Ngày 24-07-2022
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngày 25/07: Sức Mạnh của Nước Trời –Lm. Anthony Nguyễn Hữu Quảng, SDB
Giáo Hội Năm Châu
04:40 24/07/2022

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán một dụ ngôn khác cùng dân chúng rằng: “Nước trời giống như hạt cải người kia gieo trong ruộng mình. Hạt ấy bé nhỏ hơn mọi thứ hạt giống, nhưng khi mọc lên, thì lớn hơn mọi thứ rau cỏ, rồi thành cây, đến nỗi chim trời đến nương náu nơi ngành nó”.

Người lại nói với họ một dụ ngôn khác nữa mà rằng: “Nước trời giống như nắm men người đàn bà kia lấy đem trộn vào ba đấu bột, cho đến khi bột dậy men”.

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn mà phán những điều ấy với dân chúng. Người không phán điều gì với họ mà không dùng dụ ngôn, để ứng nghiệm lời tiên tri đã chép rằng: “Ta sẽ mở miệng nói lời dụ ngôn: Ta sẽ tỏ ra những điều bí nhiệm từ lúc dựng nên thế gian”.

Đó là lời Chúa
 
Thuyền trưởng là Bố của Tôi
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
08:38 24/07/2022
Thuyền Trưởng Là Bố Của Tôi

(Chúa Nhật 17 TN C 2022)

Nếu ngay từ thuở ban sơ, Thiên Chúa và loài người đã từng “chuyện vãn” với nhau như những “kẻ thân tình”, cho dù con người đã phạm tội bất tuân lệnh Chúa (Như chuyện kể Ađam và Eva của sách Sáng Thế: St 3, 8-13), thì qua suốt dòng lịch sử, cuộc đối thoại thân tình như thế vẫn luôn hiện hữu muôn nơi, muôn thuở. Phải chăng chính trong cái mối “tương quan đối thoại” đó giữa Thượng Đế và con người đã dệt nên một “mạng lưới” tín ngưỡng, tôn giáo mà bản chất đó chính là những bổn phận, nghĩa vụ, lễ nghi, tế tự, cầu nguyện... nối kết giữa con người với Đấng Toàn năng, giữa nhân sinh với thế giới thần linh (Religio = Religare – Religere...).

Cách riêng, trong niềm tin của Do Thái giáo hay Kitô giáo, cuộc đối thoại “Chúa – người” luôn mang chiều kích “Cứu Độ”: Thiên Chúa mạc khải lòng thương xót cứu độ và con người nài xin lòng thương xót cứu độ đến từ Thiên Chúa. Và điều nầy, quả thật, đã được diễn tả cách cụ thể và sinh động qua sứ điệp Lời Chúa Chúa Nhật 17 thường niên, năm C mà cộng đoàn chúng ta vừa được nghe công bố.

Trước hết, với trình thuật sinh động của đoạn sách Sáng thế, cuộc đối thoại, hay đúng hơn, lời khẩn nguyện của cụ tổ Apraham dâng lên Thiên Chúa để khẩn xin cho thành Sôđôma khỏi bị tiêu diệt, đã cho chúng ta một cách biểu lộ niềm tin đơn sơ, chân tình, dễ thương; một cách cầu nguyện trong kiên trì và tin tưởng phó thác: Sau năm lần “mặc cả để thử thách lòng bao dung của Thiên Chúa”, cuối cùng Apraham đã thân thưa và Chúa đã đáp lời: “Lạy Chúa, xin đừng nổi giận, con chỉ xin thưa lần này nữa thôi: Nếu tìm được mười người công chính ở đó thì sao?” Chúa phán: “Vì mười người đó, Ta sẽ không tàn phá” (Bđ 1).

Như Lời Chúa được mạc khải từ Cựu sang Tân ước, Thiên Chúa đâu là “Đấng khó thưa chuyện”, hay là vị thần xa xôi cách biệt chỉ để “kính nhi viễn chi”, mà là “Đấng tối thấp” để con người có thể tiếp chuyện và lắng nghe, để ban ơn và giải cứu. Và đây, chính là giáo lý, là trong tâm của sứ điệp Tin Mừng Nước Chúa được chính Đức Kitô mang đến trần gian: Thiên Chúa trong gương mặt, trong dáng đứng của một người Cha giàu lòng thương xót: “Khi các con cầu nguyện, hãy nói: ‘Lạy Cha... Vậy, nếu các con là những kẻ gian ác, còn biết cho con cái mình những của tốt, phương chi Cha các con trên trời sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người”.

Sở dĩ ngày hôm nay rất nhiều người đã đánh mất cảm thức tôn giáo, cảm thức đức tin vào một Thiên Chúa là Cha, để không còn cảm thấy nhu cầu để mở lòng ra với Thiên Chúa, để ngỏ lời thân thưa cầu nguyện với Ngài, thường là vì hai lý do nầy: một là cảm thấy mình quá đầy đủ, dư thừa, hay bận bịu... đâu cần gì nơi Thiên Chúa để Ngài trợ giúp... Hai là, Thiên Chúa chỉ là một hình tượng ảo, một khái niệm mơ hồ, hay một Đấng Toàn Năng nào đó ở xa tít trong cõi vô biên...; và khi đánh mất mối tương quan “thắm đượm tình Chúa”, thì con người bỗng rối tung lên trong tương quan “tình người”. Vâng, khi người ta vất bỏ các biểu tượng về Thiên Chúa ra khỏi các trường học, khi người ta loại trừ các lời dạy và luật lệ của Kinh Thánh khỏi các pháp đình, khi người ta chọn lựa các hiệp ước, các cuộc đàm phán chính trị thay vì các nguyên tắc của Lời Chúa... thì thế giới đã rối beng với những cuộc đại chiến, với những cuộc khủng bố long trời lỡ đất như vụ “9.11”, những cuộc huynh đệ tương tàn như cuộc chiến Ukraina đang diễn ra, những cuộc thanh trừng đàn áp sắc tộc, tôn giáo khắp nơi, cùng với hàng triệu thai nhi bị tiêu diệt mỗi ngày do nạn phá thai... Vâng, phải chăng vì con người đã quay mặt lại với Thiên Chúa khi “không có cả mười người thiện lương”, nên đã có biết bao “Sôđôma đã bị tiêu diệt” !

Thế nhưng, sứ điệp Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay lại không dừng lại ở khía cạnh “mang hơi hám tiêu cực” đó, mà là niềm hy vọng trước lòng bao dung của một Người Cha nhân lành đầy quyền năng khi con người biết mở lòng như lời khẳng định của Đức Kitô trong Tin Mừng Luca: “Các con hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ gặp, hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì được, ai tìm thì gặp, ai gõ thì sẽ mở cho”.

Và Thánh Phaolô, với trải nghiệm từ niềm tin và trông cậy của chính mình, đã củng cố thêm cho chúng ta về lý do để can đảm mà “xin... tìm... gõ...” nơi lòng thương xót của Thiên Chúa qua những chia sẻ của ngài nơi bức thư gởi tín hữu Côrintô: “... Thiên Chúa đã cho anh em được chung sống với Người, Người đã ân xá mọi tội lỗi chúng ta, đã huỷ bỏ bản văn tự bất lợi cho chúng ta, vì làm cho chúng ta bị kết án; Người đã huỷ bỏ bản văn tự đó bằng cách đóng đinh nó vào thập giá...”.

Như vậy, điều cần thiết nhất cho thế giới hôm nay, cho cuộc hoán cải hằng ngày của người Kitô hữu, chính là hãy mở lòng ra với Thiên Chúa với tấm lòng của một người con. Bởi chỉ có thái độ đó, tâm tình đó, tư cách đó, “chiếc tàu mới quay đầu vào bờ sau tiếng kêu”, như câu chuyện trên dòng sông Mississippi: Một cậu bé đứng trên bờ sông Mississippi vẫy tay và hét vào một chiếc tàu hơi nước đang đi qua. Cậu ta ra hiệu cho chiếc tàu chạy vào bờ. Một người lạ đi ngang qua và nói: “Anh bạn trẻ ngốc nghếch ơi, thuyền sẽ không bao giờ vào bờ vì yêu cầu của bạn. Thuyền trưởng quá bận nên không nhận thấy cái vẫy tay và tiếng la hét của bạn đâu”. Vừa lúc đó con thuyền quay đầu và hướng vào bờ. Cậu bé cười toe toét và nói với người lạ: “Thuyền trưởng là bố của tôi.”...

Vâng, thế giới sẽ tốt đẹp khi nhân loại vững tin rằng “thuyền trưởng của con tàu thế giới” chính là “Vị Cha chung Thượng Đế”, và mỗi một cuộc đời sẽ tươi đẹp khi “thuyền trưởng của cuộc sống mỗi cuộc đời” chính là “Cha tôi”, Người Cha giàu thương thương xót và luôn nhận ra tiếng “Abba” thân thương của “người con bé nhỏ”. Amen.

