Phụng Vụ - Mục Vụ
Không gì là không thể
Lm. Minh Anh
00:45 28/10/2020
KHÔNG GÌ LÀ KHÔNG THỂ
“Suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật bất ngờ khi chúng ta khám phá những chi tiết đầy thú vị ở hai Thánh Tông đồ hôm nay Giáo Hội mừng kính. Thánh Giuđa Tađêô được biết như người bảo trợ cho các ‘trường hợp bất khả thi’; Thánh Simon được biết như người bảo trợ cho sự ‘thay đổi thái độ’.
Thánh Giuđa Tađêô, họ hàng của Chúa Giêsu, người đã có một thư trong các thư Tân Ước. Giuđa Tađêô được gọi là người bảo trợ cho những ‘trường hợp bất khả thi’, nghĩa là, ‘không gì là không thể’ đối với Thiên Chúa. Với Giuđa Tađêô, Thiên Chúa là Đấng độc nhất, là Cứu Chúa, bất khả chiến bại, đầy vinh quang và oai hùng; trong lá thư duy nhất của mình, ngài viết, “Xin kính dâng Thiên Chúa duy nhất, Đấng Cứu Độ chúng ta, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta; kính dâng Người vinh quang, oai phong, sức mạnh và quyền năng, trước mọi thời, bây giờ và cho đến muôn đời”.
Thánh Simon được gọi là Nhiệt Tâm. ‘Nhiệt Tâm’ thời Chúa Giêsu là nhóm người nổi tiếng với việc kích động dân chống lại người Rôma đang chiếm đóng; cách nào đó, những người này có xu hướng nổi dậy. Là thành viên của một nhóm có ý hướng chính trị, chắc chắn Simon phải chú ý đến sự xuất hiện của Chúa Giêsu và nhóm người theo Ngài; và một khi đã trở thành tông đồ, hẳn ông cũng đã có một bề dày nghiên cứu và thấm đẫm sứ điệp Ngài mang đến, một sứ điệp vốn đã cuốn hút ông về một Vương Quốc mới, Vương Quốc Thiên Chúa có tên là Nước Trời, một vương quốc chân thật và linh thiêng. Việc Simon được chọn có ý nghĩa là Đấng chọn ông đã nhận ra khả năng thay đổi nơi con người ông; vì thế, Simon được coi như người bảo trợ cho ai biết ‘thay đổi thái độ’.
Hai Thánh Tông đồ cùng làm nên nhóm mười hai, được mừng chung một ngày, cho chúng ta nhiều ý nghĩa sâu sắc và nhiều bài học lý thú.
Với chúng ta, vượt qua những ràng buộc tầm thường đôi khi cỏn con như những ụ mối bên đường, hay cả những chướng ngại lớn như những ngọn núi cao chót vót có vẻ như là một ‘trường hợp bất khả thi’; cũng thế, nhiều lúc thái độ cũng như cách thức nhìn nhận các vấn đề của chúng ta xem ra là ‘trường hợp bất khả thi’… thì hai Thánh Tông đồ hôm nay là một bằng chứng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn những khiếm khuyết của con người, miễn sao chúng ta tuyệt đối tín thác vào lòng xót thương của Chúa. Vì ‘không gì là không thể’ đối với Thiên Chúa ngay cả việc từ bỏ một thái độ, một lối sống này để chấp nhận một thái độ, một lối sống tốt hơn. Những ràng buộc vật chất, những trói buộc tinh thần; những thái độ ích kỷ, ươn lười hay ở lỳ trong tội; hoặc những thành kiến, định kiến với người này, người kia nhiều lúc là ‘những gì bất khả thi’ khiến chúng ta không thể vượt qua để từ đó có thể chấp cánh bay cao; thì với ân sủng Chúa cùng với những nỗ lực hết mình, chúng ta vẫn có thể làm được; và đó, cũng chính là điều Thiên Chúa rất mong chờ.
Một khi nghĩ đến các Tông đồ, hẳn không bao giờ Simon, Giuđa là những cái tên đầu tiên ‘may mắn’ được chúng ta nhớ đến; tên của hai ngài hầu như cũng luôn đội sổ nhóm mười hai, chỉ trước Giuđa, kẻ chối Thầy. Thế thì, không phải ai ai cũng cần là người đứng đầu để có thể trở thành người cộng tác tích cực cho kế hoạch của Thiên Chúa. Simon và Giuđa là những người trung thành, những người đã kiên trì trong sứ mệnh Chúa trao; cũng thế, chúng ta không cần phải là những ngôi sao, chỉ cần chúng ta chiếu sáng; không cần phải đại thành công, chỉ cần mãi trung thành.
Ngoài ra, để có thể vượt qua những điều bất khả thi cũng như thay đổi một nếp sống, một thái độ sống, điều quan trọng chúng ta không bao giờ quên, đó là chuyên chăm cầu nguyện. Tin Mừng hôm nay nói đến việc Chúa Giêsu thức suốt đêm để cầu nguyện. Với những con người bất khả thi, với những thái độ bất khả chấp nhận, nhờ cầu nguyện và liên lỉ cầu xin Chúa Cha, với những con người hèn yếu đó, Chúa Giêsu vẫn xây dựng được Giáo Hội của Ngài.
Thánh Isaac Syria có một kinh nghiệm tuyệt vời về những gì bất khả thi, ngài viết, “Vào những lúc nguội lạnh và ươn ái, lòng anh em hãy hồi tưởng những thời gian quá khứ khi còn đầy nhiệt tâm và hăng say trong mọi việc, kể cả những việc nhỏ nhặt nhất; hãy nhớ lại những cố gắng trước kia và năng lực đã dùng để chống lại những đối thủ muốn ngăn cản sự tiến bộ của anh em. Sự hồi tưởng ấy sẽ đánh thức tâm hồn anh em khỏi giấc ngủ mê, đem lại cho nó một ngọn lửa hăng say, nâng nó chỗi dậy từ chỗ chết, làm nó sốt sắng dấn thân vào cuộc chiến chống lại ma quỷ và tội lỗi”.
Anh Chị em,
Để chọn gọi chúng ta trong mọi đấng bậc, Chúa Giêsu cũng đã thức suốt nhiều đêm. Dưới con mắt người đời, chúng ta có thể là những con người bất khả thi và bất khả chấp nhận; nhưng dưới cái nhìn của Thiên Chúa, mỗi chúng ta thật cao cả biết chừng nào. Trong Chúa Giêsu, chúng ta trở nên đồng hương với những người thuộc dân thánh, người nhà của Thiên Chúa; để cùng hai Thánh Tông đồ hôm nay, chúng ta xây dựng toà nhà Thiên Chúa giữa trần gian. Vậy, hãy tin vào giá trị của chính mình và vươn lên, Thiên Chúa đang có một chương trình và một kế hoạch vĩ đại cho từng người. Đừng để niềm tin bị lung lay trước bão táp nhưng hãy là những con người vẹn toàn của Thiên Chúa theo ơn gọi của đấng bậc mình giữa thế giới đầy cám dỗ này. Vì với Thiên Chúa, ‘không gì là không thể’; chỉ sợ lòng chúng ta nguội lạnh với một Giêsu nào đó, đôi khi, hãy còn quá xa lạ.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Chúa đã thức suốt đêm để cầu nguyện mà chọn các Tông đồ và chọn con; xin cho con ngủ thật ngon mỗi tối, để chỗi dậy chọn Chúa mỗi ngày hầu vượt qua những ươn hèn tội lỗi; vì ‘không gì là không thể’ với Chúa”. Amen.
(Tgp. Huế)
“Suốt đêm, Người cầu nguyện cùng Thiên Chúa”.
Kính thưa Anh Chị em,
Thật bất ngờ khi chúng ta khám phá những chi tiết đầy thú vị ở hai Thánh Tông đồ hôm nay Giáo Hội mừng kính. Thánh Giuđa Tađêô được biết như người bảo trợ cho các ‘trường hợp bất khả thi’; Thánh Simon được biết như người bảo trợ cho sự ‘thay đổi thái độ’.
Thánh Simon được gọi là Nhiệt Tâm. ‘Nhiệt Tâm’ thời Chúa Giêsu là nhóm người nổi tiếng với việc kích động dân chống lại người Rôma đang chiếm đóng; cách nào đó, những người này có xu hướng nổi dậy. Là thành viên của một nhóm có ý hướng chính trị, chắc chắn Simon phải chú ý đến sự xuất hiện của Chúa Giêsu và nhóm người theo Ngài; và một khi đã trở thành tông đồ, hẳn ông cũng đã có một bề dày nghiên cứu và thấm đẫm sứ điệp Ngài mang đến, một sứ điệp vốn đã cuốn hút ông về một Vương Quốc mới, Vương Quốc Thiên Chúa có tên là Nước Trời, một vương quốc chân thật và linh thiêng. Việc Simon được chọn có ý nghĩa là Đấng chọn ông đã nhận ra khả năng thay đổi nơi con người ông; vì thế, Simon được coi như người bảo trợ cho ai biết ‘thay đổi thái độ’.
Hai Thánh Tông đồ cùng làm nên nhóm mười hai, được mừng chung một ngày, cho chúng ta nhiều ý nghĩa sâu sắc và nhiều bài học lý thú.
Với chúng ta, vượt qua những ràng buộc tầm thường đôi khi cỏn con như những ụ mối bên đường, hay cả những chướng ngại lớn như những ngọn núi cao chót vót có vẻ như là một ‘trường hợp bất khả thi’; cũng thế, nhiều lúc thái độ cũng như cách thức nhìn nhận các vấn đề của chúng ta xem ra là ‘trường hợp bất khả thi’… thì hai Thánh Tông đồ hôm nay là một bằng chứng cho thấy quyền năng của Thiên Chúa mạnh mẽ hơn những khiếm khuyết của con người, miễn sao chúng ta tuyệt đối tín thác vào lòng xót thương của Chúa. Vì ‘không gì là không thể’ đối với Thiên Chúa ngay cả việc từ bỏ một thái độ, một lối sống này để chấp nhận một thái độ, một lối sống tốt hơn. Những ràng buộc vật chất, những trói buộc tinh thần; những thái độ ích kỷ, ươn lười hay ở lỳ trong tội; hoặc những thành kiến, định kiến với người này, người kia nhiều lúc là ‘những gì bất khả thi’ khiến chúng ta không thể vượt qua để từ đó có thể chấp cánh bay cao; thì với ân sủng Chúa cùng với những nỗ lực hết mình, chúng ta vẫn có thể làm được; và đó, cũng chính là điều Thiên Chúa rất mong chờ.
Một khi nghĩ đến các Tông đồ, hẳn không bao giờ Simon, Giuđa là những cái tên đầu tiên ‘may mắn’ được chúng ta nhớ đến; tên của hai ngài hầu như cũng luôn đội sổ nhóm mười hai, chỉ trước Giuđa, kẻ chối Thầy. Thế thì, không phải ai ai cũng cần là người đứng đầu để có thể trở thành người cộng tác tích cực cho kế hoạch của Thiên Chúa. Simon và Giuđa là những người trung thành, những người đã kiên trì trong sứ mệnh Chúa trao; cũng thế, chúng ta không cần phải là những ngôi sao, chỉ cần chúng ta chiếu sáng; không cần phải đại thành công, chỉ cần mãi trung thành.
Ngoài ra, để có thể vượt qua những điều bất khả thi cũng như thay đổi một nếp sống, một thái độ sống, điều quan trọng chúng ta không bao giờ quên, đó là chuyên chăm cầu nguyện. Tin Mừng hôm nay nói đến việc Chúa Giêsu thức suốt đêm để cầu nguyện. Với những con người bất khả thi, với những thái độ bất khả chấp nhận, nhờ cầu nguyện và liên lỉ cầu xin Chúa Cha, với những con người hèn yếu đó, Chúa Giêsu vẫn xây dựng được Giáo Hội của Ngài.
Thánh Isaac Syria có một kinh nghiệm tuyệt vời về những gì bất khả thi, ngài viết, “Vào những lúc nguội lạnh và ươn ái, lòng anh em hãy hồi tưởng những thời gian quá khứ khi còn đầy nhiệt tâm và hăng say trong mọi việc, kể cả những việc nhỏ nhặt nhất; hãy nhớ lại những cố gắng trước kia và năng lực đã dùng để chống lại những đối thủ muốn ngăn cản sự tiến bộ của anh em. Sự hồi tưởng ấy sẽ đánh thức tâm hồn anh em khỏi giấc ngủ mê, đem lại cho nó một ngọn lửa hăng say, nâng nó chỗi dậy từ chỗ chết, làm nó sốt sắng dấn thân vào cuộc chiến chống lại ma quỷ và tội lỗi”.
Anh Chị em,
Để chọn gọi chúng ta trong mọi đấng bậc, Chúa Giêsu cũng đã thức suốt nhiều đêm. Dưới con mắt người đời, chúng ta có thể là những con người bất khả thi và bất khả chấp nhận; nhưng dưới cái nhìn của Thiên Chúa, mỗi chúng ta thật cao cả biết chừng nào. Trong Chúa Giêsu, chúng ta trở nên đồng hương với những người thuộc dân thánh, người nhà của Thiên Chúa; để cùng hai Thánh Tông đồ hôm nay, chúng ta xây dựng toà nhà Thiên Chúa giữa trần gian. Vậy, hãy tin vào giá trị của chính mình và vươn lên, Thiên Chúa đang có một chương trình và một kế hoạch vĩ đại cho từng người. Đừng để niềm tin bị lung lay trước bão táp nhưng hãy là những con người vẹn toàn của Thiên Chúa theo ơn gọi của đấng bậc mình giữa thế giới đầy cám dỗ này. Vì với Thiên Chúa, ‘không gì là không thể’; chỉ sợ lòng chúng ta nguội lạnh với một Giêsu nào đó, đôi khi, hãy còn quá xa lạ.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, Chúa đã thức suốt đêm để cầu nguyện mà chọn các Tông đồ và chọn con; xin cho con ngủ thật ngon mỗi tối, để chỗi dậy chọn Chúa mỗi ngày hầu vượt qua những ươn hèn tội lỗi; vì ‘không gì là không thể’ với Chúa”. Amen.
(Tgp. Huế)
29/10: Ngôn sứ phải chết ngoài thành Giêrusalem sao? Suy Niệm của Lm. Giuse Nguyễn Xuân Hiếu, CSsR
Giáo Hội Năm Châu
06:28 28/10/2020
Phúc Âm: Lc 13, 31-35
"Không lẽ một ngôn sứ phải chết ngoài thành Giêrusalem?"
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Một hôm tại Giêrusalem, có mấy người Pharisiêu đến thưa Đức Chúa Giêsu rằng: "Xin ông ra khỏi đây, vì vua Hêrôđê đang muốn giết ông". Người bảo họ: "Các ông hãy đi nói với con cáo ấy thế này: "Hôm nay và ngày mai tôi trừ quỷ và chữa lành bệnh tật, ngày thứ ba tôi hoàn tất. Tuy nhiên, hôm nay, ngày mai và ngày mốt, tôi phải tiếp tục đi, vì một ngôn sứ mà chết ngoài thành Giêrusalem thì không được".
"Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi. Ðã bao lần Ta muốn tập họp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập họp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì nay, nhà các ngươi sẽ bị bỏ mặc cho các ngươi. Mà Ta nói cho các ngươi hay: Các ngươi sẽ không còn thấy Ta nữa, cho đến thời các ngươi nói: "Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Đức Chúa!"
Ðó là lời Chúa.
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:23 28/10/2020
8. Im lặng có thể làm cho chúng ta hạnh phúc và đem lại bình an lớn nhất.
(Thánh nữ Terese of Lisieux)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
16:29 28/10/2020
64. QUAN ÂM NGÀN MẮT
Nam Tống là Hiếu Tôn có lần dùng tay chơi banh, vô tình đánh trúng con ngựa bị thương một con mắt.
Nhà Kim sai sứ đến để chúc mừng sinh nhật của ông ta, lễ vật là một tượng phật quan âm ngàn mắt bằng ngọc trắng, bên trong có hàm ý đùa giỡn.
Hoàng đế Hiếu Tôn ra lệnh cho mời sứ giả của nước Kim vào nhà khách chùa Kinh Sơn của triều đình để nghỉ ngơi, khi đến trước cổng chùa, hòa thượng chủ trì nói:
- “Khi một tay động thì ngàn tay động, khi một mắt nhìn ngàn mắt nhìn; may mắn được thái bình vô sự, cần gì phải làm nhiều như thế”.
Sứ giả nước Kim bất giác thẹn đỏ mặt.
(Chử Ký Thất)
Suy tư 65:
Tượng Phật ngàn tay ngàn mắt là chỉ sự thần thông biến hóa thông suốt trời đất của đức Phật mà những thiện nam tín nữ đã tin, niềm tin này đã làm cho người phật giáo ăn ngay ở lành, nếu không thì sẽ bị trầm luân trong bể khổ đầu thai làm kiếp súc sinh thì càng khổ hơn.
Người Ki-tô hữu không có tượng Thiên Chúa ngàn mắt ngàn tay, nhưng có một Thiên Chúa duy nhất thông suốt mọi sự vì Ngài là Đấng tạo dựng trời đất, vì Ngài là Đấng yêu thương, là Đấng mà nhân loại phải tôn thờ...
Tượng phật ngàn mắt ngàn tay thì có thật, nhưng Phật ngàn tay ngàn mắt thì không có vì đó là sản phẩm tượng tượng của những người tin Phật, nhưng Thiên Chúa của người Ki-tô hữu là Đấng vô hình không phải là sản phẩm do con người tưởng tượng, nhưng là do Đức Chúa Giê-su mạc khải cho chúng ta biết và dạy chúng ta phải gọi Ngài là “Cha chúng con ở trên trời”, đó là một hạnh phúc lớn lao cho chúng ta –những người Ki-tô hữu.
“Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình...”, do đó mà tôi phải ăn ở như thế nào để mọi người nhận ra Thiên Chúa của tôi là có thật, khi mà trào lưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và vạn vật, nơi những người tự cho mình là không cần Thiên Chúa mà vẫn cứ tồn tại !!
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Nam Tống là Hiếu Tôn có lần dùng tay chơi banh, vô tình đánh trúng con ngựa bị thương một con mắt.
Nhà Kim sai sứ đến để chúc mừng sinh nhật của ông ta, lễ vật là một tượng phật quan âm ngàn mắt bằng ngọc trắng, bên trong có hàm ý đùa giỡn.
Hoàng đế Hiếu Tôn ra lệnh cho mời sứ giả của nước Kim vào nhà khách chùa Kinh Sơn của triều đình để nghỉ ngơi, khi đến trước cổng chùa, hòa thượng chủ trì nói:
- “Khi một tay động thì ngàn tay động, khi một mắt nhìn ngàn mắt nhìn; may mắn được thái bình vô sự, cần gì phải làm nhiều như thế”.
Sứ giả nước Kim bất giác thẹn đỏ mặt.
(Chử Ký Thất)
Suy tư 65:
Tượng Phật ngàn tay ngàn mắt là chỉ sự thần thông biến hóa thông suốt trời đất của đức Phật mà những thiện nam tín nữ đã tin, niềm tin này đã làm cho người phật giáo ăn ngay ở lành, nếu không thì sẽ bị trầm luân trong bể khổ đầu thai làm kiếp súc sinh thì càng khổ hơn.
Người Ki-tô hữu không có tượng Thiên Chúa ngàn mắt ngàn tay, nhưng có một Thiên Chúa duy nhất thông suốt mọi sự vì Ngài là Đấng tạo dựng trời đất, vì Ngài là Đấng yêu thương, là Đấng mà nhân loại phải tôn thờ...
Tượng phật ngàn mắt ngàn tay thì có thật, nhưng Phật ngàn tay ngàn mắt thì không có vì đó là sản phẩm tượng tượng của những người tin Phật, nhưng Thiên Chúa của người Ki-tô hữu là Đấng vô hình không phải là sản phẩm do con người tưởng tượng, nhưng là do Đức Chúa Giê-su mạc khải cho chúng ta biết và dạy chúng ta phải gọi Ngài là “Cha chúng con ở trên trời”, đó là một hạnh phúc lớn lao cho chúng ta –những người Ki-tô hữu.
“Tôi tin kính một Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng tạo thành trời đất muôn vật hữu hình và vô hình...”, do đó mà tôi phải ăn ở như thế nào để mọi người nhận ra Thiên Chúa của tôi là có thật, khi mà trào lưu loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống của con người và vạn vật, nơi những người tự cho mình là không cần Thiên Chúa mà vẫn cứ tồn tại !!
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Các Thánh là những ai
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
17:26 28/10/2020
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ 01/11
CÁC THÁNH LÀ NHỮNG AI?
Kh 7,2-4,9-14; 1 Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a
Ngày hôm nay, các nhà khoa học đã phóng những tín hiệu vào trong vũ trụ, với hy vọng có thể nhận được những tín hiệu từ một số sinh vật thông minh trên những hành tinh đã mất tích. Giáo Hội luôn liên lạc với những dân cư thuộc thế giới khác – đó là các Thánh Nam Nữ trên trời, điều mà chúng ta tuyên xưng khi nói rằng: “Tôi tin Các Thánh thông công.” Nếu có những dân cư ngoài hệ mặt trời đã hiện hữu, sự hiệp thông với họ có lẽ là không thể, bởi vì giữa câu hỏi và câu trả lời là khoảng cách hàng triệu năm qua rồi. Tuy nhiên, ở đây, đối với chúng ta, câu trả lời là trực tiếp bởi vì có một trung tâm chung cho sự truyền thông và gặp gỡ này, đó là Đức Kitô Phục Sinh.
Có lẽ vì ngày lễ Các Thánh được cử hành vào một thời điểm đặc biệt gần cuối năm phụng vụ, nên có điều gì đó đặc biệt diễn tả ý nghĩa cuộc đời. Chính vì thế, người tín hữu rất yêu thích tham dự thánh lễ này. Đó chính là điều mà Thánh Gioan nói trong bài đọc II: “Hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ” (1 Ga 3,1-3). Chúng ta giống như phôi thai trong dạ mẹ mong được sinh ra. Các thánh đã được “sinh ra.” Vì thế, phụng vụ coi ngày từ trần của Các Thánh là “ngày sinh nhật” của các ngài (dies natalis). Chiêm ngắm Các Thánh là chiêm ngắm vận mệnh chúng ta. Mọi sự xung quanh chúng ta, thiên nhiên như tàn lụi và lá cây rụng xuống, nhưng lễ các thánh mời gọi chúng ta nhìn cao hơn. Nó nhắc nhở mỗi người ý thức rằng, chúng ta không được tiền định để mãi mãi tàn lụi ở trên trái đất này, giống như lá rụng, nhưng là để sống vĩnh cửu với Thiên Chúa như Các Thánh.
Bài Tin Mừng là các mối phúc. Một mối phúc đặc biệt gợi hứng cho chọn lựa sống của Các Thánh, đó là: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ (Mt 5,10). Các Thánh là những người đã đói khát sự công chính. Theo nghĩa Kinh Thánh, công chính là đói khát sự thánh thiện. Họ không chấp nhận sống tầm thường và không hài lòng với kiểu nửa vời.
Bài đọc I của ngày lễ giúp chúng ta hiểu Các Thánh là ai. Họ “đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên” (Kh 7,14). Sự thánh thiện được đón nhận từ Chúa Kitô; nó không phải là sản phẩm của chúng ta. Trong Cựu Ước, nên thánh có nghĩa là ‘được tách riêng’ khỏi mọi sự ô uế; theo truyền thống Kitô giáo, nên thánh nó ngược lại, nghĩa là được “kết hợp với Chúa Kitô.”
Các Thánh là những người được cứu độ, được kết hợp với Chúa Kitô. Họ không chỉ là những người được đề cập trong lịch phụng vụ hoặc trong sách hạnh Các Thánh. Nhưng còn rất nhiều vị Thánh mà chúng ta không biết đến, có vô số những người đã sống cuộc sống trần thế một cách tốt lành và thánh thiện, đã được Thiên Chúa vinh thăng. Có rất nhiều người âm thầm hy sinh cuộc đời của mình vì tha nhân, có người phải tử đạo vì công lý và tự do, có người một đời tận tụy chu toàn bổn phận của mình trong âm thầm, khiêm tốn phục vụ người khác nơi bệnh viện, nơi học đường, nơi các gia đình và các tổ chức Giáo Hội… Dầu không ai biết đến, nhưng họ là những người đã giặt áo mình trong máu Con Chiên, vì họ sống theo tiếng nói lương tâm và luôn lo lắng vì thiện ích của tha nhân.
Một câu hỏi tự nhiên đặt ra: Các Thánh trên trời làm gì? Chúng ta tìm thấy câu trả lời ở đây trong bài đọc I: “Họ sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô rằng: “Amen! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! Amen!” (Kh 7,11-12). Ơn gọi đích thực của con người được thành toàn trong họ, đó là được “ca ngợi vinh quang Thiên Chúa (Ep 1,14). Ca đoàn các thánh được hướng dẫn bởi Đức Maria, Đấng tiếp tục Thánh Thi Tạ Ơn của mình trên thiên đàng: “Linh hồn tôi tung hô Chúa.” Trong lời ca ngợi này mà các thánh tìm thấy hạnh phúc và niềm vui. “Linh hồn tôi hớn hở trong Thiên Chúa.” Một người đang yêu, là người luôn biết ngưỡng mộ và ca ngợi. Khi yêu mến và ca ngợi Thiên Chúa, chúng ta sẽ trở nên giống Thiên Chúa, tham dự vào vinh quang và hạnh phúc của Người.
Một ngày nọ, một vị thánh có tên là Saint Simon The New Theologian, có một kinh nghiệm thần bí về Thiên Chúa rất mãnh liệt, ngài kêu lên rằng: “Thiên đàng không hơn điều này, nó đủ cho con rồi.” Nhưng ngài nghe Chúa Kitô nói: “Con là người rất nghèo nàn nếu con bằng lòng với điều đó. Vì niềm vui con đang trải nghiệm khi so sánh với thiên đàng giống như bầu trời được vẽ trên giấy so với bầu trời thật.”
Như thế, lễ Các Thánh là ngày cử hành niềm vui của chúng ta, bởi vì Các Thánh là những thành viên trong gia đình, giáo xứ của chúng ta đã được vinh thăng, đồng thời ngày lễ này nhắc nhở và củng cố niềm hy vọng lớn lao về định mệnh cao cả nhất của mỗi người là được kết hợp với Đức Kitô. Nguyện xin Các Thánh Nam Nữ trên trời cầu bầu cho chúng ta. Amen.
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Khi thần chết lên tiếng
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
17:30 28/10/2020
LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN 02/11
KHI THẦN CHẾT LÊN TIẾNG
Rm 6,3-9; Ga 6,51-59 (Kn 3,1-9; Lc 23,33.39-43; Rm 5,4-11; Ga 17,24-26)
Cử hành lễ các Đẳng Linh Hồn là dịp rất thuận tiện để chúng ta suy tư về cái chết.
Trong Kinh Thánh, chúng ta tìm thấy những lời quả quyết khá rõ ràng trong sách Khôn Ngoan: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong… Quả thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người. Nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian (Kn 1,13.24).
Từ trích đoạn này, chúng ta hiểu tại sao khi thần chết đến, mọi sự phải kết thúc, mọi sự bị hủy diệt. Theo đó, sự chết xem ra không phải là một điều “tự nhiên” đối với chúng ta. Bởi vì, nó không đến từ Thiên Chúa, nó không nằm trong trật tự tạo thành. Cái chết là kết quả “sự ganh tị của quỷ dữ.” Bởi đó, chúng ta phải chiến đấu chống lại cái chết với tất cả sức mạnh của mình. Khát vọng triền miên của con người “tham sống vợ chết.” Đó là bằng chứng hùng hồn nhất về chân lý con người không được tạo dựng để diệt vong, nhưng để được sống. Chết không phải là hạn từ cuối cùng của cuộc sống. Bài đọc I của thánh lễ này khẳng định lại với chúng ta điều đó: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa, và chẳng cực hình nào đụng tới được nữa” (Kn 3,1).
Tham sống sợ chết là bản năng sinh tồn được khắc sâu trong xương tủy mỗi con người. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng mọi hoạt động của con người đều chịu ảnh hưởng và tác động bởi bản năng tính dục. Từ đó, họ giải thích mọi sự theo cái nhìn này, cả trong nghệ thuật và tôn giáo. Nhưng nỗi lo sợ chết còn mạnh hơn cả bản năng tính dục. Chết là điều xảy ra sau cùng, nhưng nó lại tác động trên mọi việc ta làm trước đó. Tất cả mọi người đều kêu lên rằng: “Tôi không muốn chết.”
Như thế, tại sao chúng ta lại được mời gọi hãy suy nghĩ về cái chết khi biết rằng ai cũng phải chết? Câu trả lời rất đơn giản: Bởi vì chúng ta thường trốn tránh nó, không muốn nghĩ về nó, vì mỗi lần như thế làm chúng ta sợ. Chúng ta cũng thường cho rằng chắc mình chưa chết đâu, cái chết chỉ đến với người khác, chứ không đến với mình.
Nhưng việc suy nghĩ về sự chết không cho phép chúng ta gạt nó sang một bên cách dễ dàng. Vì thế, chúng ta tìm mọi cách để ngăn cản nó hoặc là chấp nhận nó. Con người không ngừng tìm kiếm những biện pháp, những phương thuốc để được trường sinh. Một trong số những bài thuốc này được gọi là sinh sản con cái: một người tiếp tục kéo dài sự sống mình bằng cách sinh ra một đứa con. Người khác thì tìm kiếm sự nổi tiếng, để được lưu danh hậu thế. Trong thời đại chúng ta, nhiều người hôm nay lại chạy theo thuyết luân hồi.
Chúng ta phải nói rằng thuyết luân hồi là không thể phù hợp với Đức tin Kitô giáo. Nó cho rằng người chết tiếp tục đầu thai và sống một kiếp mới trong một con vật nào đó để tu luyện chờ được giải thoát. Theo niềm tin Kitô giáo, được Kinh Thánh mạc khải: “Phận con người chỉ chết một lần rồi sau đó chịu phán xét” (Dt 9,27). Thuyết luân hồi cũng dạy rằng hình thức đầu thai luân hồi là kết quả của một sự sai lầm. Xét cho cùng, luân hồi không thêm gì cho sự sống, nhưng thêm đau khổ; nó không phải là nguồn mang lại sự an ủi, nhưng mang lại sợ hãi. Thuyết luân hồi như một cảnh báo cho mọi người: “Hãy cẩn trọng không làm điều dữ, bởi vì bạn sẽ phải đầu thai để đền tội!” Điều này giống như nói người nào đó trong tù đang gần hoàn tất thời gian giam cầm của mình rằng hình phạt của anh đã được nới rộng, anh phải vượt qua tất cả.
Kitô giáo có cái gì đó rất khác để trình bày liên quan đến vấn đề sự chết. Người Kitô hữu tuyên xưng rằng “một Người đã chết vì mọi người,” nhờ đó cái chết đã bị tiêu diệt; nó không có là một vách tường mà từ đó mọi sự phải lao xuống, nhưng đúng hơn là một chiếc cầu để đi sang bến bờ bên kia – là sự trường tồn, là hạnh phúc đời đời với Thiên Chúa. Tuy nhiên, suy niệm về cái chết là điều rất có ích cho các tín hữu. Bởi vì đặc biệt nó giúp chúng ta sống tốt hơn.
Bạn có bị lo lắng bởi những vấn đề, những khó khăn và những xung đột khi nghĩ về cái chết không? Hãy nghĩ rằng những điều này sẽ xuất hiện lúc chết, nhưng với cái nhìn của Đức tin, bạn sẽ thấy chúng có một ý nghĩa khác như thế nào? Chúng ta không phải là cam chịu và thụ động chờ chết. Ngược lại, chúng ta sẽ làm nhiều điều hơn và làm tốt hơn bởi vì chúng ta bình tâm hơn và thanh thoát hơn trước cái chết. Như Thánh Vịnh nói: “Hãy đếm ngày mình sống ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 89,12). Hãy nhớ đến các Linh Hồn là những người thân của chúng ta và cầu nguyện cho họ để họ sớm hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng. Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Tránh men Biệt Phái, sống men Tin Mừng
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
17:40 28/10/2020
CHÚA NHẬT XXXI THƯỜNG NIÊN
Tránh men Biệt Phái, sống men Tin Mừng
Ml 1,14b –2,2b.8-10; 1 Tx 2,7b-9.13; Mt 23,1-12
Trang Tin Mừng hôm nay là một phần của những cuộc tranh luận gay gắt mà Chúa Giêsu đã có với các kinh sư và Pharisêu ở Giêrusalem. Những lời cứng rắn này có thể làm cho chúng ta sốc. Bởi vì, Chúa Giêsu luôn tỏ ra là người “hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” Nhưng ở đây, Chúa Giêsu đã bùng nổ, Người làm điều phải làm khi mạnh mẽ lên án thói giả hình và lối đạo đức giả. Bởi lẽ, đây là trở ngại đáng sợ nhất đối với tôn giáo. Một khi con người mặc cho mình chiếc áo giáp “giả hình và phô trương,” đội cho mình chiếc mũ “thành kiến và bảo thủ,” cầm trong tay cây kiếm “quyền lực,” đi bằng những đôi dày đầy đinh nhọn “của sự thù địch và ghen ghét,” nhìn người khác bằng ánh mắt “dao găm,” họ sẽ rất thủ đoạn, mất khả năng đón nhận chân lý và bằng mọi giá làm điều mình muốn. Bằng chứng rõ ràng là chính thái độ này của nhóm Pharisêu đã là nguyên cớ dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu. Họ là những người nắm quyền lực tôn giáo cao nhất ở Giêrusalem. Họ đã khước từ và kết án Chúa Giêsu.
1- Ba cám dỗ của men “Pharisêu”
Các kinh sư là những chuyên viên về Luật; đa số thuộc về nhóm Pharisêu, là nhóm quan trọng nhất trong đời sống tôn giáo và chính trị lúc bấy giờ; họ cũng rất có thế giá đối với dân. Chúa Giêsu nhìn nhận họ là những người kế thừa ông Môsê; Người khuyên dân nghe theo họ, khi họ giảng dạy đạo lý chân chính của ông Môsê. Nhưng Chúa Giêsu chỉ trích mạnh mẽ lối sống của họ. Đặc biệt, Người căn dặn phải đề phòng “men Pharisêu,” bởi vì nó mâu thuẫn với giáo lý họ dạy. Chúng ta có thể tóm tắt ba sai lầm lớn của họ, cũng là ba cơn cám dỗ đối với chúng ta:
* Nói nhưng không làm
Cám dỗ thứ nhất đó là lối sống ngôn hành bất nhất, nói mà không làm. Chúa Giêsu lên án thói xấu này: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Họ nói hay, nói nhiều, nhưng không sống, không thực hành điều mình nói. Điều này cũng làm chúng ta giật mình. Không cần phải đi đâu xa để tìm điều này nơi những người khác. Bởi lẽ, khi xét mình một cách chân thành, chúng ta cũng có thể mắc phải khuyết điểm này. Ai trong chúng ta dám khẳng định rằng mình luôn có một sự nhất quán giữa lý tưởng và đời sống thực của mình? Lời nói luôn đi đôi với việc làm không? Phải thành thật thú nhận rằng nhiều lúc khoảng cách giữa điều chúng ta nói và điều chúng ta sống là cả một biển cả mênh mông. Có sự khác biệt thật lớn lao giữa lề luật và việc chúng ta làm! Chúa lên án họ và cảnh báo chúng ta tránh men Pharisêu.
