Các cha người Pháp khởi công xây dựng từ năm 1872, ròng rã 12 năm gian khổ để có được ngôi thánh đường cho cù lao xa xôi cách trở này. Trải qua hơn một thế kỷ với biết bao thăng trầm của lịch sử nhưng Chúa vẫn gìn giữ được nguyên vẹn.

• Đẹp Thay Những Bước Chân

Xúc động nhất là khi chúng tôi dừng chân viếng thăm khu đất thánh của các vị thừa sai yên nghỉ. Các ngài đã xa rời quê hương mình để dấn thân rao giảng Tin Mừng và phục vụ cho đến hơi thở cuối cùng trên quê hương Việt Nam vì yêu Chúa. Chưa hết, khi nói đến Cù Lao Giêng, biết bao thế hệ không thể không nhắc tới gương sống chứng nhân của hai vị thánh tử đạo là Lm. Phêrô Đoàn Công Quý và Emmanuel Lê Văn Phụng. Thánh Phụng được xem là gương mẫu cho giới gia trưởng khắp vùng sông nước này. Chúng tôi thắp nhang nguyện cầu ngay trên mộ phần của vị thánh tử đạo này. Chính nhờ công ơn của các ngài mà chúng tôi được diễm phúc làm con cái của Chúa, và hôm nay đây chúng tôi rất hạnh phúc được đặt chân đến miền đất thánh Cù lao Giêng này để được nhắc nhở tiếp nối bước chân các thánh trong cuộc sống hôm nay.

Giờ họp nhau cầu nguyện buổi chiều trong nhà nguyện để tạm biệt Cù Lao Giêng, chia tay Đồng Tháp Mười. Chúng tôi lên xe về đến thành phố lúc 9 giờ tối. Chuyến công tác kéo dài đúng 24 tiếng đồng hồ với nhiều ấn tượng. Chúng tôi mang theo những kỷ niệm của vùng sông nước miền tây, những con người chân chất đơn sơ, và trong tim mỗi người là quyết tâm làm chứng cho Tin Mừng của Chúa bằng cuộc sống phục vụ yêu thương trong đời sống thường ngày.

Trùng Dương

-----

TÂM SỰ MỘT NGƯỜI MẸ

Con xin tạ ơn Chúa, Mẹ Maria, thánh cả Giuse và toàn thể các Thánh. Hôm nay con vô cùng sung sướng viết thư này đến với Chúa.

Chúa ơi! Từ lâu, lâu lắm rồi, con vẫn biết và biết rất rõ Chúa yêu thương con. Chúa dành riêng cho con một tình yêu tuyệt vời mà trên thế gian này không ai có thể dành cho con được. Thế mà con đã vô tình than van rằng Chúa đã bỏ con. Bây giờ con thấy rõ không phải vậy. Con đã lầm khi than trách Chúa khi gặp những khó khăn thử thách. Chúa yêu thương con vô cùng. Chúa muốn con đến với Chúa trong giờ thương xót, và có lẽ Chúa muốn con phải làm chứng rằng con đã được Chúa thương yêu và ban cho muôn vàn ơn phúc mà đôi lúc con không nhận ra. Chúa đến với con cả những lúc con đang chìm ngập trong vũng tội. Chúa tha thứ và cứu con ra khỏi vòng tội lỗi. Con đã từng đứng hàng giờ khóc như mưa, khóc như một trẻ thơ, dưới chân Chúa và Mẹ. Tham dự thánh lễ Chúa Nhật nào con cũng khóc khi thấy người ta được rước Chúa mà con không dám lên vì con tội lỗi. Vậy đó, con tưởng rằng đời con là vực thẳm. Thế nhưng không phải vậy. Con chạy đến nhờ Mẹ đến với Chúa, và Chúa đã ra tay cứu con sau mười năm chìm ngập trong tội lỗi. Hôm nay con đã được xưng tội rước lễ. Chồng con đã theo đạo và rất ngoan đạo. Hôn nhân của vợ chồng con đã được hợp thức hóa. Tạ ơn Chúa!

Tưởng rằng đời con êm ả từ đây. Nhưng không phải vậy, sóng gió lại đến với con. Chúa ơi bây giờ vấn đề là các con của con. Chúng lớn lên và thật sự hư hỏng. Trước tiên là đứa con gái, rồi đến đứa con trai. Hoàn cảnh gia đình con thì quá khó khăn, nhưng các con của con lại mộng quá cao. Chúng không chấp nhận cảnh khó nghèo của gia đình. Con gái con đã lao vào cuộc sống ăn chơi đua đòi xa hoa. Con chỉ biết kêu xin lòng thương xót Chúa và Mẹ. Cuộc đời của con gái con chìm đắm trong tội lỗi suốt 6,7 năm trời. Con khóc lóc kêu van Mẹ, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa. Lời kêu cầu của người mẹ khốn khổ đã được nhận lời. Chúa và Mẹ đã cứu đứa con gái bồng bột đáng thương này.

Con tin chắc chắn 100/100 là Chúa đã cứu vớt con gái của con, vì hiện giờ tuần nào nó cũng đến với Lòng Thương Xót Chúa ở Chí Hoà. Con xin Chúa thánh hoá con gái của con. Dù tính nết có ương ngạnh, nhưng cháu vẫn còn có lòng yêu Chúa mến Mẹ, và biết thương người. Xin Chúa chạnh lòng thương cháu.

Con đến với giờ cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa ở Chí Hoà lần này là tuần thứ năm. Nhưng con đã được ơn ngay tuần thứ tư. Con đã được ơn rõ ràng, nhãn tiền mà con không ngờ. Con còn một con trai, ăn chơi xa đọa thâu đêm với bạn bè trong vũ trường, uống thuốc lắc, đập phá... Con đi lễ cầu nguyện và khóc lóc than van với Chúa và Mẹ gần hai năm nay, nhưng nó vẫn chứng nào tật ấy.

Con biết ở nhà thờ Chí Hoà chiều thứ năm nào cũng có giờ cầu nguyện lòng thương xót và thánh lễ xin ơn chữa lành. Lòng con muốn đi lắm, nhưng không có thời gian. Sự ao ước này đã được Chúa chấp nhận. Con đã sắp xếp công việc và quyết định thứ năm dẹp hết để đến với Chúa. Cậy nhờ vào lòng Thương Xót của Chúa, con lại có thêm một ơn vô cùng lớn lao mà con không bao giờ có được. Con cầu xin và viết trong lá thư “Nhờ Mẹ đến với Chúa”. Con viết: “Chúa ơi! Con ao ước cho con trai của con thứ năm nào cũng tới đây với Chúa...” Con vừa đưa thư cho Nhóm Phục Vụ, lòng buồn bã ngồi nghe cha giảng... Bỗng dưng con thấy có một bóng người thanh niên giống như con trai con, tay cầm ghế đang tìm chỗ ngồi. Vì ngồi xa quá, không dám chắc có phải là con trai của mình không, con hỏi lại con gái con đang ngồi cầu nguyện bên cạnh. Con gái con xác nhận: “Nó chứ còn ai nữa!”

Chúa ơi! Lúc đó con vô cùng mừng rỡ và khóc lên vì sung sướng. Đứa con trai hoang đàng đã đến với Chúa. Suốt tuần nay, buổi tối nào Chúa cũng giữ nó ở nhà không đi chơi nữa. Nó nói với con rằng: “Má ơi! Sao cứ tối về là mắt con không sao mở ra được. Con buồn ngủ lắm!” Thế là nó đi ngủ suốt đêm, không đi chơi như trước nữa. Trước kia mỗi khi nó ngủ, bạn bè điện thoại là nó đi liền. Từ khi đến với Chúa, buổi tối bạn bè có gọi điện rủ rê, nó cũng không nghe. Con hiểu rằng Chúa đã thương gia đình con. Chúa đã giải thoát nó khỏi vòng tội lỗi. Suốt tuần nay nó không hề lai vãng đến những điểm ăn chơi trước kia nữa. Và hôm nay tự động nó nói với con: “Má ơi! thứ năm con đến với Lòng Thương Xót Chúa ở Chí Hoà!”

Chúa ơi! Con cảm tạ Chúa. Con chúc tụng ngợi khen Chúa. Chúa yêu thương con vô ngần. Chúa lo liệu cho con tất cả, từ việc lớn đến việc nhỏ. Con đã được rất nhiều ơn Chúa. Thế mà có những lúc con than van trách thầm Chúa đã bỏ con. Con xin lỗi Chúa, và chân thành xin Chúa dủ lòng thương xót gia đình con cũng như các gia đình khác đang gặp biết bao gian truân thử thách.

Xin Chúa yêu thương tất cả mọi người như Chúa đã từng yêu thương con. Xin Chúa chúc lành và ban ơn khôn ngoan thánh thiện cho cha linh hướng, để cha dìu dắt cộng đoàn đến với Chúa và Mẹ ngày càng đông hơn.

Một chiều mưa
Mônica

------

ĐỨNG CỨNG LÒNG – NHƯNG HÃY TIN

Là người Công Giáo, nhiều lần nghe nói phép lạ xảy ra ở nơi này nơi kia, nhưng tôi cứng lòng như Tôma “không thấy, không tin”! Hơn nữa, tôi đang cầu xin mãi có một điều mà chưa được nên thấy nản lòng. Tôi tự nhủ: “Thời này làm gì có phép lạ ! Nếu có sao mình xin hoài một việc mà vẫn chưa được?” Vì vậy tôi cũng lơ là trong việc tôn kính Lòng Thương Xót Chúa. Tuy vẫn đi lễ, vẫn đọc kinh, nhưng đó chỉ là làm tròn bổn phận để khỏi “mang tội” mà thôi.