Trương Đình Hiền
 
Đừng bao giờ bỏ lỡ cuộc gọi
Lm. Minh Anh
20:06 24/07/2022
ĐỪNG BAO GIỜ BỎ LỠ CUỘC GỌI

“Con người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng ngày lễ thánh Giacôbê trình bày một bức tranh nội tâm rất thật, không chút giấu giếm, của 12 tông đồ nói riêng, và của con người nói chung: hai người xin chỗ nhất, mười người còn lại ganh tức! Và ngay trong thời đại của Công Giáo chúng ta, “Được gọi để phục vụ”, một trong những câu cửa miệng, xem ra bị lạm dụng quá nhiều đến mức trở thành sáo rỗng! Hôm nay, chúng ta cùng nhìn lại cung cách phục vụ của mình, làm sao để ‘đừng bao giờ bỏ lỡ cuộc gọi!’.

Bản năng của con người là đặt quyền lợi và cái tôi của mình trên hết và trước hết; đang khi tinh thần của Chúa Giêsu thì hoàn toàn trái ngược, “Tôi đến để phục vụ!”. Là môn đệ Giêsu, lẽ ra, mỗi người phải biến đổi để nên giống Ngài, đang khi chúng ta lại có nguy cơ quên rằng, làm sao phục vụ phải là trọng tâm của một đời sống Kitô hữu! Các phút giây trong cuộc sống của chúng ta bị tiêu hao bởi một dòng chảy không ngừng của những công việc quan trọng và khẩn cấp; tuy nhiên, giữa những điều này, có phải chúng ta thực sự đã bỏ lỡ biết bao cơ hội để phục vụ? “Được gọi để phục vụ”. Vâng, nhưng chúng ta bỏ lỡ cuộc gọi; và sứ vụ bị gạt sang một bên! Nếu phục vụ tha nhân không phải là một yếu tố bình thường trong cuộc sống của tôi với tư cách là Kitô hữu, thì chắc chắn một điều, tôi đã không thắng nổi việc tự lừa dối bản thân hoặc tôi đã lạc đường nghiêm trọng ở đâu đó. Vậy, làm sao để ‘đừng bao giờ bỏ lỡ cuộc gọi!’.

Qua thư Côrintô hôm nay, Phaolô xác tín, “Được gọi để phục vụ” là “Sứ vụ chúng tôi mang nơi mình như chứa đựng kho tàng trong những bình sành”; sứ vụ đó là được gọi để hiến mình một cách không dè giữ cho người khác như ‘sự tiếp nối của Đức Kitô’. Ngày nay, “Sự Tiếp Nối Của Đức Kitô” không còn tạo nên một văn bia tuyệt vời sao? Có chứ! Vì thực sự, nếu việc phục vụ nơi chúng ta không phải là sự kéo dài, mở rộng tình yêu Chúa Kitô; nếu không trao Ngài cho người khác; hoặc nếu những người mà chúng ta phục vụ không khám phá ra Ngài trong chúng ta… thì sự phục vụ của chúng ta đơn giản không phải là phục vụ! Nó có thể là từ thiện, đồng cảm, nhưng không có nghĩa là phục vụ của một Kitô hữu đích thực. Như Gioan Tẩy Giả, chúng ta phải nên ‘ít hơn’, để trong mỗi người, Chúa Kitô có chỗ nhiều hơn, hầu anh chị em chúng ta không bị lừa dối khi gặp gỡ một Đức Kitô mà họ thầm ao ước khám phá trong mỗi người.

Anthony Fortosis nói, “Chúa các chúa trở nên đầy tớ thấp hèn để phục vụ những con người đáng thương! “Con Người Của Các Nỗi Buồn” làm quen với vực thẳm của đau buồn để trở thành niềm vui cho thế giới! Và chúng ta đến với thế giới để sống; còn Ngài, đến để chết!”.

Anh Chị em,

“Đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người!”. Đúng như Fortosis nói, “Ngài đến để chết!”, Chúa Giêsu quả quyết điều đó với người đương thời và Ngài đã chết thật! Và không chỉ chết cái chết thể lý chiều thứ Sáu, Ngài đã chết từng ngày qua phục vụ, qua việc bỏ ý riêng, qua nhẫn nhịn… và Ngài đã phục sinh! Thánh Vịnh đáp ca hôm nay thật ý nghĩa, “Ai gieo trong lệ sầu, sẽ gặt trong hân hoan!”. Như vậy, tất cả cái chết đó cũng như cái chết trên thập giá của Chúa Giêsu đều mang một giá trị cứu độ. Cũng thế, là môn đệ Giêsu, chúng ta được gọi để nên đồng hình, đồng dạng với Ngài; mỗi ngày, chúng ta chết cho cái tôi ích kỷ, và cùng Ngài “phục vụ những con người đáng thương”, “trở thành niềm vui cho thế giới”, và sẵn sàng “chết” với Ngài. Vì thế, hãy tận dụng mọi cơ hội để ‘đừng bao giờ bỏ lỡ cuộc gọi’ này!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin cho con luôn trở nên một “Sự Tiếp Nối Của Đức Kitô”; Chúa mời gọi con, trong mọi đấng bậc, để phục vụ; xin cho con ‘đừng bao giờ bỏ lỡ cuộc gọi!’”, Amen.

(Tgp. Huế)
 
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:10 24/07/2022

11. Người tôi yêu thì thuộc về tôi, mà tôi là của Ngài.

(Thánh Francis of Sales)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Trích từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")


-----------

http://ww.vietcatholicnews.net

https://ww.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
21:30 24/07/2022
48. KHÔNG PHÂN ĐƯỢC TRẮNG ĐEN

Có người hỏi chữ “tạo皂” (màu đen) làm sao giải thích, một người đáp:

- “Tạo皂” chính là màu đen, cho nên ngạn ngữ có cách nói “không phân biệt trắng đen”, giống như nói trắng đen không phân biệt đó mà”.

Người hỏi đột nhiên ngộ ra nói:

- “Tôi hiểu rồi, câu nói không phân trắng đen này là chuyên chỉ về người ngoại quốc !”

Người ấy hỏi:

- “Tại sao?”

Trả lời:

- “Quả bồ kết 肥皂 của Trung Quốc chúng ta nguyên là màu đen, cho nên gọi là bồ kết. Mà cục xà phòng của người ngoại quốc thì lại là màu trắng, theo đó mà gọi là xà phòng, lẽ nào họ không phân biệt được trắng đen hay sao?”

(Yết hậu ngữ)

Suy tư 48:

Sống ở đời, có những lúc con người ta không phân biệt được đâu là trắng và đâu là đen, không phân biệt được tốt và xấu, thiện và ác, yêu thương và ghen ghét, xây dựng và phá hoại. Bởi vì lòng hận thù, lòng ghen ghét, lòng tham và lòng kiêu ngạo đã làm mờ lý trí của họ:

- Lòng thù hận thì làm cho con người ta không phân biệt phải trái, nên oán thù vẫn cứ chồng chất.

- Lòng ghen ghét làm cho con người ta không phân biệt cái ưu và cái khuyết của người khác, nên vẫn cứ nói hành nói xấu nhau.

- Lòng tham lam thì làm cho con người ta không phân biệt của công và của tư, của mình và của người khác, cho nên xã hội vẫn cứ không có công bằng và vẫn cứ giành giật nhau vì miếng ăn vì danh dự, chức quyền hão huyền.

- Lòng kiêu ngạo thì làm cho con người ta không phân biệt được mình là ai và tha nhân là ai, cho nên họ vẫn cứ tưởng mình là “cái rốn” của vũ trụ, phê bình người này không biết yêu người, chỉ trích người nọ không có can đảm...

Phân biệt màu trắng và màu đen thì rất dễ -trừ những người có bệnh loạn sắc- thì ai cũng có thể phân biệt, nhưng để phân biệt trắng đen của cuộc sống đời thường theo tinh thần Phúc Âm, thì chỉ có những ai biết thực hành Lời Chúa mới có thể làm được mà thôi.

Mà những người nghe và thực hành Lời Chúa thì không phải là người Ki-tô hữu sao?

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)


------------

http://ww.vietcatholicnews.net

https://ww.facebook.com/jmtaiby

http://nhantai.info
 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Giải thích chuyên môn về các vấn đề giới tính, phái tính và chuyển giới theo viễn ảnh Kitô giáo
Vũ Văn An
01:05 24/07/2022

Giữa tháng 7 vừa qua, tạp chí The Pillar đã có cuộc phỏng vấn khá chi tiết với hai giáo sư các đại học Công Giáo Hoa Kỳ về các vấn đề đang gây tranh cãi hiện nay về giới tính (sex), phái tính (gender) và chuyển giới (transgender).



Theo The Pillar, phái tính trở thành một trong những chủ đề được nói đến nhiều nhất và cùng một lúc, là chủ đề cấm kỵ nhất trong nền văn hóa của chúng ta.

Sự gia tăng của phong trào quyền của người chuyển giới với tư cách là một lực lượng xã hội và chính trị, cùng với sự bùng nổ về số lượng thanh niên tự nhận mình ở bên ngoài "giới tính nhị phân" đã khiến nhiều người và các tổ chức phải vật lộn để hiểu chúng ta đang ở đâu và đụng tới đó ra sao.

Chính vì thế, Charlie Camosy, giáo sư thần học và đạo đức xã hội của Đại Học Fordham, đã nói chuyện với hai học giả hàng đầu về phái tính, giới tính và những gì đang xảy ra trên toàn xã hội và thực hành y tế.