* Thích được người ta ca tụng
Cám dỗ thứ hai đó là: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài (Mt 23,5).
Thật vậy, cám dỗ muốn được người ta ca tụng, tìm kiếm chỗ nhất, may dài tua áo… không chỉ là những tật xấu của những người Pharisêu và giới thượng lưu ở Giêrusalem. Ai trong chúng ta cũng đều bị cám dỗ chiều theo lòng tự kiêu, chạy theo những tước hiệu danh dự, tìm kiếm sự ưu tiên, ưu đãi. Ngày nay, không chỉ là vấn đề “đeo những hộp kinh kệ thật lớn và may những tua áo thật dài,” nhưng còn là vấn đề muốn tỏ ra mình hơn người khác bằng cách tậu những “siêu xe,” sắm những “điện thoại khủng,” bận những bộ áo quần hàng hiệu đắt tiền, uống những thứ rượu lạ, đi vé máy bay hạng vip v.v… Chung quy muốn được người khác chú ý, vỗ tay và tỏ ra hơn bao người. Hãy coi chừng men Pharisêu đó!
* Thích thống trị hơn là phục vụ
Cám dỗ quyền lực luôn là cám dỗ triền miên ở mọi thời và mọi người, kể cả những kẻ đạo đức nhất. Các kinh sư và Pharisêu bị Chúa Giêsu chỉ trích vì: “Họ thích cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rápbi” (Mt 23,7). Tóm lại, họ chỉ thích thống trị người khác, dùng quyền để áp đặt và bắt người khác phục vụ mình. Đó là thứ bệnh “giáo sĩ trị.”
Không phải chỉ những Luật Sỹ thời xưa tỏ ra thích quyền lực, thích dạy dỗ “trên tòa Môsê.” Biết bao lần chúng ta cho rằng mình là người “độc quyền” chân lý, nắm giữ lẽ phải và áp đặt quan điểm mình trên người khác... Nhiều lúc chúng ta sa vào trật tự cho mình là thầy dạy những sai lỗi của người khác. Chúng ta đòi hỏi người khác, nhưng không đòi hỏi chính mình, chỉ tay năm ngón, bắt người khác làm theo ý mình, nhưng không có một sự dấn thân, phục vụ.
Mỗi người theo một cách thế riêng, tinh tế hay thô thiển, chúng ta đều có nguy cơ rơi vào ba cám dỗ của Pharisêu.
2- Ba giá trị chính yếu của người môn đệ đích thực
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chỉ dừng lại với việc phê phán những thói hư tật xấu, Người còn chỉ ra những thái độ tích cực mà Người muốn chúng ta đón nhận, thực hành để tránh những tật xấu ở trên để trở thành những môn đệ đích thực của Chúa. Ba thái độ tích cực đó là:
* Sống tình huynh đệ đích thực
Chúa Giêsu nói: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23,8). Đây là một lời mời gọi mang tính cách mạng, một nguyên lý để thiết lập sự bình đẳng tận căn, một lời kêu gọi cụ thể để sống theo một phong cách mới của người môn đệ Đức Kitô. Thay vì bám víu vào những khác biệt và những tước hiệu hoành tráng của bản thân, chúng ta hãy nhìn nhận mỗi người đều bình đẳng với nhau và thực sự yêu mến họ như một người anh em. Tứ giải gia huynh đệ. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi người đều bình đẳng và là anh chị em của nhau. Nên chúng ta đừng nhìn người khác như là đối thủ cạnh tranh, hay là kẻ thù phải né tránh. Nhưng hãy nhìn họ là người bạn, người anh em, và sống “tình huynh đệ bí tích” của người môn đệ Chúa Kitô.
* Sống đơn giản
“Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời (Mt 23,9). Đây là lời mời gọi hãy sống đơn giản. Đòi hỏi sống đơn giản bắt nguồn từ xác tín rằng chỉ Thiên Chúa có quyền đòi người khác tôn thờ như là Cha, là Thầy và là người lãnh đạo. Bởi lẽ, chỉ Người thực sự vượt trên mọi sự và mọi loài. Sống đơn giản là không bắt người khác phải tôn sùng mình, cũng không bắt người khác phải xưng tụng mình bằng những tước hiệu to lớn.
* Sống phục vụ
“Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23,11-12). Đây là ý nghĩa đích thực của sự phục vụ và khiêm tốn. Phục vụ không phải một điều gì đó gò bó, cũng không là điều nhục nhã. Phục vụ làm cho người ta vĩ đại. Ai làm lớn, phải biết khiêm tốn, phục vụ, và ai biết phục vụ, sẽ trở nên vĩ đại. Phục vụ người khác không phải là phủ nhận nhân cách, phẩm chất mình. Bởi lẽ, không có gì ý nghĩa hơn, không gì hạnh phúc hơn đối với người biết yêu thương và phục vụ tha nhân bằng những việc làm cụ thể.
Như thế, những gì Chúa Giêsu lên án những người lãnh đạo tôn giáo trong bài Tin Mừng hôm nay thực sự có liên quan đến chúng ta. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta xa tránh “men Biệt Phái” như ngôn hành bất nhất, phô trương và giả hình, và Người mời gọi sống “men Tin Mừng”: đơn giản, huynh đệ và khiêm tốn phục vụ tha nhân. Ba thói xấu chúng ta cần tránh và ba nhân đức chúng ta cần thực hành. Chắc chắn cuộc đời chúng ta sẽ trở nên ý nghĩa và đẹp đẽ hơn. Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Tránh men Biệt Phái, sống men Tin Mừng
Ml 1,14b –2,2b.8-10; 1 Tx 2,7b-9.13; Mt 23,1-12
Trang Tin Mừng hôm nay là một phần của những cuộc tranh luận gay gắt mà Chúa Giêsu đã có với các kinh sư và Pharisêu ở Giêrusalem. Những lời cứng rắn này có thể làm cho chúng ta sốc. Bởi vì, Chúa Giêsu luôn tỏ ra là người “hiền lành và khiêm nhường trong lòng.” Nhưng ở đây, Chúa Giêsu đã bùng nổ, Người làm điều phải làm khi mạnh mẽ lên án thói giả hình và lối đạo đức giả. Bởi lẽ, đây là trở ngại đáng sợ nhất đối với tôn giáo. Một khi con người mặc cho mình chiếc áo giáp “giả hình và phô trương,” đội cho mình chiếc mũ “thành kiến và bảo thủ,” cầm trong tay cây kiếm “quyền lực,” đi bằng những đôi dày đầy đinh nhọn “của sự thù địch và ghen ghét,” nhìn người khác bằng ánh mắt “dao găm,” họ sẽ rất thủ đoạn, mất khả năng đón nhận chân lý và bằng mọi giá làm điều mình muốn. Bằng chứng rõ ràng là chính thái độ này của nhóm Pharisêu đã là nguyên cớ dẫn đến cái chết của Chúa Giêsu. Họ là những người nắm quyền lực tôn giáo cao nhất ở Giêrusalem. Họ đã khước từ và kết án Chúa Giêsu.
1- Ba cám dỗ của men “Pharisêu”
Các kinh sư là những chuyên viên về Luật; đa số thuộc về nhóm Pharisêu, là nhóm quan trọng nhất trong đời sống tôn giáo và chính trị lúc bấy giờ; họ cũng rất có thế giá đối với dân. Chúa Giêsu nhìn nhận họ là những người kế thừa ông Môsê; Người khuyên dân nghe theo họ, khi họ giảng dạy đạo lý chân chính của ông Môsê. Nhưng Chúa Giêsu chỉ trích mạnh mẽ lối sống của họ. Đặc biệt, Người căn dặn phải đề phòng “men Pharisêu,” bởi vì nó mâu thuẫn với giáo lý họ dạy. Chúng ta có thể tóm tắt ba sai lầm lớn của họ, cũng là ba cơn cám dỗ đối với chúng ta:
* Nói nhưng không làm
Cám dỗ thứ nhất đó là lối sống ngôn hành bất nhất, nói mà không làm. Chúa Giêsu lên án thói xấu này: “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23,4). Họ nói hay, nói nhiều, nhưng không sống, không thực hành điều mình nói. Điều này cũng làm chúng ta giật mình. Không cần phải đi đâu xa để tìm điều này nơi những người khác. Bởi lẽ, khi xét mình một cách chân thành, chúng ta cũng có thể mắc phải khuyết điểm này. Ai trong chúng ta dám khẳng định rằng mình luôn có một sự nhất quán giữa lý tưởng và đời sống thực của mình? Lời nói luôn đi đôi với việc làm không? Phải thành thật thú nhận rằng nhiều lúc khoảng cách giữa điều chúng ta nói và điều chúng ta sống là cả một biển cả mênh mông. Có sự khác biệt thật lớn lao giữa lề luật và việc chúng ta làm! Chúa lên án họ và cảnh báo chúng ta tránh men Pharisêu.
* Thích được người ta ca tụng
Cám dỗ thứ hai đó là: “Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài (Mt 23,5).
Thật vậy, cám dỗ muốn được người ta ca tụng, tìm kiếm chỗ nhất, may dài tua áo… không chỉ là những tật xấu của những người Pharisêu và giới thượng lưu ở Giêrusalem. Ai trong chúng ta cũng đều bị cám dỗ chiều theo lòng tự kiêu, chạy theo những tước hiệu danh dự, tìm kiếm sự ưu tiên, ưu đãi. Ngày nay, không chỉ là vấn đề “đeo những hộp kinh kệ thật lớn và may những tua áo thật dài,” nhưng còn là vấn đề muốn tỏ ra mình hơn người khác bằng cách tậu những “siêu xe,” sắm những “điện thoại khủng,” bận những bộ áo quần hàng hiệu đắt tiền, uống những thứ rượu lạ, đi vé máy bay hạng vip v.v… Chung quy muốn được người khác chú ý, vỗ tay và tỏ ra hơn bao người. Hãy coi chừng men Pharisêu đó!
* Thích thống trị hơn là phục vụ
Cám dỗ quyền lực luôn là cám dỗ triền miên ở mọi thời và mọi người, kể cả những kẻ đạo đức nhất. Các kinh sư và Pharisêu bị Chúa Giêsu chỉ trích vì: “Họ thích cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở nơi công cộng và được thiên hạ gọi là rápbi” (Mt 23,7). Tóm lại, họ chỉ thích thống trị người khác, dùng quyền để áp đặt và bắt người khác phục vụ mình. Đó là thứ bệnh “giáo sĩ trị.”
Không phải chỉ những Luật Sỹ thời xưa tỏ ra thích quyền lực, thích dạy dỗ “trên tòa Môsê.” Biết bao lần chúng ta cho rằng mình là người “độc quyền” chân lý, nắm giữ lẽ phải và áp đặt quan điểm mình trên người khác... Nhiều lúc chúng ta sa vào trật tự cho mình là thầy dạy những sai lỗi của người khác. Chúng ta đòi hỏi người khác, nhưng không đòi hỏi chính mình, chỉ tay năm ngón, bắt người khác làm theo ý mình, nhưng không có một sự dấn thân, phục vụ.
Mỗi người theo một cách thế riêng, tinh tế hay thô thiển, chúng ta đều có nguy cơ rơi vào ba cám dỗ của Pharisêu.
2- Ba giá trị chính yếu của người môn đệ đích thực
Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không chỉ dừng lại với việc phê phán những thói hư tật xấu, Người còn chỉ ra những thái độ tích cực mà Người muốn chúng ta đón nhận, thực hành để tránh những tật xấu ở trên để trở thành những môn đệ đích thực của Chúa. Ba thái độ tích cực đó là:
* Sống tình huynh đệ đích thực
Chúa Giêsu nói: “Tất cả anh em đều là anh em với nhau” (Mt 23,8). Đây là một lời mời gọi mang tính cách mạng, một nguyên lý để thiết lập sự bình đẳng tận căn, một lời kêu gọi cụ thể để sống theo một phong cách mới của người môn đệ Đức Kitô. Thay vì bám víu vào những khác biệt và những tước hiệu hoành tráng của bản thân, chúng ta hãy nhìn nhận mỗi người đều bình đẳng với nhau và thực sự yêu mến họ như một người anh em. Tứ giải gia huynh đệ. Trước mặt Thiên Chúa, mỗi người đều bình đẳng và là anh chị em của nhau. Nên chúng ta đừng nhìn người khác như là đối thủ cạnh tranh, hay là kẻ thù phải né tránh. Nhưng hãy nhìn họ là người bạn, người anh em, và sống “tình huynh đệ bí tích” của người môn đệ Chúa Kitô.
* Sống đơn giản
“Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời (Mt 23,9). Đây là lời mời gọi hãy sống đơn giản. Đòi hỏi sống đơn giản bắt nguồn từ xác tín rằng chỉ Thiên Chúa có quyền đòi người khác tôn thờ như là Cha, là Thầy và là người lãnh đạo. Bởi lẽ, chỉ Người thực sự vượt trên mọi sự và mọi loài. Sống đơn giản là không bắt người khác phải tôn sùng mình, cũng không bắt người khác phải xưng tụng mình bằng những tước hiệu to lớn.
* Sống phục vụ
“Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên” (Mt 23,11-12). Đây là ý nghĩa đích thực của sự phục vụ và khiêm tốn. Phục vụ không phải một điều gì đó gò bó, cũng không là điều nhục nhã. Phục vụ làm cho người ta vĩ đại. Ai làm lớn, phải biết khiêm tốn, phục vụ, và ai biết phục vụ, sẽ trở nên vĩ đại. Phục vụ người khác không phải là phủ nhận nhân cách, phẩm chất mình. Bởi lẽ, không có gì ý nghĩa hơn, không gì hạnh phúc hơn đối với người biết yêu thương và phục vụ tha nhân bằng những việc làm cụ thể.
Như thế, những gì Chúa Giêsu lên án những người lãnh đạo tôn giáo trong bài Tin Mừng hôm nay thực sự có liên quan đến chúng ta. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta xa tránh “men Biệt Phái” như ngôn hành bất nhất, phô trương và giả hình, và Người mời gọi sống “men Tin Mừng”: đơn giản, huynh đệ và khiêm tốn phục vụ tha nhân. Ba thói xấu chúng ta cần tránh và ba nhân đức chúng ta cần thực hành. Chắc chắn cuộc đời chúng ta sẽ trở nên ý nghĩa và đẹp đẽ hơn. Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Tránh thói đạo đức giả hình và kiêu ngạo
Lm Đan Vinh
20:20 28/10/2020
CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN A
Mi 1,14b-2,2b.8-10; 1 Tx 2,7b-9.13; Mt 23,1-12
TRÁNH THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ HÌNH VÀ KIÊU NGẠO
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 23,1-12
(1) Bấy giờ, Đức Giê-su nói với đám đông và các môn đệ Nguời rằng: (2) “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. (3) Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. (4) Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. (5) Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. (6) Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, (7) ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (8) Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. (9) Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. (10) Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. (11) Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. (12) Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay đề cập đến thái độ các môn đệ phải có đối với Thiên Chúa và tha nhân. Phải tránh thói đạo đức giả của các đầu mục Do thái vì “nói mà không làm”, “chỉ biết bó nặng chất lên vai người khác” và “làm mọi việc để tìm tiếng khen” nơi người đời. Các môn đệ phải tránh thói kiêu ngạo khi muốn làm thầy, làm cha và làm người chỉ đạo, đang khi chỉ có một vị Thầy tối cao là Đức Giê-su, một Cha chung trên trời là Thiên Chúa và một Mục Tử duy nhất là Đức Ki-tô.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Các kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ, là những thầy dạy về Luật pháp của Mô-sê. Đa số kinh sư là thành viên của phái Pha-ri-sêu và có ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo và chính trị của dân Do thái. Tại Giê-ru-sa-lem, các kinh sư chiếm 1/3 số ghế trong Thượng Hội Đồng Do Thái. Tại các địa phương như thị trấn, làng xã, họ rất có uy tín đối với dân chúng và thường được mời làm quan tòa xét xử các vụ tranh chấp. + Các người Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một phái tôn giáo mà thành viên là những người Do thái nhiệt thành và đạo đức. Họ tách biệt khỏi dân chúng do cách ăn mặc và xử sự. Họ rất tôn trọng Thánh Kinh và các truyền thống của cha ông. Có khi coi trọng truyền thống hơn cả Thánh Kinh như đòi dân chúng phải tuân giữ các tục lệ của cha ông về ngày hưu lễ Sa-bát rất chi li. Nhiều người trong phái Pha-ri-sêu có học vị kinh sư hay luật sĩ. Người Pha-ri-sêu thường mắc phải các thói như giả hình, kiêu căng, ganh tị… đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x Mt 23,1-22), nên họ rất căm hận và tìm cách giết hại Người. + Ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy: Toà của Mô-sê ngày xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Còn thời Chúa Giê-su, tòa Mô-sê tức là bục giảng được kê trong hội đường. Các kinh sư thường ngồi trên bục mà giảng dạy Luật Mô-sê vào ngày Sa-bát.
- C 3-4: + Những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ: Đức Giê-su dạy dân chúng phải vâng nghe và tuân giữ những lời giảng dạy của các kinh sư và Pha-ri-sêu, vì họ đang nắm giữ quyền hành phát xuất từ Thiên Chúa (x Ga 19,11). Tuy nhiên dân chúng không được nghe theo những suy nghĩ hẹp hòi (x. Mt 9,3-4) những kiểu giải thích Luật sai lạc vụ lợi (x. Mt 15,1-20), nhất là phải tránh thứ men gian tà đạo đức giả của các kinh sư và Pha-ri-sêu (x. Mt 16, 6). + Nhưng đừng theo hành động của họ: Đừng bắt chước các gương xấu của các Biệt phái và kinh sư. Vì lời nói của họ thường không đi đôi với việc làm. Họ thường “nói mà không làm” hay “nói một đàng làm một nẻo !”. + họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta: “Bó nặng” hay cái “ách”, thường được Đức Giê-su và các Tông đồ dùng để ám chỉ 613 điều khoản trong Luật và những lề thói truyền thống mà dân Do Thái phải tuân giữ giống như Lề Luật (x. Cv 15,10). Điều này gợi lên hình ảnh một người nô lệ phải vác những gánh nặng trên vai (x. Gl 5,1), trái với “gánh nhẹ nhàng” mà Đức Giê-su hứa ban cho các môn đệ (x. Mt 11,30). Ở đây “gánh nặng” ám chỉ lối giải thích Luật của các kinh sư Do Thái vừa chi tiết vụn vặt, lại vừa nghiêm khắc và khó giữ được trọn vẹn. Điều này đè nặng trên lương tâm của dân Do Thái, giống như cái “ách nặng” được chủ buộc vào cổ trâu bò để bắt chúng cày bừa kéo xe. + Nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào: Đức Giê-su tố cáo sự ích kỷ và thiếu lòng thương xót của các kinh sư khi buộc dân chúng tuân giữ Luật trong từng chi tiết, đang khi chính họ lại không thực hành.
- C 5-7: + Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy: Đây là thói háo danh của các kinh sư và người Pha-ri-sêu. + Đeo những hộp kinh thật lớn: Hộp kinh chứa thẻ kinh. Thẻ kinh là mảnh da mỏng trên đó viết 4 đoạn Kinh Thánh quan trọng là Đnl 6,4-9; 11,13-21; Xh 13, 3-10; 13,11-16. Thẻ kinh này được chứa trong hộp bằng gỗ nhỏ xíu mà người Do Thái thường cột vào tay và trán mỗi khi đọc kinh cầu nguyện, để nhắc họ nhớ và tuân giữ (x. Xh 13,9). + Mang những tua áo thật dài: Các kinh sư và người Pha-ri-sêu thường may áo có tua dài nhằm phô trương. Thói háo danh khiến họ muốn được biệt đãi ở mọi nơi. + Ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Người Do thái thường xếp chỗ ngồi trong các đám tiệc hay trong hội đường theo tuổi tác, chức vụ và tài năng. Tuổi tác và chức vụ là điều dễ dàng nhận ra, còn tài trí khôn ngoan thì khó mà nhận biết. Các kinh sư và Pha-ri-sêu thường tỏ ra có tài trí hơn người và tranh dành nhau ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và hội đường. + Ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Họ tự coi mình là bề trên nên muốn được người khác cúi chào ở nơi công cộng. + Ưa được người ta gọi mình là “ráp-bi”: “ráp-bi” là tước hiệu dân chúng thường dùng khi thưa chuyện với các tiến sĩ Luật. Các môn đệ cũng thường gọi Đức Giê-su như thế (x. Mt 26,25.49; Ga 20,16).
- C 8-10: + Đừng để ai gọi mình là “ráp bi”: Đức Giê-su không đả phá các chức vụ xã hội hay phẩm trật trong Hội Thánh. Nhưng Người muốn các môn đệ đừng tự cao khi đòi người khác phải gọi mình là “ráp bi” nghĩa là “Thầy”. Do đó câu này có thể dịch như sau: “Anh em đừng ham làm thầy thiên hạ” (x. Gc 3,1). + Vì anh em chỉ có một Thầy: Người duy nhất xứng đáng làm “Thầy” không ai khác hơn là Đức Giê-su (x. Ga 13,13-14). Còn tất cả mọi người đều là môn đệ và anh em với nhau. + Đừng gọi ai dưới đất là cha: Đức Giê-su không đả phá cách xưng hô cha con trong gia đình, vì chính Người đã từng dạy người ta phải hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15,4-6; 19,19). Người cũng không chống lại thói quen trong Thánh Kinh: đồ đệ nhận sư phụ làm cha tinh thần như ngôn sứ Ê-li-sa gọi ngôn sứ Ê-li-a là “Cha ơi !” (x. 2 V 2,12). Thánh Phao-lô cũng ví mình như người cha trong Đức Ki-tô mà nhờ Tin Mừng ngài đã sinh ra các tín hữu (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19; Plm 10), và đã cư xử với họ như cha với con (x. 1 Tx 2,11). + Chỉ có một Cha là Cha trên trời: Cha trên trời ám chỉ Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha theo bản tính. Do đó, khi ai được người khác gọi là cha thì phải ý thức mình là cha theo nghĩa được tham phần vào tước hiệu của Thiên Chúa Cha. + Đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo: người lãnh đạo được hiểu là mục tử và thủ lãnh cộng đoàn. Chỉ mình Đức Giê-su mới là Mục Tử duy nhất vì Người đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10, 11). Còn các mục tử khác như linh mục, mục sư… chỉ được tham phần vào chức vụ lãnh đạo tối cao của Đức Giê-su mà thôi.
- C 11-12: + Người làm lớn hơn phải là người phục vụ: Đức Giê-su nhắn nhủ các môn đệ phải có lòng khiêm nhường, tự hạ và tôn trọng kẻ khác. Họ không được tranh giành nhau địa vị (x. Mt 20,21-28), nhưng phải phục vụ nhau (x. Mt 20,28; Ga 13,14). + Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống: Đức Giê-su không cấm các môn đệ chu tòan bổn phận dạy bảo các tín hữu (x Mt 28,20). Nhưng Người đòi các ông thi hành quyền lãnh đạo trong tinh thần khiêm hạ phục vụ (x. 1 Pr 4,10-11). + Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Ai càng phục vụ thì càng có địa vị cao trong cộng đoàn (x. Mt 25,34-36), xứng đáng được “sự sống muôn đời” (x. Mt 25,46).
4. CÂU HỎI:
1) Các kinh sư và người Pha-ri-sêu là những ai?
2) Ngồi trên tòa ông Mô-sê nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm hãy giữ. Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3).
2. CÂU CHUYỆN:
1. BÀI HỌC NHỚ ĐỜI:
Trong một làng kia, có một ông thầy đồ. Ông nghĩ mình là người hay chữ nên hay khinh thường dân làng. Một hôm, thầy đồ leo lên một chiếc đò để qua bên kia sông ăn giỗ. Hôm ấy đang mùa nước lũ, nên dòng sông chảy xiết. Khi bác lái đò chèo thuyền ra tới giữa dòng, thì thầy lên tiếng hỏi: “Này ông lái đò, ông có biết chữ “nhất một, nhị hai” không? Bác lái đò đáp: “Thưa không”. Thầy đồ nói: “Thế là ông đã đi đứt phân nửa cuộc đời rồi đó !” Bấy giờ thuyền gặp chỗ nước chảy mạnh, một khúc cây đụng phải thuyền làm nó chao đảo mạnh rồi lật úp, hất cả hai người xuống sông. Cũng may, bác lái đò đã kịp thời nắm được cánh tay ông thầy đồ, trước khi ông bị nước cuốn đi. Bác lái đò vừa bơi vừa hỏi thầy đồ: “Thưa thầy, thầy không biết bơi sao?” Thầy hổn hển đáp lại: “Không, không”. Bác lái đò liền nói: “Thế là thầy đã đi đứt cả cuộc đời rồi đó !”. Nói xong, bác ta tiếp tục dìu thầy vào bờ. Hôm ấy thầy đồ bị một phen hú vía và uống no thứ nước sông nhơ bẩn. Từ ngày ấy, thầy đồ ít nói hẳn và không bao giờ còn dám tỏ ra khinh thường những người ít học nữa.
2. MỘT VỊ ĐẠO SĨ GIẢ HIỆU:
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới bắt cá. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì đã bị người giàu phát hiện phải chạy trốn. Người này cho gia nhân bao vây hồ rộng mênh mông để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi nhưng vẫn không tìm thấy bóng dáng của tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo đã lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y như một nhà đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Ngày hôm sau, tiếng đồn về một vị đạo sĩ đang ngồi tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ đang vang đi khắp vùng. Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây cạnh hồ để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Chẳng mấy chốc mà đồ cúng được đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ. Bấy giờ nhà tu hành liền tự nhủ: « Thà ta cứ đánh lừa bà con để sống thoải mái, còn hơn phải đi đánh cá vất vả mà chẳng bắt được gì ». Nghĩ thế rồi, ông tiếp tục đóng vai nhà tu đắc đạo: ngày đêm ông tụng niệm và cũng nhận được các đồ ăn dân làng mang tới dâng cúng.
3. GƯƠNG KHIÊM HẠ NGHÈO KHÓ CỦA MỘT GIÁM MỤC:
Đức Cha BER-NARD TO-PEL (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spo-ka-ne, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi quyết nghị của Công Đồng giống như Thánh Phan-xi-cô As-si-si thực thi Lời Chúa: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp cho người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá người ta vứt bỏ để nấu ăn. Nhiều người không tán đồng hành động của vị giám mục. Họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho ra Giám mục”. Nguyên là một thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta làm là phải trừ, chia và nhân: phải trừ bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng để sống sao cho xứng đáng với họ”.
4. LỐI SỐNG BÁC ÁI CÓ GIÁ TRỊ THUYẾT PHỤC HƠN VẠN BÀI GIẢNG:
Một hôm thánh Phan-xi-cô gọi một tu sĩ cùng đi ra ngoài tu viện như sau: “Chiều nay thầy trò mình sẽ cùng đi ra ngoài giảng đạo nhé”. Sau một buổi chiều đi rảo chung quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai thầy trò quay về tu viện. Khi về tới nhà, thánh nhân liền ngồi xuống ghế và nói: “Tạ ơn Chúa”, rồi tiếp tục giữ im lặng. Tu sĩ đi theo ngài thấy vậy liền hỏi: “Thưa thầy, thầy nói hai thầy trò mình đi ra ngoài giảng đạo, mà con đâu có thấy thầy giảng gì cho bất cứ ai đâu?” Thánh nhân mìm cười trả lời: “Chính cách đi đứng tử tế, nói năng chào hỏi những người gặp ngoài đường, cách cư xử bác ái chân thành và ân cần giúp đỡ tha nhân của thầy trò chúng ta, đã là một bài giảng hùng hồn, và có sức lay động lòng người rồi đó con”.
Việt Nam có câu: Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo”. Nghĩa là rao giảng bằng lời nói mới chỉ giống như hương thơm thoảng qua, còn gương sáng bác ái mới làm cho người ta phục và tin vào lời chúng ta rao giảng.
5. KHÔNG ĐƯỢC BÁNG BỔ CHÚA QUA ĐỜI SỐNG BẤT TOÀN CỦA MÌNH
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn khinh ghét tất cả những hình ảnh mà ông đã cho xâm trên thân mình.
Ngày kia, trong một cố gắng muốn cải thiện quan hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giê-su thật to trên tấm lưng trần của mình. Trở về nhà, ông hãnh diện giơ lưng ra cho vợ xem và hỏi: “Bà có biết ai đây không?”. Rồi không đợi cho bà vợ trả lời, ông liền nói: “Chúa đấy”.
Thế nhưng, khi nhìn thấy hình xăm trên lưng của chồng, bà vợ liền đùng đùng nổi giận và quát lớn:
“Thật là báng bổ. Chúa nào mà lại ở trên cái lưng trần bẩn thỉu nhớp nhúa của ông !”
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông khiến ông phải chạy trốn ra ngoài. Sau trận đòn ấy, ông đến ngồi dưới một gốc cây và tấm tức khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn đau của bà vợ, mà vì đã nhận ra mình thật tội lỗi, bất xứng với đức tin của mình.
3. SUY NIỆM:
1) PHÂN BIỆT HOA THẬT VỚI HOA GIẢ BẰNG CÁCH NÀO?:
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Sha-ba nghe biết về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, bà muốn thử xem sự khôn ngoan ấy thực hư ra sao, liền gửi tặng nhà vua hai bó hoa giống y như nhau: một bó gồm những bông hoa thật và một bó gồm toàn hoa giả, để yêu cầu nhà vua phân biệt đâu là hoa thật đâu là hoa giả. Bấy giờ vua Sa-lô-mon liền truyền cho lính gác mở cửa sổ, để cho hàng đàn ong bướm quanh vùng có thể bay vào trong phòng. Các chú ong và các nàng bướm kia liền bay đến đậu vào những bông hoa thật để hút nhụy. Còn các bông hoa giả tuy có sắc đẹp, nhưng lại không có mùi hương, có hình ảnh nhiều màu sắc, nhưng lại không sự sống.
Cũng vậy, những kẻ đạo đức giả tuy nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hoặc như lời Chúa dạy: “Họ chỉ nói mà không làm”. Họ tỏ thái độ mền yếu với bản thân nhưng lại nghiêm khắc với tha nhân.
2) PHẢI TRÁNH LỐI SỐNG ĐẠO ĐỨC GIẢ:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã quở trách lối sống giả hình của các Kinh sư và Pha-ri-siêu như sau:
- Họ nói mà không làm
- Họ bó những gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ không động ngón tay vào.
- Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ trông thấy và khen ngợi.
- Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi công cộng, và được người ta xưng hô là Thầy (Rápbi).
Có lẽ khi nghe Đức Giê-su quỏ trách như trên, ai trong chúng ta cũng ít nhiều cảm thấy tự thẹn vì xem ra Chúa cũng đang nói về các thói hư của mình: Nếu không háo danh thì cũng thích khoa trương; Nếu không hay kể công thì cũng đòi được người khác khen ngợi; Nếu không ích kỷ thì cũng nói nhiều mà làm ít…
3) PHẢI TRÁNH THÓI TỰ CAO TỰ ĐẠI:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng dạy chúng ta phải tránh thói xấu thích làm thầy làm cha thiên hạ của những người Pha-ri-sêu: “Đừng để ai gọi mình là thầy, là người lãnh đạo, vì chỉ có một Thầy, một người lãnh đạo tối cao là chính Người. Người cũng dạy chúng ta đừng gọi ai dưới đất này là cha, vì chỉ có một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa mà thôi”. Thế mà ở trường, các học sinh đều gọi người dạy mình là thầy cô giáo, các tín hữu gọi các tu sĩ là thầy tu hay sư huynh. Rồi trong gia đình, chúng ta cũng gọi đấng sinh thành ra mình là cha mẹ, tín hữu gọi các linh mục đã tái sinh mình làm con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội là cha, gọi giám mục là đức cha, đức giáo hoàng là đức thánh cha, và gọi nhiều vị khác là Giáo phụ, Thượng phụ, Viện phụ… vậy phải chăng các tín hữu chúng ta đã làm sai lời Chúa dạy?
Thực ra, chắc một điều là Đức Giê-su không phá bỏ cơ cấu của Hội Thánh. Người cũng không muốn loại bỏ các phẩm trật và quyền hành… là điều kiện để duy trì sự hiệp nhất trong cộng đoàn. Do đó, ngay từ thời sơ khai, Hội thánh đã không hiểu câu Lời Chúa nói trên theo nghĩa đen, thánh Phao-lô luôn ý thức mình là cha của các tín hữu và gọi họ là con (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19). Trong Hội Thánh cũng có những chức vụ như thầy dạy (x. Cv 13,1), lãnh đạo (x. Cv 15,22).
Như vậy, qua câu này, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta: hãy nhớ rằng mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về cho vinh quang Thiên Chúa. Nếu có ai đang làm thầy dạy người khác, làm người lãnh đạo cộng đoàn, là do họ đã được Đức Giê-su chia sẻ quyền làm Thầy và làm lãnh đạo của Người. Nếu cha mẹ được con cái gọi là cha mẹ, là do họ đã được tham phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Nên dù chúng ta đang giữ bất cứ vai trò lãnh đạo nào trong Hội Thánh, chúng ta cũng cần có tinh thần khiêm hạ như lời Chúa hôm nay: “Còn tất cả đều là anh em với nhau, là con một Cha trên trời” (Mt 23,8).
4) ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ THỰC SỰ CỦA CHÚA GIÊ-SU, CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy các tín hữu chúng ta hãy học tập nơi Người mấy điều như sau:
+ Một là lời nói phải đi đôi với việc làm: Đức Giê-su không cấm các kinh sư giảng dạy Lời Chúa, cũng không cấm người Pha-ri-sêu giữ Luật Mô-sê. Vì nếu họ không giảng dạy thì dân chúng làm sao có thể nghe, hiểu và yêu mến Lời Chúa, như người đời thường nói: “Vô tri bất mộ”. Nếu họ không tuân giữ Luật Mô-sê thì họ đâu có giữ đạo của Thiên Chúa. Điều Đức Giê-su muốn các mục tử phải tránh thói xấu: “nói mà không làm”, “đốc thúc người ta làm còn mình lại khoanh tay đứng nhìn”. Cần thực hành lời nhắn nhủ các tân chức của vị Giám Mục chủ lễ như sau: “Con hãy TIN điều con đọc. DẠY điều con tin và THI HÀNH điều con dạy”.
+ Tránh thói đạo đức giả hình bề ngoài: Đức Giê-su đã nêu rõ các thói xấu của các kinh sư và người Pha-ri-sêu mà các môn đệ cần phải tránh là: “Làm mọi việc cố ý cho người ta thấy”. Chúng ta nên nhớ rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương !”: nếu ta thật sự đạo đức thì tha nhân tự nhiên sẽ biết, không cần ta phải nói ra, phải phô trương công đức trước mặt người đời. Chỉ những ai không có nhân đức trong lòng, mới tìm cách phô trương như người ta thường nói: “Thùng rỗng kêu to” và “Dốt hay nói chữ”.
