Ngày 14-09-2013
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
05:03 14/09/2013
TỈ CÁN MÓC TIM

N2T


Chim trĩ chín đầu là yêu tinh biết con cháu của mình bị đốt cháy mà chết, bèn biến thành một cô gái tên Hồ Hỷ Mỵ tiến vào hoàng cung, hầu hạ phục dịch Đát Kỷ giả do hồ ly tinh chín đuôi biến thành. Hôm ấy Đát Kỷ giả bị thổ huyết hôn mê và chết, Hồ Hỷ Mỵ nói với Trụ vương:

- “Chỉ cần có một quả tim của người nhanh nhẹn đem nấu canh thì có thể khiến chị Đát Kỷ tỉnh lại, đại thần Tỉ Cán có quả tim như thế.”

Tỉ Cán nghe được chuyện ấy, thì làm theo cách của Khương Tử Nha đã dạy trước đây, xông vào hoàng cung chửi mắng Trụ vương một trận rồi móc quả tim ra ném vào Lộc đài, sau đó bịt vết thương nơi ngực nhảy lên ngựa chạy về hướng cửa bắc, hỏi một người phụ nữ bán loại “rau vô tâm”, nói:

- “Con người nếu không có quả tim thì sẽ như thế nào ?”

Người phụ nữ nói:

- “Con người nếu không có tim thì chết.”

Tỉ Cán hét lên một tiếng lớn rơi xuống ngựa mà chết.

Thật ra, nếu Tỉ Cán trả lời: “Con người ta nếu không có tim thì vẫn có thể sống,” thì ông ta vẫn chưa chết, thật đáng tiếc là ông ta quên rồi.

(Minh, Hứa Trung Lâm “Phong thần diễn nghĩa”

Suy tư:

Con người ta không có quả tim thì sẽ chết, bởi vì chức năng của tim là làm cho máu tuần hoàn khắp thân thể, để các tứ chi hoặc các bộ vị trong thân thể nhờ có máu mà sống.

Quả tim bằng thịt cũng là tâm hồn của tinh thần, thân xác không có quả tim khỏe mạnh thì thân xác sẽ bệnh hoạn và chết, người có tâm hồn bệnh hoạn thì sẽ trở thành gánh nặng cho xã hội, họ không những sẽ dễ dàng hướng theo những tiêu cực trong cuộc sống đời thường, mà còn là miếng mồi ngon cho sự dữ và tội ác trú ngụ.

Người có tâm hồn lành mạnh thì cuộc sống đầy lạc quan yêu đời, biết quan tâm giúp đỡ người khác, biết cảm thông với người bất hạnh, biết chia sẻ với tha nhân những gì có thể chia sẻ được.

Trụ vương vì say đắm Đát Kỷ nên làm tất cả những gì có thể để Đát Kỷ sống lại, thế là nghe lời của con trĩ thành tinh mà giết chết vị đại quan trung thần và cũng là chú của mình. Người có tâm hồn không lành mạnh bệnh hoạn thì rất dễ dàng bị ma quỷ cám dỗ, bởi vì trong con người họ không có ý chí vươn lên, cũng không có lập trường hướng thiện và lương thiện.

------------

http://nhantai.info

http://www.vietcatholic.net/nhantai

jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:20 14/09/2013
Chúa Nhật 24 THƯỜNG NIÊN

Tin mừng : Lc 15, 1-32
“Trên trời ai nấy sẽ vui mừng, vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”.


Bạn thân mến,
Thành kiến của con người đã làm cho bạn và tôi xa cách người anh em chị em của mình, và qua những hành động ấy, mà chúng ta cũng từ từ xa cách Thiên Chúa trong cuộc sống đời thường của mình.

Đức Chúa Giê-su đến để cứu và chữa lành, nên Ngài đã đồng bàn ăn cơm với những người mà các kinh sư và biệt phái cho là tội lỗi, nhưng đối với Ngài thì họ chính là những người rất cần được xót thương.

Trước hết, người cần được xót thương là bạn và tôi, bởi vì tuy chúng ta là người Ki-tô hữu nhưng lòng dạ thì mẫu mã chẳng khác chi các kinh sư và biệt phái đã khiển trách Đức Chúa Giê-su, vì Ngài đã cùng ăn cùng uống với những người thu thuế, khi đã chỉ trích như thế thì tất nhiên là họ cũng coi khinh những người thu thuế và đĩ điếm.

Bạn và tôi là người cần được Đức Chúa Giê-su chữa lành và xót thương, vì chúng ta cũng đã nhiều lần khinh dễ và lên án những người anh em chị em bất hạnh, khi họ vì không có gì ăn nên đã lấy cắp một củ khoai của người bán hàng trong chợ; khi bạn và tôi lên án một lỗi nho nhỏ của anh chị em, là vì để che giấu những việc xấu xa của chúng ta đã làm còn hơn anh em gấp nhiều lần mà bạn và tôi đã phạm nhưng không ai biết…

Bạn và tôi đã lên tiếng trách cứ phê phán người anh em đã ngồi ăn với những người ma cô đĩ điếm bên lề đường, nhưng chúng ta lại ngồi với gái hạng sang trong nhà hàng máy lạnh kín đáo; họ là những người có khi vì bác ái mà đồng hành với những người được coi là tội lỗi, nhưng chúng ta cùng ăn với gái hạng sang là vì để thỏa mãn dục vọng của mình. Đức Chúa Giês-u đã không ngần ngại đi tìm kiếm cứu chữa những tâm hồn đau thương thất vọng, để những con người tội lỗi ấy trở thành những con người mới. Nhưng chính bạn và tôi lại xa lánh họ, cho nên chúng ta cần được Thiên Chúa xót thương hơn những người ấy, vì bạn và tôi đã như những người biệt phái trách cứ Đức Chúa Giêsu …

Hạnh phúc cho những người được Đức Chúa Giê-su chữa lành, vì chính họ đã được tình yêu thần thánh chạm đến.

Con chiên lạc đã trở nên giá trị sau khi được Đức Chúa Giê-su tìm thấy và vác trên vai trở về nhà. Chính điều này đã làm cho người Pha-ri-siêu và các kinh sư bực mình hơn nữa, bởi vì chính họ là những người tự cho mình là thánh thiện trỗi vượt trên mọi người, nên họ đã chướng tai gai mắt khi Đức Chúa Giê-su đứng về phía những người bị xã hội bỏ rơi.

Một con chiên lạc và một đồng bạc bị mất là hình ảnh của người anh chị em hôm qua, hôm nay và ngày mai mà tôi đang sỉ vả, khinh chê và lên án là phường tội lỗi; khi lên án người anh em chị em là người tội lỗi, là bạn và tôi đã làm quan tòa tiếm quyền của Thiên Chúa để luận tội tha nhân mà không biết rằng, chính mình cũng đã có nhiều lần sa ngã và có khi sa ngã còn tệ hại hơn họ nhiều.

Bạn thân mến,
Ma quỷ sẽ cười vui thắng lợi khi chúng ta phê phán anh em chị em của mình, bởi vì đó chính là một trong những động cơ thúc đẩy anh em chị em xa dần Thiên Chúa và xa cộng đoàn giáo xứ của họ.

Không ai là không có tội, không ai là không sa ngã chí ít là một lần trong cuộc sống, không ai là không có tâm hồn hối hận sau khi sa ngã phạm tội, nhưng chính bạn và tôi là những người Ki-tô hữu có trách nhiệm một phần trong việc sa ngã của họ, đó là khi chúng ta sống không đúng với lời của Đức Chúa Giê-su dạy, do đó mà chúng ta phải có bổn phận –trong tình liên đới- đi tìm và giúp đỡ những anh chị em đang bị xã hội tục hóa, mà sống như không có Thiên Chúa trong cuộc đời của họ, nhất là những người đang bị xã hội lên án…

Đức Chúa Giê-su đã đến thế gian để tìm kiếm và cứu chữa những người tội lỗi, trong đó có cả bạn và tôi, cho nên khi được chữa lành thì bạn và tôi lại có bổn phận đi tìm và dẫn dắt những anh chị em vì bất hạnh, vì người đối xử bất công, vì bị xã hội quên mất mà đang xa dần Thiên Chúa là tình yêu, trở về với Thiên Chúa là Cha rất yêu thương họ…

Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
------------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:22 14/09/2013
N2T

21. Nhổ những cây gai trong lòng con, thì khiến cho hạt giống tốt là Đức Chúa Giê-su rơi trong mảnh ruộng tốt là tâm hồn của con được đâm chồi nẩy lộc, phơi phới đi lên và được bội thu.

(Thánh Cyprian)
-----------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Mỗi tuần một “Chuyện Rất Ngắn”
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
03:25 14/09/2013
LOẠI BỎ
Hội trưởng hội Vinh Sơn của giáo xứ phàn nàn với cha sở:
- “Thưa cha, có mấy người trong hội mỗi năm chỉ thấy mặt một hai lần khi đi họp mà thôi, con nghĩ nên loại họ ra khỏi hội cho rồi để khỏi làm gương mù cho các hội viên khác.”
Cha sở nghiêm nghị nói:
- “Đức Chúa Giê-su không loại bỏ chúng ta, tại sao chúng ta loại bỏ họ chứ ?”
-----------
http://nhantai.info
http://www.vietcatholic.net/nhantai
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
 
Người con cả là chúng ta
LM. An-phong Nguyễn Công Minh, ofm
07:57 14/09/2013
CN 24C : Người con cả là chúng ta.

Bài Tin Mừng dài hôm nay kể luôn 3 dụ ngôn “mất và tìm lại được” độc quyền của Luca. Chỉ xét về con số mà thôi, thì 3 dụ ngôn : chiên lạc, đồng tiền, người con hoang, có một bước lùi dần dần về sở hữu : có 100 mất 1; có 10 mất 1; và có 2 mất 1… , nhưng cái tỉ lệ mất nhân lên : 1%, 10% và 50%… Nếu mất 1% , 10% tìm lại được thì mừng rỡ, thì dụ ngôn người con hoang đàng, có hai mất một, tức mất 50% khi tìm lại được, niềm vui phải lớn biết bao, nếu như không có bóng dáng người con cả.

Đã nhiều lần chúng ta nghe về người con hoang đàng, về người cha nhân từ. Hôm nay chúng ta để mắt tới người con cả trong dụ ngôn nổi tiếng của Chúa Giêsu mà chỉ mình thánh Luca ghi lại, với hai câu hỏi : (1) Tại sao ta lại để mắt tới người con cả ; và (2) Làm sao để ta thoát khỏi thái độ như người con cả.

1. Tại sao lại để mắt tới người con cả ?

Vì mỗi người chúng ta có dáng dấp giống anh ta. Anh ta đi làm về, nghe trong nhà đàn ca múa hát. Anh khoát tay dò hỏi một đứa ở, nó cho biết cha của anh đang bày tiệc mừng đứa con đi hoang mới về. Anh nổi giận, không thèm vào nhà. Người cha phải ra tận nơi để dỗ dành anh ta. Anh phân phô hơn thiệt –rất có lý khiến người cha đứng nghe từ đầu đến cuối (khác người con thứ không cho nó nói hết câu)- : “Đã bao năm, con ở với cha, chẳng trái lệnh cha điều nào. Thế mà có bao giờ cha thí cho con một con dê nhỏ để ăn mừng với chúng bạn đâu ? Vậy mà khi cái thằng con của cha kia đã ngốn hết gia tài của cha cùng với gái làng chơi, thì nay trở về cha lại làm thịt bò tơ béo tốt để ăn mừng nó !”

Lập luận lý lẽ của người con cả này không xa lạ gì với chúng ta lắm đâu –nếu một ngày nào chúng ta nhận ra rằng Chúa cũng cứu, cũng cho vào thiên quốc những người chưa theo đạo, hoặc những người theo đạo mà chẳng lễ lạy gì, hay tệ hơn nữa, như lời Chúa nói : “Tôi nói thật cho các ông : những người thu thuế tội lỗi đĩ điếm sẽ vào Nước Trời trước các ông”.

Chúng ta, những người đạo gốc, đi lễ hàng ngày, hoặc ít ra cũng giữ lễ Chúa Nhật, giữ trọn 10 điều luật của Chúa, chịu thương chịu khó dậy sớm đến nhà thờ, tối thì đọc kinh, theo Chúa trọn đạo, vậy mà Chúa thình thoảng cũng cư xử dửng dưng, thử thách này nọ ; còn một số kẻ khác ăn no ngủ kỹ, hoặc 10 điều răn thì lỗi cả chục, tự do phóng túng…, ấy vậy mà cuối cùng Chúa lại cư xử với họ thật nồng hậu. Cái ấm ức làm sao không có được. (Ở đây ta không nói họ phải có điều kiện như thế nào thì Chúa mới đoái thương, nhưng mình nghĩ cho dù họ hội đủ điều kiện, thì cùng lắm tha thứ, cho qua là xong, chứ đây lại là tiếp đãi linh đình ra như thể khuyến khích đi hoang !)

Hoạ sĩ thiên tài Rembrandt đã hiểu thật hay ý hướng sâu sắc của bài dụ ngôn này, nên vẽ bức tranh như sau : Người con thứ ở trong bóng tối, đang quì, quay lưng với khán giả, khuôn mặt vùi giấu trong lòng người cha. Còn người cha là một cụ già đáng kính và toả sáng tuy cặp mắt đã loà vì khóc nhiều. Hai bàn tay run rẩy vẫn đặt tì trên vai chàng trai như để giữ anh ta lại. Một nhân vật khác –con cả– đứng đó, nhìn nghiêng một bên, hay nhắm một mắt –tất cả thái độ của anh ta toát ra sự khinh bỉ, và hai bàn tay co quắp như diễn tả sự nhờm tởm của toàn thân trước cảnh cha già bạc nhược ! Còn từ trong bóng tối, Rembrandt vẽ hai người đầy tớ, những nhân vật phụ nhưng dáng vẻ láu cá như đang cố rình xem chuyện gì sẽ xảy ra giữa cha con nhà họ. Đó, thái độ của chúng ta, không phải tất cả, nhưng hầu như phần đông, trong đó có tôi, đều dễ có thái độ như người con cả : khó chịu, tức tối khi Chúa đối xử nhân từ với những người xem ra tội lỗi.

2. Làm thế nào để ta tránh khỏi ý nghĩ và thái độ như người con cả này ?

Ngoài câu trả lời căn bản là đừng ganh tị với lòng nhân lành của Chúa, -như câu ông chủ trả lời trong dụ ngôn những người thợ làm vườn nho, sau một ngày công, ai nấy đều được một đồng, khiến người làm từ sáng sớm ghen tức với kẻ chỉ làm được mỗi một giờ ! Người chủ nói : hay là anh ghen tị với tôi vì tôi xử nhân từ với họ- Ngoài lời khuyên đừng ghen tị, ta có thể nương theo mẩu thoại của hai cha con trong dụ ngôn này : người con cả nói : “Thằng con của cha” (ra điều như chẳng liên hệ gì đến mình). Đáp lại , người cha nói : “Đứa em của con” (ừ, thì dẫu sao nó cũng là em của con) khác với chỉ là “đứa con của cha.”

Làm anh (làm chị) thì phải quảng đại. Có đại ca, đại huynh nào mà không rộng lượng với đàn em không ? Vậy thì trong mức độ nào đó, chúng ta, những người đạo gốc là đàn anh trong đức tin đối với người khác. Hoặc nếu cùng một đức tin, thì ta cũng là đàn anh trong sự trung tín vì ta không đi hoang, ở nhà với cha. Hãy coi họ như là em (đứa em của con) để dễ có quảng đại mừng vui vì đàn em trở về.

Truyện 1001 đêm của Ba Tư có kể lại câu chuyện này : Có hai anh em nhà kia bắt trói được thủ phạm giết chết người cha của mình. Ra toà, thủ phạm thú nhận tội lỗi, nên luật mắt đền mắt, mạng đền mạng được áp dụng. Nhưng trước khi xử, hắn ta xin ân huệ cuối cùng là được trở về nhà trong 3 ngày để giải quyết một vấn đề liên hệ tới người cháu đã được giao phó cho hắn chăm sóc từ nhỏ. Hắn hứa sau 3 ngày sẽ trở lại để chịu tử hình. Quan toà và dân xem chừng không tin… thì giữa đám đông có một bàn tay giơ lên : Tôi xin bảo đảm lời cam kết của tử tội, nếu 3 ngày sau hắn không trở lại thì cứ xử tử tôi thay hắn ! Tên tử tội được tự do 3 ngày để giải quyết việc gia đình. Hết hạn 3 ngày, y… trở lại để chịu tử hình. Trước khi bị hành quyết, y nói lớn : “Tôi đã giải quyết xong việc riêng, giờ đây tôi trở lại chịu tội, tôi muốn trung thành với lời cam kết của tôi, để người ta không nói được rằng chữ trung tín không còn trên mặt đất này nữa. Sau lời phát biểu của tử tội, người đàn ông bảo lãnh cũng đứng ra tuyên bố : Tôi đứng ra bảo lãnh vì tôi không muốn người ta nói rằng lòng quảng đại không còn trên mặt đất này nữa. Nghe hai lời tuyên bố trên, cả đám đông thinh lặng. Dường như ai cũng cảm thấy được mời gọi thể hiện những gì là cao quí trong lòng người. Bỗng từ giữa đám đông, hai người con trai của người cha đã bị giết tiến ra thưa với quan toà : Thưa ngài, chúng tôi xin tha cho kẻ đã giết cha chúng tôi, để người ta không còn nói được rằng : lòng khoan dung tha thứ không còn có trên mặt đất này nữa.