Abigail Favale, Ph.D., là một nhà văn và giáo sư tại Viện McGrath về Đời sống Giáo hội tại Đại học Notre Dame. Một người trở lại Công Giáo với hậu cảnh học thuật về nghiên cứu phái tính, Favale là một nhà văn và diễn giả thường xuyên về các chủ đề liên quan đến phụ nữ và phái tính theo quan điểm Công Giáo. Cuốn sách mới nhất của bà “The Genesis of Gender: A Christian Theory”, được phát hành vào tháng 6.

John Grabowski, Ph.D. đã giảng dạy thần học luân lý tại Đại học Công Giáo America trong 31 năm qua, chuyên về nhân chủng thần học, đạo đức học nhân đức, hôn nhân và tính dục. Cuốn sách mới nhất của ông, “Unravelling Gender: The Battle over Sexual Difference” đã được xuất bản hồi tháng 3.

Trong phần đầu của cuộc phỏng vấn hai phần này, Favale và Grabowski khảo sát các vấn đề liên quan đến phái tính và giới tính, và hỏi làm thế nào chúng ta hiểu được một vấn đề bỗng nhiên gây hỏa mù và chính nó cũng hết sức hỏa mù.

Trong phần thứ hai, họ sẽ thảo luận về những thách thức mục vụ đối với Giáo hội do những vấn đề đó trình bày.

Hỏi: Chúng ta sẽ đi đến những hiểu biết thông sáng về lý thuyết mà cả hai bạn sẽ cung cấp trong giây lát, nhưng trước tiên hãy bắt đầu với câu hỏi "chuyện gì đang xảy ra?" liên quan tới phái tính. Đâu là một số xu hướng quan trọng mà các bạn thấy có thể giúp chúng ta hiểu tầm quan trọng của vấn đề này?

Grabowski: Bắt đầu từ đâu?

Việc hiện nay chúng ta đang tách rời phái tính khỏi giới tính và cơ thể đã dẫn đến cảnh trăm hoa đua nở con số các phái tính, với các phương tiện truyền thông xã hội, những người nổi tiếng, học giả và các cơ quan pháp luật khác nhau công nhận hàng chục phái tính - Liên hiệp quốc đang xem xét việc thông qua các hiệp ước sẽ công nhận hơn 100 phái tính.

Cái mớ ý tưởng, mà Giáo hội gọi là “ý thức hệ phái tính” này, đã có những ảnh hưởng lan tỏa trong xã hội và văn hóa của chúng ta. Y học đã được kết nạp vào việc cố gắng sử dụng các thủ thuật hóa chất và phẫu thuật ác liệt để điều trị nỗi đau của chứng cảm thấy khó chịu về phái tính mà bằng chứng cho thấy chủ yếu chỉ là vấn đề tâm lý. Kết quả là người ta mang thẹo cả về thể chất, chẳng hạn như các thủ tục chuyển giới làm hủy hoại khả năng sinh sản ở cả nam và nữ, và thường là về mặt tâm lý, như những lời khai của những người hoàn giới [detransitioners] đã làm rõ một cách đau đớn.

Song song với những phát triển này là các chương trình và sáng kiến giáo dục (thí dụ: ngựa một sừng phái tính [gender unicorn] được sử dụng trong một số trường công lập hoặc 'thời gian kể chuyện đàn ông mặc quần áo đàn bà' [drag queen storytime] trong thư viện công cộng) nhằm truyền đạt cho trẻ em ý tưởng cho rằng giới tính là việc tự lựa chọn và phức tạp chứ không có tính nhị phân ổn định.

Ngôn ngữ hàng ngày gây lo âu khi mọi người tranh cãi về tên và đại danh từ và có thể phải đương đầu với sự tẩy chay của xã hội hoặc thậm chí hình phạt hình sự nếu cố tình "gán phái tính sai" cho người khác. Tất cả chúng ta đều đã thấy hình ảnh những người đàn ông sinh học được xác định là phụ nữ chuyển giới đang gây trở ngại cho các phụ nữ sinh học trên bục chiến thắng trong môn điền kinh dành cho phụ nữ.

Đáng lo ngại hơn nữa là mối đe dọa đối với sự an toàn và không gian cá nhân của phụ nữ trong các cơ sở công cộng như phòng vệ sinh, phòng thay đồ hoặc nhà tù vì họ buộc phải chia sẻ những không gian này với những người đàn ông sinh học xác định là chuyển giới hoặc những kẻ săn mồi giả dạng như vậy.

Với tất cả những điều này, rõ ràng là những lời cảnh cáo lặp đi lặp lại của Giáo hội trong những thập niên gần đây không hề chỉ là cường điệu.

Favale: Một xu hướng quan trọng cần theo dõi là các yếu tố nhân khẩu học đang thay đổi nhanh chóng.

Về phương diện lịch sử, việc chuyển đổi phái tính là một hiện tượng hiếm hoi và phần lớn nam giới trung niên tìm cách xác định lại giới tính. Trong thập niên vừa qua, nhân khẩu học này đã thay đổi theo hai cách: hiện nay, nữ giới đang tìm cách điều trị tại các phòng chuyển phái tính nhiều hơn nam giới và độ tuổi trung bình đã giảm mạnh xuống cuối tuổi thiếu niên.

Hơn nữa, số người tìm cách điều trị chứng khó chịu đối với phái tính đã tăng vọt - đặc biệt là ở những người trẻ tuổi.

Thí dụ, ở Anh, số người trẻ muốn chuyển đổi phái tính đã tăng gần 1,900% từ năm 2010 đến năm 2020. Ở Mỹ, một nghiên cứu năm 2022 của Viện Williams cho thấy 43% những người được chuyển đổi phái tính ở Hoa Kỳ là dưới 25 tuổi và việc chuyển phái tính ở nhóm tuổi này đã tăng gấp đôi kể từ báo cáo cuối cùng của họ, được công bố vào năm 2017. Tân Tây Lan, Phần Lan, Gia Nã Đại và Hòa Lan đã ghi nhận mức độ gia tăng tương tự về chứng khó chịu đối với phái tính và / hoặc chuyển đổi phái tính ở những người trẻ tuổi, vì vậy đây là một mô hình nhất quán khắp phương Tây.

Chúng ta cũng đang chứng kiến những thay đổi lớn trong các phương pháp điều trị, những phương pháp không dựa vào bằng chứng khoa học có phẩm chất cao.

Có một lượng đáng kể tài liệu lưu hành đã lâu cho thấy tỷ lệ cao của việc ngưng chứng khó chịu phái tính phát sinh lúc thơ ấu. Nói cách khác, hầu hết trẻ em (khoảng 80 %) từng trải nghiệm chứng khó chịu phái tính đã hết chứng này lúc trưởng thành. Do đó, phương thức “cảnh giác chờ đợi” và không dùng thuốc đã được hầu hết các tổ chức tâm lý và y tế ưa chuộng, cho đến gần đây.

Xin đơn cử một thí dụ: vào năm 2009, các hướng dẫn của Hiệp hội Nội tiết [Endocrine Society] không khuyến khích ức chế ở tuổi dậy thì và kích thích tố xuyên giới tính cho thanh niên, dựa vào tỷ lệ ngưng chứng khó chịu phái tính. Vào năm 2017, họ đã ban hành hướng dẫn mới buộc phải áp dụng các phương pháp điều trị y khoa “khẳng định phái tính”.

Điều chủ yếu cần phải hiểu là chưa có nghiên cứu đột phá, phẩm chất cao nào thúc đẩy sự thay đổi lớn lao này. Các bằng chứng ủng hộ việc y khoa hóa những người trẻ mắc chứng khó chịu phái tính rất thưa thớt và chất lượng thấp, và các hệ luận dài hạn vẫn chưa được hiểu rõ.

Một cách đáng khích lệ là các nước châu Âu đang bắt đầu thừa nhận điều này.

Vào năm 2022, một cơ quan giám sát của chính phủ Thụy Điển đã tiến hành xem xét một cách có hệ thống tất cả các bằng chứng hiện có và kết luận rằng những lợi ích được cho là của các biện pháp can thiệp kích thích tố đối với thanh thiếu niên không lớn hơn những rủi ro đã biết. Đáp lại, Thụy Điển - quốc gia tiên phong tiến bộ trong việc khẳng định phái tính - hiện đang ưu tiên hóa các can thiệp trị liệu tâm lý hơn là kích thích tố.

Các chỉnh sửa diễn trình tương tự đang diễn ra trên khắp Châu Âu, ở Phần Lan, Pháp và Anh. Báo cáo của Thụy Điển cũng ghi nhận ngày càng có nhiều người hoàn phái tính — những người bắt đầu con đường chuyển phái tính bằng y khoa nhưng sau đó thay đổi ý định, thường để lại những tổn thương thể lý không thể sửa chữa.

Đây là một xu hướng khác cần theo dõi, một xu hướng hy vọng sẽ thúc đẩy một làn sóng kiện cáo để phản ứng lại điều thực sự là một vụ tai tiếng y khoa.

Hỏi: Hai trong số những phản ứng phổ biến nhất đối với những người nói rõ những mối quan tâm này là:

- "Đây là những phản ứng thái quá không căn cứ vào sự kiện của những ông bà hủ lậu bảo thủ, những người cần hòa nhập với thời đại."
- “Nếu bạn không lớn tiếng đưa ra phản ứng mạnh mẽ về việc khẳng định phái tính thì bạn đang ‘giết người chuyển giới theo nghĩa đen.’” Các bạn phản ứng thế nào với những ý kiến đó?