Thế nhưng một biến cố trọng đại xảy ra trong gia đình làm tôi thay đổi quan niệm lệch lạc trên. Vào chiều ngày thứ hai 18-8-2008, khi đang chuẩn bị đi làm thì ông anh ruột ở bệnh viện gọi điện về cho mẹ tôi. Tôi chưa biết chuyện gì xảy ra cho anh. Mẹ nói tôi lên bệnh viện gấp để gặp anh. Lúc tôi đến bệnh viện Thống Nhất, thấy anh vẫn còn tỉnh, nhưng bác sĩ trực cấp cứu nói phải cho anh nhập viện ngay vì tình hình sức khoẻ nguy cấp. Tôi nhắn tin cho cha Long xin cầu nguyện cho anh. Lúc ấy anh đã bắt đầu đi vào cõi chết mà tôi không biết. Khi lên phòng bệnh thì thấy trên người anh gắn đầy các dây để theo dõi điện tâm, tôi thấy bối rối lo sợ. Bác sĩ cho biết muốn cứu anh sống thì phải có 20 triệu để đặt ống nong mạch máu tim của anh ra. Sau khi gia đình đồng ý, bác sĩ đưa một viên thuốc cho anh uống và chuẩn bị phẫu thuật.

Khi tôi trở lên bệnh viện với mẹ thì thấy anh đã mê man, vẫn còn các dây nhợ lòng thòng và còn tăng cường thêm nhiều thứ khác nữa. Bác sĩ phụ trách điều trị ngỏ lời chia buồn với gia đình chúng tôi, cho biết về mặt tự nhiên thì 80% anh chết rồi, còn 20% là nhờ vào tâm linh thôi. Thật sự các bác sĩ đã bó tay, vì các mạch chủ đã tắc nghẽn hoàn toàn, máu không bơm về tim, như ruộng không có nước thì chết khô, còn tim của anh thì đã hoại tử 50% rồi. Họ khuyên gia đình lo liệu đưa anh về lo hậu sự, và nếu là người Công Giáo thì mời linh mục vào ngay để làm các nghi thức tôn giáo cuối cùng cho anh thanh thản ra đi. Ngay lúc đó tôi thấy bấn loạn hoang mang. Chẳng biết cầu cứu ai, tôi lại nhắn tin xin cha Long và cộng đoàn Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ Chí Hoà cầu nguyện cho anh. Cha hứa cầu nguyện và khuyên tôi tin tưởng phó dâng anh cho Chúa. Tôi vào phòng bệnh và quì xuống đọc kinh Lòng Thương Xót Chúa. Anh được lãnh các bí tích sau cùng. Lúc đó đã khuya lắm rồi. Nơi anh nằm là khu đặc biệt không cho thăm bệnh, thế nhưng các bác sĩ làm ngơ cho gia đình ở lại với anh trong bệnh viện, có nghĩa là họ biết anh sắp ra đi vĩnh viễn rồi nên thông cảm cho gia đình gặp mặt anh lần cuối.

Khi mọi người đã về hết, tôi ở lại quì xuống lần chuỗi Lòng Thương Xót Chúa như ở nhà thờ Chí Hoà vào mỗi chiều thứ năm hàng tuần. Sau đó mệt mỏi, tôi thiếp đi. Đêm hôm sau tôi cũng làm như vậy cho anh thông công… Lòng tin của tôi được thử thách mấy đêm liền như vậy. Có lúc đứng nhìn anh như chết lâm sàng, tôi cũng thấy hoang mang, thất vọng nhưng chưa tuyệt vọng. Tôi nhớ lời cha dặn: “An tâm. Tin tưởng. Phó thác anh cho Lòng Thương Xót của Chúa và Mẹ maria. Cha và cộng đoàn hiệp ý cầu nguyện cho con và gia đình để ý Chúa thể hiện!”

Mấy ngày sau, các bác sĩ vào phòng lúc anh đang nhắm mắt chứ không ngủ. Họ hết sức ngạc nhiên, vì sau khi khám nghiệm thấy các mạch máu trong người anh thông mở ra rồi. Anh đã được hồi sinh. Chúa đã thương đáp cứu lòng cứng tin của tôi như Tôma ngày xưa. Tôi cũng muốn quỳ xuống thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa con. Lạy Thiên Chúa của con. Xin tha thứ cho sự cứng tin của con. Tạ ơn Chúa. Cảm ơn Đức Mẹ!”

Thật kỳ diệu. Anh bình phục nhanh chóng, không còn đeo các dây đo điện tim nữa và chờ được chuyển ra ngoài ở phòng hồi phục sức khoẻ. Không lâu sau anh được xuất viện về nhà. Và hiện tại anh đã đi làm được rồi.

Tôi gọi điện báo cho cha Long để xin cộng đoàn hiệp ý tạ ơn Chúa cho anh và gia đình tôi. Cha ngỏ ý mời anh em tôi lên làm chứng ở nhà thờ Chí Hoà trong buổi cầu nguyện chiều thứ năm 17-10-2008. Anh tôi trước kia cũng khô khan nguội lạnh như tôi. Cũng chỉ “giữ đạo” chứ chưa “sống đạo”, chưa cảm nghiệm được sự hiện diện sống động của Chúa trong cuộc đời. Nhưng sau biến cố được “cải tử hoàn sinh” này, anh được ơn ăn năn trở lại. Điều quan trọng nhất đối với anh không phải là ơn được chữa lành bệnh thân xác, nhưng chính yếu là ơn nhận ra sức mạnh của lời cầu nguyện, nhận ra quyền năng và Lòng Thương Xót của Chúa và lời chuyển cầu hiệu nghiệm của Mẹ Maria.

Ta ơn Chúa, cảm ơn Đức Mẹ. Alleluia !

Thanh Hiền (Nam Hoà)

----

ĐOÀN HÀNH HƯƠNG

Tôi ngồi bán hàng rong bên đường, mỗi trưa thứ năm, mới 12 giờ đã thấy người người đổ dồn về con đường Bành Văn Trân, kẻ che dù, người đội nón. Họ đi một nguời, hai người, ba người, rồi từng nhóm…cứ như thế. Họ rảo bước đi nhanh để tránh cái nắng oi bức gay gắt giữa trưa hè giờ ngọ. Họ đi đâu vào cái giờ này vậy? Tò mò tôi hỏi với một người vừa đi ngang gánh hàng rong của tôi:

- “Bà ơi! Bà đi đâu vậy?”
- “Đi lòng thương xót Chúa, cô ạ!”
- “Bạn ơi! Bạn đi đâu vào giờ trưa nắng thế?” Tôi hỏi một người trẻ khác
- “Mình đến với Điểm Hẹn Giêsu, mỗi chiều thứ năm có Lòng Thương Xót Chúa ở nhà thờ Chí Hoà!”
- “Ông ơi! Có phải ông cũng đi Lòng Thương Xót Chúa không?” Tôi hỏi một người đàn ông lớn tuổi
- “Ừ đúng rồi! Cô không đi à? Đi đi. Hay lắm!”
- “Mà sao ông đi sớm thế? Mới 12 giờ trưa mà?”
- “Không đi sớm sao được? Đi sớm mới có chỗ ngồi chứ !”

Và tôi lại hỏi thêm mấy người nữa. Người nào cũng trả lời như nhau: “Đi sớm để có chỗ ngồi chứ !” Tôi tự hỏi: “Tại sao họ lại tìm cho mình một chỗ ngồi an vị để yên tâm đọc kinh cầu nguyện? Động lực nào đã tác động trên họ khiến họ không quản giờ nghỉ trưa mà đến đây cầu nguyện? Phải chăng đó là niềm tin? Đúng! Chỉ có niềm tin họ mới làm được như vậy. Họ tin vào Chúa và tìm đến với Ngài để kín múc một nguồn trợ lực, hầu xoa dịu hoặc gánh đỡ những đau khổ lo toan vất vả trong cuộc sống.

Vì nặng nợ với gánh hàng rong, tôi chưa một lần được vào trong nhà thờ tham dự buổi cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa mỗi chiều thứ năm ở Chí Hoà. Nhưng tôi thấy rõ ràng hàng tuần họ đi đông lắm, càng ngày càng đông. Nhìn họ quỳ ngoài trời, dù mưa hay nắng, với tràng chuỗi trên tay vẫn sốt sắng cầu nguyện, rồi sau đó tham dự thánh lễ chia sẻ cho nhau những hồng ân Chúa ban qua những chứng nhân sống động, tôi thấy lòng tin của mình được tăng lên. Dù lòng đạo có lạnh lùng và “khô như ngói” cũng ấm lên và mềm ra trước lòng tin mãnh liệt của một cộng đoàn cả mấy ngàn người ý hợp tâm đầu thiết tha dâng lời kinh nguyện…

Những lời cầu xin có khi được Chúa nhận lời ngay. Có khi xin hoài mà vẫn chưa được như lòng sở nguyện. Nghèo vẫn nghèo. Đau ốm vẫn triền miên. Nhưng người ta không nản lòng, vì họ xác tín vào Lời Chúa: “Hãy xin thì sẽ được. Hãy tìm thì sẽ thấy. Hãy gõ sẽ mở cho.” Tôi thấy rõ ràng việc họ kéo đến đây cầu nguyện giữa trưa hè oi ả hay đi lúp xúp dưới cơn mưa dầm đã là MỘT ƠN HUỆ lớn lắm rồi. Cầu nguyện là MỘT ƠN. Đâu phải ai cũng cầu nguyện được?

Ơn đến đây cầu nguyện được Chúa ban qua lời chuyển cầu của Mẹ Maria dưới nhiều hình thức khác nhau. Có những gia đình tình cờ biết đến Lòng Thuơng Xót Chúa qua cuốn tập san “Nhờ Mẹ đến với Chúa” được tặng cho mỗi thành viên tham dự vào mỗi chiều thứ năm đầu tháng. Có những người được bạn bè rủ đi, vì nể bạn mà đi. Nhưng khi đã tham dự một lần rồi thì bị cuốn hút vào lòng Chúa xót thương không muốn bỏ ngày nào nữa. Có những bạn trẻ vì gia đình nài ép quá, mới đi để chiều lòng cha mẹ. Thế rồi Chúa chiều lòng các bạn qua những ơn huệ tỏ tường, làm các bạn say mê Chúa như thần tượng của mình, không bỏ sót buổi cầu nguyện nào. Có những người bỏ đạo lâu năm, hoặc chưa có Đạo, gặp những thử thách nặng nề, không biết cầu cứu đâu nữa, chạy đến xin cha linh hướng và cộng đoàn hợp lòng cầu nguyện. Kiên trì trong lời cầu nguyện với lòng tín thác, họ đã vượt qua cơn thử thách. Rồi dần dần Chúa đã tác động lên họ. Bây giờ họ là những chứng nhân đích thực của Chúa Giêsu đầy lòng xót thuơng.