+ Tránh thói tự cao tự mãn: Đức Giê-su cũng kêu gọi các tín hữu phải tránh thái độ của các kinh sư và các người Pha-ri-sêu như sau: “Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. Chúng ta cũng cần tránh thái độ khinh dể những ai thua kém mình. Hãy học nơi Đức Giê-su sự “hiền lành và khiêm nhường” trong lòng như lời Chúa phán: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Cũng cần tránh thái độ tự cao khinh dể tha nhân. Vì: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
4. THẢO LUẬN:
1) Tại sao các tín hữu lại gọi tu sĩ là thầy, gọi linh mục là cha…?
2) Trong một bữa tiệc, người có địa vị cao được chủ tiệc mời ngồi vào bàn danh dự, có nên đến ngồi vào bàn cuối để chứng tỏ mình khiêm nhường hay không? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nhiều lần chúng con đã có thái độ tranh giành địa vị với người khác. Chúng con bực tức khi thấy ai đó nhiều ưu điểm hơn chúng con, tài giỏi và thành công hơn chúng con. Chúng con hay dèm pha và nói hành kẻ vắng mặt mà chúng con không ưa, nhằm hạ uy tín của họ. Chúng con thường phóng đại những thành tích của chúng con để tìm tiếng khen của người khác. Hôm nay, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa: luôn ăn ở khiêm hạ và vị tha bác ái. Xin đừng để chúng con giống như các kinh sư và người Pha-ri-sêu, bị Chúa khiển trách là: giả hình, ích kỷ và kiêu căng. Xin cho chúng con luôn quan tâm phục vụ tha nhân noi gương Chúa và Mẹ Ma-ri-a khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Mi 1,14b-2,2b.8-10; 1 Tx 2,7b-9.13; Mt 23,1-12
TRÁNH THÓI ĐẠO ĐỨC GIẢ HÌNH VÀ KIÊU NGẠO
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 23,1-12
(1) Bấy giờ, Đức Giê-su nói với đám đông và các môn đệ Nguời rằng: (2) “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. (3) Vậy, những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ, nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm. (4) Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào. (5) Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy. Quả vậy, họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài. (6) Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, (7) ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. (8) Phần anh em, thì đừng để ai gọi mình là “ráp-bi”, vì anh em chỉ có một Thầy; còn tất cả anh em đều là anh em với nhau. (9) Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời. (10) Anh em cũng đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo, vì anh em chỉ có một vị lãnh đạo, là Đức Ki-tô. (11) Trong anh em, người làm lớn hơn cả, phải làm người phục vụ anh em. (12) Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống; Còn ai hạ mình xuống, sẽ được tôn lên.
2. Ý CHÍNH:
Tin Mừng hôm nay đề cập đến thái độ các môn đệ phải có đối với Thiên Chúa và tha nhân. Phải tránh thói đạo đức giả của các đầu mục Do thái vì “nói mà không làm”, “chỉ biết bó nặng chất lên vai người khác” và “làm mọi việc để tìm tiếng khen” nơi người đời. Các môn đệ phải tránh thói kiêu ngạo khi muốn làm thầy, làm cha và làm người chỉ đạo, đang khi chỉ có một vị Thầy tối cao là Đức Giê-su, một Cha chung trên trời là Thiên Chúa và một Mục Tử duy nhất là Đức Ki-tô.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-2: + Các kinh sư: Kinh sư hay luật sĩ, là những thầy dạy về Luật pháp của Mô-sê. Đa số kinh sư là thành viên của phái Pha-ri-sêu và có ảnh hưởng lớn trong đời sống tôn giáo và chính trị của dân Do thái. Tại Giê-ru-sa-lem, các kinh sư chiếm 1/3 số ghế trong Thượng Hội Đồng Do Thái. Tại các địa phương như thị trấn, làng xã, họ rất có uy tín đối với dân chúng và thường được mời làm quan tòa xét xử các vụ tranh chấp. + Các người Pha-ri-sêu: Pha-ri-sêu hay Biệt phái là một phái tôn giáo mà thành viên là những người Do thái nhiệt thành và đạo đức. Họ tách biệt khỏi dân chúng do cách ăn mặc và xử sự. Họ rất tôn trọng Thánh Kinh và các truyền thống của cha ông. Có khi coi trọng truyền thống hơn cả Thánh Kinh như đòi dân chúng phải tuân giữ các tục lệ của cha ông về ngày hưu lễ Sa-bát rất chi li. Nhiều người trong phái Pha-ri-sêu có học vị kinh sư hay luật sĩ. Người Pha-ri-sêu thường mắc phải các thói như giả hình, kiêu căng, ganh tị… đã bị Đức Giê-su nặng lời quở trách (x Mt 23,1-22), nên họ rất căm hận và tìm cách giết hại Người. + Ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy: Toà của Mô-sê ngày xưa được đặt ở núi Sinai, nơi ông tuyên bố luật pháp và ký kết giao ước giữa Thiên Chúa và dân Do Thái. Còn thời Chúa Giê-su, tòa Mô-sê tức là bục giảng được kê trong hội đường. Các kinh sư thường ngồi trên bục mà giảng dạy Luật Mô-sê vào ngày Sa-bát.
- C 3-4: + Những gì họ nói thì anh em hãy làm, hãy giữ: Đức Giê-su dạy dân chúng phải vâng nghe và tuân giữ những lời giảng dạy của các kinh sư và Pha-ri-sêu, vì họ đang nắm giữ quyền hành phát xuất từ Thiên Chúa (x Ga 19,11). Tuy nhiên dân chúng không được nghe theo những suy nghĩ hẹp hòi (x. Mt 9,3-4) những kiểu giải thích Luật sai lạc vụ lợi (x. Mt 15,1-20), nhất là phải tránh thứ men gian tà đạo đức giả của các kinh sư và Pha-ri-sêu (x. Mt 16, 6). + Nhưng đừng theo hành động của họ: Đừng bắt chước các gương xấu của các Biệt phái và kinh sư. Vì lời nói của họ thường không đi đôi với việc làm. Họ thường “nói mà không làm” hay “nói một đàng làm một nẻo !”. + họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta: “Bó nặng” hay cái “ách”, thường được Đức Giê-su và các Tông đồ dùng để ám chỉ 613 điều khoản trong Luật và những lề thói truyền thống mà dân Do Thái phải tuân giữ giống như Lề Luật (x. Cv 15,10). Điều này gợi lên hình ảnh một người nô lệ phải vác những gánh nặng trên vai (x. Gl 5,1), trái với “gánh nhẹ nhàng” mà Đức Giê-su hứa ban cho các môn đệ (x. Mt 11,30). Ở đây “gánh nặng” ám chỉ lối giải thích Luật của các kinh sư Do Thái vừa chi tiết vụn vặt, lại vừa nghiêm khắc và khó giữ được trọn vẹn. Điều này đè nặng trên lương tâm của dân Do Thái, giống như cái “ách nặng” được chủ buộc vào cổ trâu bò để bắt chúng cày bừa kéo xe. + Nhưng chính họ lại không buồn động ngón tay vào: Đức Giê-su tố cáo sự ích kỷ và thiếu lòng thương xót của các kinh sư khi buộc dân chúng tuân giữ Luật trong từng chi tiết, đang khi chính họ lại không thực hành.
- C 5-7: + Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy: Đây là thói háo danh của các kinh sư và người Pha-ri-sêu. + Đeo những hộp kinh thật lớn: Hộp kinh chứa thẻ kinh. Thẻ kinh là mảnh da mỏng trên đó viết 4 đoạn Kinh Thánh quan trọng là Đnl 6,4-9; 11,13-21; Xh 13, 3-10; 13,11-16. Thẻ kinh này được chứa trong hộp bằng gỗ nhỏ xíu mà người Do Thái thường cột vào tay và trán mỗi khi đọc kinh cầu nguyện, để nhắc họ nhớ và tuân giữ (x. Xh 13,9). + Mang những tua áo thật dài: Các kinh sư và người Pha-ri-sêu thường may áo có tua dài nhằm phô trương. Thói háo danh khiến họ muốn được biệt đãi ở mọi nơi. + Ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và chiếm hàng ghế đầu trong hội đường: Người Do thái thường xếp chỗ ngồi trong các đám tiệc hay trong hội đường theo tuổi tác, chức vụ và tài năng. Tuổi tác và chức vụ là điều dễ dàng nhận ra, còn tài trí khôn ngoan thì khó mà nhận biết. Các kinh sư và Pha-ri-sêu thường tỏ ra có tài trí hơn người và tranh dành nhau ngồi chỗ nhất trong đám tiệc và hội đường. + Ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng: Họ tự coi mình là bề trên nên muốn được người khác cúi chào ở nơi công cộng. + Ưa được người ta gọi mình là “ráp-bi”: “ráp-bi” là tước hiệu dân chúng thường dùng khi thưa chuyện với các tiến sĩ Luật. Các môn đệ cũng thường gọi Đức Giê-su như thế (x. Mt 26,25.49; Ga 20,16).
- C 8-10: + Đừng để ai gọi mình là “ráp bi”: Đức Giê-su không đả phá các chức vụ xã hội hay phẩm trật trong Hội Thánh. Nhưng Người muốn các môn đệ đừng tự cao khi đòi người khác phải gọi mình là “ráp bi” nghĩa là “Thầy”. Do đó câu này có thể dịch như sau: “Anh em đừng ham làm thầy thiên hạ” (x. Gc 3,1). + Vì anh em chỉ có một Thầy: Người duy nhất xứng đáng làm “Thầy” không ai khác hơn là Đức Giê-su (x. Ga 13,13-14). Còn tất cả mọi người đều là môn đệ và anh em với nhau. + Đừng gọi ai dưới đất là cha: Đức Giê-su không đả phá cách xưng hô cha con trong gia đình, vì chính Người đã từng dạy người ta phải hiếu kính cha mẹ (x. Mt 15,4-6; 19,19). Người cũng không chống lại thói quen trong Thánh Kinh: đồ đệ nhận sư phụ làm cha tinh thần như ngôn sứ Ê-li-sa gọi ngôn sứ Ê-li-a là “Cha ơi !” (x. 2 V 2,12). Thánh Phao-lô cũng ví mình như người cha trong Đức Ki-tô mà nhờ Tin Mừng ngài đã sinh ra các tín hữu (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19; Plm 10), và đã cư xử với họ như cha với con (x. 1 Tx 2,11). + Chỉ có một Cha là Cha trên trời: Cha trên trời ám chỉ Thiên Chúa. Chỉ có một Thiên Chúa là Cha theo bản tính. Do đó, khi ai được người khác gọi là cha thì phải ý thức mình là cha theo nghĩa được tham phần vào tước hiệu của Thiên Chúa Cha. + Đừng để ai gọi mình là người lãnh đạo: người lãnh đạo được hiểu là mục tử và thủ lãnh cộng đoàn. Chỉ mình Đức Giê-su mới là Mục Tử duy nhất vì Người đã hy sinh mạng sống cho đoàn chiên (x. Ga 10, 11). Còn các mục tử khác như linh mục, mục sư… chỉ được tham phần vào chức vụ lãnh đạo tối cao của Đức Giê-su mà thôi.
- C 11-12: + Người làm lớn hơn phải là người phục vụ: Đức Giê-su nhắn nhủ các môn đệ phải có lòng khiêm nhường, tự hạ và tôn trọng kẻ khác. Họ không được tranh giành nhau địa vị (x. Mt 20,21-28), nhưng phải phục vụ nhau (x. Mt 20,28; Ga 13,14). + Ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống: Đức Giê-su không cấm các môn đệ chu tòan bổn phận dạy bảo các tín hữu (x Mt 28,20). Nhưng Người đòi các ông thi hành quyền lãnh đạo trong tinh thần khiêm hạ phục vụ (x. 1 Pr 4,10-11). + Ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên: Ai càng phục vụ thì càng có địa vị cao trong cộng đoàn (x. Mt 25,34-36), xứng đáng được “sự sống muôn đời” (x. Mt 25,46).
4. CÂU HỎI:
1) Các kinh sư và người Pha-ri-sêu là những ai?
2) Ngồi trên tòa ông Mô-sê nghĩa là gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Các kinh sư và các người Pha-ri-sêu ngồi trên tòa ông Mô-sê mà giảng dạy. Vậy những gì họ nói thì anh em hãy làm hãy giữ. Nhưng đừng theo hành động của họ mà làm, vì họ nói mà không làm” (Mt 23,2-3).
2. CÂU CHUYỆN:
1. BÀI HỌC NHỚ ĐỜI:
Trong một làng kia, có một ông thầy đồ. Ông nghĩ mình là người hay chữ nên hay khinh thường dân làng. Một hôm, thầy đồ leo lên một chiếc đò để qua bên kia sông ăn giỗ. Hôm ấy đang mùa nước lũ, nên dòng sông chảy xiết. Khi bác lái đò chèo thuyền ra tới giữa dòng, thì thầy lên tiếng hỏi: “Này ông lái đò, ông có biết chữ “nhất một, nhị hai” không? Bác lái đò đáp: “Thưa không”. Thầy đồ nói: “Thế là ông đã đi đứt phân nửa cuộc đời rồi đó !” Bấy giờ thuyền gặp chỗ nước chảy mạnh, một khúc cây đụng phải thuyền làm nó chao đảo mạnh rồi lật úp, hất cả hai người xuống sông. Cũng may, bác lái đò đã kịp thời nắm được cánh tay ông thầy đồ, trước khi ông bị nước cuốn đi. Bác lái đò vừa bơi vừa hỏi thầy đồ: “Thưa thầy, thầy không biết bơi sao?” Thầy hổn hển đáp lại: “Không, không”. Bác lái đò liền nói: “Thế là thầy đã đi đứt cả cuộc đời rồi đó !”. Nói xong, bác ta tiếp tục dìu thầy vào bờ. Hôm ấy thầy đồ bị một phen hú vía và uống no thứ nước sông nhơ bẩn. Từ ngày ấy, thầy đồ ít nói hẳn và không bao giờ còn dám tỏ ra khinh thường những người ít học nữa.
2. MỘT VỊ ĐẠO SĨ GIẢ HIỆU:
Đêm kia tại một làng đánh cá bên Ấn Độ, một ngư phủ nghèo lẻn vào trong hồ cá của một người nhà giàu để thả lưới bắt cá. Nhưng chưa kịp kéo lưới lên thì đã bị người giàu phát hiện phải chạy trốn. Người này cho gia nhân bao vây hồ rộng mênh mông để bắt cho bằng được tên trộm.
Đám gia nhân đốt đuốc đi tìm khắp nơi nhưng vẫn không tìm thấy bóng dáng của tên trộm đâu cả. Trong khi đó thì anh ngư phủ nghèo đã lấy tro rắc lên đầy mình và đến ngồi dưới một gốc cây gần đó y như một nhà đạo sĩ.
Sau nhiều giờ tìm kiếm, đám gia nhân không thấy kẻ trộm mà chỉ thấy một đạo sĩ ngồi dưới gốc cây đang đắm mình trong suy tư và cầu nguyện. Ngày hôm sau, tiếng đồn về một vị đạo sĩ đang ngồi tu luyện dưới gốc cây bên bờ hồ của nhà phú hộ đang vang đi khắp vùng. Thế là thiện nam tín nữ từ các ngã đường đổ xô đến gốc cây cạnh hồ để chiêm ngưỡng vị tu hành. Người thì mang hoa quả, kẻ thì mang tiền bạc. Chẳng mấy chốc mà đồ cúng được đổ tràn lan quanh nhà tu hành bất đắc dĩ. Bấy giờ nhà tu hành liền tự nhủ: « Thà ta cứ đánh lừa bà con để sống thoải mái, còn hơn phải đi đánh cá vất vả mà chẳng bắt được gì ». Nghĩ thế rồi, ông tiếp tục đóng vai nhà tu đắc đạo: ngày đêm ông tụng niệm và cũng nhận được các đồ ăn dân làng mang tới dâng cúng.
3. GƯƠNG KHIÊM HẠ NGHÈO KHÓ CỦA MỘT GIÁM MỤC:
Đức Cha BER-NARD TO-PEL (1903-1986) Giám Mục giáo phận Spo-ka-ne, Wa. Hoa Kỳ, đã viết trên báo của Giáo phận: “Trong thời kỳ họp Công Đồng, các Giám Mục thường hay nói về Giáo Hội như Giáo Hội của người nghèo, tôi nghe mà sinh bối rối, vì tôi chưa thấy chúng ta là Giáo Hội của người nghèo chút nào cả!” Từ cái bối rối này, Đức Cha Topel đã thực thi quyết nghị của Công Đồng giống như Thánh Phan-xi-cô As-si-si thực thi Lời Chúa: Đức Cha đã bán Tòa Giám Mục, nhẫn vàng, thánh giá, giây đeo và gậy cẩn ngọc thạch để lấy tiền giúp cho người nghèo. Với bốn ngàn đô, Ngài mua một căn nhà ở ngõ cụt để làm tư dinh. Sau giờ làm việc, Ngài về làm vườn, trồng rau, xin đầu cá người ta vứt bỏ để nấu ăn. Nhiều người không tán đồng hành động của vị giám mục. Họ nói: “Vua thì phải sống cho ra Vua, Chúa thì phải sống cho ra Chúa, Giám mục thì phải sống cho ra Giám mục”. Nguyên là một thạc sĩ toán học, Đức Cha trả lời: “Không phải là kết toán làm thành bài toán. Bài toán chúng ta làm là phải trừ, chia và nhân: phải trừ bớt tiêu xài xa hoa, để chia sẻ với những người nghèo khó và nhân thêm niềm hy vọng để sống sao cho xứng đáng với họ”.
4. LỐI SỐNG BÁC ÁI CÓ GIÁ TRỊ THUYẾT PHỤC HƠN VẠN BÀI GIẢNG:
Một hôm thánh Phan-xi-cô gọi một tu sĩ cùng đi ra ngoài tu viện như sau: “Chiều nay thầy trò mình sẽ cùng đi ra ngoài giảng đạo nhé”. Sau một buổi chiều đi rảo chung quanh các phố xá, khu xóm, làng mạc, hai thầy trò quay về tu viện. Khi về tới nhà, thánh nhân liền ngồi xuống ghế và nói: “Tạ ơn Chúa”, rồi tiếp tục giữ im lặng. Tu sĩ đi theo ngài thấy vậy liền hỏi: “Thưa thầy, thầy nói hai thầy trò mình đi ra ngoài giảng đạo, mà con đâu có thấy thầy giảng gì cho bất cứ ai đâu?” Thánh nhân mìm cười trả lời: “Chính cách đi đứng tử tế, nói năng chào hỏi những người gặp ngoài đường, cách cư xử bác ái chân thành và ân cần giúp đỡ tha nhân của thầy trò chúng ta, đã là một bài giảng hùng hồn, và có sức lay động lòng người rồi đó con”.
Việt Nam có câu: Lời nói hương bay, gương bày lôi kéo”. Nghĩa là rao giảng bằng lời nói mới chỉ giống như hương thơm thoảng qua, còn gương sáng bác ái mới làm cho người ta phục và tin vào lời chúng ta rao giảng.
5. KHÔNG ĐƯỢC BÁNG BỔ CHÚA QUA ĐỜI SỐNG BẤT TOÀN CỦA MÌNH
Có một bà vợ thường xuyên càu nhàu về tình trạng khô khan nguội lạnh của ông chồng. Hơn thế nữa, bà còn khinh ghét tất cả những hình ảnh mà ông đã cho xâm trên thân mình.
Ngày kia, trong một cố gắng muốn cải thiện quan hệ với vợ, ông đã quyết định xâm hình Chúa Giê-su thật to trên tấm lưng trần của mình. Trở về nhà, ông hãnh diện giơ lưng ra cho vợ xem và hỏi: “Bà có biết ai đây không?”. Rồi không đợi cho bà vợ trả lời, ông liền nói: “Chúa đấy”.
Thế nhưng, khi nhìn thấy hình xăm trên lưng của chồng, bà vợ liền đùng đùng nổi giận và quát lớn:
“Thật là báng bổ. Chúa nào mà lại ở trên cái lưng trần bẩn thỉu nhớp nhúa của ông !”
Nói rồi, bà vơ lấy cái chổi và cứ thế quất vào tấm lưng của ông khiến ông phải chạy trốn ra ngoài. Sau trận đòn ấy, ông đến ngồi dưới một gốc cây và tấm tức khóc. Ông khóc không phải vì trân đòn đau của bà vợ, mà vì đã nhận ra mình thật tội lỗi, bất xứng với đức tin của mình.
3. SUY NIỆM:
1) PHÂN BIỆT HOA THẬT VỚI HOA GIẢ BẰNG CÁCH NÀO?:
Chuyện kể rằng: Ngày kia, nữ hoàng Sha-ba nghe biết về sự khôn ngoan của vua Sa-lô-mon, bà muốn thử xem sự khôn ngoan ấy thực hư ra sao, liền gửi tặng nhà vua hai bó hoa giống y như nhau: một bó gồm những bông hoa thật và một bó gồm toàn hoa giả, để yêu cầu nhà vua phân biệt đâu là hoa thật đâu là hoa giả. Bấy giờ vua Sa-lô-mon liền truyền cho lính gác mở cửa sổ, để cho hàng đàn ong bướm quanh vùng có thể bay vào trong phòng. Các chú ong và các nàng bướm kia liền bay đến đậu vào những bông hoa thật để hút nhụy. Còn các bông hoa giả tuy có sắc đẹp, nhưng lại không có mùi hương, có hình ảnh nhiều màu sắc, nhưng lại không sự sống.
Cũng vậy, những kẻ đạo đức giả tuy nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu, hoặc như lời Chúa dạy: “Họ chỉ nói mà không làm”. Họ tỏ thái độ mền yếu với bản thân nhưng lại nghiêm khắc với tha nhân.
2) PHẢI TRÁNH LỐI SỐNG ĐẠO ĐỨC GIẢ:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã quở trách lối sống giả hình của các Kinh sư và Pha-ri-siêu như sau:
- Họ nói mà không làm
- Họ bó những gánh nặng lên vai người khác, còn chính họ không động ngón tay vào.
- Họ làm mọi việc cốt để cho thiên hạ trông thấy và khen ngợi.
- Họ ưa ngồi chỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được bái chào nơi công cộng, và được người ta xưng hô là Thầy (Rápbi).
Có lẽ khi nghe Đức Giê-su quỏ trách như trên, ai trong chúng ta cũng ít nhiều cảm thấy tự thẹn vì xem ra Chúa cũng đang nói về các thói hư của mình: Nếu không háo danh thì cũng thích khoa trương; Nếu không hay kể công thì cũng đòi được người khác khen ngợi; Nếu không ích kỷ thì cũng nói nhiều mà làm ít…
3) PHẢI TRÁNH THÓI TỰ CAO TỰ ĐẠI:
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng dạy chúng ta phải tránh thói xấu thích làm thầy làm cha thiên hạ của những người Pha-ri-sêu: “Đừng để ai gọi mình là thầy, là người lãnh đạo, vì chỉ có một Thầy, một người lãnh đạo tối cao là chính Người. Người cũng dạy chúng ta đừng gọi ai dưới đất này là cha, vì chỉ có một Cha Chung trên trời là Thiên Chúa mà thôi”. Thế mà ở trường, các học sinh đều gọi người dạy mình là thầy cô giáo, các tín hữu gọi các tu sĩ là thầy tu hay sư huynh. Rồi trong gia đình, chúng ta cũng gọi đấng sinh thành ra mình là cha mẹ, tín hữu gọi các linh mục đã tái sinh mình làm con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội là cha, gọi giám mục là đức cha, đức giáo hoàng là đức thánh cha, và gọi nhiều vị khác là Giáo phụ, Thượng phụ, Viện phụ… vậy phải chăng các tín hữu chúng ta đã làm sai lời Chúa dạy?
Thực ra, chắc một điều là Đức Giê-su không phá bỏ cơ cấu của Hội Thánh. Người cũng không muốn loại bỏ các phẩm trật và quyền hành… là điều kiện để duy trì sự hiệp nhất trong cộng đoàn. Do đó, ngay từ thời sơ khai, Hội thánh đã không hiểu câu Lời Chúa nói trên theo nghĩa đen, thánh Phao-lô luôn ý thức mình là cha của các tín hữu và gọi họ là con (x. 1 Cr 4,14-17; Gl 4,19). Trong Hội Thánh cũng có những chức vụ như thầy dạy (x. Cv 13,1), lãnh đạo (x. Cv 15,22).
Như vậy, qua câu này, Đức Giê-su muốn dạy chúng ta: hãy nhớ rằng mọi quyền bính đều bắt nguồn từ Thiên Chúa và phải quy về cho vinh quang Thiên Chúa. Nếu có ai đang làm thầy dạy người khác, làm người lãnh đạo cộng đoàn, là do họ đã được Đức Giê-su chia sẻ quyền làm Thầy và làm lãnh đạo của Người. Nếu cha mẹ được con cái gọi là cha mẹ, là do họ đã được tham phần vào quyền làm Cha của Thiên Chúa. Nên dù chúng ta đang giữ bất cứ vai trò lãnh đạo nào trong Hội Thánh, chúng ta cũng cần có tinh thần khiêm hạ như lời Chúa hôm nay: “Còn tất cả đều là anh em với nhau, là con một Cha trên trời” (Mt 23,8).
4) ĐỂ NÊN MÔN ĐỆ THỰC SỰ CỦA CHÚA GIÊ-SU, CHÚNG TA CẦN LÀM GÌ?
Qua Tin mừng hôm nay, Chúa muốn dạy các tín hữu chúng ta hãy học tập nơi Người mấy điều như sau:
+ Một là lời nói phải đi đôi với việc làm: Đức Giê-su không cấm các kinh sư giảng dạy Lời Chúa, cũng không cấm người Pha-ri-sêu giữ Luật Mô-sê. Vì nếu họ không giảng dạy thì dân chúng làm sao có thể nghe, hiểu và yêu mến Lời Chúa, như người đời thường nói: “Vô tri bất mộ”. Nếu họ không tuân giữ Luật Mô-sê thì họ đâu có giữ đạo của Thiên Chúa. Điều Đức Giê-su muốn các mục tử phải tránh thói xấu: “nói mà không làm”, “đốc thúc người ta làm còn mình lại khoanh tay đứng nhìn”. Cần thực hành lời nhắn nhủ các tân chức của vị Giám Mục chủ lễ như sau: “Con hãy TIN điều con đọc. DẠY điều con tin và THI HÀNH điều con dạy”.
+ Tránh thói đạo đức giả hình bề ngoài: Đức Giê-su đã nêu rõ các thói xấu của các kinh sư và người Pha-ri-sêu mà các môn đệ cần phải tránh là: “Làm mọi việc cố ý cho người ta thấy”. Chúng ta nên nhớ rằng: “Hữu xạ tự nhiên hương !”: nếu ta thật sự đạo đức thì tha nhân tự nhiên sẽ biết, không cần ta phải nói ra, phải phô trương công đức trước mặt người đời. Chỉ những ai không có nhân đức trong lòng, mới tìm cách phô trương như người ta thường nói: “Thùng rỗng kêu to” và “Dốt hay nói chữ”.
+ Tránh thói tự cao tự mãn: Đức Giê-su cũng kêu gọi các tín hữu phải tránh thái độ của các kinh sư và các người Pha-ri-sêu như sau: “Họ ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”. Chúng ta cũng cần tránh thái độ khinh dể những ai thua kém mình. Hãy học nơi Đức Giê-su sự “hiền lành và khiêm nhường” trong lòng như lời Chúa phán: “Hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29). Cũng cần tránh thái độ tự cao khinh dể tha nhân. Vì: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.
4. THẢO LUẬN:
1) Tại sao các tín hữu lại gọi tu sĩ là thầy, gọi linh mục là cha…?
2) Trong một bữa tiệc, người có địa vị cao được chủ tiệc mời ngồi vào bàn danh dự, có nên đến ngồi vào bàn cuối để chứng tỏ mình khiêm nhường hay không? Tại sao?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Nhiều lần chúng con đã có thái độ tranh giành địa vị với người khác. Chúng con bực tức khi thấy ai đó nhiều ưu điểm hơn chúng con, tài giỏi và thành công hơn chúng con. Chúng con hay dèm pha và nói hành kẻ vắng mặt mà chúng con không ưa, nhằm hạ uy tín của họ. Chúng con thường phóng đại những thành tích của chúng con để tìm tiếng khen của người khác. Hôm nay, xin giúp chúng con biết noi gương Chúa: luôn ăn ở khiêm hạ và vị tha bác ái. Xin đừng để chúng con giống như các kinh sư và người Pha-ri-sêu, bị Chúa khiển trách là: giả hình, ích kỷ và kiêu căng. Xin cho chúng con luôn quan tâm phục vụ tha nhân noi gương Chúa và Mẹ Ma-ri-a khi xưa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Để được nên thánh và được sống đời đời
Lm Đan Vinh
20:25 28/10/2020
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ (01/11)
Kh7,2-4.9-14; 1 Ga 3,1-3; Mt 5,1-12a.
ĐỂ ĐƯỢC NÊN THÁNH VÀ ĐƯỢC SỐNG ĐỜI ĐỜI
1. LỜI CHÚA:
Chúa phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11:25-26).
2. CÂU CHUYỆN:
NGUỒN GỐC LỄ CÁC THÁNH
Trong lịch cử Hội Thánh, từ thế kỷ thứ 4, các vị tử đạo đã được Hội Thánh tôn vinh. Đến thế kỷ thứ 7, sau khi một số kẻ xấu đột nhập vào hang toại đạo tại Rôma trộm cắp hài cốt của các vị tử đạo, Đức Giáo Hoàng Bo-ni-fa-ci-ô IV đã cho thu lượm những hài cốt các thánh và chôn cất lại bên trong ngôi đền Pan-the-on, là đền thờ các thần của người Rô-ma. Từ ngày đó đền thờ này đã được thánh hiến trở thành đền thờ kính các Thánh Nam Nữ của đạo Công Giáo.
Sử gia Be-da đáng kính đã viết: “Việc tưởng nhớ các thánh trong tương lai có thể thay cho việc thờ phượng mà trước đây không được dành cho thần thánh nhưng là thờ ma quỷ”. Vào năm 800, thần học gia Al-cuin người Anglo-Saxon đã cử hành lễ Các Thánh vào ngày 1 tháng 11, và bạn của ông là Ar-no, Giám mục của Salz-burg cũng theo như vậy. Sau cùng, trong thế kỷ thứ 9, Hội Thánh Rô-ma đã chấp thuận mừng lễ Các Thánh vào ngày 1 tháng 11 hằng năm.
Đầu tiên lễ này nhằm kính nhớ các vị tử đạo. Về sau, khi người Ki-tô hữu được tự do hành đạo, Giáo hội đã kính chung các tín hữu đã chết trong sự thánh thiện. Vào các thế kỷ đầu tiên, để được công nhận là Thánh, thì chỉ cần được nhiều người công nhận và vị giám mục sẽ đưa tên vị Thánh ấy vào niên lịch Giáo hội.
Việc Đức Giáo Hoàng chính thức phong các tín hữu lên bậc Thánh Nhân chỉ bắt đầu từ năm 973. Ngày nay việc phong thánh đòi hỏi cả một tiến trình lâu dài để chứng minh các đức tính và sự thánh thiện của các ngài. Khi phong thánh cho một người nào, Hội Thánh chính thức xác nhận người đó đã sống cuộc đời thánh thiện và đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng để các tín hữu noi gương. Hiện nay ngòai các vị được nêu tên trong lịch gọi là các vị Hiển Thánh, Hội Thánh còn mừng lễ Các Thánh Nam Nữ để kính nhớ chung các tín hữu đã chết và đang được hưởng hạnh phúc với Chúa, trong đó nhiều người là thân nhân của chúng ta.
3. SUY NIỆM:
1) CÁC THÁNH LÀ NHỮNG AI?
- Đức Khổng Phu Tử đã nói: "Làm thánh thì tôi không dám” (thánh ngã bất cảm); còn Đức Giê-su thì lại dạy môn đệ : "Anh em hãy nên hoàn thiện như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện" (Mt 5,48). Chúa Giê-su cũng được ma quỷ gọi là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Lc 4,34). Nhờ mầu nhiệm nhập thể của Chúa Giê-su, Thiên Chúa đã dạy con đường nên thánh cho loài người.
- Sách giáo lý Công Giáo dạy: Các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh. Giáo Hội Công Giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa.
2) MỘT HỘI THÁNH BA TÌNH TRẠNG
Chúa Giê-su thiết lập Nước Trời là Hội Thánh. Hội Thánh ấy hiện nay gồm ba tình trạng: Một là Hội Thánh Lữ Hành, hai là Hội Thánh Vinh Thắng và ba là Hội Thánh Đau Khổ như sau:
- HỘI THÁNH LỮ HÀNH TRẦN GIAN: Gồm các tín hữu đang còn sống ở trần gian, đang bước đi trên con đường của Chúa Giê-su. Như dân Ít-ra-en xưa, Hội thánh phải vượt qua sa mạc trần gian tiến về Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau. Các tín hữu trong Hội Thánh lữ hành phải chiến đấu với ba thù là ma quỷ, thế gian và xác thịt mình. Họ được Chúa ban cho hai của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Bánh Thánh Thể. Nhờ đó họ sẽ đủ sức vượt qua sa mạc trần gian để về đến Đất Hứa là Thiên Đàng đời sau.
- HỘI THÁNH KHẢI HOÀN TRÊN TRỜI: Gồm các tín hữu đã qua đời trong niềm tin cậy vào Chúa. Các ngài đã sống theo hiến chương Nước Trời là Tám Mối Phúc Thật do Chúa Giê-su công bố, và đang được Chúa ban thưởng hạnh phúc Thiên Đàng.
- HỘI THÁNH ĐAU KHỔ ĐANG ĐƯỢC THANH LUYỆN: Gồm các tín hữu tuy đi theo con đường của Chúa Giê-su, nhưng chết trong tình trạng còn nhiều sai sót, chưa xứng đáng vào Nước Trời. Họ cần tiếp tục được thanh luyện bằng lửa yêu mến trong chốn luyện hình.
3) TÍN ĐIỀU CÁC THÁNH THÔNG CÔNG
Ngoại trừ các người đi theo ma quỷ chống lại Thiên Chúa và không thực hành bác ái yêu thương, sẽ bị loại khỏi Nước Trời để chịu hình phạt phải xa cách Chúa đời đời, như lời Chúa phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta, mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác quỷ và các sứ thần của nó” (Mt 25,41), còn các tín hữu tin vào Chúa Giê-su, dù đang còn sống hay đã qua đời, dù đã được lên thiên đàng hay đang được thanh luyện trong chốn luyện hình, cũng đều có thể cầu nguyện cho nhau và cùng được thông hiệp vào ơn cứu độ của Chúa Giê-su. Đây là mầu nhiệm các thánh thông công:
Các tín hữu còn sống có thể giúp các linh hồn đã qua đời bằng cách lãnh các ân xá trong tháng 11 để cầu cho các linh hồn (đi viếng Nhà thờ hay Đất thánh kèm theo đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ và hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, sẽ nhận được các ân xá), nhất là xin lễ và hiệp dâng thánh lễ cầu nguyện, làm các việc bác ái phục vụ để cầu cho các linh hồn. Nhờ đó các linh hồn sẽ được ơn Chúa chiếu soi, thêm lòng mến Chúa để được ơn tha thứ như Chúa đã dạy: “Yêu nhiều sẽ được tha nhiều”(Lc 7,47). Khi được nên thánh thiện hòan tòan, các linh hồn sẽ được Chúa cho vào Thiên Đàng hưởng Thánh Nhan Thiên Chúa và sẽ chuyển cầu cho chúng ta đang lữ hành trần gian.