Favale: Chà, công bằng mà nói, đã có một số phản ứng thái quá từ phe bảo thủ.

Nhưng không phải tất cả những lời phê bình đối với mô hình khẳng định không nghi ngờ đều phát xuất từ những người bảo thủ, và những lời phê bình tốt nhất là những lời phê bình dựa trên sự kiện.

Thụy Điển khó có thể bị bác bỏ là một quốc gia hủ lậu, tân bảo thủ và, như tôi đã lưu ý ở trên, sự thay đổi trong giao thức của họ hoàn toàn dựa trên những gì họ thấy trên thực tế và trong các tài liệu khoa học.

Đây là khoảnh khắc “chim hoàng yến trong mỏ than” [*] và lợi ích tốt nhất của Mỹ là chú ý đến những gì đang xảy ra ở châu Âu, bởi vì họ đã vào con đường này sâu hơn so với chúng ta.

Ngoài ra, có một số người lớn chuyển đổi phái tính, như Buck Angel và Scott Newgent, đang gây lo ngại về việc y khoa hóa trẻ em. Cũng có những nhà phê bình thiên tả, như Andrew Sullivan, lên tiếng.

Theo kinh nghiệm của tôi, những người bác bỏ những lời phê bình và câu hỏi có suy nghĩ không quen với những bằng chứng mỏng manh, hạn chế hỗ trợ các phương pháp điều trị thử nghiệm và quyết liệt này. Trước đó tôi đã đề cập đến tỷ lệ hoàn giới cao của chứng khó chịu phái tính khởi phát từ lúc còn nhỏ; có một thông tin bổ sung, đó là một số trẻ em này lớn lên trở thành đồng tính nam. Nhiều người đồng tính lớn tuổi biểu lộ hành vi không phù hợp phái tính lúc thơ ấu. Vì vậy, ngày càng có nhiều lo ngại rằng chúng ta đang triệt sản và y khoa hóa các người trẻ đồng tính một cách không cần thiết.

Có cơ sở rõ ràng và không có gì tranh cãi, là thanh thiếu niên LGBT + có nguy cơ mắc nhiều bệnh tâm thần cùng một lúc và tự tử cao hơn. Tuy nhiên, điều chưa có cơ sở rõ ràng là con đường y khoa là một phương thuốc chữa bách bệnh.

Thực thế, chỉ có cuộc nghiên cứu dài hạn dựa trên dân số mà chúng ta có mới cho thấy tự tử tăng gấp 19 lần sau các thủ tục xác định lại giới tính — và điều này phát xuất từ Thụy Điển, một xã hội rất “khẳng định phái tính”.

Vì vậy, câu chuyện “hãy cho-trẻ-em-kích-thích-tố-hoặc-chúng sẽ-tự sát” không những chưa được chứng minh; nó còn nguy hiểm nữa. Nó có khả năng trở thành một lời tiên tri tự ứng nghiệm và không nên tùy tiện phao tin về nó. Điểm mấu chốt là chúng ta chưa có nền tảng khoa học tốt nào trong lĩnh vực này, nhưng chúng ta đã đi trước một cách phi mã với các liệu pháp thử nghiệm đầy rủi ro trên trẻ em.

Các cô gái ở độ tuổi mười ba đang giải phẫu cả hai vú. Các thiếu niên có thể đi thẳng vào phòng khám của Planned Parenthood và bắt đầu sử dụng kích thích tố chuyển giới trên cơ sở có sự thuận ý hiểu biết, mà không cần sự giám sát của bác sĩ.

Điều khôn ngoan là nêu lên các câu hỏi, để thúc giục việc cẩn trọng. Thật không may, các ý kiến trong lĩnh vực này dường như được định hình nhiều hơn bởi chủ nghĩa bộ lạc chính trị phân cực hơn là một duyệt xét vô tư có tính khoa học hợp lý.

Grabowski: Đây là những lý lẽ mạnh mẽ, giàu cảm xúc thường được triển khai để làm im bặt các câu hỏi chỉ trích hoặc những quan điểm bất đồng.

Tuy nhiên, họ không nắm vững các dữ kiện hiện có hoặc sự điều tra tỉ mỉ hợp lý.

Có bằng chứng đáng kể cho thấy các thủ thuật chuyển đổi dùng hóa chất và phẫu thuật đơn giản không phải là y khoa tốt, dựa trên kết quả của những bệnh nhân đã trải qua các thủ thuật này. Chúng ta chỉ mới bắt đầu nghiên cứu và hiểu các hiệu quả lâu dài về tâm sinh lý của các thủ thuật này.

Sử dụng thuốc chặn tuổi dậy thì [puberty blocker] từng được liên kết với việc mất mật độ xương [bone density], tăng trưởng còi cọc, vô sinh và kém phát triển của mô sinh dục (Mayo Clinic, 2022; Carmichael và cộng sự, trang 40). Ngay các chương trình hỗ trợ các thủ thuật chuyển giới cũng thừa nhận các tác dụng phụ có thể gây ra của liệu pháp chuyển giới dùng kích thích tố, từ giảm chức năng tình dục, đau vùng chậu và vô sinh, đến các vấn đề tim mạch như tăng huyết áp, và tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim và đột quỵ.

Thực tế là một số phòng khám và những người ủng hộ đang quảng cáo thuốc chặn dậy thì và kích thích tố chuyển giới cho trẻ em ở độ tuổi mỗi ngày một nhỏ hơn có nghĩa là chúng ta, theo nghĩa đen, đang tham gia vào việc thử nghiệm y khoa trên trẻ em mà không có ý thức rõ ràng về những rủi ro lâu dài và không có sự đồng ý có hiểu biết của các em.

Điều này đã bất chấp thực tế, như Abby đã đề cập, phần lớn trẻ em khó chịu về phái tính (khoảng 85% theo các nhà nghiên cứu) sẽ thoát khỏi tình trạng này mà không cần hoặc không có sự can thiệp nào.

Các tài liệu khoa học hiện có không ủng hộ chủ trương cho rằng các thủ thuật chuyển giới có lợi cho bệnh nhân.

Vào năm 2016, Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid của chính phủ Obama đã xuất bản một bản ghi nhớ kết luận rằng, dựa trên các nghiên cứu hiện có, không có bằng chứng về “những thay đổi đáng kể về mặt lâm sàng” sau các thủ thuật chuyển đổi giới tính.

Trên thực tế, giống như Abby, tài liệu đó nhắc đến một trong những nghiên cứu lớn nhất và vững vàng nhất về phương diện khoa học cho đến nay, do Viện Karolinska và Đại học Gothenburg ở Thụy Điển thực hiện, cho thấy tỷ lệ tự tử ở những người chuyển giới hoàn toàn cao hơn 19 lần so với dân số nói chung.

Con số này được điều chỉnh để tính đến bệnh tâm thần trước đó và được thực hiện trong một nền văn hóa rõ ràng “thân thiện với người chuyển giới”. Dữ liệu khoa học phong phú này có thể được cá nhân hóa và tạo ra khuôn mặt và giọng nói nhân bản bằng cách lắng nghe lời khai của những người đã từng hoàn giới sau khi nhận ra rằng ngoại hình được chỉnh sửa lại của họ không điều trị được nguồn gốc thực sự của nỗi đau tâm lý của họ.

Trước các bằng chứng hiện có, việc gọi các thủ thuật này là “chăm sóc thân thiện với người chuyển giới” dường như là một sự đảo ngược ngôn ngữ kiểu Orwell, che đậy việc lạm dụng thuốc.

Những người xác định là chuyển giới xứng đáng nhận được lòng cảm thương và sự chăm sóc y tế dựa trên bằng chứng có thể giúp họ phát triển về thể chất và tâm lý. Các biện pháp can thiệp hóa chất và phẫu thuật khắt khe không cung cấp những điều đó.

Hỏi: Chúng ta đã tới điểm này cách nào? Những lực lượng lịch sử, văn hóa và triết học nào đã đưa chúng ta đến đây?

Grabowski:

Trong cuốn sách, tôi đã trình bày một số điều về sự pha trộn độc hại của các nền triết học hiện đại vốn giúp hình thành ý thức hệ này, chẳng hạn như việc xóa bỏ bản chất con người và gia đình do chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa hậu hiện đại và chủ nghĩa Mác gây ra.

Những điều này đã có ảnh hưởng rộng rãi trong nền văn hóa của chúng ta, nơi mà gia đình và bản sắc cá nhân đã bị phá vỡ bởi những thay đổi có tính địa chấn của Cách mạng Kỹ nghệ, Cách mạng Tình dục và Cuộc cách mạng Kỹ thuật đang diễn ra xung quanh chúng ta.

Để làm nổi bật tác động của một vài trong số những bất ổn văn hóa này, các kỹ thuật ngừa thai hiện đại (chúng chính là nhiên liệu phản lực của Cách mạng Tình dục) đã loại bỏ khả năng sinh sản vốn nằm ở trung tâm của sự khác biệt giới tính khỏi cả hôn nhân lẫn bản thân, khiến cơ thể không còn telos [cùng đích].