Tôi đọc được những điều trên qua tập san “Nhờ Mẹ đến với Chúa”, hoặc qua những câu chuyện của những người chứng kiến kể cho nhau nghe. Rất tiếc vì phải lo toan chén cơm manh áo nên tôi không được tham dự những buổi cầu nguyện như thế, nhưng lòng tôi vẫn hướng về Chúa. Tôi hằng cầu mong Ngài dủ lòng xót thương cho tôi có điều kiện tham dự thường xuyên những buổi cầu nguyện chiều thứ năm ở nhà thờ Chí Hoà để lãnh nhận tình yêu bao la của lòng Chúa xót thương.

Rồi chiều đến, tôi đứng bên gánh hàng rong thấy họ lũ lượt ra về. Họ nhập vào từng tốp ba, bốn hay năm người, bước chân từ từ thong thả không vội vàng như lúc đi. Một đoàn người kéo dài suốt từ cổng nhà thờ Chí Hoà đến chỗ tôi ngồi bán hàng, rồi họ phân rẽ nhiều ngõ về nhà. Đặc biệt tôi nhận ra một điều khác với lúc họ đến là trên nét mặt họ tỏ lộ niềm hân hoan vui mừng trông thấy. Vừa đi họ vừa trò truyện râm ran. Họ kể lại cho nhau những câu chuyện dí dỏm trong bài giảng của cha linh hướng, hoặc trầm trồ về những người vừa lên làm chứng ở nhà thờ. Họ trao đổi những câu chuyện thường ngày, chuyện gia đình con cái, cơm áo gạo tiền… Có vẻ như họ là những người quen biết nhau từ lâu rồi, dù thực ra họ từ nhiều nơi quy tụ về, có những người đây là lần đầu họ gặp nhau. Cái gì đã dính kết họ lại như thế? Nếu không phải là chính tình yêu Giêsu, Đấng đã chết để quy tụ đoàn con cái tản mác khắp nơi về một mối. Đấng làm cho người xa xôi thành láng giềng bạn hữu, làm cho kẻ xa lạ thành bạn hữu anh em.

Bây giờ thì tôi đã hiểu được tại sao ngày càng có nhiều người đến với cộng đoàn cầu nguyện Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ xứ Chí Hoà. Một người chưa được đặt chân vào trong nhà thờ, chỉ nghe nhìn từ gánh hàng rong như tôi mà còn được tác động qua cách thể hiện lòng tin của những người đến tham dự như vậy thì tôi tin chắc rằng cả ngàn người đến đây không phải là những người mê tín, cả tin hay tò mò ham vui. Ít nhiều họ đã cảm nghiệm được lòng Chúa xót thương trên cuộc đời của họ. Chính Chúa lôi kéo họ chứ không phải bất cứ ai khác. Đáp lại lời mời gọi yêu thương của Lòng Chúa Xót Thương, họ hân hoan tiến lên đền thánh như đoàn hành hương với lòng tin yêu phó thác cậy trông. Hình ảnh đoàn người hành hương kéo dài dọc con đường Bành Văn Trân đến nhà thờ Chí Hoà mỗi chiều thứ năm cứ đọng mãi trong tôi như một chứng nhân sống động cho Lòng Thương Xót Chúa giữa cuộc đời bon chen cơm áo gạo tiền…

Xin cho con được yêu mến Ngài mãi mãi…

Người Gánh Hàng Rong
một chiều mưa


-----

CHỨNG NHÂN LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA VÀ MẸ MARIA

1. “Cảm tạ Chúa vì mỗi chiều thứ năm đầu tháng con nhận được một món quà từ Cộng Đoàn Cầu Nguyện Lòng Thương Xót Chúa Chí Hoà. Đó là tập san “Nhờ Mẹ đến với Chúa”. Con đã thấy mọi người chuyền tay nhau món quà này như là hành trang thiêng liêng, đặc biệt trong những nhóm Cầu Nguyện Lòng Thương Xót Chúa hàng ngày. Tập san ghi lại những bài chia sẻ, những chứng nhân sống động, những chuyến công tác bác ái đi chia sẻ tình yêu Chúa cho những anh chị em vùng sâu, vùng xa... càng tạo nên niềm tin vững chắc cho mọi người. Con mong ước tập san này được phổ biến rộng rãi hơn để nhiều người cùng được đọc để cảm nghiệm tình yêu Chúa và sức mạnh kỳ diệu của lời cầu nguyện, vì chính con đã được hoàn thiện và biến đổi nhiều khi đọc tập san “Nhờ Mẹ đến với Chúa” này.” (Một độc gỉa trung thành của Tập San...)

2. “Con là H.T.Th., hiện đang ở giáo xứ Thạch Đà. Xin Chúa và Mẹ Maria dủ lòng thương xót con và gia đình. Con bị nghiện rượu nặng, một ngày con uống tới bảy cữ. Mỗi lần lên cơn là con run rẩy. Cái đầu của con bị tai nạn xe móp như trái su su, đau lắm không chịu nổi, con lại tìm đến rượu. Gia đình con cãi nhau như cơm bữa. Con trai lớn bị nghiện xì ke. Con thứ hai bỏ học vì bị ở lại lớp. Bản thân con không biết chữ, không biết đọc cũng không biết viết. Con có nghe cô em họ con nói về cha Long và nhà thờ Chí Hoà nên con có nhờ cô em họ của con viết dùm cho con. Con làm nghề phụ hồ, vợ con bán rau cải. Con muốn đi đến nhà thờ Chí Hoà để cầu khấn cùng Chúa và Mẹ, nhưng gia đình con có một chiếc xe thì vợ con đi rồi. Con không có xe đi, nhà thờ thì con không biết đường, cho nên con nhờ em con mang lời cầu khẩn của con đi dùm. Xin Mẹ nhận lời con cầu nguyện.”

3. “Lạy Chúa Giêsu, con ngợi khen Chúa đã ban cho con một người chồng khô khan về đạo, nhưng lại ướt át đào hoa về đời, hay nóng nảy và bực bội. Con cảm ơn Chúa vì cho con nhận biết đây là Thánh Giá của con. Xin cho con vui nhận cho đến khi nào Ngài gọi con về.” (Nguyễn Thị H. Biên Hoà)

4. “Con là Maria Phúc, bệnh nhân ung thư 9 năm đã di căn lên não. Bây giờ con rất bình an, và điều hạnh phúc nhất của con là tâm hồn bình an trong Chúa. Con tin rằng Chúa luôn ở bên con dù trong bất cứ hoàn cảnh nào…”

5. “Qua lời bầu cử của Mẹ, gia đình con có sự thay đổi. Chồng và hai đứa con của con hưởng ứng việc lần chuỗi Mân Côi trong tháng mười một cách sốt sắng và nhiệt tình. Điều này trước đây chưa bao giờ có. Mẹ ơi! Con vui mừng quá. Cảm ơn Mẹ.” (Châu Thanh V. Hốc Môn)

6. “Con cám ơn Mẹ Maria. Con ca ngợi và tôn vinh Chúa. Qua lời cầu khẩn của Mẹ, Chúa đã ban ơn cho mẹ ruột của con hết đau nhức, bớt vàng da. Mẹ con đã khoẻ nhiều.” (Nguyễn Thanh M. Long Khánh)

7. “Tạ ơn Chúa. Cảm ơn Mẹ. Chị Hằng đã bỏ Đạo Chúa, quy y theo Phật 42 năm. Con chạy đến Chí Hoà xin cha và cộng đoàn cầu nguyện. Thứ năm vừa rồi, chị đã được ơn trở lại với Chúa. Chị đã lãnh bí tích giao hoà sau 42 năm xa cách Chúa.” (Thảo,TPHCM)

8. “Con cầu xin Chúa cứu giúp đứa con gái 7 tuổi của con. Hiện nay cháu không biết đi, không biết nói, chậm phát triển. Con không phải là người có đạo, nhưng tấm lòng hướng về Đức Chúa. Con thành tâm khẩn cầu xin Chúa phù hộ, ban ơn cho con gái con được biết đi, biết nói bình thường như bao đứa trẻ khác. Mong Đức Chúa hãy thương xót và ban phước lành đến cho con gái tội nghiệp của con. Con vô cùng mang ơn Chúa.” (Kẻ Ngoại Đạo)

9. “Con là Rosa Nguyễn Thị Minh, 56 tuổi, giáo xứ Nhân Hòa. Nhờ lời cầu bầu của Mẹ mà Chúa đã ban cho gia đình con những ơn đặc biệt ngoài sức tưởng tượng. Con gái của con 24 tuổi, bị bệnh 10 năm rồi. Con đưa cháu đi các nơi để chữa trị mà vẫn tiền mất tật mang. Cách nay một tháng, con đưa cháu đi chụp X quang. Bác sĩ cho biết là cháu bị thái hoá xương sống, xương trán, xương hàm và xương mũi bị vẹo vách ngăn nên rất khó thở. Cần phải có tám triệu để mổ thì mới dễ thở. Tiền bạc con đã cạn kiệt không có để mổ cho cháu. Con chỉ còn cách chạy đến nhà thờ Chí Hoà kêu cầu lòng thương xót Chúa và Đức Mẹ. Con tin rằng Chúa sẽ cứu cháu vào phút bù giờ cuối cùng. Chúa đã ra tay. Cháu đã mổ xong, đi chụp X quang lại thì bác sĩ cho kết quả là hết bị thoái hoá rồi. Cháu đã xuất viện, khoẻ mạnh. Con xin muôn đời cảm tạ Chúa, và khắc ghi trong lòng con đến hơi thở cuối cùng.”