Toàn câu chuyện không liên hệ gì lắm tới bài Tin Mừng, nhưng 3 lời tuyên bố của 3 người trong câu chuyện lại gắn chặt với điều chúng ta rút ra từ Tin Mừng. Người con cả (là chúng ta đây) đã có ít ra được chữ tín (vì ở mãi với cha) nay nếu thêm lòng quảng đại nữa, thì sẽ dễ dàng vui mừng đón nhận sự khoan dung tha thứ của Người Cha đối với đứa em.

Xin Chúa giúp chúng ta giàu lòng quảng đại để vững tin vào một Thiên Chúa không những toàn năng, mà là nhân từ nữa mà kinh Tin Kính chúng ta sắp tuyên xưng : một Thiên Chúa là CHA toàn năng, tuy không nói “nhân từ,” nhưng chữ CHA đã bao gồm lòng nhân từ đó, mà suốt cả chiều dài kinh Tin Kính chúng ta tiếp tục tuyên xưng lòng trung tín, sự quảng đại, lòng nhân từ của Người Cha đó.

An-phong Nguyễn Công Minh, ofm
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Thư của Đức Thánh Cha về lễ phong chân phước Brochero
Lm. Trần Đức Anh OP
09:33 14/09/2013
VATICAN. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các LM và tín hữu noi gương tân chân phước José Gabriel Brochero ra khỏi chính mình, tìm đến các ”ngoại ô” của cuộc sống, gặp gỡ và nói với tha nhân về Chúa.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong thư gửi các tín hữu Công Giáo Argentina nhân dịp lễ Phong Chân Phước sáng thứ bẩy 14-9-2013 cho cha Brochero. Thánh lễ do ĐHY Angelo Amato, Tổng trưởng Bộ Phong Thánh, đại diện Đức Thánh Cha chủ sự, tại làng Villa Cura Brochero, có gần 5 ngàn 100 dân cư, thuộc tỉnh Córdoba, Argentina.

Trong thư gửi đến Đức Cha José Maria Arancedo, TGM Santa Fe, Chủ tịch HĐGM Argentina, và được công bố trong buổi lễ, Đức Thánh Cha gợi lại tấm gương của Chân Phước Brocero như mục tử nhiệt thành, tận tụy tìm đến và săn sóc đoàn chiên, kể cả tại nhưng gia cư hẻo lánh trên lãnh thổ giáo xứ rộng 200 cây số vuông. Cha đặt công việc mục vụ trên việc cầu nguyện. Vừa khi đến giáo xứ, cha đã bắt đầu mang các tín hữu nam nữ đến Córdoba để tham dự cuộc tính tâm với các cha dòng Tên.

Đức Thánh Cha đề cao tầm quan trọng và tính chất thời sự của lễ phong chân phước cho cha Brochero và viết: Cha là một người tiên phong trong việc đi tới các khu ngoại ô về địa lý và của cuộc sống để mang đến cho mọi người tình thương, lòng từ bi của Thiên Chúa. Cha không ngồi yên trong văn phòng nhà xứ, nhưng cười lừa, lặn lội tìm đến với dân chúng. Ngày nay Chúa Giêsu cũng muốn các môn đệ của Ngài trở thành những thừa sai, những người rao giảng đức tin... Cha Brochero là một con người bình thường, mảnh khảnh, nhưng đã biết cách ra khỏi cái tôi và lòng ích kỷ hẹp hòi, khắc phục bản thân. Cha đã nghe tiếng gọi của Chúa, đã chọn lựa hy vọng để làm việc cho Nước Chúa, cho công ích mà phẩm giá vô biên của mỗi người đáng được hưởng như con Thiên Chúa, và cha đã trung thành đến cùng, tiếp tục cầu nguyện và cử hành thánh lễ, dù bị mù vì bệnh phong cùi”.

Và Đức Thánh Cha kết luận rằng: ”Ngày hôm nay, anh chị em hãy để cho cha Brochero cưỡi lừa với tất cả hành trang của cha vào trong căn nhà tâm hồn của anh chị em, mời gọi anh chị em cầu nguyện và gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng giải thoát chúng ta khỏi ách nô lệ và đi ra bên ngoài, tìm kiếm người anh em mình, động chạm đến mình Chúa Kitô đang chịu đau khổ và cần tình thương của Thiên Chúa. Chỉ như thế chúng ta mới có thể nếm hưởng niềm vui mà Cha Brochero đã cảm nghiệm, nếm hưởng trước niềm vui trên trời”.

Cha Brochero (1840-1914) sinh năm 1840, gia nhập chủng viện năm 16 tuổi và thụ phong linh mục năm 1826 khi được 26 tuổi. Cha nổi bật về lòng bác ái giúp đỡ các bệnh nhân và những người sắp chết, nhất là trong trận dịch tả tàn phá thành Cordoba năm 1867. Cha góp phần phát triển quê hương về mặt kinh tế và xã hội, cũng như kiến thiết các thành đường, nhà nguyện, trường học và mở đường xuyên qua miền núi. Cha Brochero rong ruổi mọi nơi trong giáo phận, mang Lời Chúa cho dân chúng.

Vào cuối đời, cha bị mù và điếc, vì bệnh phong cùi, và những lời cuối cùng của cha là: ”Giờ đây tôi hoàn toàn sẵn sàng để du hành”. Cha qua đời năm 1914, thọ 74 tuổi. (SD 14-9-2013)
 
Các triển khai đại kết hiện nay
Vũ Văn An
19:03 14/09/2013
Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt ta tới đâu trong phong trào đại kết? Nhiều người cho rằng Người đang dẫn ta tới một mùa xuân đại kết mới, một cách tiệm tiến, thầm lặng và an bình. Mùa xuân này là kết quả của 5 thập niên đối thoại liên tục. Chúng ta đang gần kề việc hiệp thông trọn vẹn với các Kitô hữu khác, một điều Chúa Kitô rất muốn có (Ga 17:21).

Được như thế là nhờ việc các Giáo Hội ngày nay càng ngày càng chú trọng tới khía cạnh truyền giáo và việc đóng góp của hàng ngũ giáo dân. Thực vậy, các môn đệ của Chúa Kitô đang tìm mọi cách để chia sẻ sứ điệp cứu rỗi của Chúa Kitô với người khác. Đối với người Công Giáo, thúc đầy truyền giáo này được phát biều qua việc tân phúc âm hóa. Giáo Hội không những vươn tay ra với những ai chưa hề nghe nói về Chúa Kitô mà còn mời gọi những ai từng đồng hành với chúng ta nhưng sau đó rẽ qua đường khác trở về với chúng ta nữa.

Trong bài diễn văn đọc trước hội nghị toàn thể của Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ Động Hợp Nhất Kitô Giáo hồi tháng Mười Một năm ngoái, Đức Bênêđúctô XVI cho hay: “Như đã biết, các nghị phụ (của Vatican II) có ý định nhấn mạnh tới mối liên kết chặt chẽ giữa trách vụ phúc âm hóa và việc thắng vượt các chia rẽ hiện nay giữa các Kitô hữu”. Ngài chỉ rõ: Chúa Giêsu từng cầu xin cho có sự hợp nhất giữa các môn đệ “để thế giới tin” (Ga 17:21). Sự hợp nhất này phục vụ mục đích sâu xa và hết sức quan trọng là thiện ích của nhân loại.

Đức Bênêđíctô coi sự nghèo nàn thiêng liêng nơi nhiều người là thách đố lớn đối với các Kitô hữu. Làm thế nào ta có thể đem sứ điệp của Chúa Kitô một cách đầy hy vọng, hân hoan và thuyết phục, đến đổ đầy cái khoảng không thiêng liêng này và tạo ra sự bình an cho tâm hồn?

Hoà giải và vấn đề luân lý

Như thông lệ, trong bài diễn văn trên, Đức Bênêđíctô kêu gọi các Kitô hữu tự vấn lương tâm và xám hối để trở thành các chứng nhân hữu hiệu hơn. Ngài cho rằng: phong trào đại kết và tân phúc âm hóa “cả hai đều cần năng động tính của hồi tâm, hiểu như việc thành tâm mong ước theo Chúa Kitô và hoàn toàn gắn bó với thánh ý Chúa Cha”. Biến đổi bản thân là khúc dạo đầu của việc đem lời kêu mời tới người khác.

Như thế, ta phải vào sâu một cách thiêng liêng hơn. Sự hợp nhất hữu hình đòi phải có việc hoà giải đích thực và lâu dài giữa các cộng đồng Kitô Giáo. Có lẽ kinh nghiệm hiện nay của việc hòa giải cộng đồng, được cổ vũ tại nhiều quốc gia do các nhóm như phong trào Focolare nổi tiếng quốc tế khởi xướng, có thể cung cấp cho các cộng đồng Kitô Giáo nhiều kế sách hoà giải. Ta hãy cầu xin cho có sự hoà giải này.

Hiện đang có nhiều tiến bộ đối với hòa giải. Một trong các điển hình, dù ít được ai biết đến, là Đại Hội Tham Vấn Thần Học Chính Thống và Công Giáo Bắc Mỹ. Đại Hội này được triệu tập lần đầu vào năm 1965, họp hai lần mỗi năm và đã soạn thảo được ít nhất 25 tuyên bố chung. Các bên đối thoại đã thỏa thuận rằng một số biện pháp cần được đưa ra để chuẩn bị cho việc hiệp thông đầy đủ giữa các Giáo Hội Chính Thống và Công Giáo. Tuyên bố gần đây nhất, tựa là “Các Bước Tiến Tới Một Giáo Hội Tái Hợp Nhất”, được công bố năm 2010, chỉ ra con đường tiến tới.

Lẽ dĩ nhiên, vẫn còn một số vấn đề chưa được các Giáo Hội đồng thuận. Như vấn đề luân lý tính dục chẳng hạn. Các chuyên viên đối thoại đại kết thường bắt đầu với các vấn đề đã được các bên đồng thuận, rồi mới tiến qua các vấn đề trong đó các hiểu biết của các bên xem ra bổ túc cho nhau và cuối cùng mới bàn tới các vấn đề xem ra vẫn còn chia rẽ. Đồng thuận và bổ túc cho nhau có thể cho ta thấy lý do khiến các bên đối thoại vẫn còn chia rẽ.

Sau cùng, các nhà đối thoại đại kết mới khởi sự thảo luận tới các vấn đề liên quan tới luân lý bản thân, như việc tan vỡ gia đình, sống chung, ngừa thai, triệt sản v.v... Cho tới gần đây, rất ít có cuộc thảo luận đại kết nào về các vấn đề có tính xúc cảm cao độ này. Cuộc đối thoại Anh Giáo và Công Giáo hiện nay đang xoay quanh việc nhận diện các điểm đồng thuận và các điểm dị biệt trong cách hiểu các vấn đề luân lý bản thân. Các cố gắng này rất có thể dẫn tới các khẳng định hỗ tương bất ngờ.

Phó tế và việc tham gia của giáo dân

Hiệp Hội Viên Chức Đại Kết và Liên Tôn Giáo Phận Công Giáo, một tổ chức được thành lập năm 1971 để giúp các nhà lãnh đạo đại kết liên kết và trao đổi suy nghĩ, và các dòng tu có sứ mệnh truyền giáo như Dòng Paulist, Nữ Tu Phansinh hay Tu Huynh Đền Tội, mấy thập niên qua, vốn cung cấp cho Giáo Hội nhiều cán độ được huấn luyện cao trong vai trò lãnh đạo đại kết. Các linh mục và tu sĩ, với nhiều đặc sủng, luôn đóng vai trò thiết yếu trong các liên hệ đại kết, nhưng việc đóng góp này đang thay đổi khi con số linh mục và tu sĩ ngày một giảm đi.

Các giáo dân nam nữ vốn đã đóng vai trò có ý nghĩa trong phong trào đại kết ngay từ đầu. Phong trào Focolare, chẳng hạn, đem các Kitô hữu của nhiều Giáo Hội lại với nhau. Linh đạo hợp nhất của phong trào này là nền tảng của việc huấn luyện đại kết cho các thành viên của phong trào và cho các “đối thoại viên bằng đời sống”. Đời sống yêu thương hàng ngày của họ đối với người lân cận rất lôi cuốn đối với những người tìm kiếm nó.

Ngày nay, ta thấy Chúa Thánh Thần ban nhiều ơn cho các phó tế vĩnh viễn và cho giáo dân Công Giáo để họ tiến lên phía trước một cách có ý nghĩa hơn nữa. Đây là một phần trong kế hoạch an bài của Thiên Chúa. Hiện nay tại Hoa Kỳ, các giáo phận thường có tới 16 phó tế làm viên chức đại kết cho mình.

Giáo dân nam nữ tiếp tục phục vụ trong các hội đồng đại kết giáo phận và trong tư cách đại diện đại kết giáo xứ. Đại kết càng tiến triển, vai trò các đại diện giáo dân này càng tiếp tục mở rộng thêm. Các giáo dân vốn được huấn luyện trong các nét căn bản của phong trào đại kết sẽ giúp giáo phận trong nhiều liên hệ với anh chị em Kitô hữu khác. Chiều hướng này rất phù hợp với giáo huấn của Giáo Hội. Trong “Sắc Lệnh về Đại Kết” (1964), Công Đồng Vatican II khuyên “mọi tín hữu Công Giáo nhận ra các dấu chỉ của thời đại và góp phần tích cực và thông minh vào công cuộc đại kết”.

Các hình thức huấn luyện

Giáo dục là điều chủ yếu trong việc “góp phần tích cực và thông minh” vào phong trào đại kết, và việc giáo dục này có nhiều chiều kích khác nhau. Chắc chắn ai cũng cần phải biết những điều căn bản trong “Sắc Lệnh về Đại Kết” của Vatican II, cũng như tập “Hướng Dẫn Việc Áp Dụng Các Nguyên Tắc và Qui Luật Đại Kết” từng được Tòa Thánh tái duyệt và ấn hành năm 1993, thông điệp “Ut Unum Sint” của Đức Gioan Phaolô II và nhiều tuyên bố của Đức Bênêđíctô về chủ đề này.

Ủy Ban Giám Mục về Đại Kết và Liên Tôn của HĐGM/Hoa Kỳ đang khởi sự khai triển nhiều mô thức mới để huấn luyện các nhà lãnh đạo địa phương. Các mô thức này sẽ bén rễ sâu vào truyền thống linh đạo của ta. Chúng sẽ bao gồm các video có sẵn trên trực tuyến và nhiều tài nguyên khác trên trang mạng của HĐGM Hoa Kỳ. Nhiều chương trình tổng hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của các linh mục, tu sĩ, phó tế và giáo dân đã được dự trù. Việc huấn luyện giáo dân phải bao gồm không chỉ những người phục vụ tại các hội đồng đại kết mà cả những ai cộng tác với các thừa tác vụ công bằng xã hội hoặc các cặp trong các cuộc hôn nhân đại kết.

Một số công trình gần đây sẽ giúp phát huy việc giáo dục về đại kết. Điển hình đáng lưu ý là việc cho công bố tập Thu Hoạch Hoa Trái: Các Khía Cạnh Căn Bản của Đức Tin Kitô Giáo Trong Cuộc Đối Thoại Đại Kết (Continuum, 2009), tác giả là Đức HY by Walter Kasper, cựu chủ tịch Hội Đồng Giáo Hoàng về Cổ Vũ Hiệp Nhất Kitô Giáo. Trong tập sách này, Đức HY Kasper gom góp một cách ngắn gọn và dễ đọc các kết quả của gần 50 năm đối thoại với bốn đối tác quốc tế chính là Anh Giáo, Giáo Hội Luthêrô, Giáo Hội Methodist và Giáo Hội Cải Cách. Ngài tổng hợp các đồng thuận trong 4 phạm vi, trong đó có chương rất phong phú về các tiến bộ trong cái hiểu về Giáo Hội. Đức HY Kasper cũng nhấn mạnh tới “các vấn đề còn bỏ ngỏ và các dị biệt còn tồn đọng”.

Thành tựu trên có tiếng vang khắp nơi. Thí dụ, Đức HY Kurt Koch, người kế nhiệm Đức HY Kasper tại hội đồng giáo hoàng, gần đây lên tiếng kêu gọi ban hành một tuyên bố nhằm tóm lược các thành quả của cuộc đối thoại song phương giữa Giáo Hội Công Giáo và cộng đồng đối tác. Các thành quả này nên được các Giáo Hội chính thức nhìn nhận. Bản tuyên bố này cũng sẽ cho thấy các vấn đề còn cần được thảo luận thêm. Lời kêu gọi của Đức HY Koch đã có tiếng vọng nơi một số nhà lãnh đạo Thệ Phản.

Hàng thập niên cố gắng chung nhằm hàn gắn các vết thương của bất đồng quá khứ cuối cùng được trình bày cho nhiều người cùng đọc hơn. Trước đây, chỉ các nhà chuyên môn mới có thì giờ nghiên cứu hàng bộ sách trên các bục sách đại kết. Ngày nay, các bản tóm lược mỗi ngày mỗi có sẵn, tác động mạnh đối với việc cầu nguyện và thảo luận cộng đoàn tại địa phương dưới nhiều cách thức không ai dự đoán được.

Tiếp nối công trình

Các chiều hướng trên hiện đang được tiếp diễn. Các tuyên bố được thỏa thuận hiện nay sẽ cung cấp nền tảng cho cuộc đối thoại thần học của ta với các bằng hữu Chính Thống, Thệ Phản và Anh Giáo. Điển hình là “Tuyên Bố Thoả Thuận về Phép Rửa” được Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ và bốn Giáo Hội Cải Cách là Giáo Hội Trưởng Lão, Giáo Hội Cải Cách Hoa Kỳ, Giáo Hội Hiệp Nhất Của Chúa Kitô và Giáo Hội Cải Cách Kitô Giáo, chấp nhận gần đây.