Thêm vào đó, việc kỹ thuật số hóa căn tính trong thế giới trực tuyến của chúng ta giúp bảo đảm ý tưởng cho rằng cơ thể chỉ đơn giản là một màn hình để chiếu căn tính lên trên. Nếu cảm thức về bản sắc cá nhân và cơ thể không phù hợp, nó có thể bị phá bỏ bằng quá trình chuyển giới bằng hóa chất và phẫu thuật.

Tất cả những điều này góp phần vào việc lặp đi lặp lại thuyết Ngộ đạo cổ xưa chỉ thấy trong thế kỷ 21. Ý thức hệ phái tính có mục đích cung cấp một loại cứu rỗi thế gian này bằng cách khuất phục cơ thể và “giới tính được chỉ định khi sinh ra” để phát biểu một phái tính tự chỉ định cho chính mình.

Favale:

Tôi nghĩ rằng điều quan trọng là phải chống lại một câu chuyện "chỉ thế thôi" để giải thích một hiện tượng rất phức tạp. Nói thế rồi, một nhân tố nổi bật đã và hiện còn là một cuộc cách mạng hai mặt trong trí tưởng tượng văn hóa và điều kiện vật chất của chúng ta: cuộc cách mạng khái niệm và cuộc cách mạng ngừa thai. Đây là câu chuyện tôi vạch ra trong cuốn “The Genesis of Gender” [Khởi nguyên của Phái tính] của tôi.

Đầu tiên, cuộc cách mạng khái niệm: trước những năm 1950, “phái tính” là một hạn từ ngôn ngữ học được nhà tâm lý học John Money mượn để giải thích giả thuyết của ông về căn tính của chúng ta như con trai và con gái được xây dựng hoàn toàn về mặt xã hội trong những năm đầu đời. Ông đã phân biệt giữa “phái tính”, là một cơ cấu xã hội và “giới tính”, là một cơ cấu sinh học.

Các nhà duy nữ làn sóng thứ hai bám vào sự phân biệt giới tính / phái tính này, và vào những năm 1970, thuật ngữ này đã trở nên phổ biến trong các khoa học xã hội và nhân văn. Trong chủ nghĩa duy nữ làn sóng thứ ba, nhà lý thuyết hậu hiện đại Judith Butler cho rằng bản thân giới tính, chứ không phải chỉ giới tính, là một cơ cấu xã hội - tất cả các nỗ lực phân loại hoặc thêm ý nghĩa cho các đặc điểm sinh học căn bản là vấn đề quyền lực xã hội hơn là kiến thức.

Qua các phiên bản phổ biến của các lý thuyết của Butler, ý niệm giới tính nhị phân đã bị thách thức và bây giờ chúng ta gặp một sự đảo ngược kỳ lạ: "phái tính", được định nghĩa như một cảm thức của người ta về bản thân mình như đàn bà / đàn ông / không phải là đàn ông hay đàn bà, được coi là bẩm sinh và có thật, trong khi “giới tính” được xem như một cấu trúc hay hư cấu có thể thay đổi được.

Cuộc cách mạng khái niệm này diễn ra song song với việc chấp nhận và sử dụng các biện pháp ngừa thai rộng rãi. Cuộc cách mạng ngừa thai này đã thay đổi đáng kể các thực hành, chuẩn mực, kỳ vọng về tình dục của chúng ta — và quan trọng nhất, chúng ta có cái hiểu chung này là “đàn bà” và “đàn ông” trong căn bản được định nghĩa bằng tiềm năng sinh sản bẩm sinh. Chúng ta đã đánh mất nhận thức bản năng ấy về nam và nữ như các phương thức sinh sản khác biệt — thay vào đó, phái tính là về ngoại hình, phát biểu và vai trò xã hội. Tôi lập luận trong sách của tôi rằng cuộc cách mạng hai mặt này đã đưa chúng ta đến điểm hiện nay.

Các nhân tố quan trọng khác thúc đẩy hiện tượng chuyển giới bao gồm môi trường trực tuyến ba chiều [immersive] và vô thân [disembodied] của nền văn hóa tuổi trẻ phương Tây, nơi căn tính có thể dễ dàng thay đổi, và cả ảnh hưởng tràn lan của văn hóa khiêu dâm đối với quan niệm của chúng ta về ý nghĩa của việc là đàn ông đàn bà và của cơ thể có giới tính của chúng ta.

Hỏi: Sự gia tăng dữ dội của con số người trẻ tự xác định là LGBT + hoặc đồng tính nói chung và chuyển giới nói riêng, không thể giải thích bằng xu hướng học thuật, đúng không? Hay có thể? Các bạn có thể nói thêm về những gì các bạn nghĩ đang diễn ra với những người trẻ tuổi và các nhóm đồng lứa của họ?

Grabowski:

Tôi không nghĩ rằng có một nhân tố đơn nhất nào giải thích được toàn bộ hiện tượng này. Một phần của vấn đề có thể là sự chấp nhận lớn hơn của xã hội đối với những người tự xác định là LGBTQIA + trong xã hội của chúng ta, đặc biệt là ở phía xa của các phán quyết Obergefell Bostock, những phán quyết dường như đã thêm sức mạnh pháp luật cho sự trôi dạt của các xu hướng văn hóa của chúng ta trong những thập niên gần đây.

Điều này cùng với việc tháo kết khả năng sinh sản khỏi hôn nhân và cơ thể do nền văn hóa phương Tây và việc kỹ thuật số hóa căn tính đã cổ vũ các phương tiện ngừa thai, làm cho những người trẻ tuổi không còn trọng tâm cho căn tính của họ nữa. Tôi cũng nghĩ rằng có thể có một số lực lượng khác nhau đang làm việc khi nói đến sự hấp dẫn tình dục (nghĩa là những người tự mô tả mình như LBG) chống lại bản sắc (T +). Cả hai rõ ràng có liên hệ nhưng khác biệt.

Đặc biệt đối với những người tự xem mình là người chuyển giới, không phải nhị phân, phái tính lỏng hoặc phái tính kỳ dị, có những nhân tố bổ sung hoạt động. Dường như có một điều gì đó giống như một tác động xã hội lây lan của ý thức hệ phái tính, nhất là đối với những người trẻ đang đấu tranh với căn tính của họ vì những lý do khác ngoài sự không hợp về phái tính.

Chúng ta thấy sự gia tăng rõ rệt kiểu lên căn tính này ở các thiếu niên và thanh niên, những người trước đây không có dấu hiệu cảm thấy khó chịu về phái tính khi còn nhỏ. Dường như phần lớn điều này là kết quả của việc tiếp xúc với ý thức hệ phái tính thông qua các nhóm đồng lứa và các nguồn trực tuyến. Tên lâm sàng của hiện tượng này là “chứng khó chịu phái tính khởi phát nhanh chóng” và chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu về nó.

Favale:

Tuổi thiếu niên là khoảng thời gian đầy sóng gió và khó khăn đối với hầu hết mọi người.

Cơ thể của bạn đang thay đổi nhanh chóng; bạn đang cưỡi một cơn sóng thần kích thích tố; bạn đang phát triển một căn tính dị biệt hóa với cha mẹ mình, thường bằng cách thử nghiệm và vượt qua ranh giới.

Tuổi thiếu niên cũng là một giai đoạn phát triển khi các mối quan hệ đồng trang đồng lứa trở nên quan trọng và có ảnh hưởng lớn. Ngoài ra, chúng ta cũng đang chứng kiến cuộc khủng hoảng sức khỏe tâm thần ngày càng gia tăng ở những người trưởng thành trẻ tuổi. Tôi tin rằng nền văn hóa của chúng ta hiện đang phản ứng với một loại tức giận và đau khổ phức tạp ở tuổi thiếu niên đối với một khuôn khổ giản lược thô sơ: “Cơ thể của bạn là điều sai trái với bạn; đó là lý do tại sao bạn đau đớn, đó là lý do tại sao bạn cảm thấy khác biệt. Nếu sửa được thân xác bạn, bạn sẽ hạnh phúc”. Đó là một câu chuyện cực kỳ hấp dẫn - nhưng nó không phải là một câu chuyện hay, và cuối cùng sẽ gây ra nhiều đau khổ hơn.

Ở một khía cạnh nào đó, hiện tượng này giống các bệnh truyền nhiễm xã hội khác: hãy nghĩ đến sự gia tăng của chứng rối loạn ăn uống vào cuối những năm 80-90, dịch bệnh tự làm hại mình đầu những năm 2000. Điều mới — và nguy hiểm -– về sự lây lan này là nó đang được những người lớn có trách nhiệm và các nhân vật có thẩm quyền (cha mẹ, giáo viên, bác sĩ, nhà trị liệu) dung túng và kích hoạt.

Hãy tưởng tượng một bác sĩ kê toa thuốc kiêng ăn hoặc phẫu thuật để điều trị chứng biếng ăn. Hãy tưởng tượng một nhà trị liệu cung cấp các mách nước và chiến lược về cách cắt giảm mà không bao giờ cố gắng khám phá những gì có thể là gốc rễ của sự đau khổ. Khuôn khổ khẳng định phái tính này đã đặt tên lại cho việc tự làm hại bản thân là tự chăm sóc bản thân.