10. “Tuy dù phải tiếp tục uống chén đắng, con cũng cố gắng. Nhưng xin Chúa luôn ở mãi với con, ban thêm nghị lực để con uống cạn chén đắng này. Kính lạy Thánh Thể nguồn hy vọng của chúng con trong mọi khổ đau và nghịch cảnh của cuộc sống. Kính lạy Thánh Thể, nguồn cậy trông của chúng con trong mọi phiền muộn, vì không một ai hiểu chúng con. Kính lạy Thánh Thể, con tín thác vào Chúa khi những gánh nặng vượt trên sức chịu đựng của con, khi thấy mọi cố gắng của con đã vô hiệu. Con tín thác vào Chúa.” (Nguyễn văn M. TPHCM)

-----

TÂM SỰ MỘT TÂN BINH

Liên tục gặp những khó khăn và bất hạnh trong cuộc sống, tôi tìm đến Lòng Thương Xót Chúa ở nhà thờ Chí Hoà. May mắn đó là buổi chiều thứ năm đầu tháng, tôi nhận được tập san “Nhờ Mẹ đến với Chúa”. Đọc được những hoạt động bác ái của Cộng Đoàn Lòng Thương Xót Chúa ghi lại trong tập san này, tôi háo hức muốn xin gia nhập vào Đội Quân Ao Xanh. Tôi được đón nhận như một “tân binh” với nhiều bỡ ngỡ...

Câu “tân binh” đó rất đúng với tôi trong nhiều lĩnh vực. Dù trước đó tôi cũng đã tham gia công tác ở một vài nhóm, nhưng tôi vẫn cảm thấy bỡ ngỡ, ngại ngùng trong cử chỉ cũng như ngôn từ của anh tân binh bước vào lãnh vực mới này. Tôi còn là “tân binh” trong cách sống đạo thời đại mới nữa. Vì trước đây tôi sống co cụm, suốt ngày chỉ nghĩ tới cơm, áo, gạo, tiền. Đôi khi còn quan niệm sống chết mặc bay, theo chủ nghĩa” MacKeNo” (Mặc Kệ Nó).

Thời gian trước đây, khi những tiện nghi vật chất tương đối đầy đủ và công việc ổn định, tôi cảm thấy tự mãn và thiết tưởng mãi mãi tồn tại. Nào ngờ sóng gió bất ngờ ập đến. Công việc làm ăn gần như bế tắc. Người chị qua đời. Tình hình kinh tế lạm phát khiến đất đai nhà cửa không ai mua. Muốn bán cũng không được. Thậm chí đi cầm cố tại ngân hàng cũng không xong. Việc định cư nước ngoài mà hồ sơ đã gần đủ bị ngưng lại. Những khó khăn, bất ổn liên tục xảy đến. Sức khỏe tôi bắt đầu giảm sút, gần như mất kháng thể, chỉ cần mắc vài giọt nước mưa là cảm cúm, sổ mũi. Thậm chí nhiều lần tưởng chừng mắc phải chứng bệnh thế kỷ.

Giữa những bế tắc hầu như không lối thoát, tôi đã nhận được nhiều lời khuyên và thấy được những gương tốt của những người thân, trong đó có người chị kế của tôi. Mặc dù nghèo và đơn độc, chị vẫn âm thầm và kiên nhẫn làm tròn bổn phận là mẹ là vợ. Chị siêng năng cầu nguyện, tham dự lễ và sống đạo thật tốt. Lòng thương xót Chúa và Đức Mẹ đã đến với chị và gia đình. Anh chồng đã quay trở về với gia đình. Người con trai lớn tốt nghiệp cử nhân công nghệ thông tin ở Việt Nam, được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận đi du học để lấy bằng thạc sỹ. Cô con gái thứ hai sau khi tốt nghiệp đại học đã nhận dược việc làm. Niềm vui được nhân lên khi chị được mời làm nhân chứng Lòng Thương Xót Chúa tại nhà thờ Chí Hòa.

Trải qua những giây phút trống vắng, trầm cảm và khó khăn bộn bề, tôi bước đi khập khiễng trong trạng thái không định hướng. Đang khi cất bước chân hoang đàng, xa xa chợt nghe vọng lại bài thánh ca: “Con nay trở về, trở về vùng đất tái sinh. Con nay trở về, về đường chính lý quang minh…” Và tôi đã quyết định đứng dậy, mặc dù những bước đầu rất hụt hẫng và lo lắng. Tôi tìm đến nhà thờ Mai Khôi nơi có ca đoàn phụng vụ mà tôi rất thích. Đến nhà thờ Chí Hoà, nơi đang phát triển việc cầu nguyện lòng thương xót Chúa và Đức Mẹ.

Giờ đây ngồi nghĩ lại, tôi không khỏi ngỡ ngàng vì sự trùng hợp không tưởng khi đến hai thánh đường đều bổn mạng Mân Côi. Chắc hẳn Đức Mẹ Mân Côi đã ra tay cứu giúp và cầu bầu Lòng Thương Xót Chúa cho tôi. Tôi sẽ không bao giờ quên được tháng mười Mân Côi hồng ân. Và tôi muốn thân thưa cùng Chúa: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”.

Mong ước cộng đoàn Lòng Thương Xót Chúa và Đức Mẹ ngày càng nhân rộng và phát triển để mọi người luôn biết chạy đến với Lòng Thương Xót Chúa và Đức Me, luôn siêng năng lần chuỗi thương xót và thực hiện năm hòn sỏi theo lời chỉ dẫn của Đức Mẹ.

Thứ năm này cũng là ngày đầu tôi được mặc chiếc áo đồng phục của Đội Quân Mầu Xanh, màu hy vọng và phục vu. Tôi sẽ nhớ mãi những ngày còn là tân binh. Ngày của anh lính mới háo hức khi gia nhập Đội Quân Ao Xanh. Vẳng bên tai tôi lời hát của người linh mục lãng tử khi hướng dẫn những cánh chim xanh bay không mỏi mệt trong những chuyến công tác bác ái vùng sâu vùng xa: “Chiếc áo dù thơm của nàng hoa hậu, thua áo của tôi chỉ đượm hơi người. Mùi thơm của lúa mới, mùi thơm của nắng sớm, mùi thơm của mưa của nắng triền miên. Giờ đây mình dấn bước, vào đội quân phục vụ, khoác lên mình chiếc áo màu xanh!”

Dominic Nguyễn Chuẩn

-----
NỤ CƯỜI TRUYỀN GIÁO
(Theo điệu bài hát “Hy Vọng Đã Vươn Lên”)

1. Nụ cười nở trên môi
Gieo nguồn vui cho muôn người
Nụ cười nở trên môi
Đem tin mừng vào thế giới
Nụ cười vẫn trên môi
Se chặt giây tình thân ái
Nụ cười sáng trên môi
Như hiện thân. Của tình thương. Đang trào dâng.

2. Nụ cười nở trên môi
Khi hừng đông khi chiều tà
Nụ cười nở trên môi
Khi mưa về trời rét buốt
Nụ cười vẫn trên môi
Giữa trưa hè hun thiêu đốt
Nụ cười sáng trên môi
Quên mồ hôi.
Quên nghỉ ngơi. Chỉ vì ai ?

3. Nụ cười nở trên môi
Với người thân kẻ xa gần
Nụ cười nở trên môi
Trong nông trường, khu kinh tế
Nụ cười vẫn trên môi
Mang ủi an người đói rách
Nụ cười sáng trên môi
Không màng chi.
Đem hoà khí. Nuôi tình thân.
 
Chuẩn bị cử hành Năm Thánh 2010
Trần Văn Cảnh
18:49 08/11/2008
Chuẩn bị cử hành Năm Thánh 2010

Ngày 12 tháng 10 năm 2007, trong « Bản Ðúc Kết Ðại Hội của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam Lần X, từ ngày 8-12/10/2007 » tại Hà nội, Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Thư ký Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam đã ghi nhận rằng «Ðại hội quyết định tổ chức mừng kỷ niệm 50 năm thành lập hàng Giáo phẩm Việt nam bằng những hoạt động có ý nghĩa nhằm phát huy sức mạnh của mọi thành phần Dân Chúa để phát triển Giáo hội»[1].
Một năm sau, Ngày 17 tháng 11 năm 2007, Đức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Nguyên Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, đã xác nhận dự án của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam cho năm 2010, đã được quyết định trong Đại Hội HĐGM VN lần X, tại Hà Nội, từ 08 đến 12 tháng 10 năm 2007: “Một trong những công trình mới sẽ được thực hiện trong những năm sắp tới đây là việc tổ chức "Công Nghị Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vào năm 2010" nhân dịp kỉ niệm 50 năm thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Công việc này đã được HÐGMVN ủy nhiệm cho Ðức Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Ngài đã làm một Dự Thảo, nói về ý nghĩa, mục dích và công việc chuẩn bị cho Công Nghị, mà nhiều mạng tin học Công Giáo Việt Nam đã phổ biến gần đây, trong đó có Vietcatholic. Ðây là một dự án lớn, vì trong Công Nghị, Giáo Hội Việt Nam sẽ có dịp nhìn lại những việc đã qua và hoạch định những việc sẽ làm trong tương lai. Các Ủy Ban Giám Mục, Các Ủy ban trù bị, nghiên cứu sẽ có rất nhiều việc phải làm: xem lại các mặt đã có, đánh giá lịch sử những mặt ấy,…,.. sẽ có nhiều mặt nghiên cứu phải thực hiện trong nhiều lãnh vực mục vụ khác nhau: tiên tri, tư tế, mục tử, loan báo tin mừng,… (ĐC Nguyễn Văn Hòa nói về Giáo Hội VN / Trần Văn Cảnh [2])

Đây quả thật là một quyết định rất quan trọng, liên hệ đến vận mệnh của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, kỷ niệm quãng đường lịch sử gần 500 năm truyền giáo qua 3 thời kỳ: 126 năm Bảo Hộ (1533-1659), 300 năm Tông Toà (1659-1960), và 50 năm Chánh Toà (1960-2010). Việc chuẩn bị chắc chắn phải được tổ chức qui củ. Những việc chuẩn bị nào đã được làm để chuẩn bị cử hành Năm Thánh 2010 cho Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam ?