Điển hình thứ hai là “Tuyên Bố Chung về Học Lý Công Chính Hóa” được Liên Minh Luthêrô Thế Giới và Tòa Thánh chấp thuận năm 1999. Hội Đồng Methodist (giám lý) Thế Giới cũng đã ký vào tuyên bố này năm 2006. Văn kiện này tuyên bố rằng “Chúng tôi cùng nhau tuyên xưng rằng: Nhờ ơn thánh mà thôi, nhờ đức tin vào công trình cứu rỗi của Chúa Kitô chứ không nhờ bất cứ công phúc nào của chúng tôi, chúng tôi được Thiên Chúa chấp nhận và tiếp nhận được Chúa Thánh Thần, Đấng đổi mới tâm hồn chúng tôi trong khi trang bị và kêu gọi chúng tôi làm việc lành”. Nhờ thế, vấn đề nổi bật nhất của Thệ Phản đã được đồng thuận một cách dị biệt (diffenrantiated consensus). Hai bên đã đạt được sự nhất trí về vấn đề cốt lõi, tuy nhiều vấn đề liên hệ vẫn chưa đạt được đồng thuận. Các nhà thần học hàng đầu sẽ còn phải dành ra nhiều thập niên nữa, nếu không muốn nói là nhiều thế kỷ nữa, để tranh luận các vấn đề này.

Việc canh tân thiêng liêng sẽ luôn nằm ở tâm điểm của phong trào đại kết. Tương lai sẽ bớt tình trạng “anh đi đường anh tôi đi đường tôi” và càng ngày “chúng ta” càng cùng nhau biện phân ra đường hướng của Thiên Chúa dành cho mình nhiều hơn. Điều cần là ta phải bén rễ sâu hơn vào lời cầu nguyện. Ta cần có thì giờ dành cho im lặng và tĩnh lặng. Đó là thì giờ để lắng nghe Chúa Thánh Thần.

Ta cần chăm chú lắng nghe các Kitô hữu khác. Học hỏi người khác đòi ta phải khiêm nhường. Nhờ thế, ta sẽ trở nên giống Chúa Giêsu hơn, Đấng luôn luôn hạ mình xuống. Mà càng cùng giống Chúa Kitô thì nhiên hậu phong trào đại kết càng kết trái đâm bông.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo xứ Mẫu Lâm hiệp thông với giáo xứ Mỹ Yên trong tuần chầu đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể
PV Mẫu Lâm
21:23 14/09/2013
Chiều thứ sáu, ngày 13 tháng 09 năm 2013, giáo xứ Mẫu Lâm đã long trọng khai mạc tuần chầu đền tạ Chúa Giêsu Thánh Thể bằng thánh Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu. Chủ tế trong thánh lễ là cha Quản hạt Phêrô Trần Phúc Chính, cùng đồng tế với ngài có 21 cha trong và ngoài giáo hạt.

Xem hình ảnh

Giáo xứ Mẫu Lâm tổ chức tuần chầu trong bối cảnh mà những người anh em ở giáo xứ Mỹ Yên đang bị nhà cầm quyền Nghệ An khủng bố và bách hại.

Vì thế, trong phần khai lễ, cha quản Hạt Phêrô Trần Phúc Chính đã nói lên nỗi đau của bà con giáo xứ Mỹ Yên nói riêng và bà con giáo hạt Nhân Hòa đang phải gánh chịu. Cha đã kêu gọi mỗi người hãy tiếp tục cầu nguyện cho giáo xứ Mỹ Yên và đặc biệt là cầu nguyện nhiều hơn nữa cho các nhà cầm quyền Nghệ An. Chúng ta không được căm ghét các nhà cầm quyền nhưng hãy luôn cầu nguyện nhiều cho họ. Như Chúa Giêsu dạy: các con hãy cầu nguyện cho những kẻ bách mình. Sự cầu nguyện và tin tưởng vào tình yêu của Đức Kitô mới giúp chúng ta có sức mạnh để vượt qua những thử thách này.

Chia sẻ trong thánh lễ cha Phêrô Trần Đình Lai quản xứ Hòa Thắng một lần nữa nhấn mạnh đến tình yêu của Thiên Chúa. Chính vì tình yêu mà Đức Giêsu đã hi sinh đến giọt Máu cuối cùng để cho nhân loại chúng ta được tắm gội trong tình yêu thương ấy.

Thiên Chúa luôn biết cách biến sự dữ thành sự lành, biến những tại họa nhỏ thành những hồng phúc lớn lao. Nhìn lại lịch sử của Giáo Hội, chúng ta mới cảm nghiệm được sâu sắc sự quan phòng của Thiên Chúa. Chính trong thời kỳ sơ khai, Giáo Hội chúng ta đã bị bách hại ghê gớm, hơn 300 năm bị bắt đạo. Nhưng tất cả đều nằm trong thánh ý của Thiên Chúa. Chính sự bách hại này đã không làm cho Giáo Hội chúng ta không bị tiêu vong nhưng làm cho Giáo Hội chúng ta ngày càng phát triển. Nhìn lại những chặng đường của Giáo Hội Việt Nam cũng vậy. Chúng ta cũng trải qua mấy trăm năm bắt đạo với nhiều chính sách bạo tàn của các nhà cầm quyền, nhưng Giáo Hội chúng ta vẫn tồn tại và ngày càng lớn mạnh.

Trong thời này, giáo phận Vinh và đặc biệt là giáo dân giáo xứ Mỹ Yên đang bị nhà cầm quyền Nghệ An dùng quân đội, công an, côn đồ và các phương tiện truyền thông để khủng bố, đàn áp và vô khống. Thế nhưng, bà con giáo dân và cha quản xứ Mỹ Yên không đơn độc trong cuộc chiến đấu này, vì tất cả các linh mục, giáo dân trong cũng như ngoài giáo phận, và các anh em của các tôn giáo khác như: Phật giáo, Cao Đài, Tin Lành.... và tất cả mọi người yêu chuộng công lý, hòa bình trên thế giới đang ngày đêm hướng về Mỹ Yên, hướng về giáo phận Vinh.

Quả thật, việc Thiên Chúa làm thì con người không thể phá được. Có thể những việc làm tàn bạo của nhà cầm quyền Nghệ An hôm nay, đã làm đổ máu nhiều người dân Mỹ Yên. Nhưng chính sự hy sinh này đã làm cho người Công Giáo được liên kết chặt chẽ hơn. Và Giáo Hội ngày càng được vững mạnh hơn.

Trong phần kết lễ, cha quản hạt Nhân Hòa một lần nữa đã cảm ơn tình liên đới của các linh mục và giáo dân trong cũng như ngoài giáo phận đã dành cho bà con giáo xứ Mỹ Yên và giáo hạt Nhân Hòa trong những ngày bị bách hại vừa qua. Chính sự cầu nguyện và chia sẻ này đã tăng thêm sức mạnh và niềm tin cho giáo xứ Mỹ Yên để họ vượt qua những khó khăn và tiếp tục dấn thân làm chứng cho Tin Mừng.
 
Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao: Lễ Mừng Sinh Nhật Đức Mẹ
Hồng Hương
20:54 14/09/2013
Sáng ngày 13/9/2013, Thánh lễ Mừng Sinh Nhật Đức Maria diễn ra trong niềm hân hoan tại quảng trường Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao với sự tham dự đông đảo khách hành hương từ khắp nơi tuôn về. Cùng đồng tế với Đức Giám Mục GP Phan Thiết Giuse Vũ Duy Thống và Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan là Đức Giám Mục đến từ vùng đất xa xôi Lạng Sơn – Cao Bằng, Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân.

Xem hình ảnh

Vì mưa kéo dài, lo cho sức khỏe của khách hành hương, Ban điều hành Trung tâm Thánh Mẫu Tàpao đã không tổ chức kiệu và chầu Thánh Thể vào tối 12 như thường lệ.

Trong Giờ khấn Đức Mẹ trước thánh lễ sáng ngày 13, cùng với các ý khấn khác, tháng 9 bước vào năm học mới, nhiều khách hành hương “xin cho con cái chăm học” và nhiều ý nguyện “tạ ơn Đức Mẹ được ra khỏi tù” sau đợt ân xá ngày 02/09 của nhà nước.

7g00, Thánh lễ trong thể Mừng Sinh Nhật Đức Maria do Đức Giám Mục Phan Thiết chủ tế thánh lễ. Cùng với Đức Cha Phaolô và đoàn đồng tế, ngài chào mừng Đức Cha Giuse của GP Lạng Sơn – Cao Bằng và quý khách hành hương. Quy tụ nơi đây mừng Lễ Sinh Nhật Mẹ, Đức Giám Muc mời gọi cộng đoàn hiệp dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trong niềm vui sướng hân hoan vì đã ban cho nhân loại một Người Mẹ, Một Nữ Trạng Sư tuyệt vời là Đức Trinh Nữ Maria. Để qua Mẹ, Con Thiên Chúa đến với nhân loại. Và cũng từ nơi Mẹ, ân phúc của Thiên Chúa trào tràn trên đoàn con.

Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân chia sẻ Tin Mừng với cộng đoàn phụng vụ và tâm tình khi đến hành hương Đức Mẹ Tàpao. Ngài dẫn lời của Đức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan – Nguyên Giám mục GP. Phan Thiết – để nói lên cảm nghiệm của mình: “Chưa thấy một tiếng nói chính thức nào của Mẹ được ban ra tại đây, nhưng “thông điệp” đã loan đi khắp cùng mọi nơi mọi chốn, với mọi tầng lớp người kể cả anh chị em khác tôn giáo … Mẹ không hẹn hò với ai, nhưng ai cũng thấy gần gũi với Mẹ như lòng bên lòng”. Hướng về niềm vui Mừng Lễ Sinh Nhật Đức Mẹ, theo lịch phụng vụ, ngày 8 tháng 9, chín tháng sau lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Cha mời cộng đoàn hướng về Chúa Giêsu “Bởi Mẹ Maria đã sinh ra Mặt Trời công chính là Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người tẩy xóa án chúc dữ bởi tội nguyên tổ và đem lại ơn thánh. Người đã chiến thắng sự chết và ban cho chúng ta sự sống muôn đời”.

Từ câu chuyện tu đức Thượng Đế ban cho em bé trước khi ra đời một thiên thần hộ mạng là chính mẹ của em, Đức Cha gợi mở cho cộng đoàn cảm nhận về vai trò của người mẹ, “khi Giáo Hội mừng lễ sinh nhật Đức Mẹ giúp nhân loại hiểu rằng: chính nhờ Mẹ Maria sinh ra mà lịch sử nhân loại và chương trình cứu độ của Thiên Chúa được ló rạng. Mẹ Maria đã được sinh ra trong nhân loại mang vết tích của tội, nên Mẹ cảm thông, chia sẻ với kiếp sống bất toàn của con người”. Ngài khuyến khích cộng đoàn: “Mừng lễ sinh nhật Mẹ, mọi người chúng ta hãy siêng năng làm những việc lành phúc đức, lần chuỗi Mân Côi, đọc kinh cầu Đức Mẹ và làm những việc lành thánh dâng lên Đức Mẹ”.

Kết thúc thánh lễ, cha GB. Trần Văn Thuyết thay mặt cộng đoàn hành hương dâng lời tri ân quý Đức Cha. Tiếp đó, cha thông báo chương trình hành hương tháng 10/2013, ngày bế mạc Năm Đức Tin tại Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao. Tối 12/10/2013 sẽ có buổi diễn nguyện, dâng hoa và cầu nguyện do các giáo hạt trong giáo phận và Hội dòng MTG Phan Thiết thực hiện. Sáng ngày 13/10/2013, thánh lễ trọng thể Bế Mạc Năm Đức Tin của Trung Tâm Thánh Mẫu Tàpao với phép lành toàn xá do Đức Giám Mục Phan Thiết chủ tế.

Sau một đêm, những cơn mưa lớn của Tàpao gội sạch bụi đường của khách hành hương từ khắp nơi đến với Mẹ Tàpao cả theo nghĩa đen và nghĩa bóng. Những người lần đầu đến Tàpao cũng như những ai đã quen thân đều cảm nghiệm được sự linh thiêng của linh địa nơi Mẹ hiện diện với đoàn con và sự thi vị trong se lạnh của núi rừng trong từng bước âm thầm theo từng bậc thang lên linh đài viếng Mẹ. Người đến người về trong những cơn mưa bay, trong lòng ngâm nga đôi câu thơ của Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống:

“Sinh nhật Mẹ tại Tàpao, hành hương người đến cao rao hát mừng.
Mưa kia đứng, gió xin ngừng. Hân hoan ngắm Mẹ: kìa Vừng Đông lên”.
 
Giáo hạt Cửa Lò rực lửa với những đau thương của anh chị em giáo xứ Mỹ Yên
Giáo dân Cửa Lò
15:22 14/09/2013
GIÁO HẠT CỬA LÒ BỪNG CHÁY RỰC LỬA VỚI NHỮNG ĐAU THƯƠNG NƠI XỨ MỸ YÊN

“ Họ! (công an, cảnh sát cơ động, bộ đội, dân phòng) cứ hai người xốc nách một người cho mấy người cầm roi điện, gậy vạng (đánh) túi bụi vào đầu, vào cổ, vào sườn, vào lưng, vào hai ống chân, lạ quá! bị đánh những nơi hiểm như vậy, chúng tôi nghĩ là sẻ nhiều người chết, thế mà họ sống được. Chắc là Chúa, Đức Mẹ, thánh Antôn đỡ đòn cho họ và chở che cho bà con giáo dân đó mà”. Lời kể đầy xúc động và phẫn uất của một số giáo dân sau khi chúng tôi lên nhà xứ Mỹ Yên để thăm và chia sẻ với Cha quản xứ cùng bà con anh chị em giáo xứ Mỹ Yên. Đi từ đường lộ 34 từ chợ quán lên để vào nhà xứ, xe đi qua trước ủy ban xã Nghi Phương, nhìn vào chúng tôi thấy rất nhiều công an và quân đội, họ làm lán, cắm trại như hồi thời chiến “sẵn sàng chiến đấu” nhưng hồi đó là với giặc, còn bây giờ là với dân, những người dân bình thường hiền lành và chất phác thuần nông, suốt ngày bán mặt cho đất, bán lưng cho trời sau lũy tre làng, với một sự thương yêu, đoàn kết đùm bọc bảo vệ nhau trong thôn xóm, như bao xóm làng thôn quê khác của vùng quê Việt Nam. Thế mà ai đã đến để gieo nỗi kinh hoàng làm đảo lộn sự yên bình và đem đến sự tang thương cho bà con giáo xứ Mỹ Yên? “Mỹ Yên” cái tên ấy đã tự nói cho chúng ta sự bình yên mà từ ngàn đời cha ông họ đã từng truyền nối và nhắn nhủ con cháu, hảy sống và vui hưởng sự yên bình trên mảnh đất cha ông. Nhưng nào có được. Để đem lại sự bình yên cho giáo phận Vinh nói chung, cách riêng là giáo xứ Mỹ Yên. Giáo hạt Cửa Lò tối nay 7 giáo xứ gồm:

1. Giáo xứ Tân Lộc.

2. Giáo xứ Lộc Mỹ.

3. Giáo xứ Lập Thạch.

4. Giáo xứ Làng Anh.

5. Giáo xứ Đồng Vông.

6. Giáo xứ Trang Cảnh

7. Giáo xứ Cửa Lò. Cùng thắp nến hiệp thông với toàn thể giáo phận để cầu cho sự bình yên và cho công lý hòa bình, nhất là cho giáo xứ Mỹ Yên và anh chị em đang bị nhà cầm quyền bắt giữ một cách oan ức, sớm được về với gia đình và bà con giáo xứ. Xin Chúa luôn gìn giữ và sớm chữa lành cho một số anh chị em đang còn điều trị bởi những vết thương quá nặng do sự tàn ác của nhà cầm quyền (Họ, cứ hai người xốc nách một người cho mấy người cầm roi điện, gậy vạng (đánh) túi bụi vào đầu, vào cổ, vào sườn, vào lưng, vào hai ống chân). Hàng ngàn ngọn nến rực sáng, hàng chục câu khẩu hiệu được giơ cao thể hiện rõ lập trường trước sau như một của mình, của đoàn con giáo hạt Cửa Lò gửi đến cho nhà cầm quyền Nghệ an sớm tôn trọng tự do Tôn giáo, tôn trọng nhân quyền, yêu thương đồng loại.

Gửi đến cho anh chị em, bà con trong và ngoài nước, những người yêu công lý và bình, để xin tất cả mọi người cùng hiệp thông cầu nguyện cho nước Việt Nam, cho Giáo Hội Việt Nam, cho giáo phận Vinh và đặc biệt là anh chị em giáo xứ Mỹ Yên. Chúng ta luôn thấy câu cửa miệng mỗi khi nói đến: “ Công an của nhân dân, quân đội của nhân dân, nhà nước của nhân dân” thế mà tất cả sao nỡ quay lại đập đánh nhân dân tang thương như vậy? Rồi bây giờ lại nghe những câu nói quá đau thương và mất đoàn kết như sau: Bên ta bị thương 6 người, bên hắn bị hơn 30 người. Ai là bên ta? ai là bên hắn? Phải chăng nhà cầm quyền Nghệ An đã trượt một bước dài trên thành tích khoét sâu mối chia rẻ đoàn kết lương giáo, đoàn kết dân tộc.

Tối nay giáo hạt Cửa Lò thắp nến ngoài ý cầu nguyện cho giáo xứ Mỹ Yên còn có thêm ý cầu nguyện cho nhà cầm quyền sớm tôn trọng tự do tôn giáo, tôn trọng công lý sự thật, tôn trọng và vun đắp cho công cuộc xây dựng sự đoàn kết dân tộc, nhất là đoàn kết tôn giáo, để sớm đưa một nước Việt Nam mau đi đến tự do dân chủ và hòa bình.
 