Tôi cũng nghĩ rằng có một cuộc phản kháng vô thức đang diễn ra, một cuộc nổi loạn chống lại những kịch bản độc hại về việc một người đàn ông nghĩa là gì, một người đàn bà nghĩa là gì.

Càng ngày, những kịch bản này càng được định hình bởi việc siêu tình dục khiêu dâm hóa của nền văn hóa của chúng ta. Thanh niên tiếp xúc với văn hóa khiêu dâm ở lứa tuổi rất trẻ. Hãy nghĩ tới những gì đang dạy họ. Không có gì lạ khi rất nhiều phụ nữ trẻ muốn từ chối làm phụ nữ, nếu đây là điều hình như là - bị thống trị, bị khai thác, bị biến thành đồ vật.

Ngược lại, trong một số lời kể ở ngôi thứ nhất của những người đàn ông hoàn giới, tôi nghe mộc cuộc chạy trốn song song khỏi tư cách nam giới. Ai còn muốn lớn lên trở thành một người đàn ông, nếu nam tính có tính độc hại và chuyên săn mồi?

Chúng ta đang rất cần những trình thuật tích cực về những gì nó trông như thể để phát triển như một người đàn ông hoặc một một người đàn bà, những trình thuật chống lại những định kiến và chỉ ra những cách đa dạng để sống thực tình dục của mình một cách có ý nghĩa ở trên đời.
___________________________________________________________________
[*] “Canary in the coal mine” thợ mỏ đem chim hoàng yến xuống hầm mỏ để nếu có hơi độc, hoàng yến chết trước và nhờ đó, thợ mỏ thoát nạn.

Kỳ sau: Phần II cuộc phỏng vấn
 
Nhật ký trừ tà số 198: Các Thánh có chọn chúng ta không?
Đặng Tự Do
05:07 24/07/2022


Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #198: Do Saints Choose Us?”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 198: Các Thánh có chọn chúng ta không”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Cô “K” đã bị quỷ ám. Cô được cha mẹ ruột của mình hiến dâng cho ma quỷ: một người là phù thủy và người kia là người theo đạo Satan. Sự nuôi dạy của cô rất tàn bạo bao gồm thói quen dùng ma túy từ mẹ cô và những cuộc cưỡng hiếp liên tục của những người đàn ông.

Cha mẹ ruột đều chết rất trẻ. Cuối cùng K đã được một người đàn ông tốt bụng là một tín hữu Công Giáo sùng đạo nhận làm con nuôi. Sau khi giới thiệu cô với các bí tích Công Giáo, và chứng kiến các triệu chứng của cô, ông ấy nhận ra rằng cô đã bị qủy nhập. Ông đưa cô đến một nhà trừ tà.

Trong quá trình giải thoát, nhóm trừ tà đã rất ngạc nhiên khi K nói rằng một người tên là “Agape” xuất hiện và đang giúp đỡ cô ấy. K không biết Agape là ai, và hầu hết cả nhóm trừ tà cũng không biết. K nghĩ rằng Agape là một thiên thần; khi cô ấy xuất hiện, cô ấy được bao quanh bởi một luồng sáng lớn. Chỉ sau khi cô ấy tự nhận mình là “Agape”, K mới nhận ra người đó là con người.

Sau khi nghe K mô tả về Agape và thực hiện một số nghiên cứu, nhóm trừ tà nhận ra rằng cô ấy đang mô tả Thánh Agape - một trinh nữ tử đạo ở thế kỷ thứ 4. Thánh Agape cũng mồ côi từ nhỏ. Cô và hai chị gái của mình đã sống đời khiết tịnh dưới sự hướng dẫn của linh mục Xeno. Họ từ chối một số lời đề nghị kết hôn. Họ đã tử vì đạo dưới thời Hoàng đế Điôclêxiô.

K phải chịu đựng những cuộc tấn công thể xác của ma quỷ cũng như những cuộc tấn công tình dục lặp đi lặp lại của những người đàn ông, nhiều người trong số họ bị ma quỷ soi dẫn. Những người đàn ông này vô tình là tay sai của Satan đang cố gắng tấn công tình dục hoặc quyến rũ cô ấy, bao gồm cả việc dụ dỗ cô ấy bằng ma túy bất hợp pháp. Trong những khoảnh khắc bị cám dỗ và bị ma quỷ tấn công, Agape xuất hiện và thì thầm vào tai K những thông điệp đặc biệt về ân sủng. Khi Thánh Agape xuất hiện, cô thường thấy những con quỷ rời đi.

Thánh Agape là vị thánh hoàn hảo và là người cầu thay nguyện giúp cho K khi K là mục tiêu của các cuộc tấn công dữ dội của ma quỷ. Sự hiện diện và lời cầu bầu của Thánh Agape là rất nhiều, rất cần thiết. Chúng tôi cảm ơn Chúa vì sự giúp đỡ của vị thánh này.

Nhiều khi chúng ta nuôi dưỡng lòng sùng kính đối với một vị thánh cụ thể, vì nghĩ rằng chúng ta đã chọn vị thánh đó. Nó có thể là ngược lại. Có thể, bởi ân sủng của Thiên Chúa, một vị thánh cụ thể đã được chọn cho chúng ta. Trong tương lai, khi chúng ta bắt đầu các buổi trừ tà, hoặc đơn giản là bắt đầu cuộc sống hàng ngày, có lẽ chúng ta phải bắt đầu bằng cách hỏi Chúa xem vị thánh nào đã được chọn cho chúng ta.
Source:Catholic Exorcism
 
Đức Thánh Cha ngồi xe lăn đến thăm Canada – Đón tiếp tại phi trường quốc tế Edmonton
Đặng Tự Do
15:12 24/07/2022


Lúc 9g sáng Chúa Nhật 24 tháng 7, Đức Thánh Cha đã khởi hành từ phi trường Fiumicino của Rôma trong chuyến tông du Canada từ ngày 24 đến ngày 30 tháng Bẩy. Đây là chuyến tông du thứ 37 của Đức Thánh Cha trong triều Giáo Hoàng của ngài, và là chuyến tông du thứ năm sau khi đại dịch coronavirus bùng phát trên thế giới làm gián đoạn các chuyến tông du của ngài trong 15 tháng. Đây cũng là chuyến tông du thứ hai của ngài trong năm nay, sau khi đã viếng thăm Malta trong hai ngày mùng 2 vả 3 tháng Tư vừa qua.

Lúc 11:20 máy bay đã hạ cánh xuống sân bay Edmonton, tỉnh Alberta. Tại đây đã có lễ nghi chào đón chính thức. Không có gì khác được lên kế hoạch trong ngày, để cho phép Đức Giáo Hoàng nghỉ ngơi sau chuyến bay kéo dài 10 giờ và thay đổi những múi giờ khác nhau, các giám mục Canada cho biết như trên trong tuyên bố của các ngài.

Chuyến thăm của người đứng đầu Giáo Hội Công Giáo qua Đại Tây Dương là một phần của quá trình thống hối và hòa giải do Giáo hội ở Canada khởi xướng, một quá trình đã được tiến hành trong nhiều thập kỷ nhưng được khởi động trở lại sau khi phát hiện ra các ngôi mộ tập thể vào năm 2021 của các trường dành cho người bản địa, một số do Giáo hội quản lý trong thế kỷ 19 và 20.

Vào cuối tháng 3, Đức Giáo Hoàng đã tiếp ba phái đoàn gồm các dân tộc thổ dân tại Vatican, do các giám mục Canada dẫn đầu. Trong sự kiện này, ngài đã lắng nghe những lời chứng của họ, chính thức cầu xin sự tha thứ cho những lỗi lầm trong quá khứ của các thành viên của Giáo hội, và bày tỏ mong muốn được đến thăm vùng đất của họ.

Chương trình của Đức Thánh Cha Phanxicô bao gồm nhiều cuộc gặp gỡ và thăm viếng có liên quan trực tiếp đến vấn đề trường học dành cho người bản địa, công việc tưởng nhớ, chữa lành và tha thứ, và quảng bá văn hóa của các dân tộc thổ dân.

Tổng quan

Canada là quốc gia có diện tích lớn thứ hai trên thế giới, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ. Lãnh thổ Canada gồm 10 tỉnh bang và 3 vùng lãnh thổ liên bang, trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái Bình Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Canada giáp với lục địa Hoa Kỳ ở phía nam, và giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Biên giới chung của Canada với Hoa Kỳ về phía nam và phía tây bắc là đường biên giới dài nhất thế giới. Ở phía đông bắc của Canada là đảo Greenland thuộc Vương quốc Đan Mạch. Ở ngoài khơi phía nam đảo Newfoundland của Canada có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon thuộc Pháp.

Canada là một liên bang gồm có mười tỉnh và ba lãnh thổ. Các đơn vị hành chính này có thể được nhóm thành bốn vùng chính: Tây bộ Canada, Trung bộ Canada, Canada Đại Tây Dương, và Bắc bộ Canada. Các tỉnh có quyền tự trị lớn hơn các lãnh thổ, chịu trách nhiệm đối với các chương trình xã hội như chăm sóc y tế, giáo dục, và phúc lợi. Tổng thu nhập của các tỉnh nhiều hơn của chính phủ liên bang. Sử dụng quyền hạn chi tiêu của mình, chính phủ liên bang có thể bắt đầu các chính sách quốc gia tại các tỉnh, như Đạo luật Y tế Canada; các tỉnh có thể chọn ở ngoài chúng, song hiếm khi làm vậy trên thực tế. Chính phủ liên bang thực thi thanh toán cân bằng nhằm bảo đảm các tiêu chuẩn thống nhất hợp lý về các dịch vụ và thuế được thi hành giữa các tỉnh giàu hơn và nghèo hơn.