1. « Dự thảo chuẩn bị tổ chức Công Nghị Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam năm 2010», ngày 15.10.2007, do ĐHY PHẠM MINH MẪN

Từ khi quyết định được công bố, bốn chuẩn bị đã được thực hiện. Chuẩn bị thứ nhất là bản « Dự thảo chuẩn bị tổ chức Công Nghị Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam năm 2010 », được Đức Hồng Y Gioan B. Phạm Minh Mẫn thực hiện và cho phổ biến ngày 15. 10. 2007, ba ngày sau khi được trao phó trách nhiệm. Trong những dòng đầu của bản dự thảo, ĐHY đã nói rõ rằng: « Ðược Ðại Hội Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam giao nhiệm vụ chuẩn bị tổ chức Công Nghị Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam năm 2010 (Công Nghị GHCG.VN. 2010), kỷ niệm 50 năm Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam bước sang thời kỳ Chánh Toà với sự hình thành Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, tôi sơ thảo đề án chuẩn bị và gởi đến quý Giám mục, quý linh mục, quý tu sĩ, quý giáo dân, để xin mọi người góp ý bổ sung, điều chỉnh [3] ».

2. « Đề án: Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành NĂM THÁNH 2010 », ngày 30.11.2007, do ĐHY Phạm Minh Mẫn

Sau khi phổ biến bản dự thảo, ĐHY Phạm Minh Mẫn đã gặp hai nhóm tư vấn ở Giáo Phận (Sài Gòn) và ở Rôma. Theo gợi ý của hai nhóm tư vấn này, ĐHY đã nới rộng nội dung của Công Nghị ra thành Đại Hội Dân Chúa Việt Nam. Đó là lý do khiến ngài cho phổ biến tài liệu thứ hai, ngày 30.11.2007, nhan đề là « Đề án: Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành NĂM THÁNH 2010 ». « Kính gởi: Hội Đồng Giám Mục VN, quý Tổng Giám Mục và Giám Mục VN; Đồng kính gởi: Quý Linh Mục, Tu Sĩ, Giáo Dân thuộc Cộng đồng Dân Chúa VN ở các Châu lục.
Sau ba lần hội ý với nhóm Tư Vấn tại Giáo Phận và nhóm Tư Vấn tại Roma, nay tôi thấy việc Cộng Đồng Dân Chúa VN cử hành Năm Thánh 2010, trong đó có Đại Hội Dân Chúa VN thì tiện lợi và đem lại nhiều ơn ích hơn là tổ chức Công Đồng như đã dự kiến. Tôi sơ thảo đề án này, xin gởi đến quý Đức cha, quý Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân, để xin góp ý điều chỉnh, bổ sung
[4] ».

3. « Nội quy về việc Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành Năm Thánh 2010 », ngày 27.03.2008, do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn

Trong Hội nghị Thường niên ở Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, ngày 27 tháng 03 năm 2008, Vũng Tàu, Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã phê chuẩn “Nội quy về việc Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành Năm Thánh 2010”. Đây là một tài liệu chính thức của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Trong tài li ệu này, những điều căn bản đã được ấn định và trình bày rõ rệt qua bốn phần quan trọng: I- Ý nghĩa và Mục đích, II- Cử hành năm thánh 2010, III- Đại Hội Dân Chúa Việt Nam, IV-Phân công và phân nhiệm. Sau đây, xin trích phần I về « Ý nghĩa và Mục Đích [5]» của Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành năm thánh 2000:

31. Ý nghĩa
Năm Thánh 2010 ghi dấu thời điểm kỷ niệm: (1) 350 năm thành lập hai Giáo phận Tông Toà Đàng Ngoài và Đàng Trong (x. Sắc Chỉ Super Cathedram, 9-9-1659, của Đức Alexandre VII), (2) 50 năm thiết lập phẩm trật Giáo hội Công giáo tại Việt Nam với 3 Giáo tỉnh Hà Nội - Huế - Saigon (x. Sắc Chỉ Venerabilium Nostrorum 24-11-1960). Thời gian cử hành Năm Thánh từ 24-11-2009 đến lễ Hiển Linh 2011, đi từ khởi điểm và chứng nhân đức tin đến toả sáng và chia sẻ niềm tin.

32. Mục đích

Việc cử hành Năm Thánh 2010 nhằm:

(1) Nhìn lại quãng đường lịch sử gần 500 năm truyền giáo qua 3 thời kỳ: 126 năm Bảo Hộ (1533-1659), 300 năm Tông Toà (1659-1960), đặc biệt là 50 năm Chánh Toà (1960-2010). Nhìn lại lịch sử nhằm mời gọi cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cùng chung lòng tạ ơn Chúa đã thương ban cho Dân Người được hình thành, tồn tại và phát triển qua những thăng trầm của lịch sử, đồng thời bày tỏ lòng biết ơn đối với Toà Thánh và các bậc tiền nhân đã góp phần tích cực vào việc loan Tin Mừng và xây dựng Giáo Hội trên đất nước Việt Nam.

(2) Nhìn lại lịch sử cùng với những thẩm định về đời sống Giáo Hội nhằm rút ra những bài học lịch sử cho việc thi hành sứ vụ yêu thương và phục vụ của Chúa Kitô, trong cộng đồng dân tộc cũng như cộng đồng thế giới hôm nay.

(3) Đồng thời cũng nhìn tới tương lai trong bối cảnh văn hoá xã hội đang đổi thay của những thập niên đầu thiên niên kỷ III, nhằm vận động cộng đồng Dân Chúa một lòng quyết tâm đáp trả tình thương của Chúa, và làm mới hình ảnh gia đình Giáo Hội tại Việt Nam theo hình mẫu mà Công đồng Vatican II 1965 đã phác hoạ như sau:

• Giáo Hội hiệp thông: đào sâu mối hiệp thông giữa cộng đoàn tín hữu với Thiên Chúa trong Đức Kitô nhờ Chúa Thánh Thần, củng cố sự hiệp thông giữa các thành phần Dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, trong mỗi Giáo Hội địa phương, hiệp thông giữa các Giáo Hội địa phương với nhau cũng như với Giáo Hội toàn cầu;

• Giáo Hội tham gia: mọi thành phần Dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân, đều có quyền và trách nhiệm tham dự vào mầu nhiệm, hiệp thông và sứ vụ của Giáo Hội, mỗi thành phần theo đặc sủng của mình;

• Giáo Hội vì loài người: quyền bính và sứ vụ của Giáo Hội là quyền và trách nhiệm yêu thương và phục vụ cho sự sống của mọi người anh em đồng bào và đồng loại.


4. Cuộc họp Ban Tổ Chức NĂM THÁNH 2010, ngày 08.04.2008 [6]

Để thống nhất đường hướng chung và phân công cụ thể cho việc chuẩn bị Năm Thánh 2010, Ban Tổ Chức đã họp tại Trung tâm Mục vụ Tổng Giáo phận TP.HCM, dưới sự chủ toạ của Đức Hồng y GB. Phạm Minh Mẫn.

Tham dự cuộc họp gồm có 20 vị: ĐHY Phạm Minh Mẫn, Đức Cha Stephanô Nguyễn Như Thể, Tổng Giám mục Giáo phận Huế, Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Giáo phận Hà Nội, Đức Cha Phêrô Trần Đình Tứ, Đức Cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Cha Tổng Đại diện GB. Huỳnh Công Minh, Cha Inhaxiô Hồ Văn Xuân. và các linh mục tổng thư ký của 14 uỷ ban giám mục: Lm. Giuse Trịnh Tín Ý (UB Văn Hoá), Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (UB BAXH, UB Truyền thông), Lm. Rôcô Nguyễn Duy (UB Thánh nhạc), Lm. Phanxicô Vũ Phan Long (UB Kinh Thánh), Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm (UB Giáo lý Đức tin), Lm. Phêrô Lê Tấn Bảo (UB Phụng tự), Lm. Vinh Sơn Phạm Trung Thành, CSSR (UB Nghệ thuật thánh), Lm. Giuse Đỗ Mạnh Hùng (UB Giáo sĩ - chủng sinh), Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khải, CSSR (UB Tu sĩ), Lm. Giuse Tạ Huy Hoàng (UB Giáo dân), lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn (UB Mục vụ Gia đình), Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên (UB Loan báo Tin Mừng), Lm. Giuse Đỗ Đình Ánh (UB Mục vụ Di dân).

Mở đầu cuộc họp, Đức Hồng y giới thiệu nội quy về việc Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành Năm Thánh 2010 đã được Hội đồng Giám mục Việt Nam (HĐGMVN) phê chuẩn ngày 27-3-2008, trong Hội nghị Thường niên ở Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu, Vũng Tàu, và nêu ra một vài điểm đề nghị.

Sau đó các quí vị đã đi họp riêng nhóm, trong các tiểu ban của Ban Tổ Chức:

• Nhóm I gồm Đức Hồng y và các đức cha tham dự, cha tổng đại diện Huỳnh Công Minh và cha Hồ Văn Xuân.
• Nhóm II là tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử, gồm các cha Trịnh Tín Ý, Nguyễn Ngọc Sơn và cha Nguyễn Duy.
• Nhóm III là tiểu ban Giáo hội Mầu nhiệm, gồm các cha Vũ Phan Long (OFM), Nguyễn Văn Khảm, Lê Tấn Bảo, Phạm Trung Thành (CSSR).
• Nhóm IV là tiểu ban Giáo hội Hiệp thông, gồm các cha Đỗ Mạnh Hùng, Nguyễn Văn Khải (CCSR), Tạ Huy Hoàng, Nguyễn Anh Tuấn, Lê Quang Việt.
• Nhóm V là tiểu ban Giáo hội Sứ vụ, gồm các cha Ngô Quang Tuyên, Nguyễn Ngọc Sơn, Đỗ Đình Ánh.

Rồi về họp chung. Theo báo cáo kết quả làm việc của các nhóm, hội nghị đã nhất trí một số điểm sau đây:

41. Thời gian và địa điểm tổ chức Năm Thánh 2010:
- Sẽ được khai mạc ở TGP Hà Nội vào ngày lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, 24-11-2009,
- và sẽ bế mạc tại TGP Huế ngày lễ Hiển Linh, 2-1-2011.
- Đại hội dân Chúa Việt Nam sẽ được tổ chức tại TGP TP.HCM, từ ngày 21 đến 28-11-2010.

42. Về tài chính, BTC yêu cầu mỗi giáo phận đóng góp 1,000 USD lúc khởi đầu và trong mỗi giáo phận sẽ tổ chức 1 ngày để quyên góp cho Đại hội. BTC không vận động quyên góp nơi các cộng đồng Việt Nam hải ngoại, sẵn sàng nhận sự đóng góp của các cá nhân và tổ chức nào muốn giúp đỡ cho BTC Năm Thánh.