Trang Web của Giáo Phận Vinh bị hù dọa
Nghệ An Web
17:18 14/09/2013
NGHỆ AN - Một bài viết tựa đề Sẽ xử lý nghiêm những trang thông tin điện tử thông tin sai sự thật trên Báo Nghệ An (http://nghean.gov.vn) cho thấy một viễn ảnh đáng lo ngại, vì tiềm ẩn trong đó là việc áp dụng Nghị định 72 dễ dàng quy chụp người khác.

BÀi viết có đoạn như sau: "Hiện nay, phần nhiều các trang TTĐT hoạt động đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, cũng có không ít trang TTĐT có những hoạt động vi phạm pháp luật, nhất là các trang có nội dung như một trang TTĐT tổng hợp nhưng chưa có giấy phép hoạt động do Bộ TT-TT cấp. Những trang này thường trích dẫn nguồn tin không đầy đủ, gây hiểu nhầm cho người đọc; thông tin trên trang chủ chưa đúng quy định, quảng cáo trên mạng máy tính khi chưa được Bộ TT-TT chấp thuận…"

Bài báo cho biết: “Nghị định 72/2013/NĐ – CP về Quản lý, cung cấp dịch vụ internet, thông tin trên mạng có hiệu lực từ ngày 1/9/2013. Tuy nhiên, qua vụ gây rối trật tự công cộng xảy ra ở Nghi Phương (Nghi Lộc) gần đây, một số trang mạng đã đăng thông tin xuyên tạc sự thật, kích động người dân chống lại chính quyền, gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, ảnh hưởng đến trật tự xã hội, vi phạm nghiêm trọng Nghị định 72. Phóng viên Báo Nghệ An có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Bá Hảo - Phó Giám đốc Sở Thông tin & Truyền thông Nghệ An để làm rõ vấn đề này.”

Trang web Giáo Phận Vinh đang bị dòm ngó, và bị qui kết là vi phạm hoạt động trang thông tin điện tử trên mạng Internet. Sau đây là văn thư của Ông Nguyễn Bá Hảo:

"Ngày 6/9/2013, ông Nguyễn Bá Hảo – Phó Giám đốc Sở Thông tin Truyền thông đã ký Công văn số 787/STTTT-QLBCXB gửi Tòa Giám mục Xã Đoài (Giáo phận Vinh) về việc vi phạm hoạt động trang thông tin điện tử trên mạng Internet. Trong Công văn ghi rõ: “Từ ngày 3/9/2013, trang thông tin điện tử http://giaophanvinh.net/index.php đã đăng tải một số thông tin không chính xác, vu khống và có tính chất kích động về vụ việc gây rối trật tự tại xã Nghi Phương, huyện Nghi Lộc ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn.

Thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về hoạt động trang thông tin điện tử trên mạng internet, Sở Thông tin và Truyền thông Nghệ An đề nghị Tòa Giám mục Xã Đoài – Giáo phận Vinh:

1. Ngừng hoạt động trang thông tin điện tử tổng hợphttp://giaophanvinh.net/index.php trên mạng internet và liên hệ với Sở Thông tin và Truyền thông Nghệ An (địa chỉ số 06, đường Trần Huy Liệu, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) để được hướng dẫn hồ sơ, thủ tục đăng ký hoạt động theo quy định.

2. Trường hợp trang thông tin điện tử là giả mạo, không thuộc sự quản lý, điều hành của Tòa Giám mục Xã Đoài – Giáo phận Vinh thì đề nghị Tòa Giám mục Xã Đoài phúc đáp để Sở Thông tin và Truyền thông Nghệ An xem xét và xử lý theo quy định của pháp luật.”(hết trích)
 
Người Buôn Gió: Cảm nghĩ khi đọc báo Nghệ An về vụ Mỹ Yên
Người Buôn Gió
18:01 14/09/2013
Người Buôn Gió Blog 09.09.2013 - Mấy hôm nay đọc những bài báo của báo Nghệ An, viết về vụ Mỹ Yên. Đọc đi đọc lại cảm thấy có điều gì khuất tất và bất ổn. Mấy ngày kiểm tra xem lại các bài báo đó để tìm nguyên nhân nào mà khiến có cảm giác vậy.

Tất cả các bài báo Nghệ An đều đại loại là bắt đúng người đúng tội.

Họ đưa ra việc nhà một anh Đậu Văn Sơn nào đó bị giáo dân sản đập phá tài sản trị giá đến hàng trăm triệu đồng. Bài báo có đoạn:

Về vụ việc này, cần phải nhìn nhận một cách đầy đủ, thấu suốt sự việc. Trước đó ngày 22/5/2013, những đối tượng này đã cùng một số người cực đoan hô hoán, kích động đám đông bao vây, đánh đập người gây thương tích một cách vô cớ và đập phá gây thiệt hại tài sản hàng trăm triệu đồng tại nhà anh Đậu Văn Sơn ở xã Nghi Phương (huyện Nghi Lộc). Ngay sau khi vụ việc xảy ra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Nghệ An đã tiến hành khởi tố vụ án hình sự với 4 tội danh “Gây rối trật tự công cộng”, “bắt giữ người trái pháp luật”, “Hủy hoại tài sản ” và “Cố ý gây thương tích”.

Trên đây là giải thích của báo Nghệ An về nguyên nhân thấu suốt của sự việc, cơ quan cảnh sát Nghệ An đã làm đúng luật, bắt đúng người đúng tội.

Nhưng bài báo chỉ nói đến việc người giáo dân xông vào nhà Đậu Văn Sơn, đập phá, đánh người. Bài bào không nói đến nguyên nhân vì sao giáo dân xông vào nhà anh Sơn và đánh người? Như vậy báo Nghệ An đã cung cấp cho dư luận ''đầy đủ và thấu suốt sự việc'' chưa?

Sự việc như bài báo nói xảy ra tại nhà dân, có đập phá, có hành hung. Tại sao hai người bị bắt là ông Ngô Văn Khởi, Nguyễn Văn Hải là những giáo dân có chức sắc trong địa phận lại chỉ bị bắt về tội danh ''bắt giữ người trái phép và gây rối trật tự công cộng''.

Vậy ''trật tự công cộng'' là chỗ nào, phải chăng nguyên nhân sự việc mà báo Nghệ An đã dấu nhẹm đi là bắt đầu từ một điểm công cộng như ngoài đường? Hay nhà riêng của công dân Đậu Văn Sơn là điểm ''công cộng''?

Theo như lời giáo dân kể, thì ngày 22 tháng 5 họ đến Trại Gáo hành lễ. Trên đường đi đã bị ba người đàn ông chặn lại tịch thu một số đồ vật, và ngăn xe không cho họ đi hành lễ. Bức xúc vì bị ngăn chặn quyền tự do đi lại, ngăn cản việc dự lễ lớn. Những người giáo dân đã tấn công 3 người đàn ông bởi những hành động vô pháp luật của 3 người này gây ra. Ba người đàn ông này chạy vào nhà xã đội trưởng Đậu Văn Sơn. Nên nhớ báo Nghệ An khi đưa tin không nói đến chức danh của Đậu Văn Sơn. Nhưng khi xảy ra sự việc rồi họ nói 3 người này là công an đi làm nhiệm vụ ghé vào nhà Sơn uống nước. Khi ngăn cản xe và tịch thu đồ vật của giáo dân Mỹ Yên, ba người này không mặc sắc phục cũng như không đưa giấy tờ chứng minh họ là công an đang làm nhiệm vụ. Đã thế họ hành động khiến người dân phải nghĩ họ là những tên côn đồ gây rối, trấn lột, cản trở quyền tự do đi lại của người dân.

Trong bối cảnh xã hội ngày nay, những băng đảng côn đồ lộng hành tấn công người dân xảy ra liên miên như chúng ta thấy trên tin tức hàng ngày. Thì việc người dân Mỹ Yên đoàn kết để bảo vệ tài sản của mình, trừng phạt những kẻ côn đồ không phải là chuyện bất bình thường. Nó xảy ra theo đúng tâm lý của người dân vùng nông thôn, phản ứng trước những cái xấu trong xã hội.

Trình bày nguyên nhân như thế mới gọi là đầy đủ và thấu suốt, nó cũng giải thích vì sao có cụm từ ''gây rối trật tự công cộng''. Bởi điểm xuất phát vụ việc xảy ra trên đường cái, bắt đầu do ba người đàn ông chặn đường giáo dân gây sự.

Nếu ba người này là dân thường mà cả gan chặn đường, lấy đồ của nhân dân, chắc hẳn chúng đã chết như những tên trộm chó như ta hay thấy, không có những ầm ĩ sau này.

Nhưng ba người mặc quần áo dân sự ấy, sau này mới được báo chí Nghệ An gọi là các chiến sĩ công an đi thi hành nhiệm vụ?

Cháy nhà ra mặt chuột!

Nhiều lần các giáo dân đã bị những người mặc dân sự như vậy hành hung, thậm chí bị hành hung trước mặt cảnh sát, nhưng cơ quan điều tra chưa bao giờ tìm ra được đối tượng gây án. Mặc dù có bà con, nhân chứng, có thương tật như vụ giáo dân JB Nguyễn Hữu Vinh bị đám người đánh ở giáo xứ Đồng Chiêm, ngay trước mắt công an huyện Mỹ Đức. Và mới đây giáo dân Lê Quốc Quyết cũng bị những người dân sự cầm hung khí tấn công ngay trước mắt cảnh sát Vũng Tàu.

Trong trường hợp bị phản ứng ngược lại, bỗng nhiên những người này lại hiện nguyên hình là những chiến sĩ công an đang đi làm nhiệm vụ như đài truyền hình Nghệ An nói trong vụ việc Mỹ Yên. Nếu là chiến sĩ công an đi làm nhiệm vụ, tại sao không khởi tố người dân vì tội ''chống người thi hành công vụ''? Một hành vi rõ ràng, thậm chí là nhiều tình tiết tăng nặng vì gây thương tích cho người thi hành công vụ, bắt giữ người thi hành công vụ.

Tại sao 3 người này không mặc sắc phục, trình giấy tờ để ngăn cản, kiểm soát giáo dân?

Vì nếu như họ chặn được giáo dân, tịch thu được đồ yên ấm. Giáo dân muốn khiếu nại về việc bị nhà nước ngăn cản quyền tự do tôn giáo là không có chứng cứ. Vì có phải người nhà nước ngăn đâu, mấy người mặc dân sự ngăn đấy chứ, chứng minh nào họ là công an (quần áo, thẻ ngành họ dấu trong cốp xe cơ mà).

Có lẽ việc xác nhận chính thức 3 người này là chiến sĩ công an đi làm nhiệm vụ, mặc quần áo dân thường để ngăn cản giáo dân đi hành lễ, đã đủ là bằng chứng nhà nước Việt Nam cản trở quyền tự do tôn giáo của người dân một cách có hệ thống, có thủ đoạn.

Từ nguyên nhân sự việc, đến lý do bắt người theo như báo Nghệ An và cảnh sát điều tra Nghệ An trình bày, đã cho thấy quá nhiều khập khiễng, không ăn khớp với nhau. Ngay đến bây giờ khi sự việc xảy ra rồi mà giải thích nguyên nhân và lý do bắt người còn thiếu nhất quán, có đoạn cắt xét đi... thì dẫn đến việc giáo dân Mỹ Yên bức xúc kéo đến trụ sở chính quyền hỏi cho ra nhẽ là việc tất yếu.

Một điều rất khôi hài là báo Nghệ An nhắc đến người giáo dân nông dân nghèo một nắng hai sương ruộng đồng, bị kích động bởi các thế lực này nọ. Nhưng cũng nhắc đến tài sản của một tên xã đội quèn như Đậu Văn Sơn trị giá hàng trăm triệu đồng!!!
 
Thánh Lễ Tạ Ơn và Phát Thưởng Hội Thi Giáo Lý kỳ II tại Gx Thạch Bích:
Tin Yêu
21:23 14/09/2013
HÀ NỘI - Thứ bẩy, ngày 14 tháng 9 năm 2013, Giáo xứ Thạch Bích – Tổng Giáo Phận Hà nội đã dâng thánh lễ tạ ơn và phát thưởng, hội thi Giáo lý kỳ II năm Đức Tin 2013.

Xem hình ảnh

Như tin đã đưa, hai ngày mùng 01 và 02 tháng 9 vừa qua, giáo xứ Thạch Bích đã tổ chức hội thi giáo lý kỳ II trong năm Đức Tin. Có hơn 3000 người tham gia học hỏi và thi Giáo lý. Với 3267 lá phiếu Lời Chúa được phát ra và mọi người có cơ may trúng thưởng trong thánh lễ tạ ơn hôm nay. Thành phần dự thi gồm các giới: Đồng cỏ non, xưng tội lần đầu, Thêm sức, giới trẻ và giới trưởng thành, được chia thành 267 lớp. Thật thán phục và quý trọng biết bao khi thấy có rất nhiều thanh niên, trung niên tham gia học hỏi và dự thi. Thật thán phục và trân quý biết bao khi thấy có các cụ già gần 90 tuổi, mà vẫn tham gia học hỏi, dự thi và đăng ký thi cả nhân tài nữa.

Thánh lễ được cử hành lúc 17h 00, do cha xứ Phaolô Nguyễn Văn Đoàn – Quản Hạt Thanh Oai chủ sự cùng với sự hiện diện đông đảo của bà con giáo dân trong giáo xứ. Sau thánh lễ là phần bốc thăm trúng thưởng và trao quà cho các đội tuyển tham gia dự thi, cũng như các thí sinh thi nhân tài.

Cũng xin được nhắc lại, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, của công nghệ như hiện nay, guồng quay xã hội trở nên hối hả, vì thế nhiều người phải rời xa gia đình, quê hương để đi làm ăn, đặc biệt là giới trẻ. Không những thế, nhiều khi những lo toan bộn bề của cuộc sống, những ảnh hưởng không nhỏ từ xã hội tác động, nên phong trào học giáo lý không còn như trước đây. Đó là một lỗ hổng lớn cho đời sống đức tin của người giáo dân. Vì vậy, những sáng kiến tổ chức và phát triển các cuộc thi giáo lý là hết sức cần thiết. Có những phong trao như vậy sẽ giúp mọi người trong Giáo xứ, có dịp học, hiểu và đào sâu kiến thức Đức Tin của mình. Đây là một trong những hoạt động ý nghĩa nhằm hưởng ứng Năm Đức Tin của Giáo Hội. Ước mong qua những sinh hoạt như thế, đời sống đức tin của mọi thành phần trong Giáo xứ sẽ ngày càng thăng tiến và xác tín mạnh mẽ hơn “Tôi biết tôi đã tin vào ai!”…
 
Thông Báo
Thông báo Lễ Giỗ lần thứ XI của Tôi tớ Chúa - ĐHY. FX. Nguyễn Văn Thuận
Nguyễn Văn Thuận Foundation
15:58 14/09/2013

THÔNG BÁO LỄ GIỖ LẦN THỨ XI CỦA TÔI TỚ CHÚA - ĐỨC Hồng Y
PHANXICÔ XAVIÊ NGUYỄN VĂN THUẬN (2002 - 16.9 - 2013)


“Nhiều người đã biết Đức Cố Hồng Y qua các tác phẩm của Người, đơn sơ và sâu xa, chứng tỏ tâm hồn tư tế của Người được kết hiệp sâu xa với Đấng đã kêu gọi Người trở thành thừa tác viên lòng từ bi và tình thương của Chúa.Bao nhiêu người đã viết, kể lại những ơn lành và dấu lạ mà họ tin là nhờ lời chuyển cầu của Vị Tôi Tớ Chúa, ĐHY Văn Thuận. Chúng ta cảm tạ Chúa vì Người Anh đáng kính này, người con của Đông Phương, đã kết thúc hành trình trần thế của Người trong việc phục vụ Người Kế Vị Thánh Phêrô.

Chúng ta hãy phó thác cho sự chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Maria sự tiếp tục án phong này, cũng như tất cả các án phong đang tiến hành. Xin Đức Mẹ giúp chúng ta ngày càng sống trong cuộc đời chúng ta vẻ đẹp và niềm vui được hiệp thông với Chúa Kitô…
Tôi thành tâm ban phép lành cho tất cả anh chị em và những người thân yêu của anh chị em”.
Đức Thánh Cha Phanxicô

Nhân dịp Lễ Giỗ lần thứ XI của Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, gia đình và người thân của ĐHY xin một lời nguyện và hợp ý để ca tụng niềm vui Phục Sinh của Tôi Tớ Chúa.