Theo ước tính, hiện nay Canada có 38,233,000 triệu dân. Thủ đô Canada là Ottawa với dân số khoảng 1.4 triệu người. Tuy nhiên, thành phố lớn nhất là Toronto với dân số hơn 6.3 triệu người.

Theo tổng diện tích, Canada là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Nga, với tổng diện tích lên đến 9,984,670 km2; trong đó diện tích đất là 9,093,507 km2 và diện tích lãnh hải là 891,163 km2.

Phần lớn vùng Bắc Cực thuộc Canada bị băng và tầng đất đóng băng vĩnh cửu bao phủ. Canada có đường bờ biển dài nhất trên thế giới, với tổng chiều dài là 202,080 km.

Tên gọi Canada bắt nguồn từ kanata trong ngôn ngữ của người Iroquois Saint Lawrence, nghĩa là “làng” hay “khu định cư”. Năm 1535, các cư dân bản địa của khu vực nay là thành phố Québec sử dụng từ này để chỉ đường cho nhà thám hiểm người Pháp Jacques Cartier đến làng Stadacona. Cartier sau đó sử dụng từ Canada để nói đến không chỉ riêng ngôi làng, mà là toàn bộ khu vực; đến khoảng năm 1545, các sách và bản đồ tại châu Âu bắt đầu gọi khu vực này là Canada.

Lịch sử cận đại

Nhiều dân tộc Thổ dân cư trú tại lãnh thổ nay là Canada trong hàng thiên niên kỷ. Bắt đầu từ cuối thế kỷ XV, người Anh và người Pháp thành lập các thuộc địa trên vùng duyên hải Đại Tây Dương của khu vực. Sau các xung đột khác nhau, Anh Quốc giành được, rồi lại để mất nhiều lãnh thổ tại Bắc Mỹ, và đến cuối thế kỷ XVIII thì còn lại phần lãnh thổ chủ yếu thuộc Canada ngày nay. Căn cứ theo Đạo luật Bắc Mỹ thuộc Anh vào ngày 1 tháng 7 năm 1867, ba thuộc địa hợp thành thuộc địa liên bang tự trị Canada. Sau đó thuộc địa tự trị dần sáp nhập thêm các tỉnh và lãnh thổ. Năm 1931, theo Quy chế Westminster 1931, Anh Quốc trao cho Canada tình trạng độc lập hoàn toàn trên hầu hết các vấn đề. Các quan hệ cuối cùng giữa hai bên bị đoạn tuyệt theo Đạo luật Canada 1982.

Chính trị

Canada là một nền dân chủ đại nghị liên bang và một quốc gia quân chủ lập hiến, Nữ hoàng Elizabeth II là nguyên thủ quốc gia. Bà cũng đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia của 15 quốc gia khác và là nguyên thủ của mỗi tỉnh tại Canada.

Đại diện cho Nữ vương là Toàn quyền Canada, hiện nay là Bà Mary Simon, người thực hiện hầu hết các chức trách của quân chủ liên bang tại Canada. Bà Mary Simon sinh ngày 21 tháng 8 năm 1947, nguyên là một công chức Canada, nhà ngoại giao và cựu phát thanh viên. Bà đã giữ chức vụ Toàn quyền Canada thứ 30 của Canada kể từ ngày 26 tháng 7 năm 2021. Simon là Inuk, khiến bà trở thành người bản địa đầu tiên giữ chức vụ này.

Thủ tướng, người nắm thực quyền tại Canada, hiện nay là Ông Justin Pierre James Trudeau, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1971 là một chính trị gia Công Giáo, là thủ tướng thứ 23 kể từ năm 2015. Ông là nhà lãnh đạo của Đảng Tự do từ năm 2013. Trudeau là thủ tướng trẻ thứ hai trong lịch sử Canada sau Joe Clark; ông cũng là người đầu tiên là con hoặc họ hàng khác của một người giữ chức vụ trước đó, với tư cách là con trai cả của Pierre Trudeau.

Canada là một thành viên của Khối thịnh vượng chung Anh. Canada là quốc gia song ngữ trong đó tiếng Anh và tiếng Pháp được sử dụng tại cấp liên bang. Do tiếp nhận người nhập cư quy mô lớn từ nhiều quốc gia, Canada là một trong các quốc gia đa dạng sắc tộc và đa nguyên văn hóa nhất trên thế giới, với dân số xấp xỉ 35 triệu người vào tháng 12 năm 2012. Canada có nền kinh tế rất phát triển và đứng vào nhóm hàng đầu thế giới, kinh tế Canada dựa chủ yếu vào nguồn tài nguyên tự nhiên phong phú và hệ thống thương mại phát triển cao. Canada có quan hệ lâu dài với Hoa Kỳ, mối quan hệ này có tác động đáng kể đến kinh tế và văn hóa của quốc gia.

Canada là một cường quốc và quốc gia phát triển, đồng thời luôn nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao thứ tám toàn cầu, và chỉ số phát triển con người cao thứ 11. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, và tự do kinh tế. Canada tham gia vào nhiều tổ chức quốc tế và liên chính phủ về kinh tế: G8, G20, Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ, Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương. Canada là một thành viên của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, gọi tắt là NATO.

Giáo Hội Công Giáo tại Canada

Canada là quốc gia đa tôn giáo, bao gồm nhiều tín ngưỡng và phong tục. Theo điều tra năm 2022 của chính quyền 39% người Canada nhận mình là tín hữu Công Giáo, con số này là 44.4% theo niên giám thống kê của Tòa Thánh tính đến ngày 31 tháng 12, 2020. Các giáo phái Tin Lành chiếm 20.3%, lớn nhất trong số đó là Giáo hội Hiệp nhất Canada (6.1%), tiếp theo là Anh giáo 5%, và Báp-tít, 1.9%, Lutheran 1.5%. Bên cạnh đó, còn có 3.2% dân số theo Hồi Giáo; 1.1% theo Phật Giáo; và 1% theo Do Thái Giáo.

Quan thầy của Giáo Hội Canada là Thánh Giuse, Thánh Anna, thân mẫu Đức Mẹ, và các thánh tử đạo Canada.

Theo niên giám thống kê của Tòa Thánh, tính đến ngày 31 tháng 12, 2020, Giáo Hội tại Canada có 16,858,000 tín hữu sinh hoạt trong 19 tổng giáo phận, 51 giáo phận, 2 giáo phận Đông phương, một giáo phận quân đội, và một giáo hạt tòng nhân.

Giáo Hội tại Canada có tổng cộng 3881 giáo xứ, 557 trung tâm mục vụ khác; và 35 tu hội đời.

Giáo Hội Canada có 4 vị Hồng Y là các Đức Hồng Y Thomas Christopher Collin, Tổng Giám Mục Toronto, Michael Czerny, Tổng Trưởng Bộ Phục Vụ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện, Gérald Cyprien Lacroix, Tổng Giám Mục Quebéc, Marc Ouellet, Tổng Trưởng Bộ Giáo Sĩ.

Giáo Hội tại Canada có 134 Giám Mục, 6,222 linh mục bao gồm 4,117 linh mục triều, và 2,105 linh mục dòng. Giáo Hội Canada cũng có 1,217 phó tế vĩnh viễn, 1,032 nam tu sĩ không có chức linh mục, 9,620 nữ tu, 18,761 giáo lý viên, 99 giáo dân truyền giáo.

Về mặt đào tạo, Giáo Hội Canada có 497 tiểu chủng sinh, 352 đại chủng sinh. Giáo Hội sở hữu 2,179 trường mẫu giáo và tiểu học với 516,821 học sinh; 451 trường trung học với 276,218 học sinh; và 45 trường Đại Học với 28,074 sinh viên.

Giáo Hội cũng sở hữu 64 bệnh viện, 3 trung tâm chăm sóc sức khoẻ, 140 nhà dưỡng lão, 54 cơ sở dành cho trẻ mồ côi, 72 trung tâm cố vấn gia đình, 30 trung tâm xã hội, và 72 cơ sở xã hội khác.
 
Phần II cuộc phỏng vấn của The Pillar về giới tính, phái tính, chuyển phái: giải pháp cho vấn đề
Vũ Văn An
23:27 24/07/2022
Hỏi: Khi suy nghĩ về cách trả lời những gì chúng ta đã thảo luận vào tuần trước, tôi tự hỏi liệu chúng ta có thể tiếp thu tập chú của Tiến sĩ Favale về “những trình thuật tích cực về những gì nó trông như thể để phát triển như một người đàn ông hoặc một một người đàn bà, những trình thuật chống lại những định kiến và chỉ ra những cách đa dạng để sống thực tình dục của mình một cách có ý nghĩa ở trên đời”. Cả hai bạn có thể cung cấp chi tiết chuyên biệt hơn về điều này không? Có lẽ đặc biệt dựa trên kinh nghiệm của các bạn khi dạy những người trẻ có khả năng hoài nghi quan điểm của các bạn?