43. Ban Thư ký Thường trực gồm các linh mục sau đây:
- Lm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm (TTMV), Trưởng ban
- Lm. Giuse Trịnh Tín Ý (Nhà Truyền Thống)
- Lm. Giuse Đỗ Mạnh Hùng (ĐCV Thánh Giuse)
- Lm. Gioan Bùi Thái Sơn (Giáo luật)
- Lm. Rôcô Nguyễn Duy (Phụng vụ)
- Lm. Giuse Nguyễn Văn Am (tiểu ban GH Mầu nhiệm)
- Lm. Luy Nguyễn Anh Tuấn (tiểu ban GH Hiệp thông)
- Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên (tiểu ban GH Sứ vụ)
- Lm. Inhaxiô Hồ Văn Xuân (Tài chính)
- Lm. Antôn Nguyễn Ngọc Sơn (Truyền thông), Thư ký

44. Phân công Ban Cố vấn:
-Đức cha Phêrô Trần Đình Tứ, tư vấn cho tiểu ban GH Mầu nhiệm.
-Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, tư vấn cho tiểu ban GH Hiệp thông.
-Đức TGM Stephanô Nguyễn Như Thể, tư vấn cho tiểu ban GH Sứ vụ.
-Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt, Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống, tư vấn cho BTC Năm Thánh.
-Lm. Tổng Đại diện GB. Huỳnh Công Minh, tư vấn cho tiểu ban Nghiên cứu Lịch sử.

LỜI KẾT

Tháng 10 năm 2007, Hội Đồng Giám Mục quyết định tổ chức Công Nghị Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vào năm 2010. Trong sáu tháng đầu, bấu khí hồ hởi, bốn chuẩn bị đã được mau chóng thực hiện:
• « Dự thảo chuẩn bị tổ chức Công Nghị Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam năm 2010», ngày 15.10.2007, do ĐHY PHẠM MINH MẪN
• « Đề án: Cộng Đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành NĂM THÁNH 2010 », ngày 30.11.2007, do ĐHY Phạm Minh Mẫn
• « Nội quy về việc Cộng đồng Dân Chúa Việt Nam cử hành Năm Thánh 2010 », ngày 27.03.2008, do Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
• Cuộc họp Ban Tổ Chức NĂM THÁNH 2010, ngày 08.04.2008, xác định thời gian, địa điểm và phân công, phân nhiệm cụ thể.

Theo bản Nội qui [7], những công việc chuẩn bị tiếp theo cho năm 2008 và 2009 sẽ đại cương như sau:

(1) Năm 2008 : HĐGM VN thống nhất và xin Toà Thánh cho mở Năm Thánh 2010. Đồng thời, HĐGM VN phê chuẩn Ban Tổ chức cử hành Năm Thánh, và hình thành những Tiểu Ban chuyên môn. Trong năm 2008, các Tiểu Ban cần soạn xong tài liệu học tập, hội thảo, tổ chức lễ hội, cầu nguyện, hành hương theo những chủ đề giúp cho cộng đồng Dân Chúa trong các giáo tỉnh, giáo phận, giáo xứ, dòng tu, tu hội, Đại Chủng viện, các đoàn thể giáo dân, các phong trào tông đồ ý thức tạ ơn Chúa, và quyết tâm cùng nhau làm mới hình ảnh Giáo Hội tại Việt Nam.

(2) Chủ đề của Năm Thánh 2010 là : GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM: Mầu nhiệm - Hiệp thông - Sứ vụ
Chủ đề này được triển khai theo 3 chủ điểm lớn sau đây:

- Giáo Hội mầu nhiệm, với chức năng ngôn sứ và tư tế (mục vụ Thánh Kinh, Lời Chúa, giáo lý đức tin, Phụng tự, lòng đạo đức bình dân, kinh sách).
- Giáo Hội hiệp thông, với chức năng mục tử (mục vụ tổ chức và điều hành giáo phận, giáo xứ, dòng tu, tu hội, các tổ chức mục vụ, các đoàn thể tông đồ giáo dân, tạo tương quan liên đới, đối thoại, hợp tác, đối nội, đối ngoại).
- Giáo Hội sứ vụ, với chức năng thi hành sứ vụ yêu thương và phục vụ cho Tin Mừng và cho sự sống dồi dào của mọi người, đặc biệt người kém may mắn, bị bỏ rơi (mục vụ truyền giáo, văn hoá giáo dục, y tế, bác ái xã hội, phát triển, di dân).

(3) Năm 2009, các giáo tỉnh, giáo phận, giáo xứ, dòng tu, Đại Chủng viện, đoàn thể tông đồ giáo dân, tổ chức cho cộng đoàn Dân Chúa cử hành lễ hội, học tập, hội thảo, góp ý, đề xuất, cầu nguyện, hành hương vào một số dịp và theo 3 chủ đề đã nêu trên… Phát hành Kỷ Yếu 50 năm thiết lập Phẩm trật Giáo hội Công giáo tại Việt Nam với 3 giáo tỉnh Hà Nội - Huế - Sài Gòn, với phần nhìn lại các thời kỳ lịch sử truyền giáo, đặc biệt thời kỳ chính toà…


Paris, ngày 08 tháng 11 năm 2010
Trần Văn Cảnh

Ghi chú
[1] http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/veritas/index.html
[2] http://www.giaoxuvnparis.org/htm/vanhoagiaoxu/cambut/tranvcanh/gxvnparis/18.htm
[3] http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/veritas/index.html
[4] VietCatholic News (Thứ Ba 04/12/2007 22:14)
[5] http://v2.hdgmvietnam.org/Default.aspx?tabid=209&ctl=ViewArticleDetail&mid=556&ArticlePK=100
[6] http://v2.hdgmvietnam.org/Default.aspx?tabid=209&ctl=ViewArticleDetail&mid=556&ArticlePK=104
[7] http://v2.hdgmvietnam.org/Default.aspx?tabid=209&ctl=ViewArticleDetail&mid=556&ArticlePK=100
 
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Nhạc: Lời Kinh Sám Hối
Lã Mộng Thường
09:31 08/11/2008
 
Dấu Chỉ Thời Đại: Từ trận Lụt ở Hà Nội đến Đại Hồng Thủy uất hận trong lòng dân Việt Nam!
Đỗ Hữu Nghiêm
21:59 08/11/2008
Dấu Chỉ Thời Đại: Từ trận Lụt ở Hà Nội đến Đại Hồng Thủy uất hận trong lòng dân Việt Nam!

Trong chỉ ba ngày (từ 31/10/2008) bất ngờ liên tục, hai mươi triệu thước khối nước đỗ ập xuống Hà Nội gây nên cảnh lụt lội kéo dài nhiều ngày và biết bao thảm họa khác về vệ sinh, hệ thống tiêu thoát nước và lây đến sự có mặt và trách nhiệm của chính quyền Cộng Sản Việt Nam. Nhưng quan trọng nhất là đó là một cái roi mở mắt giới cầm quyền Cộng sản Việt Nam mau thoát cảnh u mê, mà nhìn thấu vào chính nghĩa của người dân đã phải chịu nhiều cảnh oan ức.

Mới đây, sự kiện Toà Khâm Sứ và Giáo Xứ Thái Hà đã là một biểu tượng tập trung nhất về nỗi bất công của người dân do chính quyền Cộng Sản Việt Nam tác oai tác quái giữa lòng thủ đô Hà Nội, trước bao nhiêu cơ quan trong nước và quốc tế chứng kiền tận mắt tại Hà Nội.

Hơn nữa chính điều đó càng chứng minh tư cách ứng xử bất tài vô lương tâm của chính quyền Việt Nam như điều động toàn thể hệ thống truyền thông và khủng bố của nhà nước vào một hành vi tội ác là đổi trắng thay đen vu khống cho những người bị nạn. Tệ hơn nữa lại tạo thêm mâu thuẫn khi Nguyễn Thế Thảo triệu tập nhiều nhân viên ngoại giao tại Hà Nội để vu cáo và xuyên tạc Tổng Giám Mục Ngô quang Kiệt là sai trái và tỏ ý muốn trục xuất TGM Ngô Quang Kiệt can đảm khỏi Tòa Giám Mục Hà Nội,

Nếu chính quyền Cộng Sản càng hung hăng bao nhiêu trong những hành động vô đạo đức, xuyên tạc, trù dập các giáo dân tham dự cầu nguyện trong vụ Tòa Khâm Sứ và Giáo xứ Thái Hà tại Hà Nội và các vụ dân kêu oan khác ở nhiều nơi tại Việt Nam, thì chính quyền ấy càng tỏ ra bất lực và vô trách nhiệm đối với nhân dân Việt Nam trước cơn lụt lịch sữ đổ ập xuống Hà Nội. Phải chăng tai ương Đại Hồng Thủy là một đòn mà Trời giáng xuống, cảnh cáo lòng chai đá của những kẻ bất tài bất đức chỉ tham lam vơ vét của cải nắm quyền bính, lại muốn sống vô đạo đức đối người dân oan nạn nhân của bão lụt không có phương tiện ứng phó với thiên tai xảy đến.

Sau tai ương lụt lội còn những tai ương nào khác đến dữ dằn hơn mới đủ sức cảnh giác chính quyền Cộng Sản Việt Nam phải thay đổi một chế độ xã hội bất nhân với nhân dân, chứ đừng độc quyền toàn trị mãi, hù dọa người dân oan, khai thác nhân vật lực quốc gia, thay vì giành quyền để phục vụ tận tụy cộng đồng dân tộc đã từng chịu nhiều cảnh áp bức đau khổ trong chế độ mạo danh là xã hội chủ nghĩa dân chủ này.