4. LỜI CẦU
Lạy Chúa Giê-su. Xin ban cho con ơn khôn ngoan của Thánh Thần để con biết sống trọn vẹn giây phút hiện tại trong ơn nghĩa Chúa, để ngày nào đó khi được Chúa gọi, con sẽ trình diện trước mặt Chúa không phải như hai người xa lạ, nhưng như hai người rất thân quen. Để khi ấy Chúa sẽ gọi con bằng một cái tên rất trìu mến và giang rộng vòng tay đón con vào hưởng hạnh phúc Nước Trời đời đời với Chúa.-Amen.
Lễ cầu cho các Đẳng Linh hồn
Lm Đan Vinh
21:11 28/10/2020
LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN (02/11)
LỄ CẦU CHO CÁC ĐẲNG LINH HỒN
1. LỜI CHÚA:
Thánh Phaolô đã xác tín về mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như sau: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người: đó là niềm tin của chúng ta. Thật vậy, chúng ta biết rằng: một khi Đức Ki-tô đã sống lại từ cõi chết thì không bao giờ Người chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,8-9).
2. CÂU CHUYỆN:
1) MỘT NGƯỜI KHÔNG DÁM ĐỐI DIỆN VỚI CÁI CHẾT:
Một chân lý mà mọi người đều biết rõ là: Con người có ngày sinh ra thì cũng có ngày phải chết để đi vào cõi vĩnh hằng. Tuy nhiên hầu như mọi người đều sợ chết. Một nhà tỷ phú người Mỹ là WILLIAM RANDOPH HEARST, chủ nhân của nhiều tờ báo và phim trường ở Ho-ly-wood hồi trước thế chiến thứ hai, tuy rất giàu có và thành đạt nhưng ông lại rất sợ chết. Ông ra lệnh cho các nhân viên dưới quyền không ai được nhắc đến chữ “chết” trước mặt ông. Ai lỡ miệng nói ra sẽ lập tức bị đuổi việc. Ông là người thông minh tài giỏi và luôn thành công trong mọi việc làm, nhưng lại không dám đối mặt với sự thật phũ phàng là sự chết ! Nhưng dù không muốn nhắc đến cái chết, cuối cùng cái chết cũng vẫn tìm đến với ông: Ngày nọ ông đang hăng say làm việc thì tự nhiên lăn đùng ra chết “bất đắc kỳ tử” do đứt mạch máu não. Ông chết đi để lại cho hậu thế một toà lâu đài to lớn, được dùng làm điểm du lịch nổi tiếng ở bang Ca-li-for-ni-a Hoa Kỳ.
2) NỘI DUNG MỘT SỐ LỜI TRĂN TRỐI TRƯỚC KHI CHẾT:
Trong tai nạn máy bay boeing 747 của hãng hàng không Nhật bản vào ngày 12-8-1985 đã khiến 520 người thiệt mạng. Điều đáng nói là phi hành đoàn cũng như hành khách trên chiếc Boeing 747 này đã biết máy bay của họ gặp phải sự cố: Phi công không thể điều khiển được hướng đi và mọi người chỉ còn một ít thời gian trước khi máy bay bị rớt. Khi hay biết điều này, có mấy người hành khách đã vội lấy giấy bút ra ghi lời trăn trối của họ trước lúc chết.
- Người thứ nhất là ông KAWAGUCHI, đã viết nguệch ngoạc được mấy lời trăn trối trên cuốn lịch nhỏ bỏ túi. Ông viết cho vợ như sau: “Thôi, vĩnh biệt người vợ thân yêu! Em hãy thay anh chăm sóc cho các con em nhé !”.
Tiếp đến ông khuyên 3 đứa con, hai gái một trai rằng: “Các con hãy sống hòa thuận yêu thương nhau, hãy chăm chỉ làm việc để giúp mẹ lo cho gia đình mình nhé”.
Riêng với cậu con trai út tên TSUYOSHI, ông viết: “Ba đặt nhiều hy vọng nơi con. Hỡi con trai yêu quý của ba !”.
- Người thứ hai viết lời trối là kiến trúc sư KAZUO YOSHIMURA: Ông chỉ viết được mấy chữ trên một tờ giấy vở: “Tôi muốn cả gia đình mình luôn bình an mạnh khỏe”.
Như vậy, điều mà mọi người đều quan tâm trước khi chết là lo cho những người thân đang còn sống như cha mẹ, vợ con… Những con người mà họ đang có trách nhiệm che chở giữ gìn, mà nay khi cái chết đến gần, họ sẽ không thể tiếp tục lo nữa. Dù vậy, họ vẫn mong cho những người đó được hạnh phúc. Có những người chết đã không thể nhắm mắt khi còn có quá nhiều những việc phải làm nhưng chưa thể chu toàn.
3) MỌI SỰ RỒI SẼ QUA ĐI:
Một ông vua kia muốn làm cho viên quan cận thần nổi tiếng là thông minh tài trí phải xấu hổ. Nhân dịp sắp tới một lễ hội, vua ra lệnh cho viên quan này phải mang về cho vua một vật mà kẻ đang vui nhìn thấy sẽ buồn sầu, và người đang buồn khi nhìn thấy sẽ lại vui tươi. Khi ngày hội gần đến, viên quan rất buồn vì vẫn chưa tìm ra một vật giống như ý vua. Ông liền quyết định đi đến một nơi nghèo nhất kinh thành, khi đi qua một ông lão bán hàng rong, viên quan dừng lại hỏi ông lão có vật có tác dụng như thế không. Nghe xong, ông lão bèn đưa cho viên quan ấy một cái vòng. Vị quan nhìn vào thấy có một dòng chữ hiện ra khiến ông mỉm cười vui sướng. Lễ hội đến, nhà vua chắc rằng viên quan kia sẽ bị một vố bẽ mặt. Thế nhưng khi được gọi, viên quan thông thái kia đã ung dung bước vào chầu vua, tay cầm theo một cái vòng và dâng lên cho nhà vua, trước sự ngơ ngác của triều thần hiện diện. Nhà vua cầm cái vòng lên với nụ cười trên môi, nhưng khi thấy dòng chữ trong chiếc vòng hiện ra thì nụ cười lập tức biến mất. Dòng chữ trong chiếc vòng ấy như sau: “Mọi sự rồi sẽ qua đi”. Câu này nhắc nhở cho vua và mọi người về giới hạn của mọi sự: Vinh hoa phú quý sắc đẹp mọi sự đều có ngày sẽ biến mất theo quy luật ngàn đời: “Phù hoa nối tiếp phù hoa. Trần gian tất cả chỉ là phù hoa”.
4) “FORGET ME NOT - XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”:
Có một loài hoa tên là Lưu Ly có mấy màu là tím, trắng, xanh hoặc vàng hòa quyện cùng nhau rất đẹp, và người ta hay hái hoa này để tặng nhau. Các đôi trai gái gọi tên loài hoa này là " FORGET ME NOT - XIN ĐỪNG QUÊN TÔI”.
Ngày xưa có một đôi nam nữ yêu nhau. Vào một sáng mùa xuân, hai người dắt nhau đi dạo chơi bên bờ một con suối, có nhiều hoa Lưu Ly mọc dày. Trong khi chàng trai đang đứng ngắm nhìn dòng thác đổ, thì cô gái lai say sưa đi hái những nhánh hoa Lưu Ly. Cô không ngại nhoài người bên bờ suối để cố hái được mấy nhành hoa đẹp. Chẳng may cô bị trượt chân té ngã xuống dòng suối và bị nước cuốn trôi đi. Khi bị té, cô vẫn đang nắm những nhành hoa Lưu Ly trong tay và đã vừa ném những hoa đó lên bờ vừa nói to lên rằng: "Xin đừng quên em".
5) AI MỚI THẬT KHỜ DẠI:
Một trong những câu chuyện hay dạy đời là “Ông vua giầu có với chú hề” như sau:
"Có một ông vua kia sống một cuộc đời giầu sang phú quí. Ông sống như không hề biết đến tương lai của mình. Ông cũng chẳng màng đến có thế giới mai sau hay không? Trong hoàng cung có một chú hề chuyên giúp vui cho vua mỗi khi ông muốn giải sầu. Theo vua nghĩ thì tên hề này là một rất ngu đần. Ngày nọ, nhà vua cho gọi anh hề tới trao cho anh ta một cây quyền trượng và nói: "Ngươi hãy đi tìm một kẻ ngu dại hơn ngươi - trao cây gậy này cho nó, rồi ta sẽ trọng thưởng cho ngươi." Từ lúc đó chú hề nhận cây gậy vua trao và cố gắng đi tìm kẻ ngu hơn mình, nhưng sau nhiều ngày tìm kiếm mà vẫn không thể tìm ra.
Thời gian qua mau và tuổi già đến với nhà vua lúc nào không biết. Đến khi sức cùng lực kiệt, vua cho gọi chú hề đến gần và nói như sau:
- Trẫm sắp sửa đi một chuyến đi thật là xa.
- Dạ thưa Đức Vua đi tới đâu ạ?
- Ta cũng không hay biết nữa.
- Dạ thưa đi như vậy rồi bao giờ Đức Vua mới trở về?
- Không bao giờ, không bao giờ con ạ.
Anh hề tuy là một người ngu, nhưng trong trường hợp này anh lại phán đoán rất chính xác. Anh nhẹ nhàng đặt cây gậy vào ngay bàn tay Đức Vua mà trước kia nhà vua đã trao vào tay anh ta rồi im lặng bước ra, lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui sướng vì đã khám phá ra một người còn ngu hơn mình, mà người đó không ai khác hơn là chính ông vua đã từng tự hào thông minh hơn anh gấp trăm gấp vạn lần.
3. SUY NIỆM:
1) LỜI KÊU XIN CỦA CÁC LINH HỒN:
Có một loài hoa nhỏ: Forget-me-not, Việt ngữ gọi là Lưu Ly Thảo. Ý nghĩa của loài hoa này nói về sự chung thủy của tình yêu đôi lứa. Nhưng với người Công Giáo, nó mang một ý nghĩa khác, đặc biệt trong tháng cầu cho các linh hồn này. Vâng, Lưu Ly Thảo nhắc nhở chúng ta lời kêu cứu tha thiết của các linh hồn nơi Luyện Hình: “Forget-me-not – Xin đừng quên tôi!”.
Khi cầu nguyện cho họ thì lại là chính cầu nguyện cho chúng ta. Đúng như Thánh Phan-xi-cô As-si-si nói: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Các linh hồn không tự “cải thiện” mức án, nhưng các ngài vẫn có thể cầu nguyện cho chúng ta. Hy vọng mai đây mỗi chúng ta cũng được phân loại là “chiên” và được nghe Chúa nói: “Hỡi những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh nhận phần gia nghiệp Nước Trời đã chuẩn bị cho các ngươi từ khi tạo dựng vũ trụ” (Ga 11,25-26).
Chúa Giê-su an ủi những ai còn sống trên trần gian rằng: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14,1-3)
Như thế, ngày chết mà người ta gọi là ngày đại hoạ, ngày kinh hoàng, thì đối với người con Chúa, đó lại là ngày đoàn tụ sum vầy. Ngày đó, chúng ta sẽ được “đồng hưởng sự sống đời đời cùng với các triều thần thánh trên trời.
2) MẦU NHIỆM CÁC THÁNH CÙNG THÔNG CÔNG:
Giáo lý Công Giáo dạy : Những người đã được hưởng hạnh phúc bên Thiên Chúa gọi là các thánh. Những kẻ còn ở trần gian và các linh hồn trong chốn luyện hình cũng là những thánh nhân trong khả thể. Ba lớp người này được hiệp thông với nhau về ơn sủng do Chúa Giê-su ban cho. Mỗi thành phần nói trên đều có thể liên đới với nhau bằng lời cầu nguyện, bằng sự chia sẻ, sự hy sinh và ân sủng: Các Thánh chuyển cầu cùng Chúa cho những người còn sống, những người còn sống làm nhiều việc lành cầu nguyện cho các linh hồn, và các linh hồn dù đang được thanh luyện cũng có thể cầu xin cùng Chúa cho các tín hữu chúng ta ở trần gian. Niềm tin này được đặt trong niềm tin vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su như Người đã nói : « Tất cả những kẻ Chúa Cha đã ban cho tôi, thì sẽ đến với tôi, và ai đến với tôi, thì sẽ không bị loại ra ngoài… và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết ».
3) HÃY THỂ HIỆN LÒNG HIẾU THẢO BIẾT ƠN VỚI ÔNG BÀ TỔ TIÊN:
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Con người có tổ có tông, như cây có cội như sông có nguồn”. Hai chữ cội nguồn đã mang lại toàn bộ ý nghĩa của đạo làm con đối với các bậc sinh thành mà bất cứ ai sinh ra trong cuộc đời đều có bổn phận phải ghi nhớ và gìn giữ để báo đáp.
Phật giáo hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch cũng có mùa vu lan để báo hiếu. Vào dịp này, mỗi người đều xướng lên tấm lòng biết ơn của mình. Có người không quen ăn chay trường, song vào thời điểm này, cũng thể hiện lòng hiếu đó bằng việc ăn chay trọn tháng bảy âm lịch, hay có những người bận rộn công việc đời thường vào dịp này họ cố gắng thu xếp thời gian để đến một ngôi chùa quen thuộc dự lễ cầu siêu cho linh hồn ông bà cha mẹ đã qua đời. Họ tin rằng nhờ đó, bổn phận của họ được chu toàn. Với truyền thống lâu đời của người phật tử là cầu mong để được đáp đền ơn tam bảo, báo hiếu cha mẹ sinh thành dưỡng dục…
Còn ở Tây phương, người ta không có tục thờ cúng tổ tiên bởi vì chữ hiếu nơi họ không được nâng lên thành đạo. Thế nhưng họ đã chọn ra hai ngày trong năm để tưởng nhớ công ơn sinh thành của cha mẹ. Đó là Ngày Của Mẹ (Mother’s. Day) vào ngày Chúa Nhật thứ hai trong tháng năm và Ngày Của Cha (Father’s. Day) vào Chúa Nhật thứ ba trong tháng sáu.
Hàng năm, Giáo Hội Công Giáo đã dành trọn tháng 11 để nhắc nhở các tín hữu tưởng nhớ đến những người quá cố, thể hiện đạo làm con trong gia đình. Người Công Giáo vẫn có thói quen tốt lành đi viếng nghĩa trang cùng với việc tảo mộ. Ngoài ra, Giáo Hội Việt Nam cũng dành ngày Mồng Hai Tết để kính nhớ tổ tiên ông bà cha mẹ.
4) CHÚNG TA PHẢI LÀM GÌ?
Trong tháng này, mỗi tín hữu chúng ta có thể làm một số việc cụ thể biểu lộ lòng hiếu thào biết ơn với ông bà tổ tiên như sau :
+ Năng đến nhà thờ dâng lễ cầu nguyện và lãnh các ơn đại xá cầu cho ông bà cha mẹ và người thân đã qua đời.
+ Làm nhiều việc bác ái như chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói, phục vụ các bệnh nhân và các người già cả cô đơn bất hạnh... để cầu cho các linh hồn đã qua đời.
+ Xây mồ yên mả đẹp cho người thân đã qua đời. Mỗi dịp Giỗ Tết con cháu hãy họp nhau để xin lễ cầu nguyện cho các linh hồn ông bà cha mẹ, cùng nhau đi viếng mộ phần và dùng cơm chung với nhau để thể hiện tình thân trong cùng một gia tộc.
+ Tuy nhiên, điều quan trọng là phải sống hiếu thảo với ông bà cha mẹ ngay khi cha mẹ đang còn sống. Mọi người trong gia đình cần yêu thương đùm bọc nhau để cha mẹ ở trên thiên đàng được vui. Hãy năng nhắc nhở con cháu phải biết ơn cầu nguyện cho ông bà cha mẹ mỗi giờ kinh tối gia đình.
4. LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã lên trời bằng con đường « qua đau khổ vào vinh quang ». Chúa hứa sẽ dọn chỗ cho chúng con và mai ngày sẽ trở lại đưa chúng con lên trời với Chúa. Xin cho các tín hữu chúng con, những người đang sống và những ai đã ly trần trong tình thương của Chúa cũng được thanh luyện ngày một nên tốt lành thánh thiện hơn, hầu sớm được về quê trời hưởng hạnh phúc với Chúa Ba Ngôi và các thần thánh đến muôn đời. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Vị Hồng Y tân cử đang trông coi một Giáo phận chỉ có ba linh mục!
Thanh Quảng sdb
03:00 28/10/2020
Vị Hồng Y tân cử đang trông coi một Giáo phận chỉ có ba linh mục!
(Tin Thông tấn xã Á châu)
Vị Hồng Y tân cử của nước Brunei, đang điều hành một giáo phận chỉ có ba linh mục trong một Quốc gia Hồi giáo nhỏ bé, mà cộng đồng người Phi, những người có niềm tin đi lao động, chiếm một con số đáng kể.
Nhà thờ Đức Mẹ lên trời ở thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei.
Vị Hồng Y tân cử của xứ Brunei được cho là đang quản trị giáo phận với ba linh mục, được cói là một giáo phận có con số linh mục ít nhất thế giới.
Ba linh mục và Giám mục Cornelius Sim, đại diện tông tòa của xứ Brunei, chăm sóc người Công Giáo trong một đất nước quân chủ Hồi giáo duy nhất còn sót lại trên thế giới.
Giám mục Sim nói vài ngày trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô nâng ngài lên là một trong 13 tân Hồng Y vào ngày 25 tháng 10 rằng “Chúng tôi là một trong những giáo phận nhỏ nhất ở châu Á”.
"Chúng tôi hy vọng sẽ có ơn gọi linh mục và tu sĩ" như một phần chương trình phát triển của giáo phận, nơi có khoảng 21.000 người Công Giáo sinh sống nhưng phần đa những người này là những người di dân hay đi lao động.
Nhiều người trong Giáo hội cho việc chọn Đức cha Sim vào hàng ngũ Hồng Y đoàn là một trong nỗ lực “đi ra các vùng ngoại vi” của Đức Thánh Cha Phanxicô, người muốn nói lên rằng tất cả các cộng đồng dù nhỏ bé, đều quan trọng trong đời sống của Giáo hội.
Brunei là một quốc gia có diện tích 5.700 cây số vuông, nằm trọn trong đảo Borneo, tiếp giáp với Mã Lai và Nam Dương.
Dù là một quốc gia nhỏ, nhưng Brunei là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, dù dân số Brunei chỉ có 429.000 người, là một trong những quốc gia có dân số thấp nhất ở châu Á. Tiếng Malay là ngôn ngữ chính, nhưng tiếng Anh và tiếng Hoa được sử dụng rộng rãi.
Khoảng 2/3 dân số Brunei là người Hồi giáo do Quốc vương Hassanal Bolkiah cai trị. Đất nước theo luật Sharia áp dụng cho người Hồi giáo
Khoảng 10 phần trăm dân chúng là vô thần, 13 phần trăm theo đạo Phật và một số nhỏ có tín ngưỡng bản địa. Kitô giáo chiếm khoảng 10% dân số, một nửa trong số này là người Công Giáo.
Cha Arin Sugit, phụ tá giám mục tại Nhà thờ Đức Mẹ Assumption ở thủ đô Bandar Seri Begawan giải thích với Thông tấn xã Á châu (UCA) rằng đa số người Công Giáo là người di dân.
Khoảng 70 phần trăm người Công Giáo của giáo phận là công nhân từ Phi. 20% khác đến từ các nước khác như Indonesia, Ấn Độ và Malaysia. Cha ấy cho hay chỉ có khoảng 10% là người Bruneians bản địa.
Giám mục Sim cho biết: “Giáo phận của Ngài may mắn khi có một giáo đoàn người Phi đông đảo làm cho Giáo hội được phong phú và sống động. "Những ngưới Phi sống niềm tin của họ, với lòng sùng đạo mộ mến, làm phong phú cho đời sống đạo của Giáo phận và đức tin của chúng tôi rất nhiều."
Cha Sugit được thụ phong năm 2008. Hai linh mục khác của giáo phận là Cha Paul Shie, thụ phong năm 1999 và Cha Robert Leong, thụ phong năm 2003.
Người Công Giáo được tự do thực hành đức tin trong khuôn khổ nhà thờ và tại tư gia, nhưng việc phô trương đức tin nơi công cộng thì bị hạn chế.
Chẳng hạn, Cha Sugit cho hay có khoảng 5.000 tới 6000 người tham dự Thánh lễ tại thánh đường Đức Mẹ Lên trời vào mỗi ngày Chủ Nhật.
Các nhà truyền giáo dòng Phanxicô đã mang đức tin Công Giáo đến Brunei vào năm 1587. Brunei trở thành một đại diện tông tòa riêng biệt, một giáo hạt biệt lập trước khi được nâng lên hàng giáo phận vào năm 2004.
Trước đó, Brunei là một phần của Giáo phận Miri thuộc Malaysia. Giám mục Sim được chịu chức linh mục cho địa phận Miri vào năm 1989.
Bước đầu để tách Brunei thành một giáo phận là do thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đặt nó là một giáo hạt vào năm 1997 và bổ nhiệm Cha Sim làm Đại diện Tông tòa.
Giáo phận của Ngài, Giám mục Sim nói, đã có "một khởi điểm rất khiêm tốn, nên chúng tôi phải nỗ lực làm phong phú bằng có thêm các cộng đồng đức tin khác."
Miri là thành viên của Hội đồng Giám mục Công Giáo Malaysia, Singapore và Brunei. Hồng Y Anthony Soter Fernandez, tổng giám mục hưu trí của Kuala Lumpur, đã từng nắm giữ chức chủ tịch.
Hội đồng giám mục bao gồm ba quốc gia không có vị Hồng Y nào ngoài Hồng Y Fernandez 90 tuổi, hiện đang đau yếu và đã quá quyền được bỏ phiếu bầu chọn giáo hoàng. Theo giáo luật thì chỉ các Hồng Y dưới 80 tuổi mới được quyền bầu chọn giáo hoàng.
Giám mục Sim, năm nay 69 tuổi, sẽ trở thành một vị Hồng Y đầu tiên từ bán đảo Borneo và sẽ là người có quyền biểu quyết để bầu giáo hoàng cho đến năm 2031.
Nguồn: https://www.ucanews.com/news/new-brunei-cardinal-runs-diocese-with-only-three-priests/90047
(Tin Thông tấn xã Á châu)
Vị Hồng Y tân cử của nước Brunei, đang điều hành một giáo phận chỉ có ba linh mục trong một Quốc gia Hồi giáo nhỏ bé, mà cộng đồng người Phi, những người có niềm tin đi lao động, chiếm một con số đáng kể.
Nhà thờ Đức Mẹ lên trời ở thủ đô Bandar Seri Begawan của Brunei.
Vị Hồng Y tân cử của xứ Brunei được cho là đang quản trị giáo phận với ba linh mục, được cói là một giáo phận có con số linh mục ít nhất thế giới.
Ba linh mục và Giám mục Cornelius Sim, đại diện tông tòa của xứ Brunei, chăm sóc người Công Giáo trong một đất nước quân chủ Hồi giáo duy nhất còn sót lại trên thế giới.
Giám mục Sim nói vài ngày trước khi Đức Thánh Cha Phanxicô nâng ngài lên là một trong 13 tân Hồng Y vào ngày 25 tháng 10 rằng “Chúng tôi là một trong những giáo phận nhỏ nhất ở châu Á”.
"Chúng tôi hy vọng sẽ có ơn gọi linh mục và tu sĩ" như một phần chương trình phát triển của giáo phận, nơi có khoảng 21.000 người Công Giáo sinh sống nhưng phần đa những người này là những người di dân hay đi lao động.
Nhiều người trong Giáo hội cho việc chọn Đức cha Sim vào hàng ngũ Hồng Y đoàn là một trong nỗ lực “đi ra các vùng ngoại vi” của Đức Thánh Cha Phanxicô, người muốn nói lên rằng tất cả các cộng đồng dù nhỏ bé, đều quan trọng trong đời sống của Giáo hội.
Brunei là một quốc gia có diện tích 5.700 cây số vuông, nằm trọn trong đảo Borneo, tiếp giáp với Mã Lai và Nam Dương.
Dù là một quốc gia nhỏ, nhưng Brunei là một trong những quốc gia giàu có nhất thế giới, dù dân số Brunei chỉ có 429.000 người, là một trong những quốc gia có dân số thấp nhất ở châu Á. Tiếng Malay là ngôn ngữ chính, nhưng tiếng Anh và tiếng Hoa được sử dụng rộng rãi.
Khoảng 2/3 dân số Brunei là người Hồi giáo do Quốc vương Hassanal Bolkiah cai trị. Đất nước theo luật Sharia áp dụng cho người Hồi giáo
Khoảng 10 phần trăm dân chúng là vô thần, 13 phần trăm theo đạo Phật và một số nhỏ có tín ngưỡng bản địa. Kitô giáo chiếm khoảng 10% dân số, một nửa trong số này là người Công Giáo.
Cha Arin Sugit, phụ tá giám mục tại Nhà thờ Đức Mẹ Assumption ở thủ đô Bandar Seri Begawan giải thích với Thông tấn xã Á châu (UCA) rằng đa số người Công Giáo là người di dân.
Khoảng 70 phần trăm người Công Giáo của giáo phận là công nhân từ Phi. 20% khác đến từ các nước khác như Indonesia, Ấn Độ và Malaysia. Cha ấy cho hay chỉ có khoảng 10% là người Bruneians bản địa.
Giám mục Sim cho biết: “Giáo phận của Ngài may mắn khi có một giáo đoàn người Phi đông đảo làm cho Giáo hội được phong phú và sống động. "Những ngưới Phi sống niềm tin của họ, với lòng sùng đạo mộ mến, làm phong phú cho đời sống đạo của Giáo phận và đức tin của chúng tôi rất nhiều."
Cha Sugit được thụ phong năm 2008. Hai linh mục khác của giáo phận là Cha Paul Shie, thụ phong năm 1999 và Cha Robert Leong, thụ phong năm 2003.
Người Công Giáo được tự do thực hành đức tin trong khuôn khổ nhà thờ và tại tư gia, nhưng việc phô trương đức tin nơi công cộng thì bị hạn chế.
Chẳng hạn, Cha Sugit cho hay có khoảng 5.000 tới 6000 người tham dự Thánh lễ tại thánh đường Đức Mẹ Lên trời vào mỗi ngày Chủ Nhật.
Các nhà truyền giáo dòng Phanxicô đã mang đức tin Công Giáo đến Brunei vào năm 1587. Brunei trở thành một đại diện tông tòa riêng biệt, một giáo hạt biệt lập trước khi được nâng lên hàng giáo phận vào năm 2004.
Trước đó, Brunei là một phần của Giáo phận Miri thuộc Malaysia. Giám mục Sim được chịu chức linh mục cho địa phận Miri vào năm 1989.
Bước đầu để tách Brunei thành một giáo phận là do thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đặt nó là một giáo hạt vào năm 1997 và bổ nhiệm Cha Sim làm Đại diện Tông tòa.
Giáo phận của Ngài, Giám mục Sim nói, đã có "một khởi điểm rất khiêm tốn, nên chúng tôi phải nỗ lực làm phong phú bằng có thêm các cộng đồng đức tin khác."
Miri là thành viên của Hội đồng Giám mục Công Giáo Malaysia, Singapore và Brunei. Hồng Y Anthony Soter Fernandez, tổng giám mục hưu trí của Kuala Lumpur, đã từng nắm giữ chức chủ tịch.
Hội đồng giám mục bao gồm ba quốc gia không có vị Hồng Y nào ngoài Hồng Y Fernandez 90 tuổi, hiện đang đau yếu và đã quá quyền được bỏ phiếu bầu chọn giáo hoàng. Theo giáo luật thì chỉ các Hồng Y dưới 80 tuổi mới được quyền bầu chọn giáo hoàng.
Giám mục Sim, năm nay 69 tuổi, sẽ trở thành một vị Hồng Y đầu tiên từ bán đảo Borneo và sẽ là người có quyền biểu quyết để bầu giáo hoàng cho đến năm 2031.
Nguồn: https://www.ucanews.com/news/new-brunei-cardinal-runs-diocese-with-only-three-priests/90047
Bạo loạn lớn bất ngờ nổ ra tại Philadelphia có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ
Đặng Tự Do
06:19 28/10/2020
Hàng trăm binh sĩ thuộc Vệ binh Quốc gia Pennsylvania đã được triển khai đến Philadelphia theo yêu cầu của thành phố, trong bối cảnh bất ổn sau vụ bắn chết một người đàn ông Da đen vào hôm thứ Hai.
Walter Wallace, 27 tuổi, đã thiệt mạng sau khi các viên chức cảnh sát đáp lại một cuộc gọi khẩn cấp vào chiều thứ Hai 26 tháng 10 ở phía Tây thành phố Philadelphia. Thị trưởng và Giám đốc sở cảnh sát thành phố đã hứa sẽ có một cuộc điều tra đầy đủ về vụ việc.
Các cuộc đụng độ bạo lực giữa cảnh sát và những người biểu tình nổ ra ngay sau vụ xả súng, và cho đến nay khoảng 30 cảnh sát được cho là bị thương trong đêm đầu tiên của cuộc biểu tình. Một số lớn các cửa hàng bị cướp phá.
Tối thứ Ba 27 tháng 10, cảnh sát đã phải kêu gọi cư dân ở một số quận nhất định nên ở trong nhà đừng ra đường.
Văn phòng đối phó tình trạng khẩn cấp của thành phố đã tweet rằng:
“Sở Cảnh sát Philadelphia yêu cầu tất cả cư dân tại các Quận 12, 16, 18, 19, 24, 25 và 26 phải ở trong nhà trừ khi cần thiết lắm mới ra ngoài. Các khu vực này đang diễn ra các cuộc biểu tình lan rộng đến mức bạo lực và cướp bóc”.
Thống đốc bang Pennsylvania là ông Tom Wolf, một đảng viên đảng Dân Chủ, cho biết ông đã phải kêu gọi Vệ binh Quốc gia can thiệp.
Các quan chức cảnh sát chưa tiết lộ tên của hai cảnh sát viên đã bắn chết Wallace, nhưng cho biết các viên chức cảnh sát này đã bị ngưng việc trong khi chờ điều tra.
Thị trưởng Philadelphia Jim Kenney, cũng là một đảng viên đảng Dân Chủ, cho biết ông đã xem video cho thấy một phần của bi kịch này. Trong một tuyên bố chung với ủy viên cảnh sát thành phố, Kenney, ông nói rằng vụ việc này là một “bi kịch” và “đặt ra những câu hỏi khó, cần phải được trả lời”.
Theo tờ The Philadelphia Inquirer, vụ việc bắt đầu vào khoảng 4 giờ chiều giờ địa phương.
Shaka Johnson, luật sư của gia đình Wallace, cho biết chính gia đình đã gọi 911 để yêu cầu xe cấp cứu can thiệp vì tình trạng sức khỏe tâm thần mà Wallace đang gặp phải.
Xe cấp cứu không đến, nhưng xe cảnh sát lại xuất hiện - và khi họ đến, Wallace đang cầm một con dao.
Theo luật sư Johnson, bà vợ của Wallace nói với các viên chức cảnh sát rằng người đàn ông 27 tuổi này mắc chứng rối loạn lưỡng cực và cầu xin họ bỏ về. Video về cuộc chạm trán cho thấy một phụ nữ, được cho là mẹ của Wallace, che chắn cho người đàn ông này khi anh ta len lỏi giữa những chiếc xe hơi trên đường phố.
Trung sĩ Eric Gripp, một phát ngôn viên của cảnh sát, cho biết trong một tuyên bố rằng các viên chức cảnh sát đến hiện trường không phải theo lời yêu cầu của gia đình nhưng vì có người báo cáo một người đàn ông đang cầm một con dao đi lang thang trên đường phố. Họ ra lệnh cho Wallace bỏ vũ khí, nhưng Wallace lừ lừ “tiến về phía các cảnh sát viên”. Mỗi viên chức cảnh sát này đã bắn 7 phát đạn vào Wallace trong khi mẹ anh ta đứng gần đó.
Gripp cho biết một trong những viên chức cảnh sát đã lái xe đưa Wallace đến Trung tâm Y tế Penn Presbyterian, nơi anh ta qua đời.
Cả hai viên chức cảnh sát đều đeo máy quay phim toàn thân vào thời điểm đó, nhưng sở cảnh sát chưa công bố đoạn phim hoặc đoạn ghi âm cuộc gọi 911 từ các thành viên trong gia đình của Wallace hoặc từ những người ngoài cuộc.
“Tại sao họ không sử dụng Taser?” Cha của nạn nhân nói với tờ Inquirer. “Mẹ nó đang cố gắng xoa dịu tình hình”. Taser là súng bắn nhằm gây tê liệt nhưng không đến mức chết người.
“Nó có vấn đề về tâm thần. Tại sao phải bắn nó?”
Không một cảnh sát viên nào trong 2 cảnh sát viên có Taser.
Một đoạn video trên mạng xã hội cho thấy một cảnh hỗn loạn ở giữa đường phố khi các cảnh sát viên rút súng ra, và được nhìn thấy đang lùi dần khi Wallace tiến đến với con dao trong tay trong khi một đám đông đang nhìn và quay phim.
Vài giờ sau, những cuộc biểu tình rất lớn đã nổ ra. Cảnh sát cho biết 30 cảnh sát viên đã bị thương trong các cuộc đụng độ vào cuối ngày thứ Hai và đầu ngày thứ Ba, trong đó có một nữ cảnh sát viên bị gãy chân sau khi cô bị một chiếc xe vận tải nhỏ bất ngờ tông vào. Cô ấy đã phải nhập viện; tất cả những người khác đã được điều trị vết thương và được cho về.
CBS Philly đưa tin hơn 30 người đã bị bắt trong đêm và một số cơ sở kinh doanh bao gồm hiệu thuốc, cửa hàng quần áo và nhà hàng đã bị bọn cướp nhắm đến.
Chỉ trong ngày thứ Hai 26 tháng 10, Tổng thống Trump đã có 3 cuộc vận động tranh cử tại Philadelphia. Ông Trump cố giành cho được 20 phiếu đại cử tri tại tiểu bang Pennsylvania, nơi cho đến nay vẫn là cứ điểm của đảng Dân Chủ.
Bạo loạn lớn bất ngờ nổ ra tại Philadelphia có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến số người da đen ủng hộ ông, nhưng cũng có thể giành thắng lợi cho ông nơi những người tin vào chính sách Luật Pháp và Trật Tự của ông.
Source:NPR
Một người chúng ta: Giới Công Giáo Hoa Kỳ chào mừng Thẩm phán Tối Cao Amy Coney Barrett.