Sau đây là danh sách Lễ Giỗ tại các giáo xứ, giáo đoàn đã cho chúng tôi biết để cùng thông công:

  • * Ngày 01 tháng 9,10 giờ sáng Trung Tâm Mục Vụ Công Giáo Việt Nam, Orange, CA. Hoa Kỳ (Cựu Chủng Sinh tiểu chủng viện An Ninh & Đại Chủng Viện Hoàng Thiện, Huế)
  • * Ngày 13 tháng 9,10 giờ sáng Thánh đường Thánh Giuse, Vancouver, BC, Gia Nã Đại
  • * Ngày 14 tháng 9,10 giờ sáng Trung Tâm Mục Vụ Công Giáo Việt Nam, Orange, CA. Hoa Kỳ (CĐCGViệt Nam)
  • * Ngày 15 tháng 9, 5 giờ chiều Thánh đường Thánh Matheo, C. Đ. LaVang, Surrey, BC, Gia Nã Đại.
  • * Ngày 15 tháng 9, 3 giờ chiều Thánh Đường, thánh Jadwiga Slaska, Zabkowice, Ba Lan
  • * Ngày 15 & 16 tháng 9, Các lễ cuối tuần, Thánh Đường Đức Mẹ Việt Nam, Riverdale, GA. Hoa Kỳ
  • * Ngày 16 tháng 9 Đọc Kinh, Nhà Từ Đường, Phủ Cam, Huế, Việt Nam.
  • * Ngày 16 tháng 9 Nhà Thờ Chánh Toà, Nha Trang, Việt Nam
  • * Ngày 16, tháng 9, 7 giờ tối Thánh đường Đức Mẹ Núi Cát Minh, Sydney, Úc Châu.
  • * Ngày 16 tháng 10, 9 giờ sáng Nguyện đường Dòng Cát Minh, Canberra, Úc Châu.
  • * Ngày 16 tháng 9, 7 giờ tối Trung Tâm Đức Mẹ Phù Hộ (Dòng Salêdiêng Don Bosco) Tampa, FL. Hoa Kỳ
  • * Ngày 16 tháng 9, 8 giờ sáng Thánh đường Các thánh Tử đạo Việt Nam, GA. Hoa Kỳ
  • * Ngày 16 tháng 9, 8 giờ sáng Trung Tâm De Sale, (Dòng Salêdiêng Don Bosco), Bellflower, CA. Hoa Kỳ
  • * Ngày 16 tháng 9, 8 giờ sáng Thánh Đường Thánh PhaoLô, St Petersburg, FL. Hoa Kỳ
  • * Ngày 16 tháng 9, 8 giờ sáng Thánh đường Á Thánh John XXIII, Ft. Myer, FL. Hoa Kỳ
  • * Ngày 16 tháng 9, 7 giờ tối Thánh đường Các thánh Tử đạo Việt Nam, Arlington, VA. Hoa Kỳ
  • * Ngày 17 tháng 9, 7 giờ tối Devonshire Retirement Home, Windsor, Gia Nã Đại.
  • * Ngày 20 tháng 9, 10 giờ sáng Nhà thờ hiệu tòa của Đức Cố ĐHY – Nguyễn Văn Thuận Santa Maria della Scala -ĐHY Peter Turkson chủ tế, Roma, Ý Đại Lợi.
  • * Ngày 17 tháng 9, 12:30 giờ trưa Thánh Đường, Thánh Vincent Ferrer, Madison Heights, MI. Hoa Kỳ
  • * Ngày 15 tháng 10, 9:30 & 6:30 Ðền Thánh Mẹ La Vang, Las Vegas, NE. Hoa Kỳ
  • * Ngày 26 tháng 10, 9 giờ sáng Nguyện đường Dòng Cellitinnen, zur Hl Maria, Cologne, Đức Quốc
 
Văn Hóa
Chuyến thăm Anh quốc: nơi biểu trưng cho truyền thống và niềm kiêu hãnh, cổ xưa và hiện đại
Lm Trần Công Nghị
08:11 14/09/2013
Trong chuyến đi thăm Anh quốc vào tháng 8 năm nay, chúng tôi đã tham quan:

  • Thành phố London: Những thắng cảnh quan trọng và tiêu biểu của thủ đô Anh quốc
  • Thành Canterbury và Nhà thờ Canterbury, trung tâm Anh giáo
  • Lầu đài Dover lớn nhất Anh quốc nằm ngay trên sườn đá vôi trắng ơ cảng Dover
  • Gibraltar Rock, phần đất thuộc Anh quốc nằm phía nam của Tây Ban Nha.

1. Thành phố London (Luân Đôn)

Xem hình ảnh London

Những kỉ niệm về London trong tâm trí tôi khi vừa tới thủ đô này cũng nhạt nhòa như những áng sương mù và bầu trời mây xám phủ quanh, vì qua nhiều năm trời chưa trở lại... Nhưng London vẫn với cầu Tower Bridge biểu tượng, vẫn là Bucklingham kiêu hãnh, tòa nhà Parliament và tháp Big Ben uy nghi tráng lệ bên dòng sông Thames ngày trước, vẫn nhà thờ St. Paul hiên ngang, và các lâu đài mấy trăm năm, những con đường cổ kính, những phố xá mua sắm nhộn nhịp như Piccadilly và quảng trường Trafalgar… Nhưng lần này trời London vào những ngày nắng chói chang và nóng bức… thành phố lên mầu tươi sáng và nắng ấm lạ thường…

London là thủ đô của Vương quốc Anh. Với ước tính khoảng hơn 8.3 triệu dân sống nơi đây theo thống kê năm 2012, nên London là khu vực đông dân nhất tại Anh. Có thể nói London là một thành phố hàng đầu thế giới về mặt nghệ thuật, thương mại, giáo dục, giải trí, tài chính, y tế, phương tiện truyền thông, dịch vụ chuyên nghiệp, nghiên cứu và phát triển, du lịch và vận chuyển, tất cả các yếu tố trên góp phần làm London là thành phố danh tiếng nổi bật. Nhưng tầm quan trọng của Lonlon là chính là một trong những trung tâm tài chính hàng đầu thế giới và cũng là một thủ đô văn hóa thế giới.

Đây là thành phố có hành khách quốc tế ghé thăm nhiều nhất trên thế giới và rất đa dạng từ các nền văn hóa, có hơn 300 ngôn ngữ được nói trong phạm vi của thành phố. London có 43 trường đại học, nơi tập trung lớn nhất về nền giáo dục đại học ở châu Âu. Năm 2012 London đã trở thành thành phố đầu tiên đăng cai tổ chức Thế vận hội Olympic mùa hè hiện đại 3 lần.

London có những tòa kiến trúc sau đây được ghi vào di sản thế giới: Tháp London; Kew Gardens, các Cung điện Westminster, Tu viện Westminster và Nhà thờ St. Margaret; và múi chia giờ Greenwich lịch sử (trong đó Đài quan sát Hoàng gia Greenwich đánh dấu độ kinh tuyến gốc 0 ° kinh độ, và GMT).

Khi thăm London, chúng ta dễ dàng nhìn thấy 3 biểu tượng của thành phố, đó là: đồng hồ tháp Big Ben, hộp điện thoại màu đỏ bên đường, và xe buýt London hai tầng trên phố xá. Và các đường xe điện ngầm ở thành London là mạng lưới đường sắt ngầm lâu đời nhất trong thế giới.

Các địa điểm nổi tiếng khác bao gồm Cung điện Buckingham là nơi ở chính thức của Nữ hoàng Anh, London Eye, Piccadilly Circus, Nhà thờ St. Paul, Tháp Tower Bridge, Quảng trường Trafalgar và The Shard…

Các tòa nhà ở London quá đa dạng có phong cách kiến trúc đặc biệt, một phần vì lứa tuổi khác nhau, phần khác được cách kiến trúc đặc thù. Nhiều ngôi nhà lớn và các tòa nhà công cộng, chẳng hạn như Thư viện Quốc gia được xây dựng từ đá Portland. Một số khu vực của thành phố, đặc biệt là ở phía tây của trung tâm, được đặc trưng bởi đá vôi trắng. Còn lại một số cấu trúc ở trung tâm London có từ trước cả hỏa hoạn năm 1666. Tháp London và những công trình kiến trúc thời Tudor vẫn sống sót rải rác trong thành phố, ví dụ như Hampton Court Palace, cung điện cổ xưa nhất thời Tudor của Anh, được xây dựng bởi Đức Hồng Y Thomas Wolsey khoảng năm 1515. Nhà thờ Wren thuộc của cuối thế kỷ 17 và các tổ chức tài chính của thế kỷ 18 và 19 như Sở giao dịch Hoàng gia và Ngân hàng Anh, đến đầu thế kỷ 20 có Old Bailey và những năm 1960 tòa nhà động sản Barbican là một phần của kiến trúc đa dạng ở đây.

Đài tưởng niệm Albert và Royal Albert Hall ở Kensington. Cột Nelson là một di tích quốc gia được công nhận tại Quảng trường Trafalgar, một trong những điểm trọng tâm của trung tâm thành phố. Tòa nhà cũ chủ yếu là gạch, phổ biến nhất London gạch cổ vàng hoặc nhiều màu đỏ da cam ấm áp, thường được trang trí chạm khắc và khuôn thạch cao trắng.

Trong khu vực dày đặc, hầu hết tập trung các tòa nhà trung và cao tầng. Tòa nhà chọc trời của London như 30 St Mary Axe, Tháp 42, Broadgate Tháp và Quảng trường One Canada thường được tìm thấy trong hai khu tài chính, thành phố London và Canary Wharf. Tòa nhà hiện đại đáng chú ý khác bao gồm Tòa thị chính ở Southwark với hình bầu dục đặc biệt của nó, và Thư viện Anh trong Somers Town, Kings Cross.

Phát triển cao tầng bị hạn chế tại các địa điểm nhất định nếu nó sẽ cản trở tầm nhìn bảo vệ Nhà thờ St. Paul và tòa nhà lịch sử khác. Tuy nhiên có một số tòa nhà chọc trời rất cao được tìm thấy ở trung tâm London, bao gồm nhà 72 tầng ở Shard London Bridge, tòa nhà cao nhất trong Liên minh châu Âu.

London là nơi có nhiều viện bảo tàng, phòng trưng bày, thư viện, sự kiện thể thao và các tổ chức văn hóa khác, trong đó có Bảo tàng Anh, Thư viện Quốc gia, Bảo tàng Tate Modern, Thư viện Anh và 40 nhà hát ở West End.

Các công viên lớn nhất trong khu vực trung tâm của London gồm: Công viên Hoàng gia, cụ thể là công viên Hyde Park và bên cạnh là Kensington Gardens ở rìa phía tây của trung tâm London, và công viên Regent ở rìa phía bắc. [Công viên Regent có Sở thú London, sở thú khoa học lâu đời nhất của thế giới, và nằm gần các địa điểm du lịch của Bảo tàng Sáp Madame Tussauds.

Gần với trung tâm London là Công viên St James. Hyde Park đặc biệt là cho giới chơi thể thao và đôi khi tổ chức các buổi hòa nhạc ngoài trời. Một số công viên lớn nằm ngoài trung tâm thành phố, trong đó có Công viên Hoàng gia Greenwich ở phía nam - đông và Công viên Bushy và Richmond Park (lớn nhất ) về phía tây, như cũng như Victoria Park, Luân Đôn về phía đông. Primrose Hill ở phía bắc của công viên Regent là một điểm phổ biến để xem đường chân trời thành phố.

Vài nét lịch sử về thành London

London nằm bên sông Thames, là thành phố có bề dài lịch sử hai thiên niên kỷ, và đi ngược lại từ thời người La Mã đến cư ngụ và đặt tên là Londinium. Đây là một tên cổ xưa và có thể được tìm thấy nguồn từ thế kỷ thứ 2. Nó được ghi lại là vào năm 121 với tên Londinium.

Hai phát hiện khảo cổ gần đây cho thấy London có thể là lớn tuổi hơn nhiều so với suy nghĩ trước đây. Trong năm 1999, phần còn lại của một cây cầu thời đại đồ đồng đã được tìm thấy trên bãi biển phía bắc cầu Vauxhall Bridge. Cây cầu này hoặc vượt qua sông Thames, hoặc đi đến một hòn đảo trên sông (đã bị mất). Rồi trong năm 2010, lại tìm thấy một cấu trúc gỗ lớn có niên đại lâu tới 4500 BC (trước Công nguyên).

Cho tới năm 1300 thành phố vẫn còn bị giới hạn trong các bức tường cổ người La Mã xây trước đây từ năm 43 AD. Ở thời đỉnh cao trong thế kỷ thứ 2, thành London La Mã đã có một dân số khoảng 60.000 người.

Với sự sụp đổ của đế quốc La Mã trong những năm đầu thế kỷ thứ 5, London không còn là một thành phố có tường bao quanh thời Londinium nữa, thành bị bỏ rơi và tường thành bị tổn thất.

Từ khoảng năm 500, một khu định cư của Anglo-Saxon được biết đến như Lundenwic phát triển trong cùng một khu vực, nằm về phía tây của thành phố London La Mã cũ.

Từ những năm 820, London nhiều lần chống lại các cuộc tấn công của người Viking và theo lịch sử ghi lại nhận rằng London được Đại đế Alfred tái lập trong năm 886. Từ từ cho đến khoảng 950, London có những hoạt động tăng lên đáng kể.

Vào thế kỷ 11, London đã vượt quá tất cả các thành phố lớn nhất nước Anh. Tu viện Westminster được xây dựng lại theo phong cách La Mã bởi vua Edward the Confessor, là một trong những nhà thờ vĩ đại nhất ở châu Âu. Thành Winchester đã từng là thủ đô của người Anglo- Saxon, nhưng từ thời điểm này trở đi, London đã trở thành diễn đàn chính cho thương nhân nước ngoài và các cơ sở quốc phòng trong thời chiến.

Tu viện Westminster là một di sản thế giới và là một trong những tòa nhà lâu đời nhất và quan trọng nhất của London. Sau chiến thắng của William trong trận Hastings, Công tước xứ Normandy, William đã đăng quang làm vua của nước Anh trong nhà thờ Tu viện Westminster Abbey vừa được hoàn thành vào ngày Giáng sinh năm 1066.

Vua William xây dựng lại Tháp London bằng đá như nhiều lâu đài Norman ở Anh. Năm 1097, William II bắt đầu việc xây dựng Westminster Hall, gần tu viện cùng tên. Hội trường trở thành cơ sở của một cung điện mới của Westminster.

Trong thế kỷ 12, nơi đây tập trung các tổ chức của chính quyền trung ương, trong đó gồm có tòa án hoàng gia Anh, các kho bạc hoàng gia. Trong khi thành phố Westminster phát triển thành một thủ đô thực sự về chính trị, thì thành phố London, hàng xóm của Wesminter phát triển thành thành phố lớn nhất nước Anh và trung tâm thương mại chính, và nó phát triển mạnh mẽ dưới sự quản lý độc đáo của Tổng công ty Luân Đôn. Vào năm 1100, dân số là khoảng 18.000; những tới năm 1300 nó đã tăng lên đến gần 100.000.

Thảm họa Dịch Đen (Black Death) xảy ra trong trong giữa thế kỷ 14, khi đó London bị mất đi gần một phần ba dân số. Tiếp theo, London là trọng tâm của cuộc nổi dậy của nông dân năm 1381.

Trong thời gian dưới triều đại nhà Tudor, London biến đổi nhiều theo cuộc cải cách xuất phát từ sự thay đổi sang đạo Tin lành và chiều hướng kính tế mới và ngành hằng hải làm cho London dần dần trở thành quan trọng.

Trước đây các tuyến đường thương mại từ Ý và Địa Trung Hải thường thông qua Antwerp ở Bỉ, những nay nhiều các tàu có thể đi qua eo biển Gibraltar hoặc từ nước Anh có thể thông qua Ý hoặc Ragusan. Sau khi mở cửa thông thương với Hà Lan, Các công ty dịch vụ và tài chánh như Royal Exchange được thành lập. Các công ty thương mại độc quyền như Công ty Đông Ấn Độ đã được thành lập, với thương mại mở rộng đến thế giới mới, London trở thành cảng biển Bắc chủ yếu của Anh quốc.

London bị ám ảnh bởi bệnh tật trong những năm đầu thế kỷ 17, mà đỉnh cao là đại Dịch Hạch 1665-1666, làm thiệt mạng lên đến 100.000 người, hoặc một phần năm dân số.

Vào năm 1666, đại hỏa hoạn London lại một lần nữa phá hủy nhiều phần của thành phố. Đại hỏa hoạn nổ ra trong ngõ Pudding và nhanh chóng quét qua các tòa nhà bằng gỗ làm London trờ thành biển lửa.

Năm 1708 Nhà thờ St. Paul được hoàn thành do kiệt tác của Christopher Wren vẽ họa đồ xây.

Quận mới như Mayfair được hình thành ở phía Tây và cây cầu mới trên sông Thames đã hoan thành thúc đẩy sự phát triển ở phía Nam thành London. Ở phía Đông, cảng London mở rộng khu vựa hạ lưu. Kinh tế phát triển mạnh them.

Năm 1762, Vua George III mua dinh thự Buckingham và từ đó nó đã được mở rộng trong suốt 75 năm tiếp theo.

Trong thế kỷ 18, Luân Đôn là nơi có nhiều thành phần tội phạm nên một lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp đã đã được thành lập vào năm 1750. Các quán cà phê đã trở thành một nơi phổ biến để tranh luận về ý tưởng, với phát triển văn hóa và sự phát triển của báo chí in ấn làm cho tin tức phổ biến rộng rãi, và Fleet Street đã trở thành trung tâm của báo chí Anh.

London trở thành là thành phố lớn nhất thế giới trong khoảng từ khoảng 1831-1925. Do điều kiện người ở đông đúc chật hẹp và thiếu vệ sinh của London dẫn đến dịch tả, dịch bệnh, làm nhiều người chết. Trong giai đoạn có tới 74% trẻ em sinh ra tại London đã chết trước khi được 1 tuổi.

Dân số tăng làm ùn tắc giao thông dẫn đến việc tạo ra mạng lưới đường sắt đô thị - đường tầu lửa ngầm đầu tiên được xây cất ở đây.

London bị Đức đánh bom trong Thế Chiến II với chiến dịch Blitz và vụ đánh bom khác của Không quân Đức giết chết hơn 30.000 người London và phá hủy vùng rộng lớn các dinh thự và phố xá, các công trình xây dựng khác trong thành phố. Ngay sau khi chiến tranh, Thế vận hội Mùa hè 1948 đã được tổ chức tại sân vận động Wembley ban đầu, vào thời điểm mà Luân Đôn chưa kịp phục hồi sau chiến tranh.

London sương mù và bị khí bẩn do các nhà máy phát triển kính tế làm cho bầu trời luôn u ám. Mùa Đại Khói năm 1952 đã dẫn đến luật Thanh lọc khí bẩn Clean Air Act năm 1956, kết thúc "sương mù súp đậu " mà London đã được nổi tiếng.