Oakland, CA 7/11/2008
 
Tài Liệu - Sưu Khảo
Dân Mỹ thực sự muốn thay đổi khi bầu Obama làm tổng thống
Lý Đại Nguyên
22:09 08/11/2008
DÂN MỸ THỰC SỰ MUỐN ĐỔI THAY
KHI BẦU BARACK OBAMA LÀM TỔNG THỐNG


Lần đầu tiên trong lịch sử 232 năm lập quốc, cử tri Hoa kỳ vừa chọn bầu một thanh niên gốc Phichâu vào ghế Tổng Thống của mình, đó là ông Barack Hussein Obama, thuộc đảng Dân Chủ. Thắng lợi của ông Obama chấm dứt 8 năm cầm quyền đầy hung hiểm của tổng thống George W. Bush thuộc đảng Cộng Hòa. Đến đây, phải nhận một sự thật là dân Mỹ đã thoát ra khỏi tâm lý kỳ thị mầu da, để khằng định nước Mỹ là một Hiệp Chúng Quốc đích thực. Tượng trưng cho Thế Giới Thu Nhỏ, thành mẫu mực của một Xã Hội Phát Triển Toàn Diện trong tiến trình Kinh Tế Toàn Cầu Hóa và Dân Chủ Hóa Toàn Cầu. Nhưng trước đó, nước Mỹ đã trở thành đối tựơng cần phải tiêu diệt của Phong Trào Khủng Bố Quốc Tế al-Qaeda. Vì Mỹ là một Siêu Cường, đỡ đầu cho Quốc Gia Do Thái, kẻ tử thù của khối Ả Rập Hồi Giáo. Vụ tấn công 911 của al-Qaeda vào Trung Tâm Thương Mại Quốc Tế New York, và Bộ Quốc Phòng Mỹ tại Hoa Thịnh Đốn đã làm cho “Con Đại Bàng Mỹ chuyển cánh”, giáng những đòn phủ đầu xuống các nước nuôi dưỡng, và ủng hộ cho Khủng Bố. Cuộc chiến chớp nhoáng đánh tan chính quyền Taliban tại Afghanitan, sào huyệt của Osama bin Laden lãnh tụ al-Qaeda. Rồi thừa thắng tiêu diệt luôn chính quyền độc tài Saddam Hussein tại Iraq. Đến đây là TT Bush đã không còn tuân thủ nguyên tắc khởi chiến truyền thống của nước Mỹ nữa. Tức là chỉ đánh trả để đạt chiến thắng cuối cùng, chứ không tấn công trước. Có lẽ chính vì thế, cuộc chiến Iraq đã thắng về quân sự, nhưng sa lầy về an ninh và ổn định chính trị, nên bị kéo dài, hao tốn cả danh dự lẫn tài lực quá nhiều, làm cho dân Mỹ oán ghét, thế giới lên án. Tạo cơ hội cho Iran có thế chống Mỹ.

Từ sau Chiến Tranh Lạnh, tiến trình Kinh Tế Thị Trường Toàn Cầu Hóa là một xu hướng không thề đảo ngược, các nước dù Dân Chủ, hay Độc Tài, kể cả Cộng Sản, cũng mặc nhiên phải tự nguyện gia nhập. Các khối liên quốc gia xuất hiện để cân bằng lực lượng kinh tế với các cuờng quốc. Thị Trường Chung Âu Châu trở thành Liên Âu lần lần quy tụ hầu hết các nước Tây Âu, rồi Đông Âu vào hệ thống tiền tệ Euro. Các nước Đông Nam Á thành ASEAN, mở rộng thành Tự Do Mậu Dịch Á Châu AFTA, đến Á Châu Thái Bình Dương APEC, rồi Hợp Tác Á, Âu là ASEM. Hoa kỳ cùng Canada và Mễ Tây Cơ cũng thành lập Thị Trường Chung Bắc Mỹ NAFTA. Từ đó các xí nghiệp kỹ nghệ sản xuất của Mỹ chuyển qua Mễ để có công nhân rẻ. Công nhân Mỹ thất nghiệp. Vốn của Tài Phiệt Mỹ đổ vào các Công Ty Đa Quốc Gia, đem đầu tư vào Trung cộng và các nước đang phát triển. Nuớc Mỹ trở thành Thị Trường Tiêu Thụ sản phẩm gia công của các nước đó. Mỹ nhiễm nhiên là con nợ lớn nhất của cả thế giới, số nợ hiện nay đã lên trên 12.000 tỷ USD. Tuy nhiên Tư Bản Mỹ vẫn là ông chủ lớn nhất hoàn vũ. Kinh tế Mỹ mất dần nội lực. Chính quyền Bush buộc phải làm trái với nguyên tắc đánh thuế lũy tiến, để áp dụng phương pháp giảm thuế cho nhà giầu, nhằm thu hút vốn đầu tư từ quốc nội tới quốc tế trở về.

Nhưng rồi các ngân hàng và các công ty tài chánh Mỹ đã tự bán rẻ vị thế siêu đẳng của mình, ỷ vào thế Tự Do Mậu Dịch, chính quyền không can thiệp vào thị trường, nhiều doanh nghiệp tài chánh vô trách nhiệm, bất lương không bị truy tố. Thế là cả lũ kéo nhau xuống hố phá sản. Trận bão tài chánh từ Hoa kỳ cuốn luôn hệ thống thị trường tài chánh quốc tế vào cơn cuồng loạn. Chính phủ Mỹ và các nước Dân Chủ tiên tiến phải đổ tiền vào để cứu các ngân hàng. Nói trắng ra là tạm thời “Quốc Hữu Hóa” các công ty tài chánh để khỏi phải phá sản. Lấy lại niềm tin của dân chúng. Vì dân chúng ở các nước Dân Chủ Tư Bản Tiên Tiến thì tiền bạc đều gởi ở nhà Bank. Dân vừa là chủ nợ vừa là con nợ của nhà Bank. Trong thế giới Tư Bản, vốn là gốc của kinh tế. Hệ thống nhà Bank nắm nguồn vốn, là nội lực của kinh tế, là huyết mạch của xã hội, kể cả là hơi thở của chính quyền nữa. Nên mới gọi đó là nơi tập trung “siêu quyền lực” ban phát mệnh lệnh cho thị trường, nhịp sống cho xã hội, nhịp thở của chính quyền. Nhưng sau trận bão tài chánh này, hệ thống tài chánh của Siêu Cường Mỹ, của thế giới đã phải nhờ các Chính Quyền can thiệp, nên thứ quyền lực siêu hình đó đã lọt vào tay chính quyền của mỗi nước, mà mỗi nước không tự cứu mình nổi, phải cùng hợp tác với nhau để có biện pháp chung. Nhưng nước Mỹ lại vẫn là nước đứng đầu của nền kinh tế thị trường thế giới. Chính vì vậy mà chính quyền Dân Chủ Obama tới đây, có một vị thế và trách nhiệm vô cùng lớn lao và khó khăn.

Lẽ dĩ nhiên, khuynh hướng bảo hộ mậu dịch cố hữu của đảng Dân Chủ đã lỗi thời, và giấc mơ Xã Hội Chủ Nghĩa hoang tưởng của ông Obama đã chết tiệt. Nhu cầu của nền chính trị và kinh tế Mỹ cũng như toàn thế giới ngày nay, đang mở ra hướng đi từ Nhận Thức Nhân Chủ Nhân Văn, về các Xã Hội Tự Do Công Bằng của Kinh tế Thị Trường Toàn Cầu Hóa và Chính Trị Dân Chủ Hóa Toàn Cầu, được Điều Hợp bởi hệ thống Luật Pháp Trong Sáng Công Chính, nhằm bảo vệ Giá Trị và Quyền Lợi Con Người, an toàn Xã Hội, an ninh Quốc Gia, hòa bình Thế Giới. Không riêng gì nước Mỹ, mà bất cứ quốc gia nào đi ngược lại với nhu cầu của Nhân Loại để đánh mất niềm tin của Con Người, cũng khó tồn tại bền vững. Chính sự đánh mất niềm tin của Người Dân vào các Công Ty Tài Chánh hiện nay, đã làm cho vị thế siêu quyền lực của họ bỗng nhiên bị mất toi. Với niềm tin của cử tri Mỹ vào vai trò lãnh đạo của Tân Tổng Thống Dân Chủ Obama, cho cả đa số Thượng Viện và Hạ Viện trong tay, mà không đáp ứng được với nhu cầu của Quốc Dân Mỹ và nguyện vọng của toàn Thế Giới, thì đó là một trọng tội.

Sự thật thì nạn Khủng Bố Quốc Tế vẫn còn đó. Dù chính quyền Cộng Hòa Bush có làm mất lòng dân đến đâu, thì cũng phải công bằng, mà nhận rằng: Từ vụ khủng bố 911, nước Mỹ rộng lớn là thế, người dân có tự do là thế, những cuộc tập họp khổng lồ là thế, mà bọn Khủng Bố Quốc Tế không thể có bất cứ cuộc bạo loạn nào, thì về mặt an ninh nội địa, chính quyền Cộng Hòa Bush đã có công rất lớn. Hiện nay mầm chiến tranh vẫn còn đầy rẫy, cuộc chạy đua vũ trang đang được khơi dậy, nếu cái gọi là “Thay Đổi” của chính quyền Dân Chủ Obama chỉ đi chệch hướng phát triển của truyền thống Tự Do, Dân Chủ, Đạo Đức của Quốc Dân Hoa Kỳ một bước, là rất dễ rơi vào cảnh phải dùng tới chiến tranh để xóa bàn làm lại. Tệ hơn là tạo ra loạn động nội tại lung tung, làm cho Hoa kỷ tự đánh mất vai trò lãnh đạo thế giới của một Siêu Cường kinh tế, chính trị, quân sự và kỹ thuật cao của mình.

Little Saigon ngày 04-11-2008
 
Thông Báo
Tâm thư của Ban Điều Hành VietCatholic
Ban Điều Hành VietCatholic
17:37 08/11/2008
Kính chào quý cha, quý tu sĩ nam nữ và anh chị em trong tình yêu thương của Chúa Kitô và Mẹ Maria

VietCatholic đã bắt đầu phát trên mạng lưới điện toán toàn cầu từ ngày Lễ Các Thánh 1/11/1996. Theo giòng thời gian, số lượng độc giả càng ngày càng tăng. Đó là một dấu chỉ đáng mừng không riêng cho VietCatholic mà còn cho giới truyền thông Công Giáo vì điều đó chứng tỏ truyền thông Công Giáo Việt Nam đáp ứng được phần nào nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa mong muốn lắng nghe giáo huấn của Giáo Hội, và tha thiết với vận mệnh của Giáo Hội và Quê Hương.