Trần Mạnh Trác
13:41 28/10/2020
Với sự nhậm chức cuả bà Barrett thì Toà án Tối Cao nay có 6 vị thẩm phán Công Giáo, các vị Công Giáo khác là Chánh án John Roberts, các Thẩm phán Thomas, Samuel Alito, Sonia Sotomayor, và Brett Kavanaugh.
Bà Barrett và bà Sotomayor là hai nữ Thẩm phán Công Giáo duy nhất trong lịch sử Tòa án Tối cao Hoa Kỳ.
Đức Tổng Giám Mục Gregory Aymond của New Orleans, LA, là chỗ ‘chôn rau cắt rốn’ cuả bà Barrett đã ca ngợi bà là ‘một người đồng hương’ (một người chúng ta): “Chúng tôi cầu nguyện rằng Chúa Thánh Thần sẽ tiếp tục dẫn dắt bà ấy và hướng dẫn bà trong việc phục vụ đất nước.”
Đức Giám Mục Richard Stika của Knoxville, Tennessee, và Đức Giám Mục Joseph Strickland của Tyler, Texas cũng gửi lời chúc mừng đến bà Barrett qua Twitter.
Việc bà Barrett nhậm chức tại Tòa án Tối cao cũng được chào đón bởi các đồng nghiệp cũ của bà tại Đại học Notre Dame, nơi bà vừa là sinh viên luật vừa là giáo sư trong nhiều năm.
“Thay mặt cho Đại học Notre Dame, chúng tôi chúc mừng bà Amy Coney Barrett đã được Thượng viện Hoa Kỳ xác nhận ngày hôm nay là thẩm phán của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ,”Linh mục John Jenkins, CSC, viện trưởng trường đại học, nói như trên qua một thông cáo.
“Được các chuyên gia từ khắp các lĩnh vực triết học tư pháp công nhận là một học giả pháp lý và là một thẩm phán xuất sắc, bà ấy đã là một đồng nghiệp đáng kính và một giáo sư được sinh viên tôn kính. Thẩm phán Barrett đã trở thành cựu sinh viên đầu tiên và là giáo sư đầu tiên của trường Notre Dame được vinh dự này,” Cha Jenkins nói.
“Chúng tôi cùng gia đình và thân hữu của bà ăn mừng thành tích quan trọng này và chúng tôi xin gửi tới Thẩm phán Barrett và tất cả các đồng nghiệp của bà trên tòa án tối cao những lời cầu nguyện không ngừng của chúng tôi trong công việc thực thi công lý và bảo vệ Hiến pháp.”
Tâm tình của linh mục Jenkins cũng đã được giáo sư G. Marcus Cole, giáo sư và khoa trưởng tại trường Luật Notre Dame lập lại. Giáo sư Cole cho biết ông “vô cùng tự hào về một cựu sinh viên, đồng thời là đồng nghiệp và bạn hữu trong dịp trọng đại này”.
Giáo sư Cole nói: “Trong hơn hai thập kỷ, chúng tôi đã hân hạnh được thừa hưởng một tài năng xuất sắc, một sự giảng dạy tận tâm và một nhân cách cởi mở, chu đáo của bà ấy đối với các vấn đề pháp lý. Ông gọi bà Barrett không chỉ là một học giả “lỗi lạc”, mà còn là một con người “mẫu mực” và có lòng.
“Mặc dù chúng tôi sẽ ghi nhớ hình ảnh cuả bà ấy trong khuôn viên trường và trong cộng đồng của chúng tôi, nhưng chúng tôi mong muốn được chứng kiến những phẩm chất này biểu lộ ra khi bà ấy phục vụ tại tòa án cao nhất của quốc gia,” Giáo sư Cole nói.
Sinh ra ở New Orleans, bà Barrett theo học Trường Luật cuả Đại học Notre Dame trước khi làm thư ký cho Thẩm phán Laurence Silberman tại Tòa án DC và thư ký cho Thẩm phán Antonin Scalia tại Tòa án Tối cao. Sau đó, bà hành nghề luật sư tư, rồi trở lại Trường Luật Notre Dame để giảng dạy từ năm 2002, và trở thành giáo sư thực thụ vào năm 2010.
Trong quá trình phỏng vấn tại Thượng viện, bà Barrett đã trở thành mục tiêu chỉ trích của các nhà bình luận truyền thông và các nhà lập pháp đảng Dân chủ, với những câu chuyện tập trung vào niềm tin tôn giáo và gia đình của bà.
Tiến sĩ Robert George, giáo sư Princeton, đề cập đến cuộc tranh cãi về mối quan hệ của bà Barrett với hội People of Praise (Những người Ca tụng Thiên Chuá,) đã đăng một bức ảnh của mình với bà trên Twitter với câu chú thích như sau:
“Với người ‘Tôi Tớ’ của pháp luật”.
Chữ Tôi Tớ (Handmaiden) là lời thưa cuả Đức Mẹ khi Ngài trả lời: “Này tôi là Tôi Tớ đức Chuá Trời, tôi xin vâng như lời Thánh Thiên Thần truyền.”
Ông Brian Burch, chủ tịch của CatholicVote, nói rằng việc xác nhận bà Barrett “đặc biệt tiếp thêm sinh lực” cho người Công Giáo ở Hoa Kỳ.
“ Thẩm phán Barrett đã chứng minh rõ ràng rằng bà có những phẩm chất, kiến thức và kỹ năng cần thiết để trở thành một Thẩm phán công bằng và độc lập cho mọi người Mỹ. Các thượng nghị sĩ đã bỏ phiếu để xác nhận Thẩm phán Barrett sẽ được khen ngợi vì tập trung vào trình độ và sự cam kết xuất sắc của bà đối với sự công bằng và pháp quyền, thay vì các cuộc tấn công chống Công Giáo xấu xí cuả quá trình này,” ông nói.
Tiến sĩ Grazie Christie, cố vấn chính sách cuả Hiệp hội Công Giáo, gọi sự xác nhận của bà Barrett là một “tin tuyệt vời cho tất cả những người Mỹ yêu thích một nền tư pháp công bằng và độc lập chứ không phải là một diễn đàn cổ động cho đảng phái”.
“Thẩm phán Barrett đã chứng minh rằng bà ấy sẽ áp dụng luật pháp bình đẳng cho tất cả những ai mà bà sẽ thụ lý và sẽ giải thích Hiến pháp một cách trung thực như đã được viết. Sự hiểu biết sâu rộng về luật pháp của bà còn được đi kèm với một tác phong gương mẫu của bà ấy, ” theo lời bà Christie.
Bà Christie gọi bà Barrett là “một tấm gương cho giới phụ nữ và các cô gái khao khát đạt được những thành tích cao nhất”.
Trung cộng đánh lừa Thế giới? nền kinh tế đang giảm chứ không tăng
Trần Mạnh Trác
15:41 28/10/2020
Trung quốc trong vài tháng qua dường như đã tạo cho Thế giới một cảm tưởng giả tạo là nền kinh tế cuả họ đã phục hồi mạnh mẽ sau khi bị sụt giảm nghiêm trọng do đại dịch COVID-19 gây ra.
Theo dữ liệu đã có, thì GDP cuả quốc gia đã tăng 4,9% trong quý thứ ba của năm, tức là tăng mạnh so với mức thua lỗ trong ba tháng đầu năm (-6,8%), khi họ còn gặp khó khăn do cuộc khủng hoảng coronavirus.
Nhưng nay, theo dữ liệu do Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc loan ra, thì tỷ lệ thất nghiệp cuả thành phần thanh niên lao động đã gia tăng trong tháng 9 là 4%, việc chi tiêu của người tiêu thụ suy sụp -6.6% trong ba quý đầu năm 2020 và lợi nhuận của nhiều lĩnh vực chính cũng đã sụt giảm tới 2.4% từ tháng 1 đến tháng 9 so với cùng kỳ năm ngoái.
Các công ty trong khu vực nhà nước ghi nhận mức lỗ lớn nhất (-14,3%) trong khi các công ty thuộc khu vực tư nhân thua lỗ ít hơn (-0,5%).
Sự bất cập này đã khiến cho nhiều chuyên gia lo lắng và họ bắt đầu lưu ý đến sự khác biệt trong các dữ liệu chính thức, đặc biệt là những dữ liệu liên quan đến đầu tư vào bất động sản (tòa nhà, đường cao tốc, máy móc, v.v.).
Trong chín tháng đầu năm, các khoản đầu tư này được gọi là tăng 0,8%, với tổng số 43,7 nghìn tỷ nhân dân tệ (6,5 nghìn tỷ USD) và được coi là đạt mức tăng trưởng tích cực so với năm ngoái.
Tuy nhiên, dữ liệu năm ngoái cho thấy con số đầu tư đã là 46 nghìn tỷ nhân dân tệ (6,8 nghìn tỷ USD), tức là cao hơn con số năm nay nhiều, vậy thì cái gọi là ‘tăng trưởng’ là ở đâu ra?
Cục Thống kê Trung Quốc đã cố gắng giải thích sự khác biệt bằng cách nói rằng số lượng đầu tư cố định từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2019 đã được điều chỉnh sau cuộc khảo sát kinh tế vào tháng 11 năm ngoái, nhưng họ đã không công khai con số đó.
Đối với ông Derek Scissors, nhà kinh tế trưởng của China Beige Book có trụ sở tại New York, nếu các khoản đầu tư cố định thực sự giảm giống như doanh số thương mại, thì GDP quý III của Trung Quốc đã giảm 5% chứ không phải là tăng 5% như những luận điệu tuyên truyền.
Phản ứng dữ dội của Alexandria Ocasio-Cortez đối với việc Thẩm Phán Amy Coney Barrett được Thượng Viện Hoa Kỳ xác nhận
Đặng Tự Do
16:15 28/10/2020
Alexandria Ocasio-Cortez, thường được gọi là AOC, sinh ngày 13 tháng 10, 1989, khét tiếng khuynh tả. Cô ta được chú ý vì các phát biểu nông nổi và cực đoan theo một thứ chủ nghĩa mị dân nhằm kiếm phiếu.
Tiêu biểu là trong một tuyên bố được đưa ra vào hôm thứ Năm 30 tháng 7, trong đó nữ Dân biểu này của đảng Dân Chủ, đơn vị New York, cáo buộc rằng bức tượng một vị thánh Công Giáo tại điện Capitol thể hiện “chế độ gia trưởng” và một nền “văn hóa da trắng thượng đẳng”.
Bức tượng bị bà ta chỉ trích là bức tượng của Thánh Đamien, Tông đồ người cùi tại Molokai. Cha Đamien tên thật là Joseph de Veusterin, sinh ngày 3 tháng Giêng năm 1840 tại Tremelo, bên Bỉ. Ngài nổi tiếng khắp thế giới vì đã dành cả cuộc đời cho những người cùi bị đầy ra đảo Kalaupapa chỉ dành cho những bệnh nhân bệnh phong.
Tuyên bố của AOC đã bị nhiều Giám Mục Hoa Kỳ chỉ trích. Đức Cha Robert Barron, Giám Mục Phụ Tá của Los Angeles nhận xét rằng “Bức tượng mà bà ấy chọn ra, trong tất cả những bức tượng có thể, là của Thánh Đamien ở Molokai. Và tôi nghĩ tuyên bố của bà ấy thật là điên rồ và quá quắt, và tôi tự hỏi, liệu bà ấy có biết Thánh Đamien của Molokai là ai không?”
Trước những hình ảnh được chiếu trên truyền hình và trên các mạng xã hội cho thấy các phụ nữ phò phá thai khóc như cha chết mẹ mới qua đời trước Thượng Viện Hoa Kỳ tối 26 tháng 10, AOC và các thành viên “The Squad”, nghiã là “Biệt Đội” đã lên tiếng kêu gọi “Court Packing” để trước là an ủi họ, sau là kiếm phiếu trong cuộc bầu cử sắp tới.
Chiến thắng của Thẩm Phán Amy Coney Barrett đã tái định hình một cách mạnh mẽ cơ quan tư pháp liên bang, tạo ra những ảnh hưởng phò sinh kéo dài hàng thế hệ. Đối phó với tình thế mới này nhiều thành viên cực đoan của đảng Dân Chủ trong nhóm “Biệt Đội” bao gồm AOC, Ilhan Omar, Ayanna Pressley và Rashida Tlaib, đã lớn tiếng yêu cầu phải mở rộng Tòa án Tối cao, đưa thêm ít nhất 6 người nữa nhằm khống chế nhóm phò sinh tại Tối Cao Pháp Viện.
Thuật ngữ báo chí gọi việc chồng chất thêm cho chật chội Tòa Án Tối Cao là ‘Court Packing’. Trò này phản ánh một thái độ ăn thua đủ bất chấp hiến pháp Hoa Kỳ.
Lời kêu gọi của nhóm “Biệt Đội” được đưa ra ngay khi Thẩm Phán Amy Coney Barrett đang tuyên thệ nhậm chức Thẩm phán Tòa án Tối cao sau khi Đảng Cộng hòa áp đảo phe đối lập Dân chủ với tỷ số 52-48 tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Source:Sky News Australia
Người Công Giáo bỏ phiếu cho Trump có phải chỉ vì vấn đề duy nhất là chống phá thai
Vũ Văn An
16:22 28/10/2020
Nữ tu Simone Campbell là người 2 lần tham dự tích cực đại hội Đảng Dân Chủ chính thức đề cử ứng cử viên tổng thống năm 2016 và năm 2020. Dù tầm cỡ bà không thể so sánh với Đức Hồng Y Dolan của New York, nhưng sự tham dự tích cực liên tiếp hai lần của một nhà hoạt động xã hội đã có những đóng góp đáng kể trong 16 năm qua được Đảng Dân Chủ đánh giá cao.
Theo National Catholic Reporter, Bà vốn đứng đầu nhóm tranh đấu xã hội gọi là Các Nữ Tu Trên Xe Búyt từ năm 2004. Nhưng nhóm này được thành lập từ năm 1971 với mục tiêu tranh đấu: bảo vệ môi trường, giảm nghèo và chống đối chiến tranh Việt Nam.
Ngày 20 tháng 10 vừa qua, bà tuyên bố rời vai trò lãnh đạo nhóm. Tuy nhiên, sẽ chỉ rời chức vụ vào tháng 3 năm 2021, vẫn còn dư thì giờ để vận động cho liên danh Biden-Harris, liên danh mà bà cho rằng tranh cử với nhiều vấn đề tích cực, không như liên danh Trump-Pence chỉ mạnh về một vấn đề duy nhất là chống phá thai.
Bà nói với National Catholic Reporter rằng năm 2016, hội đồng quản trị nhóm dự định để bà rời vai trò lãnh đạo vào năm 2018. Nhưng việc bầu Donald Trump làm tổng thống đã thay đổi kế hoạch ấy. “Tôi không thể rời chức vụ. Điều ấy bất khả”. Bà nói như thế, rất tự hào trở thành công cụ chính trị.
National Catholic Reporter vì thế viết rằng “dù Mạng Lưới tránh không ủng hộ các ứng cử viên đặc thù trong các cuộc bầu cử trước đó, năm nay, họ phát động một chiến dịch chuyên biệt nhắm vào Trump vì đã không nhất quán với các giá trị Công Giáo. Một chủ trương chính trong các sứ điệp của họ là khuyến khích người Công Giáo trở thành các cử tri của nhiều vấn đề chứ không chỉ chuyên chú vào việc phá thai”.
Cách nhìn người Công Giáo ủng hộ Trump như các cử tri chỉ chuyên chú vào một vấn đề duy nhất là chống phá thai cũng đã được ít nhất hai Giám Mục Hoa Kỳ chia sẻ là Đức Cha Mark J. Seitz của El Paso, Texas và Đức Cha McElroy của San Diego, California.
Về Đức Cha Seitz, ta có bài “Bishop Seitz: Single-issue voting has corrupted Christian political witness”. Về Đức Cha McElroy, ta có bài “Bishop McElroy: Abortion is a pre-eminent issue for Catholics. But not the only one”. Cả hai bài đều đăng trên tạp chí America của các Cha Dòng Tên Hoa Kỳ, một tạp chí hết lòng vận động cho liên danh Biden-Harris. Và cả hai Giám Mục đều là Giám Mục của các giáo phận ở biên giới Mỹ - Mễ Tây Cơ, nơi có bức tường ngăn cách mà nhìn từ phía nào cũng là để ngăn chặn di dân “không có giấy tờ”.
Nhưng cả Campbell lẫn Seitz và McElroy đều cho rằng họ không chỉ nhìn bức tường mà thôi. Họ nhìn nhiều điều khác. Và họ lên mặt dạy đời đừng chỉ nhìn một điều.
Thậm chí khi đề cập đến hai điểm yếu của liên danh Biden-Harris là ủng hộ phá thai và châm ngòi cho các cuộc tranh luận về các vấn đề vốn được hiến pháp che chở về tự do tôn giáo, Đức Cha Seitz cũng đổ lỗi cho tầm nhìn “một vấn đề” của người Công Giáo. Chúng là những “phát súng ngược” (backfire) đối với tầm nhìn này.
Thực ra, người Công Giáo ủng hộ Trump có phải là các cử tri chỉ chuyên chú vào một vấn đề duy nhất là phá thai hay không? Xin trả lời ngay là không. Chính Đức Cha McElroy, trong bài báo trên, cũng phải thú nhận rằng “Thảm kịch đối với các cử tri Công Giáo, những người vốn là tín hữu và coi trọng đức tin của mình, là, vào lúc này, cơ cấu đảng phái của nền chính trị Hoa Kỳ đã tuyệt đối chia giáo huấn Công Giáo thành hai nhánh. Có một số vấn đề, nói chung, Đảng Cộng Hòa đại diện cho giáo huấn của Giáo Hội tốt hơn nhiều: phá thai là một, trợ tử, nhiều vấn đề về tự do tôn giáo. Và rồi có một số vấn đề trong đó Đảng Dân Chủ [đại diện cho giáo huấn của Giáo Hội]: thay đổi khí hậu, các vấn đề nghèo đói và phân biệt chủng tộc”.
Quả thực ngoài vấn đề chống phá thai ra, người Công Giáo còn ủng hộ những ai, theo họ, tích cực bênh vực tự do tôn giáo, bênh vực quan điểm đứng đắn nhất về định nghĩa hôn nhân và gia đình, bênh vực quyền được chọn hình thức giáo dục thích đáng cho con cái họ. Và trên thực tế, trong đời thực của họ, họ là những người thực sự bênh vực và đấu tranh cho người nghèo, người bị xã hội đẩy qua bên lề, thăng tiến phẩm giá họ... Đức ái của họ bao trùm tất cả mọi người. Những người như Nữ tu Campbell, miệng luôn tự hào về công lý xã hội, thực tế không biết có thực sự giúp đỡ về mọi mặt kể cả nuôi ăn, cung cấp chỗ ở và phương tiện sống cho người nghèo bằng một hội viên của Hội Hiệp Sĩ Columbus hay không. Khi quyền lợi người nghèo bị chà đạp, họ không ngần ngại đứng về phía người nghèo để tranh đấu dù chống lại những người được họ bầu lên.
Về tự do tôn giáo, Đức Tổng Giám Mục Aquila của Denver từng cho rằng “tự do tôn giáo nằm trên lá phiếu của bạn” (VietcatholicNews, 28/Sep/2020) và “nay là lúc để chúng ta đứng lên giành chỗ đứng cho niềm tin Công Giáo trong đời sống công cộng”. Biden tự hào là người Công Giáo ngoan đạo, lần tràng hạt hằng ngày, nhưng có lúc nào ông lên tiếng phản đối những kẻ đốt phá nhà thờ, đập phá ảnh tượng Thánh, tấn công các linh mục chưa. Những tiểu bang Hoa Kỳ nặng tay nhất với việc thực hành đạo của người Công Giáo nhân dịp Covid-19 do Cộng Hòa hay Dân Chủ lãnh đạo?
Đức Tổng Giám Mục Aquila cho rằng những cuộc tấn công gần đây “nhằm nhục mạ và gạt người Công Giáo ra bên ngoài xã hội và tăng ảnh hưởng của những người không chấp nhận thiết kế của Thiên Chúa dành cho bản chất con người”.
Thành thử, trong cuộc bầu cử sắp tới, theo Đức Tổng Giám Mục Aquila, quan tâm hàng đầu của người Công Giáo là: ai sẽ bảo vệ sự sống con người ở mọi giai đoạn [không phải chỉ ở giai đoạn sắp sinh]? Ai sẽ bảo vệ hôn nhân tự nhiên và gia đình? Và cuối cùng, ai sẽ bảo vệ tự do tôn giáo, bảo vệ lương tâm và quyền của con người được sống theo đức tin của họ trong mọi lĩnh vực xã hội?”.
Như thế, người Công Giáo ủng hộ Trump đâu phải chỉ có một vấn đề duy nhất để xem xét. Với họ, như Đức Tổng Giám Mục Aquila viết, “Không thể là một người Công Giáo tốt mà lại ủng hộ việc phá thai hoặc hỗ trợ tự tử, cổ vũ tình dục không tự nhiên, hoặc tìm cách đẩy những người có đức tin ra khỏi nơi công cộng. Những người làm như vậy – dù là Công Giáo hay không - đang giúp làm rỗng nền văn hóa”.
Trong cuộc phong vấn của Sebastian Gomes đăng trên America ngày 19 tháng 10, 2020, Tiến sĩ George Weigel cho hay cử tri Công Giáo không phải chỉ quan tâm đến một vấn đề duy nhất, trái lại họ quan tâm đến nhiều vấn đề: vấn đề phá thai, vấn đề hôn nhân tự nhiên, vấn đề được thi hành trọn vẹn tự do tôn giáo, tự do lương tâm không phải tham gia một số sinh hoạt bị coi là xâm phạm đến các xác tín trong lương tâm của họ.
Ông nhấn mạnh đến tự do tôn giáo khi nhận định rằng “Các cử tri Công Giáo nên cân nhắc không những các ứng cử viên tổng thống cá thể mà cả những gì đảng của họ, cương lĩnh và chính phủ của họ sẽ làm để bảo vệ hoặc xâm hại tự do tôn giáo”.
Theo ông, điều bất hạnh là cương lĩnh Dân Chủ năm 2020 “là một đe dọa thực sự cho tự do tôn giáo. Nó đe dọa tẩy bỏ tự do tôn giáo và rút gọn nó vào việc chọn lựa lối sống bản thân hơn là coi tự tôn giáo như một vấn đề bảo vệ các chuyên gia, thí dụ bác sĩ, y tá, các người cung cấp việc chăm sóc sức khỏe khỏi bị luật pháp đòi phải thực hiện các hành động bị coi là vô luân cách trầm trọng”.
Phò sinh là phò nhiều thứ quyền căn bản khác
Phe ủng hộ Dân Chủ và do đó liên danh Biden-Harris cố tạo hình ảnh méo mó cho người Công Giáo khi gọi họ là các cử tri của một vấn đề duy nhất đó là chống phá thai. Nữ tu Bác sĩ Deirdre "Dede" Byrne từng đã điều chỉnh lối tô vẽ ấy khi cho rằng người Công Giáo phò sinh chứ không chỉ chống phá thai. Họ phò sinh ở mọi giai đoạn của cuộc sống từ lúc tượng thai tới lúc chết tự nhiên. Dĩ nhiên, họ cảm thương và đấu tranh mạnh hơn cả cho lớp người không có bất cứ phương tiện nào trong tay để tự bảo vệ khi chính người mẹ của họ quyết giết họ, đó là các trẻ chưa sinh. Không bảo vệ lớp người này là không hề có ý định tốt lành nào khi bảo vệ những người dù sao cũng có “phương tiện” để tự bảo vệ mình. Có thể để phục vụ chính quyền lợi mình khi tranh cử hay khi muốn đẩy mạnh một ý thức hệ nào đó để có chỗ đứng trong xã hội, để người đời ca ngợi, không biết được!
Tuy nhiên, nguyên việc phò sinh các em bé chưa sinh thôi cũng bao gồm nhiều vấn đề quan trọng khác. Về khía cạnh này, thiển nghĩ Đức Cha Edward Malesic có cái nhìn thấu đáo, một cái nhìn phản ảnh quan điểm của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài là Giám Mục giáo phận Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ. Trong thông điệp gửi giáo phận vào ngày 30 tháng 9, 2020, về cuộc bầu cử sắp tới, ngài nhắc lại quyết nghị chung của các Giám Mục Hoa Kỳ khi quả quyết rằng “đe dọa phá thai vẫn là ưu tiên nổi bật hàng đầu (preeminent) của chúng ta vì nó trực tiếp tấn công chính sự sống và vì con số sinh mạng bị hủy diệt”.
Tại sao là một ưu tiên “nổi bật hàng đầu” thì câu trích dẫn trên đã phần nào giải thích rồi, nhưng theo Đức Cha Malesic, nó còn một lý do khác: “giáo huấn nhất quán của Giáo Hội về sự ác nội tại là phá thai còn tìm cách bảo vệ mọi quyền lợi khác nữa. Chúng ta không phải là một Giáo Hội “chỉ có một vấn đề duy nhất”; có những quyền lợi cực kỳ quan trọng khác mà chúng ta phải bảo vệ, chắc chắn như thế; nhưng các quyền lợi phụ trội đó phát xuất từ và là bắt rễ từ quyền nền tảng đối với sự sống”.
Ngài nhắc lại giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II khi quả quyết rằng “Trên hết, những tiếng kêu chung, rất chính đáng đưa ra nhân danh các nhân quyền, thí dụ, quyền có sức khỏe, có nhà ở, có việc làm, có gia đình, có văn hóa, đều giả tạo và ảo tưởng nếu quyền sống, tức quyền căn bản và nền tảng nhất và là điều kiện của mọi quyền bản thân khác, không được bảo vệ một cách cương quyết” (Christifideles laici, No. 38).
Sau đó, ngài nhắc lại hướng dẫn của các Giám Mục Hoa Kỳ trong văn kiện “Forming Consciences for Faithful Citizenship”: “một cử tri Công Giáo không thể bỏ phiếu cho một ứng cử viên ủng hộ một chính sách cổ vũ một hành vi xấu từ trong nội tại, như phá thai, an tử, trợ tử, buộc công nhân hay người nghèo phải chịu các điều kiện sống dưới mức nhân bản, tái định nghĩa hôn nhân một cách vi phạm ý nghĩa yếu tính của nó, hay các hành vi kỳ thị chủng tộc, nếu ý định của cử tri là ủng hộ chủ trương đó... Đồng thời, một cử tri không nên dùng việc ứng cử viên chống đối một sự ác từ trong nội tại để biện minh cho việc dửng dưng hay không lưu ý tới những vấn đề luân lý quan trọng khác liên quan tới sự sống và phẩm giá con người”.
Căn cứ vào các vấn đề liệt kê trên thì những người ủng hộ Trump hay Đảng Cộng Hòa không hề chỉ được một cái “tick” duy nhất như Mạng Lưới đấu tranh hành lang của Nữ Tu Campbell, Giám Mục Seitz hay Giám Mục McElroy, rêu rao. Họ được nhiều cái “tick” nếu không hơn thì cũng không kém những người ủng hộ Biden. Nhưng cái “tick” bao trùm nhiều cái “tick” khác thuộc về họ chứ không thuộc những người như Campbell!
Do đó, Đức Cha Malesic kết luận rằng “khi bỏ phiếu, chúng ta không nên dửng dưng đối với các chủ trương và chính sách có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tự do tôn giáo, làm xói mòn gia đình truyền thống, hay làm khó cho người nghèo có được giáo dục, nhà ở và chăm sóc sức khỏe thỏa đáng. Chúng ta phải thận trọng việc làm thế nào điều chỉnh hệ thống nhập cư đang bị vi phạm, giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn khắp thế giới, bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của chúng ta, bảo vệ môi trường và cố gắng đạt được các giải pháp nhân đạo cho cuộc tranh chấp và chủ nghĩa khủng bố hoàn cầu’.
Ngài nhấn mạnh: “nhưng, xin nói rõ ràng, mặc dù có nhiều chính nghĩa được Giáo Hội của chúng ta tranh đấu cho và lớn tiếng nói tới, quyền sống phải được chúng ta dành cho một xem xét tột bậc để người ta có cơ hội bảo đảm được mọi lợi ích khác mà sự sống vốn có thể cung cấp”.
Xét cho cùng, giữa hai điều xấu, ta nên chọn điều ít xấu hơn. Và người Công Giáo không hề là các cử tri chỉ bỏ phiếu vì một vấn đề có tầm quan trọng y như mọi vấn đề khác.
Theo National Catholic Reporter, Bà vốn đứng đầu nhóm tranh đấu xã hội gọi là Các Nữ Tu Trên Xe Búyt từ năm 2004. Nhưng nhóm này được thành lập từ năm 1971 với mục tiêu tranh đấu: bảo vệ môi trường, giảm nghèo và chống đối chiến tranh Việt Nam.
Ngày 20 tháng 10 vừa qua, bà tuyên bố rời vai trò lãnh đạo nhóm. Tuy nhiên, sẽ chỉ rời chức vụ vào tháng 3 năm 2021, vẫn còn dư thì giờ để vận động cho liên danh Biden-Harris, liên danh mà bà cho rằng tranh cử với nhiều vấn đề tích cực, không như liên danh Trump-Pence chỉ mạnh về một vấn đề duy nhất là chống phá thai.
Bà nói với National Catholic Reporter rằng năm 2016, hội đồng quản trị nhóm dự định để bà rời vai trò lãnh đạo vào năm 2018. Nhưng việc bầu Donald Trump làm tổng thống đã thay đổi kế hoạch ấy. “Tôi không thể rời chức vụ. Điều ấy bất khả”. Bà nói như thế, rất tự hào trở thành công cụ chính trị.
National Catholic Reporter vì thế viết rằng “dù Mạng Lưới tránh không ủng hộ các ứng cử viên đặc thù trong các cuộc bầu cử trước đó, năm nay, họ phát động một chiến dịch chuyên biệt nhắm vào Trump vì đã không nhất quán với các giá trị Công Giáo. Một chủ trương chính trong các sứ điệp của họ là khuyến khích người Công Giáo trở thành các cử tri của nhiều vấn đề chứ không chỉ chuyên chú vào việc phá thai”.
Cách nhìn người Công Giáo ủng hộ Trump như các cử tri chỉ chuyên chú vào một vấn đề duy nhất là chống phá thai cũng đã được ít nhất hai Giám Mục Hoa Kỳ chia sẻ là Đức Cha Mark J. Seitz của El Paso, Texas và Đức Cha McElroy của San Diego, California.
Về Đức Cha Seitz, ta có bài “Bishop Seitz: Single-issue voting has corrupted Christian political witness”. Về Đức Cha McElroy, ta có bài “Bishop McElroy: Abortion is a pre-eminent issue for Catholics. But not the only one”. Cả hai bài đều đăng trên tạp chí America của các Cha Dòng Tên Hoa Kỳ, một tạp chí hết lòng vận động cho liên danh Biden-Harris. Và cả hai Giám Mục đều là Giám Mục của các giáo phận ở biên giới Mỹ - Mễ Tây Cơ, nơi có bức tường ngăn cách mà nhìn từ phía nào cũng là để ngăn chặn di dân “không có giấy tờ”.
Nhưng cả Campbell lẫn Seitz và McElroy đều cho rằng họ không chỉ nhìn bức tường mà thôi. Họ nhìn nhiều điều khác. Và họ lên mặt dạy đời đừng chỉ nhìn một điều.
Thậm chí khi đề cập đến hai điểm yếu của liên danh Biden-Harris là ủng hộ phá thai và châm ngòi cho các cuộc tranh luận về các vấn đề vốn được hiến pháp che chở về tự do tôn giáo, Đức Cha Seitz cũng đổ lỗi cho tầm nhìn “một vấn đề” của người Công Giáo. Chúng là những “phát súng ngược” (backfire) đối với tầm nhìn này.
Thực ra, người Công Giáo ủng hộ Trump có phải là các cử tri chỉ chuyên chú vào một vấn đề duy nhất là phá thai hay không? Xin trả lời ngay là không. Chính Đức Cha McElroy, trong bài báo trên, cũng phải thú nhận rằng “Thảm kịch đối với các cử tri Công Giáo, những người vốn là tín hữu và coi trọng đức tin của mình, là, vào lúc này, cơ cấu đảng phái của nền chính trị Hoa Kỳ đã tuyệt đối chia giáo huấn Công Giáo thành hai nhánh. Có một số vấn đề, nói chung, Đảng Cộng Hòa đại diện cho giáo huấn của Giáo Hội tốt hơn nhiều: phá thai là một, trợ tử, nhiều vấn đề về tự do tôn giáo. Và rồi có một số vấn đề trong đó Đảng Dân Chủ [đại diện cho giáo huấn của Giáo Hội]: thay đổi khí hậu, các vấn đề nghèo đói và phân biệt chủng tộc”.
Quả thực ngoài vấn đề chống phá thai ra, người Công Giáo còn ủng hộ những ai, theo họ, tích cực bênh vực tự do tôn giáo, bênh vực quan điểm đứng đắn nhất về định nghĩa hôn nhân và gia đình, bênh vực quyền được chọn hình thức giáo dục thích đáng cho con cái họ. Và trên thực tế, trong đời thực của họ, họ là những người thực sự bênh vực và đấu tranh cho người nghèo, người bị xã hội đẩy qua bên lề, thăng tiến phẩm giá họ... Đức ái của họ bao trùm tất cả mọi người. Những người như Nữ tu Campbell, miệng luôn tự hào về công lý xã hội, thực tế không biết có thực sự giúp đỡ về mọi mặt kể cả nuôi ăn, cung cấp chỗ ở và phương tiện sống cho người nghèo bằng một hội viên của Hội Hiệp Sĩ Columbus hay không. Khi quyền lợi người nghèo bị chà đạp, họ không ngần ngại đứng về phía người nghèo để tranh đấu dù chống lại những người được họ bầu lên.
Về tự do tôn giáo, Đức Tổng Giám Mục Aquila của Denver từng cho rằng “tự do tôn giáo nằm trên lá phiếu của bạn” (VietcatholicNews, 28/Sep/2020) và “nay là lúc để chúng ta đứng lên giành chỗ đứng cho niềm tin Công Giáo trong đời sống công cộng”. Biden tự hào là người Công Giáo ngoan đạo, lần tràng hạt hằng ngày, nhưng có lúc nào ông lên tiếng phản đối những kẻ đốt phá nhà thờ, đập phá ảnh tượng Thánh, tấn công các linh mục chưa. Những tiểu bang Hoa Kỳ nặng tay nhất với việc thực hành đạo của người Công Giáo nhân dịp Covid-19 do Cộng Hòa hay Dân Chủ lãnh đạo?
Đức Tổng Giám Mục Aquila cho rằng những cuộc tấn công gần đây “nhằm nhục mạ và gạt người Công Giáo ra bên ngoài xã hội và tăng ảnh hưởng của những người không chấp nhận thiết kế của Thiên Chúa dành cho bản chất con người”.