Từ những năm 1940 trở đi, London đã trở thành nhà của một số lượng lớn người nhập cư, chủ yếu từ các quốc gia thuộc khu vực Thịnh Vượng Chung như Jamaica, Ấn Độ, Bangladesh và Pakistan, làm cho London là một trong những thành phố đa dạng nhất ở châu Âu.

Chủ yếu bắt đầu từ giữa những năm 1960, London đã trở thành một trung tâm văn hóa của thanh thiếu niên trên toàn thế giới, minh họa bằng “Swinging London”, các tụ điểm tiểu văn hóa tại King Road, Chelsea và Carnaby Street. Vai trò của “đạt tiêu chuẩn ‘mốt’ và ‘thời trang’ trendsetter đã được hồi sinh trong thời kỳ punk ở London.

Năm 1965, ranh giới chính trị của London đã được mở rộng gồm các khu vực đô thị và Hội đồng Greater London mới được tạo ra.

Rồi đối diện với cuộc tranh chấp với miền Bắc Ireland, Luân Đôn đã bị quân IRA (Tổ chức vùng dậy của người Bắc Ái nhĩ lan) tấn công bằng ném bom tay liên miên. Bất bình đẳng chủng tộc đã được nhấn mạnh bởi các người Brixton tạo bạo loạn vào năm 1981.

Các cảng chính ở London chuyển đến hạ lưu ở Felixstowe và Tilbury, với các khu vực Docklands của Luân Đôn trở thành trọng tâm cho sự tái sinh như sự phát triển các Đội Canary Wharf. Điều này làm vai trò ngày càng tăng của London như một trung tâm tài chính quốc tế trong những năm thập niên 1980.

Tuyến phòng chống lụt sông Thames (Barrier Thames) được hoàn thành vào những năm 1980 để bảo vệ London chống lại triều cường từ Biển Bắc.

Năm 2000, Để chào mừng sự khởi đầu của thế kỷ 21, Millennium Dome, London Eye và Cầu Thiên niên kỷ đã được xây dựng. Ngày 6 tháng 7 năm 2005 London đã được trao tổ chức Thế vận hội Mùa hè 2012, làm cho London thành phố đầu tiên đến giai đoạn Thế vận hội Olympic ba lần.

Tham quan thành phố London, tự nhiên nghiệm được sự hối hả và nhộn nhịp của nó như khi đến thăm Quảng trường Leicester, hay Piccadilly Circle ở trung tâm của khu nhà hát London. Thế rồi chúng ta dừng lại, hãy tìm lại sự yên tĩnh khi dừng chân tại công viên ngắm sự hùng vĩ của cung điện Buckingham, có thể tham quan phòng của Cung điện Buckingham. Ở đây trong một số tác phẩm nghệ thuật tuyệt đẹp, sẽ thấy nơi Nữ hoàng và các thành viên của Hoàng gia tiếp quan khách nhà nước và các chính khách quốc tế, trong các dịp lễ và nghi lễ hoàng gia chính thức. Có thể thăm lối vào của các Đại sứ, các nhà ngoại giao đến các phòng khách tiếp tân...

Thăm London, ta chứng kiến những gì là cũ và mới cùng đứng cạnh nhau; lịch sử, hào nhoáng và truyền thống kết hợp với hiện đại, lập dị và tiên phong. Có một cái gì đó cho tất cả mọi người ở đây.

2. Thăm thành phố và nhà thờ chính tòa Canterbury

Xem hình ảnh Canterbury

Từ cảng Dover lái xe quãng 1 giờ đồng hồ là tới Canterbury, vùng miền Nam nước Anh này có bề dài lịch sử cả 4.000 năm văn hiến. Con đường dẫn vào thôn Canterbury có màu xanh lá cây như thời trung cổ và qua cổng thành nhìn ngay thấy Nhà thờ Canterbury tráng lệ, được xây dựng trong hai giai đoạn từ 1070-1184 và 1391-1505. Sau đây hãy cùng chúng tôi theo dõi thiên lịch sử anh hùng ca của Canterbury và nhà thờ chính tòa từ thời xa xưa cho tới nay, không những chỉ lịch sử, kiến trúc, nghệ thuật mà còn là nôi sinh tôn giáo quan trọng của Anh quốc.

Canterbury nằm ở phía đông của Kent, khoảng 55 dặm (89 km) về phía đông-đông nam London. Nhà thờ chính tòa Canterbury tọa lạc tại trung tâm thành phố lịch sử Canterbury, một quận của miền Kent ở Đông Nam nước Anh. Thành phố nằm bên bờ sông Stour, nguồn nước sông chảy từ Lenham phía đông bắc qua Ashford đến eo biển Anh tại Sandwich. Sông phân chia phía đông nam của thành phố. Hai chi nhánh phân chia nhiều lần, nhưng cuối cùng kết hợp lại xung quanh thị trấn Fordwich, về phía đông bắc của thành phố.

Thành phố Canterbury là một điểm đến du lịch nổi tiếng: luôn là một trong những thành phố được du khách tới viếng thăm nhiều nhất ở Vương quốc Anh. Với một triệu du khách mỗi năm, nền kinh tế của thành phố là chủ yếu dựa vào du lịch. Ngoài ra còn có một số sinh viên đáng kể, vì có ba trường đại học ở đây. Tuy nhiên Canterbury là một thành phố tương đối nhỏ, khi so sánh với các thành phố khác của Anh.

Nhà thờ Canterbury là nhà thờ Mẹ của Giáo Hội Anh giáo và Hiệp thông Anh giáo (Anglican Communion) trên toàn thế giới và là Tòa của Tổng giám mục Canterbury. Tòa này được thành lập năm 597 sau Công nguyên bởi thánh Augustinô. Nghi thức phụng vụ được tổ chức tại Nhà thờ ba hoặc nhiều lần trong một ngày.

Quần thể Nhà thờ chánh tòa Canterbury, Nhà thờ thánh Martin và những tàn tích của Tu viện St. Augustinô cổ xưa được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Tu viện Thánh Augustinô được coi là nôi sinh của Thiên Chúa giáo khi Đạo Công Giáo được thánh nhân đưa đến nước Anh.

Nhiều cấu trúc lịch sử vẫn còn, trong đó có một bức tường thành phố được thành lập vào thời La Mã và xây dựng lại vào thế kỷ 14, những tàn tích của Tu viện St. Augustinô và một lâu đài Norman, và Trường “The King's School” có lẽ là một trường lâu đời nhất ở Anh.

Bảo tàng viện La Mã có tranh khảm trên nền (mosaic) nhà bằng đá qúi mãi từ năm 300 trước Công nguyên. Kiến trúc cổ còn sống sót từ thời La Mã bao gồm cửa thành Queningate, cổng ngăn chặn nằm trong tường của thành phố.

Những tàn tích của lâu đài Canterbury Castle thời Norman và Tu viện St Augustinô đều mở cửa cho công chúng vào xem. Nhà thờ St. Margaret thời Trung cổ hiện nay có tích trữ sách "The Canterbury Tales", trong đó có các mô hình các nhân vật có kích thước giống người thật được tái tạo từ những câu chuyện của Geoffrey Chaucer.

Theo thống kê của Vương quốc Anh năm 2001 tổng dân số của phường, khu đô thị của thành phố là là 43.432 người. Cư dân của thành phố có tuổi trung bình là 37 năm, trẻ hơn so với tuổi trung bình dân Anh. Trong số 17.536 hộ gia đình, 35% là người sống độc thân, 39% là các cặp vợ chồng, 10% là các bậc cha mẹ đơn. Trong số những người ở độ tuổi 16-74 trong thành phố, 27% có trình độ giáo dục cao, cao hơn bình quân cả nước là 20%. Có khoảng 95% cư dân là da trắng, nhóm thiểu số lớn nhất được ghi nhận là châu Á, với 1,8% dân số. Tôn giáo được ghi nhận là 68,2% Kitô giáo, Hồi giáo 1,1%, 0,5% Phật giáo, Ấn Độ giáo 0,8%, 0,2% người Do Thái, và 0,1% Sikh. Phần còn lại hoặc không có tôn giáo, một tôn giáo khác, hoặc không nói rõ tôn giáo của họ.

Thành phố này cũng nổi danh vì các đại học, thời kỳ hiện đại gồm thêm các Đại học University of Kent, Canterbury Christ Church University, the University College for the Creative Arts, Nhà hát Marlowe, và the St Lawrence Ground, nơi Kent County Cricket Club tụ trì.

Bảo tàng Canterbury, sở hữu nhiều cuộc triển lãm, một trong số đó là Bảo tàng Rupert Bear. Nhà hát Tudor lâu đời nhất ở Canterbury, trước đây gọi là Casey. Có một số nhóm hát có trụ sở tại Canterbury, bao gồm Đại học Kịch nghệ, Hội Liên minh sinh viên Kent, Hội các cầu thủ Canterbury và Nhà hát Tuổi trẻ Kent.

Liên hoan Canterbury diễn ra hơn hai tuần trong tháng Mười hàng năm ở Canterbury và xung quanh thị trấn. Nó bao gồm một loạt các sự kiện âm nhạc khác nhau, từ opera và nhạc giao hưởng buổi biểu diễn âm nhạc thế giới, nhạc jazz, nhạc dân gian, vv, với một câu lạc bộ lễ hội. Canterbury cũng tổ chức hàng năm trên Lễ hội trại trong tháng bảy, mà chủ yếu là nhìn thấy màn biểu diễn nhạc rock, indie và khiêu vũ nghệ sĩ.

Huyện Canterbury có khoảng 4.761 doanh nghiệp, có chừng 60.000 người làm việc toàn phàn hay bán phần, lởi tức thu trị giá 1,3 tỷ bảng Anh trong năm 2001. Đây là khu vực đứng hạng của nền kinh tế ở Kent. Vào năm 2008 Tổng giám mục Canterbury, Tiến sĩ Rowan Williams, đã gây cuộc tranh cãi lớn khi ngài phát biểu rằng mức lương trần trả cho người giầu cần được thực hiện để kiềm chế nhằm quản lý sự phát triển nền kinh tế.

Du lịch góp là quan trọng thu được 258 triệu bảng Anh cho nền kinh tế Canterbury và được coi là nền tảng của nền kinh tế địa phương qua nhiều năm. Nhà thờ chính tòa Canterbury lôi cuốn hơn một triệu du khách mỗi năm. Canterbury có GDP bình quân cao ở khoảng $ 51,900 bảng Anh cho một người và trở thành một trong những thị trấn giàu có ở vùng Đông Nam. Tỷ lệ thất nghiệp tính đến tháng 9 năm 2011 ở mức 5,7%.

Westgate bây giờ là một bảo tàng viện có liên quan đến lịch sử nhà tù. Nhà thờ thánh Alphege thời trung cổ bị bỏ rơi, nhưng vào năm 1982 đã tân trang cho Trung tâm Nghiên cứu đô thị Canterbury thuê và có cuộc sống mới và sau đổi tên thành Trung tâm Môi trường Canterbury, Hội Đường Do thái giáo cũ ở Canterbury, bây giờ thành phòng âm nhạc của King’s School và đó là một trong hai Hội đường Do Thái Ai Cập hồi sinh vẫn còn tồn tại.

Khi bước chân vào thăm nhà thờ chính tòa Canterbury, ta không khỏi choáng ngợp vì kiến trúc gothic tinh vi và sức cuốn hút cao ngút trời từ những khối đá đã biến thành nhữ những tấm vải ren xếp hàng lên nhau, ép vào các cột tháp, các vòm cửa, tháp chuông, như những bàn tay cầu nguyện vươn cao muốn bay bổng như lời kinh tới trời xanh thẳm.

Vào tham quan trong nhà thờ, còn tích tụ ở đó không biết bao nhiêu mộ chôn các vị thánh, đồ thánh, chén thánh, ảnh tượng, tranh ảnh nghệ thuật và vết tích lịch sử qua ngàn năm. Chứng kiến tận mắt các dấu tích lịch sử và từ từ ôn lại lịch sử của các anh hùng chứng nhân cho đức tin của Chúa Giêsu qua các thăng trầm bị bách hại hay thời vàng son, chúng ta không khỏi không xúc động khi thấy được vết lăn lịch sử của cả trăm năm hãy còn chạm vào được, như ngai tòa của thành Augustinô, nơi tử đạo của thánh Thomas Becket…

Không thể ghi lại hết các chi tiết các vật dụng hay các trang trí nghệ thuật trong nhà thờ, vì qua nhiều, nên chúng tôi sẽ hoãn lại chờ một dịp khác…

Lịch sử Canterbury qua các thời đại:

Khu vực Canterbury đã có người ở từ thời tiền sử. Tiếp đến là thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá mới và thời đồ đồng, nhiều dụng cụ gia dụng đã được tìm thấy trong khu vực này. Canterbury lần đầu tiên được ghi nhận có người cư ngụ là bộ lạc Celtic, người Cantiaci, nay là tổ tiên người dân Kent hiện đại.

Ban đầu người bản địa Brythonic định cư ở đây và đặt tên là Durou̯ernon (gốc chữ Latinh Duro là vững chãi, và u̯erno là một loại cây). Trong thế kỷ 1, người La Mã chiếm thành, và đặt tên là Durovernum Cantiacorum, có nghĩa là "thành trì của Cantiaci trong khu rừng cây”. Người La Mã đã xây dựng lại thành phố, với những con đường mới trong một mô hình theo khuôn vuông vắn, có nhà hát, hí trường và nhà tắm công cộng. Vào cuối thế kỷ thứ 3, để bảo vệ chống lại cuộc tấn công từ man rợ, người La Mã xây dựng xung quanh thành phố một lũy đất và một bức tường bao bọc với bảy cửa thành, khu vực với diện tích là 130 mẫu Anh (chừng 53 hecta)

Sau khi người La Mã rời nước Anh vào năm 410 AD, thành Durovernum Cantiacorum đã bị bỏ rơi, chỉ còn lại ít nông dân, rồi thành dần dần bị hư hỏng. Trên hơn 100 năm tới, một cộng đồng người Anglo-Saxon được hình thành trong thành phố. Tới khi có người tị nạn tộc Jutish đến định cư, có thể họ đã cưới và lai giống với người dân địa phương, họ đặt lại tên thành phố là Cantwaraburh, có nghĩa là "thành trì của người dân Kent”.

Năm 597 AD, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả gửi giám mục Augustinô đến truyền giáo cố ý cải đạo cho Vua Æthelberht của Kent theo Kitô giáo. Sau khi vua trở lại đạo thì thành Canterbury cũng trở thành một thành của người Roma. Thánh Augustinô chọn Canterbury làm ngai tòa Giám mục của Kent. Một tu viện và một nhà thờ chính tòa được xây cất lên.

Augustinô được trở thành Tổng giám mục đầu tiên của Canterbury. Tầm quan trọng mới của thành phố có Tòa Giám Mục dẫn đến sự hồi sinh của nó, và các ngành nghề phát triển gồm đồ gốm, dệt may và da. Vào năm 630, những đồng tiền vàng được đúc ra từ lò sản xuất tại Canterbury. Năm 672 Thượng Hội Đồng Hertford họp và nâng Tòa Giám Mục Canterbury thành ngai tòa có thẩm quyền trên toàn thể Giáo Hội Anh.

Vào năm 842 và 851, Canterbury bị cuộc tấn công của người Đan Mạch làm mất mát biết bao sinh mạng.

Năm 978, Đức Tổng Giám Mục Dunstan tái lập tu viện được Augustinô xây dựng, và đặt tên là Tu viện St. Augustinô.

Một làn sóng tấn công thứ hai do người Đan Mạch bắt đầu từ năm 991, và trong năm 1011 nhà thờ bị cháy và Đức Tổng Giám Mục Alphege đã bị giết chết. Nhớ lại sự tàn phá gây ra bởi người Đan Mạch, các cư dân của Canterbury đã không chống lại cuộc xâm lược của William Conqueror năm 1066. William lập tức ra lệnh xây một lâu đài bằng gỗ và chất hồ trộn với thân cây lúa bailey, xây gần bức tường thành thời La Mã. Trong những năm đầu thế kỷ 12, lâu đài được xây dựng lại bằng đá.

Thánh Thomas Becket bị giết tại Nhà thờ Canterbury trong năm 1170. Sau cái chết của Đức Tổng Giám Mục Thomas Becket, Canterbury đã trở thành một trong những thị trấn đáng chú ý nhất ở châu Âu, khi người hành hương từ khắp các vùng đất Kitô giáo đến thăm mộ thánh Thomas Becket. Những cuộc hành hương này cung cấp chủ đề cho tác phẩm văn học cổ điển thế kỷ 14 “The Canterbury Tales – Những câu chuyện kể về Canterbury” của tác giả Geoffrey Chaucer. Các di sản văn học tiếp tục với sự ra đời của nhà viết kịch Christopher Marlowe sinh trong thành phố này vào thế kỷ 16.

Canterbury liên quan với nhiều vị thánh từng sống từ thế kỷ 14-17 ở Canterbury:

• Saint Augustinô Canterbury
• Saint Anselm thành Canterbury
• Saint Thomas Becket
• Saint Theodore của Tarsus
• Saint Dunstan
• Saint Adrian của Canterbury
• Saint Alphege
• Saint Æthelberht của Kent.

Nạn Dịch Đen Chết Người tàn phá cư dân Canterbury vào năm 1348. Từ con số 10.000 dân, Canterbury có dân số lớn thứ 10 ở Anh, tới đầu thế kỷ 16, dân số đã giảm xuống còn 3.000. Trong năm 1363, trong cuộc chiến tranh Trăm Năm, một Ủy ban điều tra phát hiện ra rằng tình trạng thành xuống cấp, đá tường bị cướp và mương-điền bị lấp đầy, dẫn đến tình trạng bức tường La Mã bị xói mòn. Giữa 1378 và 1402, bức tường đã gần như được xây dựng lại, và tháp tường mới được thêm vào. Năm 1381, trong cuộc nổi dậy của nông dân, lâu đài và Tòa Tổng Giám mục đã bị vây hãm, và Đức Tổng Giám Mục Sudbury bị chặt đầu ở London. TGM Sudbury vẫn còn được nhớ tới hàng năm vào mùa Giáng sinh có cuộc rước lớn đến ngôi mộ của ngài được chôn tại nhà thờ chính tòa Canterbury. Vào năm 1413 vua Henry IV đã trở thành vị vua duy nhất được chôn cất tại nhà thờ chính tòa này.