Tuy nhiên, số lượng độc giả gia tăng cũng đặt ra những thách đố về kỹ thuật và tài chính với VietCatholic. Điển hình nhất là trong hơn 12 năm qua, VietCatholic đã phải “dọn nhà” nhiều lần vì nhà cung cấp dịch vụ Internet cho VietCatholic không kham nổi số lượng đông đảo độc giả vào xem các trang rất phong phú của VietCatholic. Khi số lượng độc giả vào xem quá đông, VietCatholic thu hút quá nhiều bandwidth gây tắc nghẽn hay làm chậm quá đáng kể lưu lượng giao thông (traffic) của nhà cung cấp Internet, thì họ phải mời chúng ta đi chỗ khác chơi để người ta còn làm ăn được.

Quý cha và anh chị em theo dõi thường xuyên VietCatholic có thể nhớ lại là vào năm 2001, có một thời gian hơn 15 ngày VietCatholic không thể phát được trên mạng lưới toàn cầu vì chúng tôi bị buộc phải dọn nhà khẩn cấp trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Rút kinh nghiệm, Cha Gioan Trần Công Nghị đã ký một hợp đồng trong đó VietCatholic, dù bất kỳ tình huống nào, cũng không thể bị đơn phương hủy bỏ hợp đồng phát trên mạng Internet.

Với hợp đồng đó, liên tục trong 6 năm qua, VietCatholic không phải “dọn nhà”, và quý cha, quý tu sĩ nam nữ và anh chị em có thể thấy rằng VietCatholic đã có thể phát liên tục không một ngày giờ nào bị trục trặc. Đó là một điều rất đáng mừng và đáng tạ ơn.

Tuy nhiên, bây giờ chúng tôi lại phải "dọn nhà"…

Trong thời gian gần đây, những biến cố tại Việt Nam đã thu hút sự quan tâm theo dõi của đông đảo người Công Giáo Việt Nam trên toàn thế giới và cả những người nước ngoài. Lượng truy cập tăng lên đột ngột. Thêm vào đó, VietCatholic còn phát những phóng sự hình ảnh dưới dạng video, audio và photo album khiến cho số lượng MB sử dụng tăng quá mức.

Trong 3 tháng vừa qua, VietCatholic liên tục vi phạm hợp đồng với nhà cung ứng Internet vì số lượng MB sử dụng vượt gấp nhiều lần mức cho phép. Họ không mời chúng ta đi chỗ khác chơi nhưng gởi những giấy phạt mỗi tháng, tháng sau phạt nặng hơn tháng trước. Mỗi tháng hơn một ngàn Mỹ Kim. Theo hợp đồng hiện nay, bình thường mỗi tháng VietCatholic phải trả 600 Mỹ Kim. Nếu cộng thêm số tiền bị phạt thì gần 2000 Mỹ Kim một tháng.

Nguồn Tài Chính của VietCatholic

Những năm trước đây, khi công việc ít, Ban Biên Tập có giờ để làm những CD bán gây quỹ trang trải các chi phí trên server. Nhưng những năm gần đây, công việc trở nên nhiều hơn. Ngoài phần tiếng Việt, VietCatholic còn phải làm thêm tin tiếng Anh. Một số vị cộng tác viên lại đau yếu, về hưu hay qua đời. Thành ra, VietCatholic không có nguồn tài chính nào. Chi phí trang trải cho các servers do cha Gioan Trần Công Nghị tự mình gánh vác.

Từ tháng Giêng năm nay, VietCatholic được LM Nguyễn Thanh Liêm, Chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ, tặng mỗi tháng 200 Mỹ Kim; và đôi khi cũng có những vị ân nhân hiểu biết được những chi phí lớn lao của VietCatholic nên cũng tặng cho món quà nho nhỏ. Tuy nhiên, với mức gần 2000 Mỹ Kim một tháng thì quả là một gáng nặng lớn lao cho VietCatholic, và đặc biệt là cho cá nhân cha Gioan Trần Công Nghị.

Giải pháp tạm thời:

Trước tình hình đó, để giảm bớt số tiền bị phạt, tạm thời Ban Biên Tập đã phải cắt bỏ các videos, slideshows, presentations, các bài hát, các albums hình ảnh trên trang VietCatholic dù chúng tôi biết những chương trình này rất được độc giả và nhất là giới trẻ ưa chuộng.

Đồng thời, VietCatholic quyết định hủy bỏ hợp đồng hiện nay với nhà cung ứng Internet và thay thế bằng một hợp đồng khác mạnh hơn, sức chứa lớn hơn và bandwidth có dung lượng nhiều hơn. Với hợp đồng mới, VietCatholic có thể phát được đầy đủ mọi thứ hầu có thể cung ứng những tin tức xác thực, nhanh chóng, kịp thời với những phương tiện kỹ thuật tân tiến.

Giải pháp ổn định cho tương lai:

Hợp đồng mới VietCatholic vừa đạt được với nhà cung cấp Internet cho phép chúng tôi phát với bandwidth 6 lần nhiều hơn hiện nay trên tất cả các servers của VietCatholic (VietCatholic sử dụng rất nhiều servers khác nhau để tăng tốc độ truy cập, để chống tấn công, để tránh bị firewall tại Việt Nam và có nhiều servers chuyên dụng như server gởi bản tin hàng ngày về Việt Nam).

Với hợp đồng mới này, mỗi tháng VietCatholic phải trả nhiều hơn, gần 1000 Mỹ Kim, nhưng nguy cơ bị phạt giảm thiểu đáng kể.

Chúng tôi sẽ tiến hành “dọn nhà” theo trình tự để giảm thiểu tối đa những trở ngại khi truy cập thông tin trên VietCatholic. Tuy nhiên, có thể cũng không tránh khỏi những trở ngại ngoài ý muốn. Xin quý cha và anh chị em thông cảm cho tình hình khó khăn VietCatholic phải đương đầu.

Đồng thời, về phương hướng lâu dài, chúng tôi tha thiết kêu gọi sự giúp đỡ của quý cha và anh chị em trong những việc cụ thể sau:

1. Xin quý cha và anh chị em quảng đại đóng góp tài chánh cho VietCatholic để chúng tôi có phương tiện cải tiến không ngừng về kỹ thuật.

2. Với những ân nhân có khả năng, xin giúp định kỳ cho VietCatholic để ổn định được vấn đề tài chánh không những chỉ để chi trả chi phí cho các servers, mà còn có cơ hội phát triển và tạo cơ hội có thêm những người cộng tác, đặc biệt là các phóng viên từ Việt Nam. Nếu có điều kiện và phương tiện hỗ trợ, chắc chắn các phóng viên từ Việt Nam sẽ là nguồn lực và nguồn thông tin vô cùng quý hóa và cần thiết cho những biến chuyển hôm nay và những dự tính lâu dài trong tương lai. Từ trước tới nay các phóng viên và những người viết bài, ngay cả từ Việt Nam, cũng đều là thiện nguyện, và không được trả thù lao nào cả. Họ phải tự trang trải mọi chi phí máy móc và chi phí Internet.

3. Xin kêu gọi các Linh mục Quản nhiệm, các Giáo xứ, Cộng đoàn, hay Hội đoàn, nếu các vị nào nhận thấy VietCatholic là một trong những phương tiện hữu dụng đang phục vụ cho lợi ích chung của toàn thể Giáo Hội và Quê Hương, thì xin quyên góp trong nhà thờ, trong hội đoàn của mình, để chia sẻ gánh nặng chung với VietCatholic.

Những đóng góp của các ân nhân và toàn thể quý vị:

Xin viết chèque cho VietCatholic, và xin gửi về địa chỉ:

VietCatholic

P.O.Box 1408

Claremont, CA 91711


Nếu muốn dùng Credit Cards, PayPal, etc... Xin vào trang:

http://vietcatholic.net/News/Html/donation.htm


Chúng tôi sẽ lên danh sách của quý ân nhân và độc giả đóng góp để tường trình công khai và rõ ràng với toàn thể quý độc giả.

Chúng tôi rất ái ngại khi đưa vấn đề tài chánh để xin sự trợ giúp của quý vị, vì đây là vấn đề rất tế nhị và khó khăn cho chúng tôi. Trong 12 năm hoạt động vừa qua, đây là lần thứ hai chúng tôi phải lên tiếng kêu gọi sự đóng góp tài chánh. Lần đầu vào năm 2000 khi cần tân trang các servers, và lần này là vì vấn đề chi phí bội thu hàng tháng trong việc duy trì mạng VietCatholic. Chúng tôi mong mỏi sự thông cảm và lòng quảng đại của quý Cha, quý nam nữ Tu sĩ và Anh Chị Em giáo dân, cùng toàn thể quý Độc giả.

Nguyện xin Thiên Chúa và Đức Mẹ La Vang ban muôn hồng ân và phép lành cho quý vị và toàn gia quyến và xin tiếp tục cầu nguyện và ủng hộ chúng tôi để chúng ta cùng nhau làm trọn trách nhiệm Truyền Giáo và Truyền Thông cho Sự Thật, Lẽ Phải và nền Công Lý và Hòa Bình cho Quê Hương và Giáo Hội Việt Nam.

Ngày 7.11.2008

Thay mặt Ban Điều Hành

Kỹ sư Đặng Minh An

Phó Giám đốc VietCatholic
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Mùa Gặt
Diệp Hải Dung
00:09 08/11/2008

MÙA GẶT



Ảnh của Diệp Hải Dung (hình chụp tại Broken Hill, Australia)

Vỡ đất bao đời vẫn với trâu

Ngày nay cầy máy đỡ lo âu…

(Trích thơ của Phạm Kỉnh)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền
 
Điểm tựa đời con
Thu Oanh
09:39 08/11/2008
Điểm tựa đời con

Nếu Chúa không gọi nắng
Thì hoa đâu nở trong vườn
Con không tựa vào Ngài
Thì con như lá úa phai
Yếu đuối trong cuộc sống
Đời con tay trắng hư không

(Trích trong bài hát Trông cậy Chúa của LM Nguyễn Duy