Thành thử, trong cuộc bầu cử sắp tới, theo Đức Tổng Giám Mục Aquila, quan tâm hàng đầu của người Công Giáo là: ai sẽ bảo vệ sự sống con người ở mọi giai đoạn [không phải chỉ ở giai đoạn sắp sinh]? Ai sẽ bảo vệ hôn nhân tự nhiên và gia đình? Và cuối cùng, ai sẽ bảo vệ tự do tôn giáo, bảo vệ lương tâm và quyền của con người được sống theo đức tin của họ trong mọi lĩnh vực xã hội?”.
Như thế, người Công Giáo ủng hộ Trump đâu phải chỉ có một vấn đề duy nhất để xem xét. Với họ, như Đức Tổng Giám Mục Aquila viết, “Không thể là một người Công Giáo tốt mà lại ủng hộ việc phá thai hoặc hỗ trợ tự tử, cổ vũ tình dục không tự nhiên, hoặc tìm cách đẩy những người có đức tin ra khỏi nơi công cộng. Những người làm như vậy – dù là Công Giáo hay không - đang giúp làm rỗng nền văn hóa”.
Trong cuộc phong vấn của Sebastian Gomes đăng trên America ngày 19 tháng 10, 2020, Tiến sĩ George Weigel cho hay cử tri Công Giáo không phải chỉ quan tâm đến một vấn đề duy nhất, trái lại họ quan tâm đến nhiều vấn đề: vấn đề phá thai, vấn đề hôn nhân tự nhiên, vấn đề được thi hành trọn vẹn tự do tôn giáo, tự do lương tâm không phải tham gia một số sinh hoạt bị coi là xâm phạm đến các xác tín trong lương tâm của họ.
Ông nhấn mạnh đến tự do tôn giáo khi nhận định rằng “Các cử tri Công Giáo nên cân nhắc không những các ứng cử viên tổng thống cá thể mà cả những gì đảng của họ, cương lĩnh và chính phủ của họ sẽ làm để bảo vệ hoặc xâm hại tự do tôn giáo”.
Theo ông, điều bất hạnh là cương lĩnh Dân Chủ năm 2020 “là một đe dọa thực sự cho tự do tôn giáo. Nó đe dọa tẩy bỏ tự do tôn giáo và rút gọn nó vào việc chọn lựa lối sống bản thân hơn là coi tự tôn giáo như một vấn đề bảo vệ các chuyên gia, thí dụ bác sĩ, y tá, các người cung cấp việc chăm sóc sức khỏe khỏi bị luật pháp đòi phải thực hiện các hành động bị coi là vô luân cách trầm trọng”.
Phò sinh là phò nhiều thứ quyền căn bản khác
Phe ủng hộ Dân Chủ và do đó liên danh Biden-Harris cố tạo hình ảnh méo mó cho người Công Giáo khi gọi họ là các cử tri của một vấn đề duy nhất đó là chống phá thai. Nữ tu Bác sĩ Deirdre "Dede" Byrne từng đã điều chỉnh lối tô vẽ ấy khi cho rằng người Công Giáo phò sinh chứ không chỉ chống phá thai. Họ phò sinh ở mọi giai đoạn của cuộc sống từ lúc tượng thai tới lúc chết tự nhiên. Dĩ nhiên, họ cảm thương và đấu tranh mạnh hơn cả cho lớp người không có bất cứ phương tiện nào trong tay để tự bảo vệ khi chính người mẹ của họ quyết giết họ, đó là các trẻ chưa sinh. Không bảo vệ lớp người này là không hề có ý định tốt lành nào khi bảo vệ những người dù sao cũng có “phương tiện” để tự bảo vệ mình. Có thể để phục vụ chính quyền lợi mình khi tranh cử hay khi muốn đẩy mạnh một ý thức hệ nào đó để có chỗ đứng trong xã hội, để người đời ca ngợi, không biết được!
Tuy nhiên, nguyên việc phò sinh các em bé chưa sinh thôi cũng bao gồm nhiều vấn đề quan trọng khác. Về khía cạnh này, thiển nghĩ Đức Cha Edward Malesic có cái nhìn thấu đáo, một cái nhìn phản ảnh quan điểm của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài là Giám Mục giáo phận Cleveland, Ohio, Hoa Kỳ. Trong thông điệp gửi giáo phận vào ngày 30 tháng 9, 2020, về cuộc bầu cử sắp tới, ngài nhắc lại quyết nghị chung của các Giám Mục Hoa Kỳ khi quả quyết rằng “đe dọa phá thai vẫn là ưu tiên nổi bật hàng đầu (preeminent) của chúng ta vì nó trực tiếp tấn công chính sự sống và vì con số sinh mạng bị hủy diệt”.
Tại sao là một ưu tiên “nổi bật hàng đầu” thì câu trích dẫn trên đã phần nào giải thích rồi, nhưng theo Đức Cha Malesic, nó còn một lý do khác: “giáo huấn nhất quán của Giáo Hội về sự ác nội tại là phá thai còn tìm cách bảo vệ mọi quyền lợi khác nữa. Chúng ta không phải là một Giáo Hội “chỉ có một vấn đề duy nhất”; có những quyền lợi cực kỳ quan trọng khác mà chúng ta phải bảo vệ, chắc chắn như thế; nhưng các quyền lợi phụ trội đó phát xuất từ và là bắt rễ từ quyền nền tảng đối với sự sống”.
Ngài nhắc lại giáo huấn của Thánh Gioan Phaolô II khi quả quyết rằng “Trên hết, những tiếng kêu chung, rất chính đáng đưa ra nhân danh các nhân quyền, thí dụ, quyền có sức khỏe, có nhà ở, có việc làm, có gia đình, có văn hóa, đều giả tạo và ảo tưởng nếu quyền sống, tức quyền căn bản và nền tảng nhất và là điều kiện của mọi quyền bản thân khác, không được bảo vệ một cách cương quyết” (Christifideles laici, No. 38).
Sau đó, ngài nhắc lại hướng dẫn của các Giám Mục Hoa Kỳ trong văn kiện “Forming Consciences for Faithful Citizenship”: “một cử tri Công Giáo không thể bỏ phiếu cho một ứng cử viên ủng hộ một chính sách cổ vũ một hành vi xấu từ trong nội tại, như phá thai, an tử, trợ tử, buộc công nhân hay người nghèo phải chịu các điều kiện sống dưới mức nhân bản, tái định nghĩa hôn nhân một cách vi phạm ý nghĩa yếu tính của nó, hay các hành vi kỳ thị chủng tộc, nếu ý định của cử tri là ủng hộ chủ trương đó... Đồng thời, một cử tri không nên dùng việc ứng cử viên chống đối một sự ác từ trong nội tại để biện minh cho việc dửng dưng hay không lưu ý tới những vấn đề luân lý quan trọng khác liên quan tới sự sống và phẩm giá con người”.
Căn cứ vào các vấn đề liệt kê trên thì những người ủng hộ Trump hay Đảng Cộng Hòa không hề chỉ được một cái “tick” duy nhất như Mạng Lưới đấu tranh hành lang của Nữ Tu Campbell, Giám Mục Seitz hay Giám Mục McElroy, rêu rao. Họ được nhiều cái “tick” nếu không hơn thì cũng không kém những người ủng hộ Biden. Nhưng cái “tick” bao trùm nhiều cái “tick” khác thuộc về họ chứ không thuộc những người như Campbell!
Do đó, Đức Cha Malesic kết luận rằng “khi bỏ phiếu, chúng ta không nên dửng dưng đối với các chủ trương và chính sách có thể ảnh hưởng tiêu cực tới tự do tôn giáo, làm xói mòn gia đình truyền thống, hay làm khó cho người nghèo có được giáo dục, nhà ở và chăm sóc sức khỏe thỏa đáng. Chúng ta phải thận trọng việc làm thế nào điều chỉnh hệ thống nhập cư đang bị vi phạm, giải quyết cuộc khủng hoảng tị nạn khắp thế giới, bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên của chúng ta, bảo vệ môi trường và cố gắng đạt được các giải pháp nhân đạo cho cuộc tranh chấp và chủ nghĩa khủng bố hoàn cầu’.
Ngài nhấn mạnh: “nhưng, xin nói rõ ràng, mặc dù có nhiều chính nghĩa được Giáo Hội của chúng ta tranh đấu cho và lớn tiếng nói tới, quyền sống phải được chúng ta dành cho một xem xét tột bậc để người ta có cơ hội bảo đảm được mọi lợi ích khác mà sự sống vốn có thể cung cấp”.
Xét cho cùng, giữa hai điều xấu, ta nên chọn điều ít xấu hơn. Và người Công Giáo không hề là các cử tri chỉ bỏ phiếu vì một vấn đề có tầm quan trọng y như mọi vấn đề khác.
Bài giáo lý hàng tuần của Đức Giáo Hoàng: Lối cầu nguyện của Chúa Giêsu
Vũ Văn An
19:15 28/10/2020
Thứ tư 28 tháng 10 hôm qua, tại Đại Sảnh Phaolô VI ở Vatican, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tiếp kiến chung một số tín hữu hạn chế. Ngài chào họ từ xa và xin lỗi về việc này vì đại dịch và nhấn mạnh ngài luôn gần gũi họ. Trong bài giáo lý, Đức Phanxicô đề cập tới lối cầu nguyện của Chúa Giêsu. Sau đây là nguyên văn bài nói của ngài, dựa vào bản Tiếng Anh do Tòa Thánh cung cấp.
Anh chị em thân mến, chúc anh chị em một buổi sáng tốt đẹp!
Hôm nay, trong buổi yết kiến này, như chúng ta đã làm trong những buổi yết kiến trước, tôi sẽ đứng ở đây. Tôi muốn xuống dưới và chào thăm từng người trong số anh chị em, nhưng chúng ta phải giữ khoảng cách, vì nếu tôi đi xuống, thì một đám đông sẽ đến chào tôi, và điều này trái với các biện pháp và phòng ngừa mà chúng ta phải thực hiện để đương đầu với "mệnh phụ Covid", rất có hại cho chúng ta. Vì vậy, xin phép cho tôi không xuống chào anh chị em: Tôi xin chào anh chị em từ đây nhưng tôi giữ anh chị em trong lòng, mọi người anh chị em. Còn anh chị em, xin hãy giữ tôi trong lòng, và cầu nguyện cho tôi. Từ xa, chúng ta có thể cầu nguyện cho nhau... và xin cảm ơn sự thông cảm của anh chị em.
Trong hành trình dạy giáo lý về cầu nguyện, sau khi lượt qua Cựu Ước, giờ đây chúng ta đến với Chúa Giêsu. Và Chúa Giêsu cầu nguyện. Việc Người khởi đầu sứ vụ công khai của Người diễn ra với việc Người chịu phép ở sông Giođan. Các tác giả Tin Mừng nhất trí trong việc gán tầm quan trọng nền tảng cho tình tiết này. Các ngài thuật lại việc mọi người đến với nhau ra sao trong lời cầu nguyện, và nói rõ rằng cuộc tụ họp này có bản chất thống hối rõ ràng (xem Mc 1: 5; Mt 3: 8). Dân chúng đến gặp Thánh Gioan để chịu phép rửa, để được tha tội: nó có tính cách thống hối, hoán cải.
Do đó, hành vi công khai đầu tiên của Chúa Giêsu là tham gia vào một buổi cầu nguyện hợp đoàn của dân chúng, một lời cầu nguyện của những người đến để chịu phép rửa, một lời cầu nguyện thống hối, trong đó mọi người đều nhận mình là người có tội. Đây là lý do tại sao Thánh Gioan Tẩy gỉa muốn chống lại yêu cầu của Chúa Giêsu, ngài nói: "Tôi cần được chịu phép rửa bởi Ngài, vậy mà Ngài lại đến với tôi sao?" (Mt 3:14). Thánh Gioan Tẩy Giả hiểu rằng đó là Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu khẳng định: hành vi của Người là một hành vi tuân theo ý muốn của Chúa Cha (câu 5), một hành vi liên đới với thân phận con người của chúng ta. Người cầu nguyện với các tội nhân của Dân Chúa. Chúng ta hãy ghi nhớ điều này một cách rõ ràng: Chúa Giêsu là Đấng Công Chính, Người không phải là tội nhân. Nhưng Người muốn hạ mình xuống với chúng ta, những kẻ tội lỗi, và Người cầu nguyện với chúng ta, và khi chúng ta cầu nguyện, Người ở với chúng ta, trong cầu nguyện; Người ở với chúng ta vì Người ở trên trời, hằng cầu nguyện cho chúng ta. Chúa Giêsu luôn cầu nguyện với dân Người, Người luôn cầu nguyện với chúng ta: luôn luôn. Chúng ta không bao giờ cầu nguyện một mình, chúng ta luôn cầu nguyện với Chúa Giêsu. Người không ở lại phía bên kia sông - “Ta công chính, các ngươi tội nhân” - để làm nổi bật sự khác biệt và khoảng cách của Người với những kẻ không vâng lời, nhưng đúng hơn, Người dìm chân Người vào cùng một dòng nước thanh tẩy. Người hành động như thể Người là một tội nhân. Và đây là sự vĩ đại của Thiên Chúa, Đấng đã sai Con của Người đến và tự huỷ chính Người, và tỏ ra như một tội nhân.
Chúa Giêsu không phải là một Thiên Chúa cách xa, và Người không thể làm thế. Việc nhập thể đã mạc khải Người một cách trọn vẹn và con người không thể tưởng tượng được. Vì vậy, khi bắt đầu sứ mệnh của Người, Chúa Giêsu đã đặt chính Người lên tuyến đầu của một dân tộc thống hối, như thể Người có trách nhiệm mở ra một lối đi mà tất cả chúng ta, sau Người, phải can đảm bước qua. Nhưng con đường, cuộc hành trình, khá khó khăn; tuy thế, Người luôn đi trước, mở đường cho ta. Sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo giải thích rằng đây là sự mới mẻ của thời viên mãn. Nó muốn nói: “Lời cầu nguyện hiếu thảo của Người, lời cầu nguyện mà Chúa Cha vốn chờ đợi từ con cái của Người, cuối cùng sẽ được Con Một trong nhân tính của Người thực hiện, với và cho loài người” (số 2599). Chúa Giêsu cầu nguyện với chúng ta. Chúng ta hãy ghi nhớ điều này một cách rõ ràng trong tâm và trí của chúng ta: Chúa Giêsu cầu nguyện với chúng ta.
Vào ngày đó, bên bờ sông Giođan, có toàn nhân tính, với niềm khao khát cầu nguyện mặc nhiên của nó. Trước hết, có đám dân tội lỗi: những người nghĩ rằng họ không được Thiên Chúa yêu thương, những người không dám bước qua ngưỡng cửa đền thờ, những người không cầu nguyện vì họ không coi mình là người xứng đáng. Chúa Giêsu đến vì mọi người, thậm chí cả vì họ nữa, và Người bắt đầu bằng chính việc tham gia với họ. Ở tuyến đầu.
Đặc biệt, Tin Mừng Luca nêu bật bầu không khí cầu nguyện trong đó diễn ra phép rửa của Chúa Giêsu: “Bây giờ khi mọi người đã chịu phép rửa, và khi Chúa Giêsu cũng đã chịu phép rửa và đang cầu nguyện, thì tầng trời mở ra” (3: 21). Bằng cách cầu nguyện, Chúa Giêsu mở cửa thiên đàng, và Chúa Thánh Thần ngự xuống từ chỗ mở đó. Và từ trên cao, một tiếng nói công bố sự thật tuyệt vời: “Con là Con yêu dấu của Cha; với Con, Cha rất hài lòng ”(c. 22). Cụm từ đơn giản này chứa đựng một kho tàng vô cùng to lớn; nó giúp chúng ta trực giác được một điều gì đó về thừa tác vụ của Chúa Giêsu và tấm lòng của Người, luôn hướng về Chúa Cha. Trong cơn lốc cuộc đời và thế gian sẽ đến để kết án Người, ngay trong những kinh nghiệm khó khăn và đau khổ nhất Người sẽ phải chịu, ngay khi Người cảm nghiệm Người không có chỗ tựa đầu (x. Mt 8: 20), ngay khi hận thù và bách hại bùng phát xung quanh Người, Chúa Giêsu vẫn không bao giờ không có nơi ẩn náu: Người ẩn náu đời đời trong Chúa Cha.
Đây là sự vĩ đại độc đáo trong lời cầu nguyện của Chúa Giêsu: Chúa Thánh Thần chiếm hữu con người của Người và tiếng nói của Chúa Cha chứng thực rằng Người là Đấng yêu dấu, là người Con được Người hoàn toàn phản ảnh trong đó.
Lời cầu nguyện này của Chúa Giêsu, lời cầu nguyện mà bên bờ sông Giođan hoàn toàn mang tính bản thân - và sẽ như thế trong suốt cuộc sống trần gian của Người - trong Lễ Ngũ Tuần, sẽ trở thành ơn cầu nguyện cho tất cả những ai đã được rửa tội trong Chúa Kitô. Chính Người đã nhận được ơn này cho chúng ta, và Người mời gọi chúng ta cầu nguyện như Người đã cầu nguyện.
Vì vậy, nếu trong một buổi cầu nguyện ban tối, chúng ta cảm thấy uể oải và trống rỗng, nếu đối với chúng ta cuộc sống đã hoàn toàn vô dụng, thì ngay lúc đó chúng ta phải cầu xin để lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cũng trở thành lời cầu nguyện của riêng chúng ta. “Hôm nay tôi không thể cầu nguyện, tôi không biết phải làm gì: Tôi không cảm thấy thích nó, tôi không xứng đáng… Trong giây phút đó, cầu mong lời cầu nguyện của bạn với Chúa Giêsu là lời cầu nguyện của tôi”. Và anh chị em hãy phó thác cho Người, để Người cầu nguyện cho chúng ta. Trong lúc này, Người đang ở trước mặt Chúa Cha, cầu nguyện cho chúng ta, Người là Đấng chuyển cầu; Người bày tỏ các thương tích cho Chúa Cha, vì chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng vào điều đó, nó quả tuyệt vời. Sau đó, chúng ta sẽ nghe, nếu chúng ta biết tín thác, chúng ta sẽ nghe thấy tiếng nói từ trời, lớn hơn tiếng nói từ sâu thẳm của chúng ta, và chúng ta sẽ nghe thấy giọng nói này thì thầm những lời dịu dàng: "Con là con yêu dấu của Thiên Chúa, con là một người con, con là niềm vui của Cha trên trời”. Lời của Chúa Cha vọng lại cho chính chúng ta, cho mỗi người chúng ta: ngay cả khi chúng ta bị mọi người bác bỏ, coi như những tội nhân thuộc loại tồi tệ nhất. Chúa Giêsu không xuống nước sông Giođan vì chính Người, nhưng vì tất cả chúng ta. Chính toàn thể Dân Chúa đã đến sông Giođan để cầu nguyện, xin ơn tha thứ, lãnh nhận phép rửa đền tội đó. Và như nhà thần học kia đã nói, họ tới sông Giođan với một “linh hồn trần và đôi chân trần”. Đây là đức khiêm nhường. Cần có đức khiêm nhường để cầu nguyện. Người đã mở các tầng trời, như Môsê đã mở nước Biển Đỏ, để tất cả chúng ta có thể đi qua phía sau Người. Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta lời cầu nguyện của chính Người, đó là cuộc đối thoại yêu thương của Người với Chúa Cha. Người đã ban nó cho chúng ta như một hạt giống của Ba Ngôi, hạt giống mà Người muốn bắt rễ trong lòng chúng ta. Chúng ta hãy chào đón Người! Chúng ta hãy chào đón hồng phúc này, hồng phúc cầu nguyện. Anh chị em hãy luôn ở bên Người. Và chúng ta sẽ không sai lạc. Cảm ơn anh chị em.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Tình hình giáo xứ Phù Kinh, xã Phù Hoá, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
Linh mục Phaolô Nguyễn Minh Sáng
01:58 28/10/2020
Hôm nay, ngày 28 tháng 10 năm 2020, miền Trung đang phải sống trong sự lo sợ vì cơn bão số 9 đang hoành hành. Trong 2 tuần trước miền Trung bị chìm trong biển nước, nhiều nhà cửa bị trôi, nhiều con đường bị xóa, hàng trăm người bị chết và mất tích. Thật đau thương vì có đến gần 200 người chết và mất tịch, có những người chết đến hôm nay vẫn chưa tìm thấy xác, những cảnh đời đau thương khi phải mất đi những người thân, mất đi tài sản, trâu bò gia sức, gia cầm, nhà cửa… Cơn lũ đi qua, cơn bão số 9 đang càn quét, có thể nó sẽ đem tiếp những cơn lũ quét, làm cho vết thương chưa kịp lành lại càng đau nặng hơn.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Nén hương lòng tưởng nhớ các Linh hồn.
Lm. Đa Minh Nguyễn Ngọc Long
16:27 28/10/2020
Hằng năm, xưa nay từ thế hệ này sang thế hệ kế tiếp, Giáo Hội Công Giáo luôn hằng kêu gọi khuyến khích người tín hữu Chúa Giêsu Kitô nhớ đến cầu nguyện cho người đã qua đời.
Cung cách sống đức tin như thế biểu lộ niềm hy vọng cho đời sống con người sau khi cuộc sống trên trần gian chấm dứt: có một đời sống ở bên kia sau khi chết. Có một khởi đầu mới sau, khi con đường đời sống trên trần gian đã qua đi.
Cung cách sống đức tin liên kết với người đã qua đời qua lời cầu nguyện, qua tưởng nhớ đến họ còn nói lên: đời sống con người không chỉ như cơ hội về sinh vật học, về tâm lý giới hạn thu hẹp trong một không gian và thời gian nào. Sự chết không là sự chấm dứt căn bản sự sống.
Cung cách sống tưởng nhớ đến người qúa cố không căn cứ vào phần mộ của người đã qua đời có hay không còn nữa. Người đã qua đời, dù đã lâu năm hay không còn phần mộ, không biến mất khỏi tâm hồn, khỏi trái tim lòng nhớ nhung, lòng biết ơn nơi người còn sống trên trần gian.
Giữa người đã qua đời và người còn sống, như vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em, bạn bè… ngày xưa khi còn chung sống với nhau, sợi dây đời sống tình nghĩa, tình máu mủ ruột thịt gắn liền chặt khăng khít với nhau suốt đời sống rồi. Nên một người tuy đã qua đi, họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trái tim người còn đang sống trên trần gian.
Nấm mồ của người qua đời là cái gì cụ thể cho người còn sống trông thấy được. Và ai cũng muốn rằng có nấm mồ người đã qua đời để ra thăm viếng chăm sóc. Nhưng khi nấm mồ không còn, hay không có nữa, hình ảnh người qua đời, công đức tình nghĩa của người đã qua đời đâu có thể vì thế mà không còn hiện diện trong tâm hồn của người còn sống. Trái lại có khi càng hiển thị sâu đậm khăng khít hơn nơi tâm hồn họ. Họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trong trái tim lòng nhớ nhung biết ơn của người còn trên trần gian.
Và con người được Thiên Chúa tạo dựng nên không chỉ có thân xác, xương cốt, bắp thịt dòng máu lưu chuyển, nhưng còn có phần tinh thần, phần tinh anh linh hồn nữa. Khi chết thì thân xác xương con người cốt tan rã, nhưng linh hồn, lịch sử đời sống mỗi người trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình.
Thiên Chúa dựng nên thân xác con người từ hư vô, từ bụi đất. Và ngày sau cùng, như chúng ta tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Thiên Chúa cũng sẽ cho người đã chết sống lại với một đời sống mới và khác, do quyền năng của Ngài tạo dựng nên từ hư vô. Và như thế nào con người chúng ta không ai biết được.
Hằng năm trong tập tục nếp sống đạo Công Giáo, Tháng Mười Một là tháng dành tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh Hồn. Xưa nay có tập tục từ ngày 01. đến 08. Tháng 11., Giáo Hội kêu gọi mọi người tín hữu Công Giáo đi thăm viếng phần mộ người qúa cố, đọc kinh cầu nguyện cho các Linh hồn. Năm nay 2020 vì tình hình bệnh đại dịch do Vi trùng Corona đả cùng đang lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên khắp thế giới, nên Giáo Hội có qui định mổ rộng thêm về việc đạo đức bình dân này.
“Ơn Toàn Xá được ban cho những ai viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, thông thường chỉ trong những ngày từ 1.-8., có thể chuyển sang các ngày khác đến hết tháng 11. Những ngày này, do mỗi tín hữu tự chọn, có thể tách biệt nhau” (không cần các ngày liên tiếp).
Bên cạnh đó, sắc lệnh cũng điều chỉnh việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá vào ngày 2.11, ngày lễ “cầu nguyện cho các tín hữu qua đời”, khi viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện và đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, có thể dời không chỉ vào ngày Chúa Nhật trước hoặc sau đó, hoặc vào ngày lễ Các Thánh, mà còn có thể vào một ngày nào khác của tháng 11., do mỗi tín hữu tự chọn.
Thêm vào đó, riêng đối với những người già, người bệnh hoặc những ai vì lý do nghiêm trọng không thể ra khỏi nhà, cũng có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá, miễn là họ hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu khác, hoàn toàn xa lánh tội lỗi và với ý hướng thực hành ba điều kiện thông thường: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Họ có thể làm việc này trước một bức ảnh Chúa Giêsu hay Đức Mẹ, đọc kinh cầu cho những người đã qua đời hoặc một bài đọc Kinh Thánh vv… để dâng cho Chúa những đau khổ và khó khăn của mình.“ ( Bản tin Vatican)
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các linh hồn là tập tục nếp sống đạo đức, và cũng là nét đẹp đời sống văn hóa tình nghĩa con người với nhau trong dòng thời gian xã hội xưa nay.
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn là cung cách thể hiện lòng yêu mến cùng lòng biết ơn ngày xưa họ đã trao tặng làm ơn cho ta.
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn là cung cách biểu lộ đức tin niềm hy vọng vào đời sống ngày mai: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại. Tôi tin sự sống đời sau. Amen.“( Kinh Tin Kính).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Cung cách sống đức tin như thế biểu lộ niềm hy vọng cho đời sống con người sau khi cuộc sống trên trần gian chấm dứt: có một đời sống ở bên kia sau khi chết. Có một khởi đầu mới sau, khi con đường đời sống trên trần gian đã qua đi.
Cung cách sống đức tin liên kết với người đã qua đời qua lời cầu nguyện, qua tưởng nhớ đến họ còn nói lên: đời sống con người không chỉ như cơ hội về sinh vật học, về tâm lý giới hạn thu hẹp trong một không gian và thời gian nào. Sự chết không là sự chấm dứt căn bản sự sống.
Cung cách sống tưởng nhớ đến người qúa cố không căn cứ vào phần mộ của người đã qua đời có hay không còn nữa. Người đã qua đời, dù đã lâu năm hay không còn phần mộ, không biến mất khỏi tâm hồn, khỏi trái tim lòng nhớ nhung, lòng biết ơn nơi người còn sống trên trần gian.
Giữa người đã qua đời và người còn sống, như vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em, bạn bè… ngày xưa khi còn chung sống với nhau, sợi dây đời sống tình nghĩa, tình máu mủ ruột thịt gắn liền chặt khăng khít với nhau suốt đời sống rồi. Nên một người tuy đã qua đi, họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trái tim người còn đang sống trên trần gian.
Nấm mồ của người qua đời là cái gì cụ thể cho người còn sống trông thấy được. Và ai cũng muốn rằng có nấm mồ người đã qua đời để ra thăm viếng chăm sóc. Nhưng khi nấm mồ không còn, hay không có nữa, hình ảnh người qua đời, công đức tình nghĩa của người đã qua đời đâu có thể vì thế mà không còn hiện diện trong tâm hồn của người còn sống. Trái lại có khi càng hiển thị sâu đậm khăng khít hơn nơi tâm hồn họ. Họ vẫn hằng sống động trong tâm hồn trong trái tim lòng nhớ nhung biết ơn của người còn trên trần gian.
Và con người được Thiên Chúa tạo dựng nên không chỉ có thân xác, xương cốt, bắp thịt dòng máu lưu chuyển, nhưng còn có phần tinh thần, phần tinh anh linh hồn nữa. Khi chết thì thân xác xương con người cốt tan rã, nhưng linh hồn, lịch sử đời sống mỗi người trở về với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên mình.
Thiên Chúa dựng nên thân xác con người từ hư vô, từ bụi đất. Và ngày sau cùng, như chúng ta tuyên xưng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Thiên Chúa cũng sẽ cho người đã chết sống lại với một đời sống mới và khác, do quyền năng của Ngài tạo dựng nên từ hư vô. Và như thế nào con người chúng ta không ai biết được.
Hằng năm trong tập tục nếp sống đạo Công Giáo, Tháng Mười Một là tháng dành tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh Hồn. Xưa nay có tập tục từ ngày 01. đến 08. Tháng 11., Giáo Hội kêu gọi mọi người tín hữu Công Giáo đi thăm viếng phần mộ người qúa cố, đọc kinh cầu nguyện cho các Linh hồn. Năm nay 2020 vì tình hình bệnh đại dịch do Vi trùng Corona đả cùng đang lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người trên khắp thế giới, nên Giáo Hội có qui định mổ rộng thêm về việc đạo đức bình dân này.
“Ơn Toàn Xá được ban cho những ai viếng nghĩa trang và cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời, thông thường chỉ trong những ngày từ 1.-8., có thể chuyển sang các ngày khác đến hết tháng 11. Những ngày này, do mỗi tín hữu tự chọn, có thể tách biệt nhau” (không cần các ngày liên tiếp).
Bên cạnh đó, sắc lệnh cũng điều chỉnh việc lãnh nhận Ơn Toàn Xá vào ngày 2.11, ngày lễ “cầu nguyện cho các tín hữu qua đời”, khi viếng nhà thờ hoặc nhà nguyện và đọc một Kinh Lạy Cha và một Kinh Tin Kính, có thể dời không chỉ vào ngày Chúa Nhật trước hoặc sau đó, hoặc vào ngày lễ Các Thánh, mà còn có thể vào một ngày nào khác của tháng 11., do mỗi tín hữu tự chọn.
Thêm vào đó, riêng đối với những người già, người bệnh hoặc những ai vì lý do nghiêm trọng không thể ra khỏi nhà, cũng có thể lãnh nhận Ơn Toàn Xá, miễn là họ hiệp nhất thiêng liêng với các tín hữu khác, hoàn toàn xa lánh tội lỗi và với ý hướng thực hành ba điều kiện thông thường: xưng tội, rước lễ và cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng. Họ có thể làm việc này trước một bức ảnh Chúa Giêsu hay Đức Mẹ, đọc kinh cầu cho những người đã qua đời hoặc một bài đọc Kinh Thánh vv… để dâng cho Chúa những đau khổ và khó khăn của mình.“ ( Bản tin Vatican)
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các linh hồn là tập tục nếp sống đạo đức, và cũng là nét đẹp đời sống văn hóa tình nghĩa con người với nhau trong dòng thời gian xã hội xưa nay.
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn là cung cách thể hiện lòng yêu mến cùng lòng biết ơn ngày xưa họ đã trao tặng làm ơn cho ta.
Tưởng nhớ cầu nguyện cho các Linh hồn là cung cách biểu lộ đức tin niềm hy vọng vào đời sống ngày mai: „Tôi trông đợi kẻ chết sống lại. Tôi tin sự sống đời sau. Amen.“( Kinh Tin Kính).
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Lễ Hội Mùa Thu
Nguyễn Trung Tây Lm.
12:14 28/10/2020
LỄ HỘI MÙA THU
Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)
Tháng Mười lễ hội Halloween,
Dẫn đến Mười Một, Tạ Ơn về!
(NTT)
Ảnh của Nguyễn Trung Tây Lm. (SVD)
Tháng Mười lễ hội Halloween,
Dẫn đến Mười Một, Tạ Ơn về!
(NTT)
VietCatholic TV
Đừng để bị lừa, đừng chúc phúc cho những lối sống khốn nạn, Chúa Kitô cấm các hành vi như thế
Giáo Hội Năm Châu
02:47 28/10/2020
Đức Ông Charles Pope là giáo sư Kinh Thánh đang giảng dạy tại các chủng viện ở tổng giáo phận Washington DC và phụ trách một lớp Kinh Thánh tại Quốc Hội Hoa Kỳ. Ngài cũng là niên trưởng linh mục đoàn của tổng giáo phận Washington.
Ngài đã có bài viết sau trên tờ National Catholic Register với nhan đề “Do Not Be Deceived: Christ Forbids Homosexual Acts, and the Church Cannot Teach Otherwise” nghĩa là “Đừng để bị lừa: Chúa Kitô cấm các hành vi đồng tính luyến ái, và Giáo Hội không thể dạy ngược lại” nhằm đưa ra các dẫn chứng Kinh Thánh bảo vệ các giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến vấn đề các hành vi đồng tính luyến ái.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
“Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng (x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1 Tm 1,10), truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: ‘Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn’ (x. Bộ Giáo Lý Đức Tin, tuyên ngôn “persona humana” 8). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này là không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.” (GLCG 2357)
Cuộc cách mạng tình dục đang từng bước tiến sâu vào một sự hoang mang ngày càng sâu sắc khiến nhiều người Công Giáo và những Kitô hữu khác bị bối rối. Nhưng không thể lầm lạc và cũng không ai, dù là giáo dân hay giáo sĩ, được phép bất đồng chính kiến đối với các giáo huấn của Giáo Hội về tính dục con người. Cả Kinh Thánh và giáo lý của Giáo Hội đều rất rõ ràng rằng tất cả các hình thức kết hợp tình dục bất chính, dù là ngoại tình, tà dâm hay các hành vi đồng tính luyến ái, đều là tội lỗi và không thể được chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào.
Một số người Công Giáo chính thức bất đồng chính kiến với Giáo Hội vì nhận thức và thái độ cố ý bác bỏ giáo huấn của Giáo Hội của họ, nhưng số người như thế không nhiều bằng những người bất đồng chính kiến với Giáo Hội vì sự lầm lạc gây ra bởi một nền văn hóa ồn ào và một bục giảng câm nín.
Đặc biệt đáng trách là bất kỳ phó tế, linh mục hoặc giám mục nào gieo rắc lầm lạc bằng những tuyên bố trực tiếp, hay cố ý nói mơ hồ hoặc đưa ra những chính sách sai lầm quảng bá lòng thương xót mà không đề cập gì đến sự ăn năn cần thiết. Chăm sóc cho mọi người tội lỗi là công việc liên tục của Giáo Hội. Tất cả những người tội lỗi đều đáng được yêu thương và chăm sóc mục vụ cẩn thận, với một niềm tôn trọng. Nhưng những gì Thiên Chúa đã mạc khải là tội lỗi, mà dám gọi là tốt hay cho rằng đó chỉ là chuyện thường tình, dù bằng lời nói trực tiếp hay bằng sự ngụy biện, đều không phải là chăm sóc mục vụ; nhưng là một lỗi nặng. Tất cả chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, đều được kêu gọi trở thành tiên tri của Thiên Chúa, truyền bá giáo huấn của Ngài; và chúng ta phải nhớ rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ phải giải trình với Ngài.