Năm 1448 Canterbury đã được vua cấp một Hiến Chương đặc biệt cho thành phố, trong đó thị trưởng và cảnh sát trưởng được chức Lord Mayor. Năm 1504 tháp chính của nhà thờ có tên tháp Bell Harry đã được hoàn thành, kết thúc 400 năm xây dựng đại thánh đường này.

Trong quá trình giải thể của các Tu viện Công Giáo ở Anh quốc, thành phố có một nam tu viện, một tu viện cho các sơ, ba tu viện cho sư huynh đều đã bị đóng cửa. Tu viện St Augustinô vào thời đó là tu viện giầu thứ 14 tại Anh, thế nên tài sản cũng đã phải trao nộp vào Hoàng gia Anh, và nhà thờ và tu viện của ấy đã bị phá đổ. Phần còn lại của tu viện đã bị tháo dỡ trong vòng 15 năm tới. Một phần còn lại của tu viện đã được chuyển đổi thành một cung điện. Nhà nguyện kính thánh Thomas Becket đã bị phá hủy và tất cả vàng, bạc và ngọc qúi đã được gỡ bỏ và maqng về Tower of London. Cũng vậy các hình ảnh, tượng, tên và ngày lễ mừng Thánh Becket được xóa sạch trên toàn vương quốc, kết thúc các cuộc hành hương kính viếng thánh nhân.

Vào thế kỷ 17, dân số Canterbury có chừng 5.000 người, trong đó 2.000 là người Huguenot Tin Lành nói tiếng Pháp. Họ là những người đã bắt đầu chạy trốn cuộc đàn áp người gốc Tây Ban Nha ở Hà Lan trong cuộc chiến tranh vào giữa thế kỷ 16. Người Huguenot giới thiệu việc dệt lụa tơ tằm vào thành phố, mà tới khoảng năm 1676 thì dệt tơ tằm đã vượt xa công nghệ dệt len.

Năm 1620 ông Robert Cushman đã đàm phán được một hợp đồng thuê tầu Mayflower tại số 59 đường Palace với mục đích vận chuyển những người Thanh giáo sang Mỹ châu.

Vào năm 1647, trong cuộc nội chiến Anh, những cuộc bạo loạn nổ ra khi thị trưởng thành phố Thanh giáo Canterbury cấm mừng lễ Chúa Giáng sinh. Năm sau khi Tòa án xử những người nổi loạn đã dẫn đến một cuộc nổi dậy ở Kent chống lại các lực lượng của Parliament (Nghị viện) góp phần vào sự khởi đầu của giai đoạn thứ hai của cuộc chiến. Tuy nhiên, thành Canterbury đã phải đầu hàng thể chế Nghị Viện Anh một cách hòa bình sau Nghị viện chiến thắng trong trận đánh ở Maidstone.

Khoảng năm 1770, lâu đài ở Canterbury đã đổ nát, và nhiều phần của nó đã bị phá hủy trong thời gian cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Năm 1787 tất cả các cửa trong tường thành phố, ngoại trừ Westgate, cũng như nhà tù thành phố bị phá hủy danh cho dự án mở đường cho xe ngựa di chuyển. Năm 1820 ngành công nghiệp lụa của thành phố kẹp chết vì những người Hồi giáo Ấn Độ mạng tơ lụa tới. Đường sắt ở Canterbury và Whitstable là những toa xe lửa chở khách đầu tiên trên thế giới, được khai trương vào năm 1830. Giữa năm 1830 và năm 1900, dân số thành phố đã tăng từ 15.000 đến 24.000. Nhà tù Canterbury đã được mở cửa vào năm 1808 ngay bên ngoài ranh giới thành phố.

Trong cuộc Thế Chiến thứ nhất, một số doanh trại và bệnh viện tự nguyện đã được thiết lập xung quanh thành phố, và vào năm 1917 một máy bay ném bom của Đức đã nhao xuống và vỡ tan gần đường Broad Oak Road.

Trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, có tới 10.445 quả bom được ném xuống thành phố trong 135 phi vụ tấn công riêng biệt. Hậu quả là nó phá hủy 731 ngôi nhà và 296 dinh thự khác trong thành phố, bao gồm cả Trường trung học Simon Langton, và 115 người bị thiệt mạng. Cuộc tấn công tàn phá nhất là vào ngày 01 tháng 6 năm 1942 trong chiến dịc tốc chiến có tên là Blitz Baedeker.

Trước khi kết thúc chiến tranh, kiến trúc sư Charles Holden đã lập kế hoạch để tái phát triển trung tâm thành phố, nhưng người dân địa phương đã phản đối mạnh mẽ và họ lập thành Hội Công dân Đề kháng. Họ đã thành công và lên nắm quyền trong cuộc bầu cử địa phương năm 1945. Xây dựng lại trung tâm thành phố cuối cùng đã bắt đầu 10 năm sau chiến tranh. Một đường vành đai được xây dựng từng giai đoạn bên ngoài các bức tường thành phố một thời gian sau đó để giảm bớt vấn đề giao thông ngày càng tăng từ trung tâm thành phố, mà sau này biến thành đường cho khách đi bộ. Việc mở rộng lớn nhất của thành phố xảy ra trong những năm 1960, với sự xuất hiện của Đại học Kent ở Canterbury và Christ Church College.

Một khách nổi tiếng khác là Mahatma Gandhi, người đã đến thành phố trong tháng 10 năm 1931, ông đã gặp ngài Hewlett Johnson, khi đó là Trưởng giáo của Canterbury.

Trong thập niên 1980, Canterbury chứng kiến các chuyến thăm viếng của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II và Nữ hoàng Elizabeth II, và khởi đầu cho Lễ hội Canterbury hàng năm. Từ năm 1999 đến năm 2005, Trung tâm mua sắm Whitefriars trải qua thời tái phát triển lớn lao. Năm 2000, trong thời gian tái phát triển, một dự án khảo cổ học lớn được thực hiện bởi Canterbury Archaeological Trust, được biết tới như là cuộc Đào Bới Lớn (Big Dig).

3. Lâu đài Dover sừng sững nhìn về eo biển Calais

Xem hình ảnh Lâu đài Dover

Lâu đài Dover nằm cao nhất trên đĩnh núi đá vôi trong thị trần Dover và lịch sử của nơi này đã ghi dấu hơn 2 thiên niên kỷ trước. Lâu đài tráng lệ này này lớn nhất ở Anh quốc và được thành lập vào thế kỷ 12 và đã được mô tả như là "chính nước Anh" do tầm quan trọng phòng thủ của nó trong lịch sử. Nó đã từng bảo vệ bờ biển Anh quốc qua bao thế kỷ từ các cuộc xâm lược của ngoại bang và nhất là trong kỳ thế chiến II. Vách đá trắng đá vôi đối mặt với lục địa châu Âu ở phần hẹp nhất của eo biển Anh quốc.

Ngày nay khi thăm lâu đài Dover chúng ta được thưởng thức sự tương phản màu sắc với sự đa dạng về trang bị quần áo, đồ dùng, súng ống và các di tích lịch sử đầy đủ trong Tháp Tower lớn. Đồng thời cũng được xem các diễn viên trong trang phục cổ xưa giới thiệu và trình bầy cuộc sống cổ xưa La mã và thời trung cổ tại tòa án của vua Henry II. Đi tham quan các phòng ốc và thăm viếng phòng trình bầy lịch sử các triều đại Anh quốc.

Khi thăm lâu đài chúng ta sẽ dễ nhận thấy ngọn hải đăng La Mã cao 24 mét hay còn gọi là hải đăng Dover (hoặc Pharoses), một hải đăng khác cũng còn tồn tại và nằm trên phía hướng Tây đối lập, qua thị trấn Dover. Ngọn hải đăng La Mã tại Lâu đài Dover được xây cất trước cả khi người La Mã xâm chiếm Anh quốc vào năm 43 sau công nguyên. Trong cuộc khai quật trên các gò đất nằm dưới nhà thờ và gần hải đăng Pharos phát hiện có dấu tích dân cư thời kỳ đồng sinh sống tại đây.

Sau trận đánh có tên Hastings trong tháng 10 năm 1066, Vua William (the Conqueror) người Chiến Thắng và lực lượng của vua hành quân đến Tu viện Westminster làm lễ đăng quang lên ngôi vua. Họ làm một con đường vòng xoay qua thành Romney, Dover, Canterbury, Surrey và Berkshire. Vị trí của cảng Dover luôn luôn là yếu tố chiến lược quan trọng mà vì vậy thu hút sự chú ý của vua William.

Lâu đài được xây dựng đầu tiên, hoàn toàn bằng đất sét. Tới thời Saxon pháo đài được xây vửng chắc hơn và tập trung gần nhà thờ St Mary Saxon de Castro, mặc dù bằng chứng khảo cổ cho thấy rằng nó thực sự là một motte mới và thiết kế với chất bailey như lâu đài xây dựng từ đầu gần đó.

Xây dựng lại lớn đã diễn ra vào cuối thế kỷ 18 trong thời chiến tranh Napoleon. William Twiss, các kỹ sư chỉ huy của các huyện phía Nam, đã xây dựng lâu đài kiên cố để cải thiện phòng thủ của thị trấn, hoàn thành các pháo đài phòng thủ bên ngoài Lâu đài Dover, thêm các súng ở vị trí ở phía đông, và xây dựng Bastion nhà ở cho binh lính Constable để bảo vệ thêm ở phía tây. William Twiss cũng xây dựng Cổng Canon để liên kết hệ thống phòng thủ của lâu đài với những người trong thị trấn.

Nếu muốn có thể xuống khám phá địa đạo thời chiến bí mật nằm ngày trong chân đồi trong khuân viên lâu đài phía nhìn ra biển Calais hướng về nước Pháp.

Địa đạo bí mật thời chiến dưới Lâu đài Dover

Với Dover trở thành một thị trấn đồn trú, nên có thêm các doanh trại và nhà kho cho các binh sĩ và trang thiết bị của họ. Các kỹ sư Hoàng gia đã xân thêm đường hầm phức tạp trong doanh trại khoảng 15 mét dưới đỉnh vách đá và các binh sĩ đầu tiên được cung cấp chỗ ở từ năm 1803. Ở đỉnh cao của chiến tranh Napoleon, các đường hầm có thể chứa tới 2.000 binh sĩ và cho đến nay đây là doanh trại ngầm duy nhất được xây dựng ở Anh.

Chiến tranh Napoleon kết thúc, các đường hầm được một phần chuyển đổi và sử dụng cho dịch vụ Phong tỏa bờ biển để chống buôn lậu. Vào năm 1827 trụ sở đã được chuyển gần bờ. Các đường hầm sau đó vẫn bị bỏ rơi trong hơn một thế kỷ.

Sự bùng nổ của Thế chiến thứ hai vào năm 1939 chứng kiến sự chuyển đổi đường hầm thành các đường hầm bí mật và là nơi trú ẩn các cuộc tấn công và sau đó biến thành một trung tâm chỉ huy quân sự và bệnh viện ngầm. Vào năm 1940, Đô đốc Sir Bertram Ramsey chỉ đạo việc sơ tán binh lính Pháp và Anh từ Dunkirk, có tên mã là Dynamo, từ trụ sở chính đặt trong các đường hầm vách đá.

Một tổng đài điện thoại quân sự đã được cài đặt vào năm 1941 và phục vụ các trụ sở dưới lòng đất. Tổng đài đã liên tục sử dụng nên phải có một đường hầm mới được tạo ra để chứa pin và bộ sạc cần thiết để giữ cho chúng hoạt động. Hải quân sử dụng làm tổng hành dinh giao tiếp trực tiếp với các tàu, cũng như sử dụng nó để chỉ đạo nghề cứu hộ máy bay để đón các phi công bị bắn rơi ở eo biển Dover.

Trong đường hầm cũng có một nhà thương vào năm 1941 để phục vụ như một trạm y tế cho thương binh. Binh lính được gửi đến cấp cứu trong các đường hầm và sau đó được chuyển đến bệnh viện nội địa.

Từ năm 2007 đến năm 2009, Tồ chức Di Sản Anh Quốc dành £ 2.450.000 để tái tạo bên trong của lâu đài. Theo số liệu của Hiệp hội các thắng cảnh hàng đầu ở Anh, năm 2012 đã có chừng 400.000 khách du lịch đã đến thăm Lâu đài Dover.

Eo biển và Gibraltar Rock

Xem hình ảnh Gibraltar

Gibraltar là một lãnh thổ hải ngoại của Anh nằm ở cuối phía nam của bán đảo Iberia (Tây Ban Nha) ở lối vào của Địa Trung Hải. Lãnh thổ của Gibraltar bao gồm 6. 8 cây số vuông (2.6 sq miles) và có biên giới dài 1.2 cây số (0,75 dặm) với Tây Ban Nha, tiếp giáp với thị trấn La Línea de la Concepción, một đô thị trong tỉnh Cádiz, nằm ở phía nam biên giới Tây Ban Nha. Địa hình Gibraltar bao gồm Rock cao 426 mét (1,398 ft) khối đá cao của Gibraltar từ thời Jurassic đá vôi. Nó chứa nhiều đường hầm sâu trong đá, hầu hết trong số đó vẫn đang hoạt động cho mục tiêu quân sự, dân không được vào.

Rock of Gibraltar là cột mốc duy nhất của khu vực. Ở chân của núi đá là khu vực thành phố đông dân cư, có gần 30.000 người Gibraltarian và quốc tịch khác sinh sống tại đây.

Bờ biển Gibraltar đo được là 12 km (7,5 dặm) chiều dài. Có hai bờ biển một ở phía Đông, trong đó có các khu định cư của Sandy Bay và Catalan Bay; và phía Tây, nơi mà phần lớn dân số sống. Từ mũi Europa Point, có thể nhìn sang châu Phi khi gặp ngày trời trong sáng.

Chủ quyền của Gibraltar là một điểm tranh luận trong quan hệ Anh quốc - Tây Ban Nha, mỗi khi Tây Ban Nha khẳng định hay tuyên bố quyền lãnh thổ. Đã nhiều lần trưng cầu dân ý, nhưng người dân Gibraltarians từ chối đề nghị chủ quyền thuộc về Tây Ban Nha, như đã xẩy ra trong một cuộc trưng cầu năm 1967 và một lần nữa vào năm 2002. Theo hiến pháp Gibraltar năm 2006, Gibraltar tự lập điều hành vấn đề riêng của mình, mặc dù một số quyền hạn, như quốc phòng và đối ngoại, vẫn là trách nhiệm của Chính phủ Vương quốc Anh.

Các nhóm dân tộc chính gồm người Anh (27%), Tây Ban Nha (24%, chủ yếu là Andalucia nhưng cũng có một số 2% Minorcans), Genova và người Ý khác (20%), Bồ Đào Nha ( 10%), Tiếng Malta (8%), và người Do Thái (3%). Ngoài ra còn có (ít hơn 1%) dân tộc nhỏ của các nhóm khác như Ma rốc, Pháp, Áo, Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan và Đan Mạch.

Ngôn ngữ chính thức của Gibraltar là tiếng Anh, và được sử dụng bởi chính phủ và trong trường học. Hầu hết người dân địa phương biết song ngữ, cũng nói tiếng Tây Ban Nha, do vị thế Gibraltar cạnh ngày Tây Ban Nha. Tuy nhiên, tiếng Ả Rập được cộng đồng Ma-rốc sử dụng, và cả tiếng Hin-ddi và Sindhi của cộng đồng Ấn Độ Gibraltar.

Tình hình tôn giáo ở Gibraltar như sau: Theo điều tra dân số năm 2001, khoảng 78,1% người Gibraltar là người Công Giáo La Mã. Nhà thờ Santa Maria hiện diện ở đây từ thế kỷ thứ mười sáu và là nhà thờ chính tòa Công Giáo Giáo của Giáo phận Gibraltar, và cũng là nhà thờ Công Giáo lâu đời nhất trên lãnh thổ. Giáo phái Kitô giáo khác bao gồm Giáo Hội Anh (7,0%), có Nhà thờ Thiên Chúa Ba Ngôi là nhà thờ chính tòa của Giám Mục Anh giáo của Gibraltar, có nhà thờ Methodist Church, Giáo Hội của Scotland, các nhà thờ Ngũ Tuần và các phong trào Tân Đặc Sủng. Ngoài ra còn có một Hội thuộc Nhân chứng Jehovah. Có 2,9% số ngưới cho biết họ không tôn giáo nào.

Tôn giáo lớn thứ ba là Hồi giáo (4,0% dân số). Ngoài ra còn có một Hindu (1,8%), các thành viên Bahá'í và một cộng đồng Do Thái lâu đời có 584 người, chiếm 2,1% dân số. [Có bốn giáo đường Do Thái Chính thống hoạt động tại Gibraltar và một số cơ sở Kosher.

Giáo dục ở Gibraltar thường theo mô hình Anh, hoạt động trong một hệ thống cấp ba. Gibraltar có mười lăm trường công lập, một trường MOD, một trường tư thục và trường cao đẳng giáo dục hơn.