Trước đây tôi đã viết về nhiều khía cạnh lầm lẫn khác nhau liên quan đến tính dục trong nền văn hóa của chúng ta, ví dụ như tà dâm, ngoại tình, tránh thai, chuyển giới, cuộc chiến chống lại dục vọng, hôn nhân, ly hôn và Rước lễ, và các nạn nhân của cuộc cách mạng tình dục. Trong bài này, tôi đặc biệt tập trung vào giáo huấn của Thiên Chúa liên quan đến hành vi đồng tính luyến ái.
Đáng buồn thay, trong những tháng gần đây, một số giáo sĩ đã truyền bá những quan niệm phiến diện và đôi khi sai lầm nghiêm trọng rằng những hành vi đó có thể được chấp nhận. Chúng không thể được chấp nhận.
Do đó, một lần nữa tôi cảm thấy bị bắt buộc phải giảng dạy về vấn đề này, xác nhận lại Kinh Thánh và giáo lý của Giáo Hội. Kinh Thánh rất rõ ràng khi mô tả một cách rõ ràng và dứt khoát hoạt động đồng tính luyến ái như một tội lỗi nghiêm trọng và một sự rối loạn luân lý. Một số người cố gắng giải thích lại Kinh Thánh để nói khác đi, nhẹ nhất tôi phải nói rằng các cố gắng ấy là hoang đường. Họ thường đưa ra những lý thuyết bẻ cong luận lý và đưa ra những quan điểm lịch sử lừa đảo để loại bỏ chính ý nghĩa rất đơn giản của các văn bản.
Tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài đoạn Kinh Thánh này, nhưng trước khi thực hiện điều này, tôi muốn mô tả bối cảnh của bài suy tư này và làm rõ hai điều rất quan trọng.
Bối cảnh - Những suy tư của tôi hướng đến những Kitô hữu đồng đạo, do đó tôi sử dụng Kinh Thánh làm điểm xuất phát chính, vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ niềm tin vào vị thế chuẩn mực và thẩm quyền của Lời Chúa. Trong các bối cảnh khác, chẳng hạn khi đề cập đến thế giới thế tục, các lập luận dựa trên Luật Tự nhiên sẽ phù hợp hơn. Nhưng, trong bài viết này, Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội là nền tảng. Người Công Giáo, những người nên chấp nhận rằng Kinh Thánh được Thiên Chúa soi sáng và giảng dạy không chút sai lầm về đức tin và đạo đức, phải có sự hiểu biết rõ ràng về Kinh Thánh, nếu không chúng ta lại sa vào sự lầm lạc đang lan rộng trên thế giới.
Minh xác thứ nhất: Hoạt động tình dục đồng giới phải bị lên án, nhưng chúng ta không lên án những người có khuynh hướng tình dục đồng giới. Một số cá nhân bị thu hút bởi các thành viên cùng giới tính. Tại sao điều này lại xảy ra hoặc nó xảy ra như thế nào vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng dù sao thì đó cũng là một cuộc đấu tranh trong nội tâm đối với một số người. Bởi vì xu hướng tình dục thường không phải là vấn đề được lựa chọn trực tiếp hoặc thậm chí là được kiểm soát ngay lập tức, bản thân nó không phải là đối tượng bị lên án về mặt đạo đức. Bị cám dỗ phạm tội không làm cho người ta trở nên tội lỗi, hay xấu xa, họ thậm chí không có tội vì cơn cám dỗ đó. Đúng hơn, chính sự đầu hàng cơn cám dỗ mới là điều khiến người ta trở thành kẻ tội lỗi.
Nhiều người đồng tính luyến ái sống trong sạch. Dù bị cám dỗ thực hiện các hành vi quan hệ tình dục đồng giới nhưng họ không làm như vậy. Đây là điều can đảm, thánh thiện và đáng khen ngợi. Tuy nhiên, đáng buồn thay, những người khác bị thu hút đồng giới không chỉ phạm tội hoạt động tình dục đồng giới mà còn công khai phô trương nó và bác bỏ các văn bản Kinh Thánh rõ ràng ngăn cấm điều đó. Chúng ta chỉ có thể hy vọng và cầu nguyện cho sự hoán cải của họ. Tuy nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa xu hướng tình dục đồng giới và hoạt động tình dục đồng giới.
Minh xác thứ hai: Chúng ta không nên xem hoạt động tình dục đồng giới như thể đó là tội lỗi tình dục duy nhất bị Thiên Chúa lên án. Những người dị tính luyến ái cũng được mời gọi sống thuần khiết trong tình dục. Kinh Thánh lên án hoạt động đồng tính luyến ái, và chính Kinh Thánh cũng lên án một cách rõ ràng những hành vi ngoại tình và tà dâm. Kinh Thánh mô tả đây là những tội lỗi nghiêm trọng có thể loại trừ con người khỏi Dân Chúa và Nước Trời (xem Eph 5:5-7; Gal 5:16-21; Rev 21:5-8; Rev. 22:14-16; Mt. 15:19-20; 1 Cor 6:9-20; Col 3:5-6; 1 Thess 4:1-8; 1 Tim 1:8-11; Heb 13:4). Đáng buồn thay, ngày nay nhiều người đang sống trong tình trạng công khai vi phạm giáo huấn của Kinh Thánh. Nhiều người tham gia vào các quan hệ tình dục trước hôn nhân, và nói rằng điều đó là OK vì “ai cũng làm thế mà”. Điều này, giống như hoạt động đồng tính luyến ái, là tội lỗi và cần được ăn năn ngay lập tức.
Do đó, hoạt động tình dục đồng giới không phải là tội lỗi duy nhất Kinh Thánh và các Kitô hữu chỉ ra. Mỗi con người, không có ngoại lệ, dù dị tính hay đồng tính luyến ái, đều được mời gọi đến với sự thuần khiết về tình dục, sống khiết tịnh và tự chủ. Mọi sự vi phạm điều này đều là một tội lỗi. Nói một cách tích cực hơn, mệnh lệnh của Thiên Chúa về sự khiết tịnh có nghĩa là với ân sủng của Thiên Chúa, mọi người đều có thể thuần khiết về tình dục. Thiên Chúa ban ân sủng cho chúng ta để có thể thi hành những lệnh truyền của Ngài!
Với bối cảnh và những minh định này trong trí, giờ đây chúng ta có thể hướng sự chú ý của mình sang lời dạy trong Kinh Thánh về đồng tính luyến ái.
Như đã trình bày ở trên, Kinh Thánh lên án rõ ràng và mạnh mẽ các hành vi đồng tính luyến ái. Ví dụ:
Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm (Lv 18:22)
Người đàn ông nào nằm với một người đàn ông khác như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm (Lv 20:13)
Tương tự như vậy, câu chuyện về sự hủy diệt thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra, trong số những thứ khác, miêu tả tội lỗi hoạt động đồng tính luyến ái. Quá dài dòng để sao chép lại toàn bộ ở đây, nhưng anh chị em có thể đọc trong chương thứ 19 Sách Sáng thế ký. Một số người đã cố truyền bá một cách lầm lạc rằng câu chuyện của Xơ-đôm và Gô-mô-ra chỉ là câu chuyện về “lòng tốt”, và tôi đã viết về chủ đề đó ở đây: Tội lỗi của Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Và mọi người Công Giáo hãy lưu ý rằng Sách Giáo lý nêu bật chương thứ 19 Sách Sáng thế ký như là cơ sở Kinh Thánh trong việc cấm các hành vi đồng tính luyến ái.
Từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ...qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ…Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình. Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng (Rm 1: 18-29).
Nào anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp sao? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp (1 Cr 6: 9-10).
Chúng ta biết rằng Lề Luật là tốt, nếu người ta sử dụng cho đúng cách. Thật vậy, Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh. Đó là giáo lý phù hợp với Tin Mừng đã được giao phó cho tôi, Tin Mừng về vinh quang của Thiên Chúa chí tôn. (1 Tim 1: 8-11).
Anh chị em hãy lưu ý rằng trong những văn bản này, hoạt động tình dục đồng giới, hay còn gọi là kê gian, được liệt kê là một trong số các tội phạm tình dục khác; nó không phải là tội lỗi tình dục duy nhất. Vậy thì đây là điều Kinh Thánh dạy: hoạt động tình dục đồng giới là tội lỗi, cũng như các tội lỗi tình dục khác như tà dâm và ngoại tình. Đúng là không có nhiều văn bản nói về hoạt động đồng tính luyến ái, nhưng bất cứ khi nào đề cập đến các hành vi đồng tính, thì các hành vi này đều bị lên án rõ ràng và không khoan nhượng. Hơn nữa, sự kết án này xảy ra ở mọi giai đoạn của mặc khải trong Kinh Thánh, từ đầu đến cuối.
Một số người nói rằng Chúa Giêsu chưa từng đề cập đến đồng tính luyến ái. Vâng, Ngài cũng chưa từng đề cập đến hiếp dâm, loạn luân hay, lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, nhưng sự “im lặng” của Ngài trong những vấn đề này chắc chắn không phải là một sự tán thành. Hơn nữa, Chúa Giêsu nói rằng ai nghe các môn đệ của Ngài thì nghe Ngài (xin xem Luca 10:16), và các Thư chung của các Tông Đồ đề cập rõ ràng đến các hành vi đồng tính luyến ái và lên án chúng cùng với tà dâm, ngoại tình và tất cả những gì là ô uế tình dục.
Đáng buồn thay, ngày nay nhiều người đã bỏ qua một bên những giáo huấn này về hoạt động đồng tính luyến ái. Họ không chỉ tuyên bố rằng điều đó không phải là tội lỗi, mà họ còn cử mừng, và chúc phúc cho nó như thể đó là một điều tốt đẹp. Những người ngoại đạo làm điều này đã là tồi tệ lắm rồi, nhưng thật là quá bi thảm hơn bội phần khi những người tự xưng mình là Công Giáo và là Kitô hữu mà lại làm ra những điều như vậy.
Anh chị em đừng để bị lừa. Những kẻ nào tán thành hành vi đồng tính luyến ái hoặc bất kỳ hành vi tình dục bất hợp pháp nào khác đang bỏ qua Lời Đức Chúa Trời hoặc đang diễn giải lại Lời Chúa cho phù hợp với chương trình nghị sự của họ. Thánh Vịnh 2:1 than thở “Sao chư dân lại ồn ào náo động? Sao vạn quốc dám bày kế viển vông” Chúa Giêsu biết rằng một số người sẽ lợi dụng Ngài để thúc đẩy các chương trình nghị sự sai trái của họ, và vì vậy Ngài đã cảnh báo rằng: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính Ta đây!’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người.” (Mc 13:5-6) Thánh Phaolô cũng biết rằng một số sẽ xuyên tạc đức tin Kitô: “Tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng.” (Cv 20:29-30).
Chúng ta phải nói sự thật đến từ Thiên Chúa và sau đó sống với sự thật ấy. Kìm hãm sự thật dẫn đến xuyên tạc, lầm lạc và đau khổ. Tình trạng tháo thứ tình dục trong thời đại của chúng ta đã dẫn đến những đau khổ lớn: những bệnh lây truyền qua đường tình dục, AIDS, nạo phá thai, mang thai ở tuổi vị thành niên, hôn nhân tan vỡ, ly hôn, làm cha mẹ đơn thân, nghiện các nội dung khiêu dâm, lạm dụng tình dục, ngộ nhận về tình dục và suy giảm văn hóa. Kinh Thánh chép rằng: “Họ gieo gió thì sẽ gặt gió lốc” (Hs 8: 7). “Anh em đừng có lầm tưởng: Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:7-8). Nền văn hóa của chúng ta chắc chắn đang gặt hái những tác động tàn phá của cuộc cách mạng tình dục. Như mọi khi, chính những đứa trẻ phải trả giá cao nhất cho những hành vi sai trái của người lớn.
Một số người phản đối giáo huấn của Kinh Thánh và Giáo Hội đã chụp mũ những ai có quan điểm khác với họ là “hận thù” và “cố chấp”. Chúng ta là những người có đức tin phải tuyên bố rằng sự phản đối của Giáo Hội đối với hành vi đồng tính luyến ái bắt nguồn từ Lời Chúa, mà chúng ta phải ngoan ngoãn vâng theo. Chúng ta không thể nói và dạy gì khác hơn là những gì Thiên Chúa đã mạc khải một cách nhất quán trong Lời Ngài. Chúng ta không bao giờ được phép nói dối người khác hoặc tán thành những thực hành sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của họ hoặc ơn cứu rỗi đời đời của họ. Khẳng định cho rằng một số tầng lớp hoặc một số hạng người nhất định, trong trường hợp này là những người có sức hấp dẫn đồng giới, không thể sống một cách hợp lý theo lời dạy của Kinh Thánh mới chính là một hình thức cố chấp.
Có lẽ tốt nhất nên kết thúc bằng một tuyên bố từ Sách Giáo lý, thể hiện sự rõ ràng về giáo huấn của Giáo Hội nhưng cũng yêu thương tôn trọng những người có sức hấp dẫn đồng giới:
Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy bị lôi cuốn tính dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái. Đồng tính luyến ái xuất hiện trong nhiều thời đại và văn hóa, với nhiều hình thức khác nhau. Cho đến nay, người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân tâm thần của hiện tượng này. Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng (x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1 Tm 1,10), truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn” (x. Bộ Giáo Lý Đức Tin, tuyên ngôn “persona humana” 8). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.
Đừng quên một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống, và, nếu là Ki-tô hữu, họ được kêu gọi kết hợp những khó khăn họ có thể gặp phải do hoàn cảnh của mình với hy lễ thập giá của Chúa.
Những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi sống khiết tịnh. Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Ki-tô Giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một tình bạn vô vị lợi. (GLCG 2357-2359).
Tôi viết bài này hôm nay với hy vọng rằng anh chị em sẽ không bao giờ sa vào sự lầm lạc của thời đại chúng ta. “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (xem Rm 12: 2). Sự chăm sóc mục vụ thích hợp cần thiết ngày nay là làm sáng tỏ và củng cố mọi người trong đức tin tông truyền được ủy thác cho Giáo Hội. Vì mục đích đó, tôi hy vọng anh chị em thấy bài viết này hữu ích. Xin cho tất cả chúng ta, các giáo sĩ và giáo dân, các vị tiên tri qua phép rửa tội, dám nói ra sự thật với lòng yêu mến, bền đỗ và can đảm.
Source:National Catholic RegisterDo Not Be Deceived: Christ Forbids Homosexual Acts, and the Church Cannot Teach Otherwise
Ngài đã có bài viết sau trên tờ National Catholic Register với nhan đề “Do Not Be Deceived: Christ Forbids Homosexual Acts, and the Church Cannot Teach Otherwise” nghĩa là “Đừng để bị lừa: Chúa Kitô cấm các hành vi đồng tính luyến ái, và Giáo Hội không thể dạy ngược lại” nhằm đưa ra các dẫn chứng Kinh Thánh bảo vệ các giáo huấn của Giáo Hội liên quan đến vấn đề các hành vi đồng tính luyến ái.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
“Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng (x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1 Tm 1,10), truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: ‘Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn’ (x. Bộ Giáo Lý Đức Tin, tuyên ngôn “persona humana” 8). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này là không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.” (GLCG 2357)
Cuộc cách mạng tình dục đang từng bước tiến sâu vào một sự hoang mang ngày càng sâu sắc khiến nhiều người Công Giáo và những Kitô hữu khác bị bối rối. Nhưng không thể lầm lạc và cũng không ai, dù là giáo dân hay giáo sĩ, được phép bất đồng chính kiến đối với các giáo huấn của Giáo Hội về tính dục con người. Cả Kinh Thánh và giáo lý của Giáo Hội đều rất rõ ràng rằng tất cả các hình thức kết hợp tình dục bất chính, dù là ngoại tình, tà dâm hay các hành vi đồng tính luyến ái, đều là tội lỗi và không thể được chấp thuận dưới bất kỳ hình thức nào.
Một số người Công Giáo chính thức bất đồng chính kiến với Giáo Hội vì nhận thức và thái độ cố ý bác bỏ giáo huấn của Giáo Hội của họ, nhưng số người như thế không nhiều bằng những người bất đồng chính kiến với Giáo Hội vì sự lầm lạc gây ra bởi một nền văn hóa ồn ào và một bục giảng câm nín.
Đặc biệt đáng trách là bất kỳ phó tế, linh mục hoặc giám mục nào gieo rắc lầm lạc bằng những tuyên bố trực tiếp, hay cố ý nói mơ hồ hoặc đưa ra những chính sách sai lầm quảng bá lòng thương xót mà không đề cập gì đến sự ăn năn cần thiết. Chăm sóc cho mọi người tội lỗi là công việc liên tục của Giáo Hội. Tất cả những người tội lỗi đều đáng được yêu thương và chăm sóc mục vụ cẩn thận, với một niềm tôn trọng. Nhưng những gì Thiên Chúa đã mạc khải là tội lỗi, mà dám gọi là tốt hay cho rằng đó chỉ là chuyện thường tình, dù bằng lời nói trực tiếp hay bằng sự ngụy biện, đều không phải là chăm sóc mục vụ; nhưng là một lỗi nặng. Tất cả chúng ta, giáo sĩ và giáo dân, đều được kêu gọi trở thành tiên tri của Thiên Chúa, truyền bá giáo huấn của Ngài; và chúng ta phải nhớ rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ phải giải trình với Ngài.
Trước đây tôi đã viết về nhiều khía cạnh lầm lẫn khác nhau liên quan đến tính dục trong nền văn hóa của chúng ta, ví dụ như tà dâm, ngoại tình, tránh thai, chuyển giới, cuộc chiến chống lại dục vọng, hôn nhân, ly hôn và Rước lễ, và các nạn nhân của cuộc cách mạng tình dục. Trong bài này, tôi đặc biệt tập trung vào giáo huấn của Thiên Chúa liên quan đến hành vi đồng tính luyến ái.
Đáng buồn thay, trong những tháng gần đây, một số giáo sĩ đã truyền bá những quan niệm phiến diện và đôi khi sai lầm nghiêm trọng rằng những hành vi đó có thể được chấp nhận. Chúng không thể được chấp nhận.
Do đó, một lần nữa tôi cảm thấy bị bắt buộc phải giảng dạy về vấn đề này, xác nhận lại Kinh Thánh và giáo lý của Giáo Hội. Kinh Thánh rất rõ ràng khi mô tả một cách rõ ràng và dứt khoát hoạt động đồng tính luyến ái như một tội lỗi nghiêm trọng và một sự rối loạn luân lý. Một số người cố gắng giải thích lại Kinh Thánh để nói khác đi, nhẹ nhất tôi phải nói rằng các cố gắng ấy là hoang đường. Họ thường đưa ra những lý thuyết bẻ cong luận lý và đưa ra những quan điểm lịch sử lừa đảo để loại bỏ chính ý nghĩa rất đơn giản của các văn bản.
Tôi muốn chia sẻ với anh chị em một vài đoạn Kinh Thánh này, nhưng trước khi thực hiện điều này, tôi muốn mô tả bối cảnh của bài suy tư này và làm rõ hai điều rất quan trọng.
Bối cảnh - Những suy tư của tôi hướng đến những Kitô hữu đồng đạo, do đó tôi sử dụng Kinh Thánh làm điểm xuất phát chính, vì tất cả chúng ta cùng chia sẻ niềm tin vào vị thế chuẩn mực và thẩm quyền của Lời Chúa. Trong các bối cảnh khác, chẳng hạn khi đề cập đến thế giới thế tục, các lập luận dựa trên Luật Tự nhiên sẽ phù hợp hơn. Nhưng, trong bài viết này, Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo Hội là nền tảng. Người Công Giáo, những người nên chấp nhận rằng Kinh Thánh được Thiên Chúa soi sáng và giảng dạy không chút sai lầm về đức tin và đạo đức, phải có sự hiểu biết rõ ràng về Kinh Thánh, nếu không chúng ta lại sa vào sự lầm lạc đang lan rộng trên thế giới.
Minh xác thứ nhất: Hoạt động tình dục đồng giới phải bị lên án, nhưng chúng ta không lên án những người có khuynh hướng tình dục đồng giới. Một số cá nhân bị thu hút bởi các thành viên cùng giới tính. Tại sao điều này lại xảy ra hoặc nó xảy ra như thế nào vẫn chưa được hiểu đầy đủ, nhưng dù sao thì đó cũng là một cuộc đấu tranh trong nội tâm đối với một số người. Bởi vì xu hướng tình dục thường không phải là vấn đề được lựa chọn trực tiếp hoặc thậm chí là được kiểm soát ngay lập tức, bản thân nó không phải là đối tượng bị lên án về mặt đạo đức. Bị cám dỗ phạm tội không làm cho người ta trở nên tội lỗi, hay xấu xa, họ thậm chí không có tội vì cơn cám dỗ đó. Đúng hơn, chính sự đầu hàng cơn cám dỗ mới là điều khiến người ta trở thành kẻ tội lỗi.
Nhiều người đồng tính luyến ái sống trong sạch. Dù bị cám dỗ thực hiện các hành vi quan hệ tình dục đồng giới nhưng họ không làm như vậy. Đây là điều can đảm, thánh thiện và đáng khen ngợi. Tuy nhiên, đáng buồn thay, những người khác bị thu hút đồng giới không chỉ phạm tội hoạt động tình dục đồng giới mà còn công khai phô trương nó và bác bỏ các văn bản Kinh Thánh rõ ràng ngăn cấm điều đó. Chúng ta chỉ có thể hy vọng và cầu nguyện cho sự hoán cải của họ. Tuy nhiên, chúng ta phải phân biệt giữa xu hướng tình dục đồng giới và hoạt động tình dục đồng giới.
Minh xác thứ hai: Chúng ta không nên xem hoạt động tình dục đồng giới như thể đó là tội lỗi tình dục duy nhất bị Thiên Chúa lên án. Những người dị tính luyến ái cũng được mời gọi sống thuần khiết trong tình dục. Kinh Thánh lên án hoạt động đồng tính luyến ái, và chính Kinh Thánh cũng lên án một cách rõ ràng những hành vi ngoại tình và tà dâm. Kinh Thánh mô tả đây là những tội lỗi nghiêm trọng có thể loại trừ con người khỏi Dân Chúa và Nước Trời (xem Eph 5:5-7; Gal 5:16-21; Rev 21:5-8; Rev. 22:14-16; Mt. 15:19-20; 1 Cor 6:9-20; Col 3:5-6; 1 Thess 4:1-8; 1 Tim 1:8-11; Heb 13:4). Đáng buồn thay, ngày nay nhiều người đang sống trong tình trạng công khai vi phạm giáo huấn của Kinh Thánh. Nhiều người tham gia vào các quan hệ tình dục trước hôn nhân, và nói rằng điều đó là OK vì “ai cũng làm thế mà”. Điều này, giống như hoạt động đồng tính luyến ái, là tội lỗi và cần được ăn năn ngay lập tức.
Do đó, hoạt động tình dục đồng giới không phải là tội lỗi duy nhất Kinh Thánh và các Kitô hữu chỉ ra. Mỗi con người, không có ngoại lệ, dù dị tính hay đồng tính luyến ái, đều được mời gọi đến với sự thuần khiết về tình dục, sống khiết tịnh và tự chủ. Mọi sự vi phạm điều này đều là một tội lỗi. Nói một cách tích cực hơn, mệnh lệnh của Thiên Chúa về sự khiết tịnh có nghĩa là với ân sủng của Thiên Chúa, mọi người đều có thể thuần khiết về tình dục. Thiên Chúa ban ân sủng cho chúng ta để có thể thi hành những lệnh truyền của Ngài!
Với bối cảnh và những minh định này trong trí, giờ đây chúng ta có thể hướng sự chú ý của mình sang lời dạy trong Kinh Thánh về đồng tính luyến ái.
Như đã trình bày ở trên, Kinh Thánh lên án rõ ràng và mạnh mẽ các hành vi đồng tính luyến ái. Ví dụ:
Ngươi không được nằm với đàn ông như nằm với đàn bà: đó là điều ghê tởm (Lv 18:22)
Người đàn ông nào nằm với một người đàn ông khác như nằm với đàn bà, thì cả hai đã làm điều ghê tởm (Lv 20:13)
Tương tự như vậy, câu chuyện về sự hủy diệt thành Xơ-đôm và Gô-mô-ra, trong số những thứ khác, miêu tả tội lỗi hoạt động đồng tính luyến ái. Quá dài dòng để sao chép lại toàn bộ ở đây, nhưng anh chị em có thể đọc trong chương thứ 19 Sách Sáng thế ký. Một số người đã cố truyền bá một cách lầm lạc rằng câu chuyện của Xơ-đôm và Gô-mô-ra chỉ là câu chuyện về “lòng tốt”, và tôi đã viết về chủ đề đó ở đây: Tội lỗi của Xơ-đôm và Gô-mô-ra. Và mọi người Công Giáo hãy lưu ý rằng Sách Giáo lý nêu bật chương thứ 19 Sách Sáng thế ký như là cơ sở Kinh Thánh trong việc cấm các hành vi đồng tính luyến ái.
Từ trời, Thiên Chúa mặc khải cơn thịnh nộ của Người chống lại mọi thứ vô luân và bất chính của những người lấy sự bất chính mà giam hãm chân lý. Những gì người ta có thể biết về Thiên Chúa, thì thật là hiển nhiên trước mắt họ, vì chính Thiên Chúa đã cho họ thấy rõ...qua những công trình của Người. Do đó, họ không thể tự bào chữa được, vì tuy biết Thiên Chúa, họ đã không tôn vinh hay cảm tạ Người cho phải đạo. Trái lại, đầu óc họ suy luận viển vông và tâm trí ngu si của họ hoá ra mê muội. Họ khoe mình khôn ngoan, nhưng đã trở nên điên rồ…Bởi thế, Thiên Chúa đã để mặc họ buông theo dục tình đồi bại. Đàn bà không quan hệ theo lẽ tự nhiên, mà lại làm điều trái tự nhiên. Đàn ông cũng vậy, không quan hệ với đàn bà theo lẽ tự nhiên, mà lại đem lòng thèm muốn lẫn nhau: đàn ông bậy bạ với đàn ông. Như vậy là chuốc vào thân hình phạt xứng với sự lầm lạc của mình. Vì họ đã không thèm nhận biết Thiên Chúa, nên Người đã để mặc họ theo trí óc lệch lạc mà làm những điều bất xứng (Rm 1: 18-29).
Nào anh em chẳng biết rằng những kẻ bất chính sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp sao? Anh em đừng lầm. Những kẻ dâm đãng, thờ ngẫu tượng, ngoại tình, truỵ lạc, kê gian, những kẻ trộm cướp, tham lam, say sưa rượu chè, quen chửi bới, sẽ không được Nước Thiên Chúa làm cơ nghiệp (1 Cr 6: 9-10).
Chúng ta biết rằng Lề Luật là tốt, nếu người ta sử dụng cho đúng cách. Thật vậy, Lề Luật có đó, không phải cho người công chính, mà là cho hạng người sống ngoài lề luật và bất phục tùng, vô luân và tội lỗi, phạm thánh phạm thượng, giết cha giết mẹ, sát nhân, dâm dật, kê gian, buôn người, nói dối, bội thề, và những kẻ sống ngược với giáo lý lành mạnh. Đó là giáo lý phù hợp với Tin Mừng đã được giao phó cho tôi, Tin Mừng về vinh quang của Thiên Chúa chí tôn. (1 Tim 1: 8-11).
Anh chị em hãy lưu ý rằng trong những văn bản này, hoạt động tình dục đồng giới, hay còn gọi là kê gian, được liệt kê là một trong số các tội phạm tình dục khác; nó không phải là tội lỗi tình dục duy nhất. Vậy thì đây là điều Kinh Thánh dạy: hoạt động tình dục đồng giới là tội lỗi, cũng như các tội lỗi tình dục khác như tà dâm và ngoại tình. Đúng là không có nhiều văn bản nói về hoạt động đồng tính luyến ái, nhưng bất cứ khi nào đề cập đến các hành vi đồng tính, thì các hành vi này đều bị lên án rõ ràng và không khoan nhượng. Hơn nữa, sự kết án này xảy ra ở mọi giai đoạn của mặc khải trong Kinh Thánh, từ đầu đến cuối.
Một số người nói rằng Chúa Giêsu chưa từng đề cập đến đồng tính luyến ái. Vâng, Ngài cũng chưa từng đề cập đến hiếp dâm, loạn luân hay, lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên, nhưng sự “im lặng” của Ngài trong những vấn đề này chắc chắn không phải là một sự tán thành. Hơn nữa, Chúa Giêsu nói rằng ai nghe các môn đệ của Ngài thì nghe Ngài (xin xem Luca 10:16), và các Thư chung của các Tông Đồ đề cập rõ ràng đến các hành vi đồng tính luyến ái và lên án chúng cùng với tà dâm, ngoại tình và tất cả những gì là ô uế tình dục.
Đáng buồn thay, ngày nay nhiều người đã bỏ qua một bên những giáo huấn này về hoạt động đồng tính luyến ái. Họ không chỉ tuyên bố rằng điều đó không phải là tội lỗi, mà họ còn cử mừng, và chúc phúc cho nó như thể đó là một điều tốt đẹp. Những người ngoại đạo làm điều này đã là tồi tệ lắm rồi, nhưng thật là quá bi thảm hơn bội phần khi những người tự xưng mình là Công Giáo và là Kitô hữu mà lại làm ra những điều như vậy.
Anh chị em đừng để bị lừa. Những kẻ nào tán thành hành vi đồng tính luyến ái hoặc bất kỳ hành vi tình dục bất hợp pháp nào khác đang bỏ qua Lời Đức Chúa Trời hoặc đang diễn giải lại Lời Chúa cho phù hợp với chương trình nghị sự của họ. Thánh Vịnh 2:1 than thở “Sao chư dân lại ồn ào náo động? Sao vạn quốc dám bày kế viển vông” Chúa Giêsu biết rằng một số người sẽ lợi dụng Ngài để thúc đẩy các chương trình nghị sự sai trái của họ, và vì vậy Ngài đã cảnh báo rằng: “Anh em hãy coi chừng kẻo bị người ta lừa gạt. Sẽ có nhiều kẻ mạo danh Thầy đến nói rằng: ‘Chính Ta đây!’, và họ sẽ lừa gạt được nhiều người.” (Mc 13:5-6) Thánh Phaolô cũng biết rằng một số sẽ xuyên tạc đức tin Kitô: “Tôi biết rằng khi tôi đi rồi, thì sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng.” (Cv 20:29-30).
Chúng ta phải nói sự thật đến từ Thiên Chúa và sau đó sống với sự thật ấy. Kìm hãm sự thật dẫn đến xuyên tạc, lầm lạc và đau khổ. Tình trạng tháo thứ tình dục trong thời đại của chúng ta đã dẫn đến những đau khổ lớn: những bệnh lây truyền qua đường tình dục, AIDS, nạo phá thai, mang thai ở tuổi vị thành niên, hôn nhân tan vỡ, ly hôn, làm cha mẹ đơn thân, nghiện các nội dung khiêu dâm, lạm dụng tình dục, ngộ nhận về tình dục và suy giảm văn hóa. Kinh Thánh chép rằng: “Họ gieo gió thì sẽ gặt gió lốc” (Hs 8: 7). “Anh em đừng có lầm tưởng: Thiên Chúa không để cho người ta nhạo báng đâu! Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt, thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí là sự sống đời đời” (Gl 6:7-8). Nền văn hóa của chúng ta chắc chắn đang gặt hái những tác động tàn phá của cuộc cách mạng tình dục. Như mọi khi, chính những đứa trẻ phải trả giá cao nhất cho những hành vi sai trái của người lớn.
Một số người phản đối giáo huấn của Kinh Thánh và Giáo Hội đã chụp mũ những ai có quan điểm khác với họ là “hận thù” và “cố chấp”. Chúng ta là những người có đức tin phải tuyên bố rằng sự phản đối của Giáo Hội đối với hành vi đồng tính luyến ái bắt nguồn từ Lời Chúa, mà chúng ta phải ngoan ngoãn vâng theo. Chúng ta không thể nói và dạy gì khác hơn là những gì Thiên Chúa đã mạc khải một cách nhất quán trong Lời Ngài. Chúng ta không bao giờ được phép nói dối người khác hoặc tán thành những thực hành sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của họ hoặc ơn cứu rỗi đời đời của họ. Khẳng định cho rằng một số tầng lớp hoặc một số hạng người nhất định, trong trường hợp này là những người có sức hấp dẫn đồng giới, không thể sống một cách hợp lý theo lời dạy của Kinh Thánh mới chính là một hình thức cố chấp.
Có lẽ tốt nhất nên kết thúc bằng một tuyên bố từ Sách Giáo lý, thể hiện sự rõ ràng về giáo huấn của Giáo Hội nhưng cũng yêu thương tôn trọng những người có sức hấp dẫn đồng giới:
Đồng tính luyến ái là những liên hệ giữa những người nam hay nữ cảm thấy bị lôi cuốn tính dục với người đồng phái nhiều hơn với người khác phái. Đồng tính luyến ái xuất hiện trong nhiều thời đại và văn hóa, với nhiều hình thức khác nhau. Cho đến nay, người ta vẫn chưa giải thích được nguyên nhân tâm thần của hiện tượng này. Căn cứ vào Kinh Thánh vốn xem chúng như những suy đồi nghiêm trọng (x. St 19,1-29; Rm 1,24-27; 1 Cr 6,10; 1 Tm 1,10), truyền thống Hội Thánh luôn tuyên bố: “Các hành vi đồng tính luyến ái tự bản chất là thác loạn” (x. Bộ Giáo Lý Đức Tin, tuyên ngôn “persona humana” 8). Các hành vi này nghịch với luật tự nhiên vì loại bỏ chủ đích truyền sinh của hành vi tính dục, cũng không xuất phát từ nhu cầu bổ túc thực sự về tình cảm và tính dục. Những hành vi này không thể chấp nhận được trong bất cứ trường hợp nào.
Đừng quên một số người đã có khuynh hướng đồng tính luyến ái thâm căn. Đối với đa số những người này, khuynh hướng lệch lạc ấy là một thử thách. Chúng ta phải đón nhận họ với lòng tôn trọng, thông cảm và tế nhị, tránh đối xử bất công. Cả những người này cũng được mời gọi thực hiện ý Chúa trong cuộc sống, và, nếu là Ki-tô hữu, họ được kêu gọi kết hợp những khó khăn họ có thể gặp phải do hoàn cảnh của mình với hy lễ thập giá của Chúa.
Những người đồng tính luyến ái cũng được mời gọi sống khiết tịnh. Họ có thể và phải cương quyết tiến dần đến sự toàn thiện Ki-tô Giáo nhờ kinh nguyện và ân sủng bí tích, nhờ biết tự chủ để củng cố tự do nội tâm và nhờ sự nâng đỡ của một tình bạn vô vị lợi. (GLCG 2357-2359).
Tôi viết bài này hôm nay với hy vọng rằng anh chị em sẽ không bao giờ sa vào sự lầm lạc của thời đại chúng ta. “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo.” (xem Rm 12: 2). Sự chăm sóc mục vụ thích hợp cần thiết ngày nay là làm sáng tỏ và củng cố mọi người trong đức tin tông truyền được ủy thác cho Giáo Hội. Vì mục đích đó, tôi hy vọng anh chị em thấy bài viết này hữu ích. Xin cho tất cả chúng ta, các giáo sĩ và giáo dân, các vị tiên tri qua phép rửa tội, dám nói ra sự thật với lòng yêu mến, bền đỗ và can đảm.