Tất cả người dân Gibraltar được chăm sóc sức khỏe tại các phòng khám tại các bệnh viện và trung tâm chăm sóc sức khỏe. Tất cả các công dân Anh khác cũng có quyền tự do của điều trị tại Rock nều xuất trình hộ chiếu hợp lệ của Anh quốc trong thời gian lưu trú tối đa 30 ngày. Các dân thuộc khối thị trường chung Âu châu khác đều được điều trị nếu xuất trình một thẻ bảo hiểm y tế châu Âu có hiệu lực. Điều trị nha khoa và các loại thuốc theo quy định được miễn phí cho sinh viên Gibraltar và người về hưu.

Văn hóa của Gibraltar phản ánh nguồn gốc đa dạng của người dân Gibraltar. Trong khi có những ảnh hưởng Tây Ban Nha (chủ yếu là từ vùng Andalusia) và Anh quốc. Các văn hóa khác từ nguồn gốc dân tộc đến từ Genova, Malta, Bồ Đào Nha và Đức. Một vài cư dân Gibraltar khác là Do Thái có nguồn gốc Sephardic, Ma-rốc, hoặc Ấn Độ. Ảnh hưởng của Anh vẫn còn mạnh mẽ, với tiếng Anh là ngôn ngữ của chính phủ, thương mại, giáo dục và các phương tiện truyền thông.

Trở ngược lại lịch sử, vào năm 1704, một lực lượng Anh - Hà Lan chiếm được Gibraltar từ Vương quốc Castile trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha. Lãnh thổ Gibraltar sau đó đã được nhượng lại cho nước Anh "vĩnh viễn" theo Hiệp ước Utrecht năm 1713. Đó là một địa điểm chiến lược quan trọng cho Hải quân Hoàng gia, ngày nay nền kinh tế chủ yếu dựa vào du lịch, chơi game trực tuyến, dịch vụ tài chính, và vận chuyển.

Quân đội Anh thống trị nền kinh tế Gibraltar, với xưởng đóng tàu hải quân cung cấp phần lớn các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên trong vòng hơn hai mươi năm qua việc đóng tầu giảm, và ước tính chỉ chiếm 7% của nền kinh tế địa phương, so với hơn 60% trong năm 1984.

Ngày nay, nền kinh tế của Gibraltar bị chi phối bởi bốn lĩnh vực chính, đó là dịch vụ tài chính, chơi game internet, vận chuyển và du lịch.

Du lịch cũng là một ngành công nghiệp quan trọng của Gibraltar. Rock là một điểm thu hút du lịch nổi tiếng, đặc biệt là khách du lịch người Anh và người dân ở bờ biển phía nam của Tây Ban Nha. Các chuyến tầu du lịch (cruises) đến đây hằng ngày, nó thu hút du khách từ các khu nghỉ mát ở Tây Ban Nha. Nó cũng là một điểm đến mua sắm phổ biến, và tất cả các hàng hóa và dịch vụ GTGT miễn phí.

Một số ngân hàng Anh và quốc tế có trụ sở hoạt động tại Gibraltar. Ngân hàng Jyske là ngân hàng lâu đời nhất trong cả nước. Tổ tiên của tài chánh Barclays là Ngân hàng Anglo-Ai Cập, có từ năm 1888, và Ngân hàng Tín dụng Fontier (nay là tập đoàn Crédit Agricole) có từ năm 1920.

Quốc khánh Gibraltar rơi vào ngày 10 tháng 9. Đó là một ngày nghỉ lễ, trong đó dân Gibraltar ăn mặc trong màu sắc quốc gia của họ với màu đỏ và trắng và 30.000 quả bóng màu tương tự được phát ra, đại diện cho người dân Gibraltar.

Các món ăn của Gibraltar là kết quả của sự đa dạng phong phú của các nền văn minh, từ người Berber ở Bắc Phi đến Andalucia và Anh. Những ảnh hưởng ẩm thực bao gồm những người từ Malta, Genoa, Bồ Đào Nha và Andalusia. Sự pha trộn hỗn hợp này cho Gibraltar một sắc thái gồm vị Ả Rập, các món ăn Địa Trung Hải và Anh. Calentita, một món ăn bánh mì, loại bánh làm từ đậu xanh bột, nước, dầu ô liu, muối và hạt tiêu, được xem là món ăn dân tộc của Gibraltar.

Gibraltar không có tài nguyên thiên nhiên đáng kể và ít nước ngọt tự nhiên, chỉ có các giếng nước tự nhiên ở phía bắc, cho đến gần đây Gibraltar sử dụng các nhà bê tông lớn để thu thập nước mưa. Nước ngọt từ các lỗ khoan được bổ sung bởi hai nhà máy khử muối: Một nhà máy thẩm thấu xây dựng trong một đường hầm trong đá, và một nhà máy chưng cất đa cấp tại phía Bắc của đảo.

Gibraltar có khí hậu Địa Trung Hải cận nhiệt đới với mùa đông ôn hoà và mùa hè ấm áp. Mưa chủ yếu xảy ra vào mùa đông, với mùa hè là thường khô. Nhiệt độ trung bình hàng năm của nó vào khoảng 21 ° C (70 ° F) vào ban ngày và vào ban đêm là 15 ° C (59 ° F). Tháng 8 là tháng nóng nhất, nhiệt độ dao động điển hình 25-31 ° C (77-88 ° F), nhiệt độ nước biển trung bình là 22 ° C (72 ° F). [43]

Ở Gibraltar có hơn 500 loài thực vật khác nhau, có hoa mọc trên đá. Gibraltar là nơi duy nhất ở châu Âu, nơi cây hoa thập tự hoa (Iberis gibraltarica) được tìm thấy phát triển trong tự nhiên. Nó là biểu tượng của khu bảo tồn thời đá thượng. Cây ôliu và cây thông là một trong những phổ biến nhất của những người trồng xung quanh Rock.

Hầu hết các khu vực trên đỉnh Rock có các bầy khỉ khoảng 230 khỉ Barbary sinh sống, chúng được liệt vào số danh sách bảo tồn thiên nhiên. Đó là những con khỉ hoang dã chỉ có ở châu Âu, tên khoa học là Macaca Sylvanus, được liệt kê như nguy cơ tuyệt chủng của Sách đỏ IUCN và đang giảm. Bầy Barbary là một trong những trọng điểm cho khách du lịch tới chiêm ngắm của Gibraltar.

Vài nét lịch sử về nguồn gốc Gibraltar

Tên Gibraltar là nguồn gốc Tây Ban Nha tên tiếng Ả Rập Jebel Tariq (جبل طارق), có nghĩa là "núi Tariq." Tên này được đặt tên sau khi nhà lãnh đạo Tariq ibn Ziyad, người Hồi đứng đầu cuộc xâm nhập ban đầu vào Iberia vào năm 711 dưới sự chỉ huy của Umayyad Caliph Al-Walid I. Trước đó, nó đã được được gọi là Núi Mons Calpe. Bên mặt phía bắc của Tháp Homage hãy còn lâu đài do người Moorish (ở Tây Ban Nha gọi người Hồi xâm nhập từ Phi châu là Moorish) xây dựng vào thế kỷ 14.

Bằng chứng về nơi cư trú của người Neanderthal tại Gibraltar từ thời 128.000 năm trước Công nguyện tới 24.000 trước Công nguyên đã được phát hiện ở hang động ở Gorham, làm cho Gibraltar là nơi cuối cùng của người Neanderthal cư trú được biết đến. Theo lịch sử ghi lại, các cư dân đầu tiên ở đây là những người Phoenicia, khoảng 950 trước Công nguyên. Sau đó, Gibraltar được biết đến như một trong những trụ cột của thần Hercules, theo truyền thuyết Hy Lạp về việc tạo ra eo biển Gibraltar của thần Heracles. Người Carthage và La Mã cũng đã thành lập các khu định cư bán vĩnh viễn nơi đây. Sau sự sụp đổ của đế chế La Mã, Gibraltar đặt dưới sự kiểm soát của người Vandal trong một thời gian ngắn.

Khu vực này sau đó được sát nhập như một phần của Vương quốc người Visigothic của Hispania cho đến khi cuộc chinh phục Hồi giáo Iberia từ năm 711 AD.

Năm 1160, lãnh tụ Hồi là Sultan Almohad Abd al-Mu'min ra lệnh lập nơi định cư người Hồi, bao gồm cả một lâu đài, được xây dựng ở đây. Sau khi hoàn thành các công trình, Sultan từ Phi châu vượt qua eo biển để kiểm tra các công trình và ở lại trong Gibraltar trong hai tháng. Tháp Homage của Lâu đài Hoang vẫn đứng ngày hôm nay. Từ 1274 trở đi, thị trấn trải qua các cuộc chiến đấu với các lãnh tụ của Granada, của Ma-rốc và các vị vua Công Giáo của Castile.

Vào năm 1462, Gibraltar cuối cùng bị Juan Alonso de Guzmán chiếm thành lập ra Công tước xứ Medina Sidonia chiếm.

Khi vua Henry IV của Castile chinh phục Gibraltar, vua thiết lập nó như một phần của vương quốc mình và gọi là Campo de Gibraltar. Sáu năm sau Gibraltar đã được khôi phục lại tước xứ Medina Sidonia.

Năm 1501 Gibraltar trở lại là đất của Tây Ban Nha, Hoàng hậu Isabella I của Castile ban hành một một sắc chỉ Hoàng gia và cấp huy hiệu cho Gibraltar, nó vẫn còn được sử dụng cho tới ngày hôm nay.

Năm 1704, trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, một lực lượng Anh quốc - Hà Lan kết hợp chiếm được thành Gibraltar, dẫn đến một cuộc di cư thường trú của phần lớn người dân vào các khu vực xung quanh của Campo de Gibraltar. Theo các điều khoản của Hiệp ước 1713 của Utrecht Gibraltar, Tây Ban Nha nhượng lại Gibraltar cho Anh quốc vĩnh viễn.

Năm 1727 Vua Philip V của Tây Ban Nha không thành công khi cố gắng để lấy lại Gibraltar trong cuộc bao vây hãm thành nhiều năm gọi là “Siege of Gibraltar”, kéo dài từ 1779 đến 1783.

Gibraltar đã trở thành một căn cứ quan trọng cho Hải quân Hoàng gia Anh và đóng một vai trò quan trọng trước khi trận chiến Trafalgar và trong Chiến tranh Crimean 1854-1856, do vị trí chiến lược của nó. Giá trị chiến lược của nó tăng lên với việc mở cửa kênh đào Suez, vì nó nằm trên tuyến đường biển giữa Vương quốc Anh và Đế quốc Anh về phía đông của kênh đào Suez. Trong cuối thế kỷ 19 Anh đã bỏ nhiều công sức và có những khoản đầu tư lớn trong việc cải thiện các công trình và cảng Gibraltar.

Trong Thế chiến II, thường dân Gibraltar được sơ tán (chủ yếu là đến London, Anh quốc, cùng như tới các thuộc địa Anh là Ma-rốc, Madeira và Jamaica) và Núi Rock of Gibraltar được củng cố như một pháo đài.

Nhà độc tài Tây Ban Nha Francisco Franco dù không muốn cũng đã phải miễn cưỡng cho phép quân đội Đức trú trên đất Tây Ban Nha, nhưng quân Đức cũng phải thất vọng trong một kế hoạch chiếm núi Rock trong cuộc hành quân có biệt danh là Felix.

Trong những năm 1950, tường Franco của Tây Ban Nha tuyên bố chủ quyền trên Gibraltar và nổi lên phong trào hạn chế đi lại gữa Gibraltar và Tây Ban Nha. Nhưng đa số người ở Gibraltar vẫn muốn mình thuộc chủ quyền của Anh cai trị. Trong cuộc trưng cầu dân ý ở Gibraltar năm 1967, dẫn đến sự ra đời Hiến Pháp Gibraltar năm 1969. Đáp lại, Tây Ban Nha hoàn toàn đóng cửa biên giới với Gibraltar và cắt đứt tất cả các liên kết truyền thông.

Biên giới với Tây Ban Nha đã được mở cửa trở lại một phần vào năm 1982 và hoàn toàn mở cửa trở lại vào năm 1985 trước khi Tây Ban Nha gia nhập vào Cộng đồng châu Âu.

Trong một cuộc trưng cầu tổ chức vào năm 2002, người Gibraltar lại một lần nữa với đa số áp đảo (99%) muốn thuộc về Anh quốc và vì thế đã đạt được "thỏa thuận chung". Chính phủ Anh đã cam kết tôn trọng mong muốn của người Gibraltar. Một Hiến pháp thứ tự mới đã được phê duyệt trong trưng cầu dân ý vào năm 2006. Một quá trình đàm phán ba bên bắt đầu trong năm 2006 giữa Tây Ban Nha, Gibraltar và Vương quốc Anh, kết thúc một số hạn chế và giải quyết tranh chấp trong một số lĩnh vực cụ thể như thủ tục hải quan, viễn thông, lương hưu và giao lưu văn hóa.

Gibraltar là một lãnh thổ của Anh ở nước ngoài. Luật Quốc tịch Anh 1981 cấp đầy đủ quyền công dân Anh cho người dân Gibraltar.

Theo hiến pháp hiện tại, Gibraltar đã gần như hoàn tự trị về nội bộ thông qua một nghị viện được bầu với nhiệm kỳ tối đa bốn năm. Quốc hội hiện nay bao gồm mười bảy thành viên được bầu, và Chủ tịch Quốc hội không được bầu, nhưng bằng một nghị quyết của Quốc hội bổ nhiệm. Chính phủ bao gồm mười thành viên được bầu. Người đứng đầu nhà nước là Nữ hoàng Elizabeth II, người được đại diện của Thống đốc Gibraltar. Thống đốc điều hành các vấn đề hằng của Gibraltar với Quốc hội tham vấn, nhưng chịu trách nhiệm trước Chính phủ Anh đối với quốc phòng, chính sách đối ngoại, an ninh nội bộ và quản trị nói chung.

Gibraltar là một phần của Liên minh châu Âu, đã tham gia như một lãnh thổ phụ thuộc của Vương quốc Anh vào năm 1973 theo điều khoản 229 (4) của Hiệp ước Roma bao gồm vùng lãnh thổ quốc gia thành viên đặc biệt, miễn một số lĩnh vực như liên minh hải quan và Chính sách Nông nghiệp chung. Các điều ước liên quan đến than, thép, nông nghiệp và thủy sản không áp dụng đơn giản chỉ vì Gibraltar không sản xuất bất kỳ của những tài nguyên. Sau mười năm, Gibraltar được quyền bỏ phiếu trong cuộc bầu cử châu Âu, từ năm 2004 người dân Gibraltar đã tham gia trong cuộc bầu cử Nghị viện châu Âu như một phần của Tây Nam nước Anh.
 
Về cõi trời mênh mang
Lê Đình Bảng
08:00 14/09/2013
Về cõi trời mênh mang

Em cứ đến vườn vô ưu thuở ấy
Buổi đầu đời còn phơi phới đương xuân
Có đồng xanh, xanh biếc lá trong ngần
Và thơm ngát những đồi nương lộng gió

Em sẽ thấy cửa thiên đường rộng mở
Và mây dâng, dâng ngào ngạt mùi sen
Đất và trời như vào hội giao duyên
Bởi ơn Thánh xuống man vàn sốt mến

Em cứ đến giữa ban trưa hò hẹn
Quỳ song đôi ngay trước cửa lầu vàng
Để hồn mình nghe gió thổi buồm căng
Bao điềm lạ giữa hào quang sửng sốt

Vì hoa trái là đức tin ngon ngọt
Từ miệng Tiên Tri đầy sữa, mật ong
Nghi ngút trầm hương, mộc dược, vàng ròng
Nguồn nhân đức, Mẹ Đồng Trinh, Thánh Nữ

Em cứ đến để mừng hoa, mừng nụ
Thở làn hương mầu nhiệm thuở ban sơ
Ơi, tiếng đàn sao dìu dặt ngôi vua
Đương chấp cánh lên chin tầng mây biếc

Em sẽ thấy giữa ngời ngời băng tuyết
Xác hồn thiêng, không tì vết bợn nhơ
Trời hôm nay nhè nhẹ, nõn như tơ
Trôi lãng đãng không bến bờ, vô tận.
 
Chuyện người cha đau khổ
Trầm Hương Thơ
22:01 14/09/2013
CHUYỆN: NGƯỜI CHA ĐAU KHỔ. CN.24TN. Lc 15,1-32

Người em gom của lên đàng
Để Cha ở lại võ vàng ruột gan
Trẩy đi vui thú trần gian
Ngờ đâu một kiếp đi hoang điêu tàn

Ngụp trong men rượu cung đàn
Sa chân trụy lạc nát tan cuộc đời
Đói vàng con mắt nghẹn lời
Chăn heo chẳng được cám rơi đỡ lòng

Ngồi đây nghĩ lại ngược dòng
Nhà Cha đầy tớ ngoài trong no đầy
Tại sao ta đói ngồi đây?
Trở về xin chút chân gầy kiếm cơm

Vừa đi vừa tính lời thơm
Nhưng quần áo rách bờm xờm từ xa
Bất ngờ! Cha đã chạy ra
Chàng như á khẩu khi Cha ôm chầm

Hôn lên thơm ngát từ tâm
Tràn lên mạch cuộn sóng ngầm đợi mong
Truyền ban rước cậu vô trong
Nhẫn vàng, áo mới, hài cong mang vào

Nhạc vang trỗi dậy cung chào
Mừng con đã mất, ôi chao! trở về
Mở tiệc truyện lệnh giết bê
Bao ngày "vỗ bèo" bồ đề rượu vang

Người anh nghe tiếng nhạc vàng
Nổi xung điên tiết lại càng ghét em
Người Cha lại vội ra xem
Làm sao giải quyết khỏi thêm đoạn trường

Ruột gan tan nát như tương
Anh em sao chẳng yêu thương nhau cùng
Lòng tham ích kỷ lạnh lùng
Làm Cha sầu khổ muôn trùng mãi sao?

Trầm Hương Thơ 15.09.2013