Source:National Catholic Register
Tháng các linh hồn: Hoa Nghĩa Trang – Lm. Nguyễn Tầm Thường
VietCatholic
05:13 28/10/2020
Hoa nghĩa trang.
Tháng mười một vẫn được dành riêng cho các linh hồn. Người Công Giáo nói chung rất quan tâm đến những ai đã ra đi, mong rằng người thân quá cố của mình được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa tình yêu. Đây là một ước muốn rất đẹp, rất tình người.
Khi nghe tin Đức Giêsu đã làm cho nhóm Xa-đốc phải câm miệng, thì những người Pha-ri-sêu họp nhau lại. Rồi một người thông luật trong nhóm hỏi Đức Giêsu để thử Người rằng: “Thưa Thầy, trong sách Luật Mô-sê, điều răn nào là điều răn trọng nhất?”
Đức Giêsu đáp: “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn quan trọng nhất và là điều răn thứ nhất. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình. Tất cả Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc vào hai điều răn ấy.”
Chúng ta phải yêu mến tha nhân khi họ còn sống và cả khi họ đã ra đi trước chúng ta. Trong tâm tình đó, Hiền Hoà xin gởi đến quý vị và anh chị em bài suy niệm sau đây của linh mục nhà văn Nguyễn Tầm Thường.
Nghĩa trang có nhiều loại hoa. Chúng khác nhau ở tên gọi mà giống nhau ở một sự kiện: Hoa nghĩa trang là hoa ở lại với người sống chứ làm sao theo người chết ra đi được. Trong không gian lạnh, trong vùng tối không còn bầu trời của huyệt mộ làm sao người chết biết đến màu sắc của hoa? Vì thế, hoa ân tình hay hoa xã giao thì cũng chỉ người sống nhìn thấy hoa thôi.
Bi thương của con người trong kiếp sống nhân sinh là kẻ sống có thể lấy hoa thật tiễn đưa người chết bằng những tâm tình giả. Bi thương của người chết là có những tâm tình thật, nhưng kẻ đã miền miệt ra đi rồi thì chẳng bao giờ nhìn thấy hoa.
Hoa nghĩa trang vẫn là hoa chỉ kẻ sống nhìn thấy thôi. Chết là đi vào thế giới khác rồi. Hoa hãy ở lại, giã từ hoa.
Lời của một đóa hoa.
Tôi là đóa hoa hồng. Tôi ra đời trong một thửa đất miền quê. Chúng tôi vui với gió và nắng. Bình minh lên, chúng tôi thức dậy chào một ngày mới. Nắng trang điểm cho chúng tôi rực lên sắc đỏ, mướt lên màu xanh. Chiều về chúng tôi chờ sương đêm. Những giọt sương trong và mát như suối tiên xoa trên da chúng tôi nước tinh khiết của trời. Rồi ngày mai nắng lại làm những cánh hoa chúng tôi óng ả. Chúng tôi sống êm dịu với sương đêm và nắng ngày. Thế rồi, bỗng đến một bình minh khắc nghiệt.
Tôi đang sống tuổi thần tiên nhất trong đời thì có người đến bứng khỏi thửa vườn rất thân mến dấu yêu. Tôi không biết mình bị đem đi những đâu, bị đưa qua những chốn nào. Một sáng nọ, khi tôi thấy ánh mặt trời thì chung quanh tôi hoàn toàn khác lạ. Nơi tôi ở không phải là khu vườn miệt quê nữa. Tôi không còn thở hơi của đất, hương nồng của cỏ. Các loại hoa chung quanh tôi cũng bàng hoàng như thế. Tôi đang được bày bán ở một chợ hoa. Và từ đó, định mệnh chúng tôi bắt đầu.
Chỗ nào con người muốn sang trọng huy hoàng, họ đem chúng tôi đến. Chúng tôi trở nên nhan sắc cho con người. Ai trong chúng tôi cũng băn khoăn về duyên số của mình. Riêng tôi, tôi không biết mình sẽ lại trôi dạt một chuyến đò nữa đi đâu. Nghe chuyện con người nói với nhau khi họ đến chợ hoa, chúng tôi mới biết thế giới của con người rất phức tạp chứ không như khu vườn của tôi ngày xưa. Và, họ đang có một định mệnh cho tôi.
Có những cành hoa sẽ theo cô dâu về nhà chồng. Trên tay người thiếu nữ xinh nào đó, chúng sẽ làm cho người con gái ấy mơ màng duyên dáng. Có những đóa hoa còn trang trọng hơn nữa, chúng sẽ ở trên bàn thờ, gần chỗ của Thượng Ðế. Có bông hoa thì hạnh phúc vì tình yêu ban đầu tặng nhau. Chúng được đưa lên môi nồng nàn. Chúng cũng ban hương cho những nụ hôn của các đôi tình nhân thêm mộng mị. Chung quanh chúng tôi là một thế giới bí mật của loài người. Chúng tôi tự hỏi mình, rồi hỏi lẫn nhau:
Nơi nào hạnh phúc nhất?
Tôi chưa bao giờ có kinh nghiệm về định mệnh này. Chẳng thấy đóa hoa nào đã ra đi rồi trở lại kể cho chúng tôi hay. Tôi biết có những đóa hoa được tặng cho các danh nhân lỗi lạc. Ước mơ một đời làm hoa như tôi là một ngày nào đó, sau khi người nghệ sĩ trình tấu một tình ca tuyệt vời, tôi được trao tặng và người nghệ sĩ giơ tôi lên cao trước hàng ngàn bàn tay ngưỡng mộ. Ôi! hạnh phúc biết mấy!
Tôi cũng nghĩ, biết đâu tôi được cắm trong bình ngọc quý, êm ả ru đời trong phòng một cô thiếu nữ mới lớn. Tôi sẽ rình mò lén nghe cô nhỏ viết nhật ký. Bao nhiêu tưởng tượng thần thoại đi về trong giấc ngủ của tôi.
Tôi là loài hoa cũng lãng mạn, đôi khi tôi thích những chân trời màu tím, và có nước mắt. Nhất là nước mắt của tình yêu, nó dịu dàng làm sao! Một ngày nọ, tôi bồi hồi quá đỗi khi biết mình sắp về vùng trời có nước mắt và màu tím. Mầu tím hôm nay là tím ở trong lòng. Màu tím của một nghĩa trang. Tôi chưa bao giờ biết nghĩa trang. Tôi chỉ bâng khuâng hiểu rằng nơi đó có biệt ly và sầu nhớ. Tôi yêu những khung trời có nỗi đau ngọt ngào, vì tôi nghĩ rằng trong nước mắt sẽ có nhớ, có thương. Tôi hân hoan giã từ bè bạn đi theo định mệnh của tôi ra nghĩa trang.
Tôi được trân trọng đưa vào khung trời cô đơn này. Bây giờ tôi hiểu cô đơn cũng có nhiều thứ. Có cô đơn của một cánh lá chiều hoang. Nó biệt ly thầm lặng, lững thững một mình tìm nỗi sầu. Có cô đơn của một cánh chim lẻ bạn. Nó man mác trong hồn niềm thương. Có cô đơn của thập giá. Nó linh thiêng dũng cảm. Trong nghĩa trang, tôi hiểu thêm những cô đơn khác, và nhất là nỗi cô đơn trong tôi.
Khi cành hoa đứng một mình trong vườn hoa, cô đơn của nó là cô đơn chờ mong, đẹp như cô đơn của người thiếu nữ. Cô đơn của người thiếu nữ mới lớn là cô đơn làm cho kẻ khác cô đơn. Khi những cô đơn ấy tìm nhau thì cô đơn âm lên những giai điệu ngọt ngào thích thú. Nhưng cô đơn của tôi trong nghĩa trang này là cô đơn của một bông hoa thật đã thành đóa hoa giả.
Tôi yêu màu tím của biệt ly, nhưng tôi không gặp màu tím thương nhớ ở đây. Tôi muốn là bông hoa tím nối dài thương nhớ của người ra đi và kẻ ở lại. Tôi muốn là bông hoa ân tình làm vòng khăn tang cho thương tiếc. Tôi yêu những dòng nước mắt có nhớ, có đau, nhưng tôi chỉ gặp thờ ơ. Tôi muốn là bông hoa cho người ra đi. Tôi muốn theo người đã vĩnh biệt để vào thế giới vĩnh hằng bên kia. Nhưng tôi chỉ được đem tới đây để làm vui người sống. Thế giới của con người kỳ lạ quá. Trong nghĩa trang này tôi đã thấy: Có những người con khi mẹ còn sống thì quên lãng thờ ơ. Rồi ngày mẹ chết, cũng ôm một đóa hoa cho nhân thế khen mình hiếu trung. Có những vợ chồng lúc còn sống, thầm ao ước được một bông hoa, mà sao hiếm hoi quá. Khi chết rồi họ đem ra nghĩa trang những vòng cườm lặng lẽ.
Những đóa hoa đem ra mộ huyệt mà chỉ là của người sống làm vui lòng người sống với mục đính tư lợi cho mình thì đấy là những đóa hoa giả hình. Khi tôi phải làm cánh hoa như thế thì nỗi cô đơn trong tôi sầu buồn chất ngất.
* * *
Hỡi bạn ơi, để tìm vẻ đẹp của loài hoa chúng tôi, không phải là chưng hoa, tặng hoa mà là nhìn thấy tiếng nói của Thượng Ðế trong hồn hoa. Loài hoa chúng tôi không chối từ người gian dối hay người thành thật. Hoa không chọn lựa là hoa cưới hay hoa nghĩa trang. Hoa chấp nhận ở trên bàn thờ cũng như trong phòng trà. Chúng tôi yêu đời sống bằng trái tim của Thượng Ðế. Vẻ đẹp của hoa là làm đẹp bất cứ nơi nào mình tới, bất cứ thửa vườn nào mình được ươm trồng. Con người thích hoa mà sao chẳng thấy vẻ đẹp sâu thẳm trong màu sắc của chúng tôi. Thượng Ðế dựng nên chúng tôi để nói về lòng thật thà, bao dung. Sự thật thà là vẻ đẹp Thượng Ðế yêu quý.
* * *
Tôi không là hoa giả. Tôi là đóa hồng với tất cả sự sống Thượng Ðế đã ban tặng. Tôi bị gọi là giả, bởi, tôi rơi trong tay người giả dối, họ đem tôi ra đây với những ý nghĩ giả dối mà thôi. Tôi đang ở trong nghĩa trang. Tôi đã nghe nhiều bài điếu văn tiễn người chết. Nhưng chết rồi làm sao nghe? Rất nhiều khi chỉ là lời của kẻ sống mượn người chết mà tìm vinh quang cho nhau. Tại sao thân phận tôi lại là đóa hoa của người sống muốn làm vui lòng người sống? Tôi thấy những bài điếu văn tiễn người chết nhưng lại cố ý là để lấy lòng người sống vô duyên thế nào thì thân phận làm hoa nghĩa trang của tôi cũng vô duyên như thế. Có những chuyện đời chỉ vì nghi lễ tiễn đưa người chết không làm cho người sống được tiếng khen mà tâm tình gia tộc bị đổ vỡ. Có người đến nghĩa trang vì xã giao, vì lý do chính trị, vì chuyện làm ăn. Ôi! ở ngoài nghĩa trang này có nhiều ý nghĩ tâm tình khác nhau lắm.
Tôi đang cô đơn vì tôi chỉ là cành hồng của người sống mượn người chết mà lợi dụng nhau. Nỗi cô đơn ấy xót xa, vì linh hồn người chết rất tủi, không muốn nhìn tôi, họ không nhận tôi vì tôi không thuộc về họ. Còn người sống sẽ bỏ tôi ngoài nghĩa trang rồi ra về, họ quên tôi.
Chết mà không được nhớ là chết lần thứ hai, thì sống mà không được nhớ là chết hai lần trong một lúc. Vì thế tôi đang sống, nhưng trong tôi là hai nỗi chết.
* * *
Chúa trang điểm trái đất bằng vẻ đẹp của hoa. Chung quanh con có biết bao nhiêu hoa. Hoa mọc ngoài đường. Hoa mọc ngoài đồng. Hoa trên bàn thờ. Hoa bên hàng rào. Chúng là ngôn ngữ thật nên thơ. Nếu con biết đứng nhìn cành thiên lý trong một chiều êm ả, con sẽ nghe được sự đơn sơ cần thiết trong cuộc sống. Nhìn đóa sen trong ao, con sẽ thấy sự thanh tao cần thiết trong cõi đời. Hương bưởi thoang thoảng bên ngõ nhà ai một tối trời nào đó, sẽ đưa con về ý nghĩ trong đêm đen vẫn có vẻ diễm kiều của đêm đen. Trong những hoàn cảnh khó khăn vẫn có vẻ đẹp của cuộc sống.
Hoa không chọn nơi nào đẹp mới tới, mà, bất cứ nơi nào tới hoa sẽ làm đẹp nơi đó. Hoa thành thật. Hoa bao dung. Ngôn ngữ loài hoa nghĩa trang thật xót xa. Con muốn cầu xin cho con nhìn hoa mà biết ý nghĩa cuộc sống trên đời.
Hãy cho nhau cánh hoa lúc còn sống, khi chết rồi thì cả rừng hoa đem ra nghĩa trang cũng chẳng ý nghĩa gì.
Ngớ ngàng: Bạo loạn chủng tộc bùng lên kinh hoàng tại Mỹ. Hàng loạt nhà thờ bị tấn công tại Ba Lan
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:14 28/10/2020
1. Bạo loạn lớn bất ngờ nổ ra tại Philadelphia có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ
Hàng trăm binh sĩ thuộc Vệ binh Quốc gia Pennsylvania đã được triển khai đến Philadelphia theo yêu cầu của thành phố, trong bối cảnh bất ổn sau vụ bắn chết một người đàn ông Da đen vào hôm thứ Hai.
Walter Wallace, 27 tuổi, đã thiệt mạng sau khi các viên chức cảnh sát đáp lại một cuộc gọi khẩn cấp vào chiều thứ Hai 26 tháng 10 ở phía Tây thành phố Philadelphia. Thị trưởng và Giám đốc sở cảnh sát thành phố đã hứa sẽ có một cuộc điều tra đầy đủ về vụ việc.
Các cuộc đụng độ bạo lực giữa cảnh sát và những người biểu tình nổ ra ngay sau vụ xả súng, và cho đến nay khoảng 30 cảnh sát được cho là bị thương trong đêm đầu tiên của cuộc biểu tình. Một số lớn các cửa hàng bị cướp phá.
Tối thứ Ba 27 tháng 10, cảnh sát đã phải kêu gọi cư dân ở một số quận nhất định nên ở trong nhà đừng ra đường.
Văn phòng đối phó tình trạng khẩn cấp của thành phố đã tweet rằng:
“Sở Cảnh sát Philadelphia yêu cầu tất cả cư dân tại các Quận 12, 16, 18, 19, 24, 25 và 26 phải ở trong nhà trừ khi cần thiết lắm mới ra ngoài. Các khu vực này đang diễn ra các cuộc biểu tình lan rộng đến mức bạo lực và cướp bóc”.
Thống đốc bang Pennsylvania là ông Tom Wolf, một đảng viên đảng Dân Chủ, cho biết ông đã phải kêu gọi Vệ binh Quốc gia can thiệp.
Các quan chức cảnh sát chưa tiết lộ tên của hai cảnh sát viên đã bắn chết Wallace, nhưng cho biết các viên chức cảnh sát này đã bị ngưng việc trong khi chờ điều tra.
Thị trưởng Philadelphia Jim Kenney, cũng là một đảng viên đảng Dân Chủ, cho biết ông đã xem video cho thấy một phần của bi kịch này. Trong một tuyên bố chung với ủy viên cảnh sát thành phố, Kenney, ông nói rằng vụ việc này là một “bi kịch” và “đặt ra những câu hỏi khó, cần phải được trả lời”.
Theo tờ The Philadelphia Inquirer, vụ việc bắt đầu vào khoảng 4 giờ chiều giờ địa phương.
Shaka Johnson, luật sư của gia đình Wallace, cho biết chính gia đình đã gọi 911 để yêu cầu xe cấp cứu can thiệp vì tình trạng sức khỏe tâm thần mà Wallace đang gặp phải.
Xe cấp cứu không đến, nhưng xe cảnh sát lại xuất hiện - và khi họ đến, Wallace đang cầm một con dao.
Theo luật sư Johnson, bà vợ của Wallace nói với các viên chức cảnh sát rằng người đàn ông 27 tuổi này mắc chứng rối loạn lưỡng cực và cầu xin họ bỏ về. Video về cuộc chạm trán cho thấy một phụ nữ, được cho là mẹ của Wallace, che chắn cho người đàn ông này khi anh ta len lỏi giữa những chiếc xe hơi trên đường phố.
Trung sĩ Eric Gripp, một phát ngôn viên của cảnh sát, cho biết trong một tuyên bố rằng các viên chức cảnh sát đến hiện trường không phải theo lời yêu cầu của gia đình nhưng vì có người báo cáo một người đàn ông đang cầm một con dao đi lang thang trên đường phố. Họ ra lệnh cho Wallace bỏ vũ khí, nhưng Wallace lừ lừ “tiến về phía các cảnh sát viên”. Mỗi viên chức cảnh sát này đã bắn 7 phát đạn vào Wallace trong khi mẹ anh ta đứng gần đó.
Gripp cho biết một trong những viên chức cảnh sát đã lái xe đưa Wallace đến Trung tâm Y tế Penn Presbyterian, nơi anh ta qua đời.
Cả hai viên chức cảnh sát đều đeo máy quay phim toàn thân vào thời điểm đó, nhưng sở cảnh sát chưa công bố đoạn phim hoặc đoạn ghi âm cuộc gọi 911 từ các thành viên trong gia đình của Wallace hoặc từ những người ngoài cuộc.
“Tại sao họ không sử dụng Taser?” Cha của nạn nhân nói với tờ Inquirer. “Mẹ nó đang cố gắng xoa dịu tình hình”. Taser là súng bắn nhằm gây tê liệt nhưng không đến mức chết người.
“Nó có vấn đề về tâm thần. Tại sao phải bắn nó?”
Không một cảnh sát viên nào trong 2 cảnh sát viên có Taser.
Một đoạn video trên mạng xã hội cho thấy một cảnh hỗn loạn ở giữa đường phố khi các cảnh sát viên rút súng ra, và được nhìn thấy đang lùi dần khi Wallace tiến đến với con dao trong tay trong khi một đám đông đang nhìn và quay phim.
Vài giờ sau, những cuộc biểu tình rất lớn đã nổ ra. Cảnh sát cho biết 30 cảnh sát viên đã bị thương trong các cuộc đụng độ vào cuối ngày thứ Hai và đầu ngày thứ Ba, trong đó có một nữ cảnh sát viên bị gãy chân sau khi cô bị một chiếc xe vận tải nhỏ bất ngờ tông vào. Cô ấy đã phải nhập viện; tất cả những người khác đã được điều trị vết thương và được cho về.
CBS Philly đưa tin hơn 30 người đã bị bắt trong đêm và một số cơ sở kinh doanh bao gồm hiệu thuốc, cửa hàng quần áo và nhà hàng đã bị bọn cướp nhắm đến.
Chỉ trong ngày thứ Hai 26 tháng 10, Tổng thống Trump đã có 3 cuộc vận động tranh cử tại Philadelphia. Ông Trump cố giành cho được 20 phiếu đại cử tri tại tiểu bang Pennsylvania, nơi cho đến nay vẫn là cứ điểm của đảng Dân Chủ.
Bạo loạn lớn bất ngờ nổ ra tại Philadelphia có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến số người da đen ủng hộ ông, nhưng cũng có thể giành thắng lợi cho ông nơi những người tin vào chính sách Luật Pháp và Trật Tự của ông.
Source:NPR
2. Phản ứng dữ dội của Alexandria Ocasio-Cortez đối với việc Thẩm Phán Amy Coney Barrett được Thượng Viện Hoa Kỳ xác nhận
Alexandria Ocasio-Cortez, thường được gọi là AOC, sinh ngày 13 tháng 10, 1989, khét tiếng khuynh tả. Cô ta được chú ý vì các phát biểu nông nổi và cực đoan theo một thứ chủ nghĩa mị dân nhằm kiếm phiếu.
Tiêu biểu là trong một tuyên bố được đưa ra vào hôm thứ Năm 30 tháng 7, trong đó nữ Dân biểu này của đảng Dân Chủ, đơn vị New York, cáo buộc rằng bức tượng một vị thánh Công Giáo tại điện Capitol thể hiện “chế độ gia trưởng” và một nền “văn hóa da trắng thượng đẳng”.
Bức tượng bị bà ta chỉ trích là bức tượng của Thánh Đamien, Tông đồ người cùi tại Molokai. Cha Đamien tên thật là Joseph de Veusterin, sinh ngày 3 tháng Giêng năm 1840 tại Tremelo, bên Bỉ. Ngài nổi tiếng khắp thế giới vì đã dành cả cuộc đời cho những người cùi bị đầy ra đảo Kalaupapa chỉ dành cho những bệnh nhân bệnh phong.
Tuyên bố của AOC đã bị nhiều Giám Mục Hoa Kỳ chỉ trích. Đức Cha Robert Barron, Giám Mục Phụ Tá của Los Angeles nhận xét rằng “Bức tượng mà bà ấy chọn ra, trong tất cả những bức tượng có thể, là của Thánh Đamien ở Molokai. Và tôi nghĩ tuyên bố của bà ấy thật là điên rồ và quá quắt, và tôi tự hỏi, liệu bà ấy có biết Thánh Đamien của Molokai là ai không?”
Trước những hình ảnh được chiếu trên truyền hình và trên các mạng xã hội cho thấy các phụ nữ phò phá thai khóc như cha chết mẹ mới qua đời trước Thượng Viện Hoa Kỳ tối 26 tháng 10, AOC và các thành viên “The Squad”, nghiã là “Biệt Đội” đã lên tiếng kêu gọi “Court Packing” để trước là an ủi họ, sau là kiếm phiếu trong cuộc bầu cử sắp tới.
Chiến thắng của Thẩm Phán Amy Coney Barrett đã tái định hình một cách mạnh mẽ cơ quan tư pháp liên bang, tạo ra những ảnh hưởng phò sinh kéo dài hàng thế hệ. Đối phó với tình thế mới này nhiều thành viên cực đoan của đảng Dân Chủ trong nhóm “Biệt Đội” bao gồm AOC, Ilhan Omar, Ayanna Pressley và Rashida Tlaib, đã lớn tiếng yêu cầu phải mở rộng Tòa án Tối cao, đưa thêm ít nhất 6 người nữa nhằm khống chế nhóm phò sinh tại Tối Cao Pháp Viện.
Thuật ngữ báo chí gọi việc chồng chất thêm cho chật chội Tòa Án Tối Cao là ‘Court Packing’. Trò này phản ánh một thái độ ăn thua đủ bất chấp hiến pháp Hoa Kỳ.
Lời kêu gọi của nhóm “Biệt Đội” được đưa ra ngay khi Thẩm Phán Amy Coney Barrett đang tuyên thệ nhậm chức Thẩm phán Tòa án Tối cao sau khi Đảng Cộng hòa áp đảo phe đối lập Dân chủ với tỷ số 52-48 tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Source:Sky News Australia
3. Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan phê bình những kẻ phò phá thai phá hoại các thánh lễ
Hôm 22 tháng 10, Tòa Bảo Hiến Ba Lan, ở thủ đô Varsava, đã phán quyết rằng đạo luật năm 1993 cho phép phá những bào thai khuyết tật là trái với hiến pháp quốc gia. Phán quyết này là chung kết và không thể kiện lên tòa án nào cao hơn. Theo nhiều quan sát viên, phán quyết này sẽ giảm bớt nhiều con số những vụ phá thai ở Ba Lan. Bộ y tế Ba Lan cho biết năm ngoái 2019, có 1,110 vụ phá thai hợp pháp ở nước này, phần lớn vì bào thai bị coi là khuyết tật.
Trong những ngày qua, có nhiều nhóm ủng hộ phá thai đã mang những khẩu hiệu, biểu ngữ ủng hộ phá thai, đột nhập nhiều nhà thờ trong lúc cử hành thánh lễ, để phản đối phán quyết của tòa bảo hiến.
Cùng ngày 25 tháng 10, Đức cha Gądecki, Tổng giám mục giáo phận Poznan, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Ba Lan, đã ra tuyên ngôn kêu gọi những người chống đối án lệnh của tòa bảo hiến, hãy bày tỏ sự chống đối của họ một cách có thể chấp nhận được về mặt xã hội. Ngài nói: “Sự xúc phạm, bạo lực, lạm dụng các biểu ngữ, lăng mạ và làm xáo trộn các buổi lễ đã xảy ra trong những ngày gần đây, mặc dù những hành động ấy có thể giúp một số người giải tỏa cảm xúc, nhưng đó không phải là cách thức hành động đúng đắn trong một quốc gia dân chủ. Tôi bày tỏ đau buồn vì tại nhiều nhà thờ hôm nay, các tín hữu bị cản trở không được cầu nguyện và quyền tuyên xưng tín ngưỡng của họ bị tước bỏ”.
Cả nhà thờ chính tòa của Đức Tổng Giám Mục Gądecki cũng bị những kẻ phản đối chiếu cố và xúc phạm. Ngài nhấn mạnh rằng: “không phải Giáo hội là người quyết định các luật có phù hợp với hiến pháp quốc gia hay không. Về phần mình, Giáo hội không thể ngưng bảo vệ sự sống và cũng không thể không tuyên xưng rằng mỗi người phải được bảo vệ từ khi mới thụ thai cho đến lúc chết tự nhiên”.
Source:Catholic News Agency
4. Dan Hitchens: Những nhận xét bất cẩn của Đức Giáo Hoàng về các kết hiệp dân sự sẽ gây hại cho Giáo Hội
Bộ phim tài liệu “Francesco” đã và đang tiếp tục gây ra những hoang mang rất lớn. Dan Hitchens, tổng biên tập tờ Catholic Herald có bài nhận định nhan đề “The Pope’s reckless words on civil unions will damage the Church”, nghĩa là “Những nhận xét bất cẩn của Đức Giáo Hoàng về các kết hiệp dân sự sẽ gây hại cho Giáo Hội”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong một bộ phim tài liệu mới, Đức Thánh Cha Phanxicô nói về các cặp đôi đồng tính như sau: “Chúng ta phải tạo ra một luật về kết hiệp dân sự. Bằng cách đó họ được bảo đảm về mặt pháp lý.” Cũng như rất nhiều tuyên bố khác của Đức Phanxicô, tuyên bố này sẽ dẫn đến những suy đoán bất tận về ý định của ngài. Cũng sẽ có những cuộc tranh luận xem điều này có phù hợp với những tuyên bố trước đây của Vatican không, chẳng hạn như tuyên bố năm 2003 của Bộ Giáo lý Đức tin theo đó “tất cả người Công Giáo có nghĩa vụ phải phản đối việc công nhận hợp pháp các kết hiệp đồng tính luyến ái”. Phải chăng Đức Phanxicô đang tấn công các giáo lý của Giáo hội? Hay có cách đọc khéo léo nào đó có thể hiểu nổi những nhận xét của Đức Giáo Hoàng? Ví dụ, có thể ngài chỉ muốn đề cập đến một số lợi thế pháp lý nhất định – như quyền thừa kế tài sản hoặc thăm viếng người thân trong bệnh viện - có thể được cung cấp cho tất cả những người lớn, bao gồm các thành viên trong gia đình và những bạn bè sống với nhau suốt đời.
Tuy nhiên, những lời giải thích này lẽ ra phải do đích thân Đức Giáo Hoàng thực hiện, một cách chi tiết, nếu ngài thực sự muốn nêu vấn đề. Thực tế là ngài không giải thích quan điểm của mình, chính điều này là một đòn giáng mạnh vào sự mạch lạc của chứng tá Công Giáo.
Hiện tại, sự thật đơn giản là những lời nhận xét của ngài sẽ khiến cuộc sống của các tín hữu khó khăn hơn. Sẽ khó khăn hơn cho các trường học Công Giáo nào không muốn dạy về chủ thuyết tình dục mới đang được thế giới tôn vinh. Sẽ khó khăn hơn cho các chủ tiệm bánh Công Giáo bị buộc phải làm một chiếc bánh có hình cờ cầu vồng. Sẽ khó khăn hơn cho các nhân viên văn phòng Công Giáo bị buộc tham gia các khóa đào tạo về hôn nhân đa dạng. Sẽ khó khăn hơn cho những người đồng tính Công Giáo trẻ tuổi có những bạn bè xã hội không thể hiểu tại sao anh ta không muốn vượt qua cơn say tôn giáo của mình và bắt đầu hẹn hò với các bạn bè đồng tính. Sẽ khó khăn hơn cho các bậc cha mẹ Công Giáo đang cố gắng làm cho con cái của họ tin vào những lời dạy cứng rắn của Giáo hội. Tất cả họ sẽ phải đối mặt với câu hỏi khó khăn đầy chế giễu “Nhưng chẳng phải Giáo hoàng đã nói... như thế sao?”
Thật vậy, điều này đã xảy ra. Tại Phi Luật Tân, nơi các kết hiệp đồng giới đang được tranh luận, một phát ngôn viên của Tổng thống vừa tuyên bố: “Ngay cả Giáo hoàng cũng ủng hộ điều đó, tôi nghĩ rằng ngay cả những người bảo thủ nhất trong số tất cả những người Công Giáo trong Quốc hội cũng không còn cơ sở để phản đối.”
Một số người bảo vệ Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng, bằng cách lên tiếng như thế, ngài sẽ giúp đỡ những người đồng tính bị gia đình và cộng đồng từ chối hoặc bị luật pháp tàn nhẫn tấn công. Nhưng Đức Phanxicô có thể can thiệp cho họ mà không cần kêu gọi hình thành luật cho các kết hiệp dân sự. Có những xã hội truyền thống nơi người đồng tính bị coi là vật tế thần; Đức Giáo Hoàng có thể thúc giục các xã hội đó tôn trọng phẩm giá con người, đồng thời trấn an họ rằng điều này không có nghĩa là họ buộc phải công nhận tình trạng pháp lý đặc biệt cho các mối quan hệ đồng giới. Trái lại, thông điệp của ngài như hiện nay sẽ bị đánh đồng với “chủ nghĩa thực dân ý thức hệ” của phương Tây trong cố gắng xác định lại hôn nhân và gia đình trên toàn thế giới.
Đức Giáo Hoàng có ảnh hưởng to lớn. Người Công Giáo có quyền được báo động khi ngài sử dụng ảnh hưởng của mình một cách liều lĩnh.
Source:Catholic HeraldThe Pope’s reckless words on civil unions will damage the Church
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong một bộ phim tài liệu mới, Đức Thánh Cha Phanxicô nói về các cặp đôi đồng tính như sau: “Chúng ta phải tạo ra một luật về kết hiệp dân sự. Bằng cách đó họ được bảo đảm về mặt pháp lý.” Cũng như rất nhiều tuyên bố khác của Đức Phanxicô, tuyên bố này sẽ dẫn đến những suy đoán bất tận về ý định của ngài. Cũng sẽ có những cuộc tranh luận xem điều này có phù hợp với những tuyên bố trước đây của Vatican không, chẳng hạn như tuyên bố năm 2003 của Bộ Giáo lý Đức tin theo đó “tất cả người Công Giáo có nghĩa vụ phải phản đối việc công nhận hợp pháp các kết hiệp đồng tính luyến ái”. Phải chăng Đức Phanxicô đang tấn công các giáo lý của Giáo hội? Hay có cách đọc khéo léo nào đó có thể hiểu nổi những nhận xét của Đức Giáo Hoàng? Ví dụ, có thể ngài chỉ muốn đề cập đến một số lợi thế pháp lý nhất định – như quyền thừa kế tài sản hoặc thăm viếng người thân trong bệnh viện - có thể được cung cấp cho tất cả những người lớn, bao gồm các thành viên trong gia đình và những bạn bè sống với nhau suốt đời.
Tuy nhiên, những lời giải thích này lẽ ra phải do đích thân Đức Giáo Hoàng thực hiện, một cách chi tiết, nếu ngài thực sự muốn nêu vấn đề. Thực tế là ngài không giải thích quan điểm của mình, chính điều này là một đòn giáng mạnh vào sự mạch lạc của chứng tá Công Giáo.
Hiện tại, sự thật đơn giản là những lời nhận xét của ngài sẽ khiến cuộc sống của các tín hữu khó khăn hơn. Sẽ khó khăn hơn cho các trường học Công Giáo nào không muốn dạy về chủ thuyết tình dục mới đang được thế giới tôn vinh. Sẽ khó khăn hơn cho các chủ tiệm bánh Công Giáo bị buộc phải làm một chiếc bánh có hình cờ cầu vồng. Sẽ khó khăn hơn cho các nhân viên văn phòng Công Giáo bị buộc tham gia các khóa đào tạo về hôn nhân đa dạng. Sẽ khó khăn hơn cho những người đồng tính Công Giáo trẻ tuổi có những bạn bè xã hội không thể hiểu tại sao anh ta không muốn vượt qua cơn say tôn giáo của mình và bắt đầu hẹn hò với các bạn bè đồng tính. Sẽ khó khăn hơn cho các bậc cha mẹ Công Giáo đang cố gắng làm cho con cái của họ tin vào những lời dạy cứng rắn của Giáo hội. Tất cả họ sẽ phải đối mặt với câu hỏi khó khăn đầy chế giễu “Nhưng chẳng phải Giáo hoàng đã nói... như thế sao?”
Thật vậy, điều này đã xảy ra. Tại Phi Luật Tân, nơi các kết hiệp đồng giới đang được tranh luận, một phát ngôn viên của Tổng thống vừa tuyên bố: “Ngay cả Giáo hoàng cũng ủng hộ điều đó, tôi nghĩ rằng ngay cả những người bảo thủ nhất trong số tất cả những người Công Giáo trong Quốc hội cũng không còn cơ sở để phản đối.”
Một số người bảo vệ Đức Giáo Hoàng tuyên bố rằng, bằng cách lên tiếng như thế, ngài sẽ giúp đỡ những người đồng tính bị gia đình và cộng đồng từ chối hoặc bị luật pháp tàn nhẫn tấn công. Nhưng Đức Phanxicô có thể can thiệp cho họ mà không cần kêu gọi hình thành luật cho các kết hiệp dân sự. Có những xã hội truyền thống nơi người đồng tính bị coi là vật tế thần; Đức Giáo Hoàng có thể thúc giục các xã hội đó tôn trọng phẩm giá con người, đồng thời trấn an họ rằng điều này không có nghĩa là họ buộc phải công nhận tình trạng pháp lý đặc biệt cho các mối quan hệ đồng giới. Trái lại, thông điệp của ngài như hiện nay sẽ bị đánh đồng với “chủ nghĩa thực dân ý thức hệ” của phương Tây trong cố gắng xác định lại hôn nhân và gia đình trên toàn thế giới.
Đức Giáo Hoàng có ảnh hưởng to lớn. Người Công Giáo có quyền được báo động khi ngài sử dụng ảnh hưởng của mình một cách liều lĩnh.
Source:Catholic Herald