Grabowski:

Đối với tôi, một điểm tham chiếu chính khi suy nghĩ về câu hỏi này là một lời giải thích quan trọng mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra trong Amoris laetitia, số 56: “Cần phải nhấn mạnh rằng ‘giới tính sinh học và vai trò văn hóa xã hội của giới tính (phái tính) có thể được phân biệt nhưng không được tách biệt.”

Vì vậy, ta có quyền thừa nhận phái tính như là biến thể có hiểu viết về văn hóa trong việc phát biểu giới tính sinh học. Các nền văn hóa khác nhau và các thời điểm lịch sử khác nhau có những kỳ vọng khác nhau về ý nghĩa của việc sống thực tại làm con trai hay con gái, làm đàn ông hay đàn bà và điều đó tốt thôi. Hầu hết các nền văn hóa này cũng có dành chỗ cho sự biến thể cá nhân.

Điều chúng ta không thể làm là tạo ra một sự tách biệt cứng rắn giữa cơ thể giới tính và biểu thức văn hóa này. Đó chính là điều được ý thức hệ phái tính yêu cầu - một sự tách biệt bất kết nối hoặc một sự tách biệt cứng rắn giữa căn tính phái tính tự gán cho mình và cơ thể.

Tôi nghĩ rằng việc áp dụng tức khắc quan điểm của Đức Giáo Hoàng Phanxicô khá rõ ràng trong ngôn ngữ được Giáo hội sử dụng. Khi giáo huấn của Giáo hội nói về việc sống thực tại khác biệt giới tính, nó thường nói về những ơn gọi chuyên biệt nhằm hiện thực hóa những ân phúc khác biệt (hoặc một thiên phú độc đáo) được mỗi giới tính sở hữu. Nói cách khác, chỉ đàn ông mới có thể làm chồng hoặc làm cha (cả về mặt sinh học lẫn tinh thần). Chỉ có đàn bà mới có thể làm vợ, làm mẹ (bất kể là thể lý hay tinh thần).

Thí dụ, cả Đức Gioan-Phaolô II lẫn Đức Phanxicô đều chỉ ra rằng thiên chức làm mẹ là việc hiện thực hóa chuyên biệt hồng phúc khác biệt của phụ nữ vốn lấy con người làm trung tâm — mặc dù, rõ ràng, phụ nữ cũng có những hồng phúc khác biệt khác. Chúng ta còn nhiều việc phải làm trong việc nhận diện và khuyến khích những người đàn ông sống đúng với thiên phú của họ như những người cha.

Nơi mà điều này bị bóp méo, và là nơi các sinh viên đại học mà tôi dạy trở nên hoài nghi một cách chính đáng, là khi ngôn ngữ về ơn gọi và hồng phúc này sụp đổ trở thành những giả định văn hóa được xác định một cách cứng ngắc về vai trò phái tính. Sự sụp đổ này có thể được nhìn thấy giữa một số Kitô hữu Thệ phản cực đoan hoặc một số người Công Giáo duy truyền thống.

Theo quan điểm này, có những vai trò phái tính có tính mệnh lệnh theo kinh thánh và bất cứ sự sai lệch nào với chúng — chẳng hạn như những gia đình có mẹ đi làm hoặc cha ở nhà — là đầu hàng nền văn hóa hoặc chủ nghĩa duy nữ thế tục. Tựu chung, phương thức này không cung cấp cho ta một cách đọc sách thánh tốt đẹp hoặc cách đọc lịch sử một cách có hiểu biết nhiều.

Favale:

Tôi đồng ý với John về sự nguy hiểm của việc phiên dịch mầu nhiệm khác biệt giới tính thành những vai trò giới tính được xác định một cách cứng ngắc. Có một phản ứng phản động chống lại chủ nghĩa duy nữ trong một số giới Công Giáo ngay lúc này. Tôi thường xuyên phê phán những sai sót của chủ nghĩa duy nữ trong việc làm của mình, nhưng câu trả lời không phải là rút vào những khuôn mẫu và chuẩn mực thoái bộ vượt trên và vượt ra ngoài giáo huấn của Giáo hội, trở thành một loại chủ nghĩa cực đoan kiểu biệt phái.

Tôi thấy tác phẩm của Thánh Teresa Benedicta Thánh Giá, tức Edith Stein, rất hữu ích ở đây. Bà thảo luận về mối liên hệ giữa thiên nhiên và ơn gọi theo ba chiều kích. Thứ nhất, chiều kích con người: đàn ông và đàn bà đều là con người hoàn toàn, và do đó cùng nhau chia sẻ đầy đủ các thiên phú và tiềm năng của con người. Cả hai đều thuận lý hoàn toàn; mỗi người có thể có được những nhân đức như nhau. Ở bình diện này, có sự tương đồng và trùng lắp lớn giữa hai giới.

Chiều kích thứ hai là sự khác biệt giới tính: dọc theo bình diện này, đàn ông và đàn bà khác nhau. Họ không đối lập hoàn toàn, nhưng bất đối xứng. Sự bất đối xứng này bắt nguồn từ việc mang thân xác có giới tính. Người đàn ông và người đàn bà là những việc nhập thể khác biệt của hữu thể nhân bản. Có thể có các cuộc trò chuyện ở đây về các sự khác biệt giới tính nói chung, một lần nữa nhớ rằng các giới tính không đối lập nhau theo kiểu biếm hoạ (cartoonish). Các khả năng sinh học của chúng ta đối với vai trò làm mẹ (và đối với nam giới, làm cha) thực sự có những hệ luận tâm linh, vì chúng ta là cả vật chất lẫn tâm linh. Nhưng sự khôn ngoan độc đáo đó được trau dồi và sống thực ra sao trên thế giới tùy từng người mà khác nhau.

Điều đó đưa chúng ta đến chiều kích thứ ba: bản chất của cá nhân; nữ tính của một người phụ nữ cá nhân có thể được sống theo một cách không điển hình cho phụ nữ nói chung và điều đó tốt thôi. Việc luôn ghi nhớ ba chiều kích này cho phép chúng ta duy trì được cả sự giống nhau (bản chất con người chung của chúng ta) và sự khác biệt (các khác biệt giữa đàn ông và đàn bà, và các khác biệt nơi đàn ông và đàn bà).

Hỏi: Những người Công Giáo muốn tôn vinh sự thật về giới tính và phái tính, nhưng cũng muốn nhạy cảm với các nhu cầu và quan điểm của anh chị em tự xác định là chuyển giới của chúng ta, thường cần phải đi một con đường nhiều chông gai.

Trong mọi sự, từ các cuộc gọi ảo và thẻ tên yêu cầu được biết đại danh từ của các bạn, đến các yêu cầu chính thức từ một người chuyển căn tính (hoặc một cơ quan hành chính thay mặt họ) để nói và cư xử như thể điều các bạn tin là sai thì là đúng, có những quyết định mới và đầy rẫy, những quyết định không hiện hữu một ít năm trước đây.

Làm thế nào các bạn có thể lèo lái qua các quyết định này?


Favale:

Mặc dù tôi nghĩ rằng có một số chỗ dành cho sự phán xét khôn ngoan, nhất là trong môi trường mục vụ - nói chung, tôi nghĩ điều quan trọng là sử dụng ngôn ngữ dựa trên thực tại.

Tôi càng nghiên cứu về “lý thuyết căn tính phái tính”, (niềm tin cho rằng phái tính dựa trên nhận thức chủ quan của bản thân, thay vì bắt nguồn từ cơ thể có giới tính), tôi càng thấy rõ ràng hơn rằng cái giàn của khuôn khổ này có tính ngữ học.

Nó đòi hỏi chúng ta phải sử dụng từ ngữ theo cách mâu thuẫn với thực tại vật chất. Đó là lý do tại sao người ta nhấn mạnh rất nhiều vào sự phù hợp ngôn ngữ học; tính hợp lý của lý thuyết căn tính phái tính phụ thuộc vào sự tham gia ngôn ngữ học của chúng ta. Và bởi vì sự khẳng định xã hội có thể là một cửa ngõ dẫn đến diễn trình y khoa hóa xâm lấn, không thể đảo ngược, nên các nguy cơ rất cao, đặc biệt khi nói đến giới trẻ. Tôi nghĩ viễn cảnh đồng lõa của chúng ta sẽ đè nặng lên chúng ta.

Vì điều trên, tôi thường chọn không phù hợp một cách âm thầm. Nếu được yêu cầu đặt một đại danh từ trên thẻ tên, hoặc trong một cuộc họp “zoom”, v.v., tôi sẽ đơn giản làm ngơ việc đó. Nếu được yêu cầu một cách trực tiếp và rõ ràng, có lẽ tôi sẽ giải thích rằng lương tâm tôi phản đối chủ trương cho rằng phái tính của tôi là một “sở thích”, nhưng trong trường hợp có người bối rối, thì tôi là một “cô ấy” [she].

Trong các tương tác liên ngã, thực sự sẽ rất dễ dàng nếu chỉ cần sử dụng tên và tránh hoàn toàn các đại danh từ. Và tôi rất vui khi sử dụng bất cứ tên nào mà ai đó đặt cho tôi, trong hầu hết các tình huống.

Một ngoại lệ đối với điều này có thể là nếu tôi là cha mẹ của một người trẻ muốn chuyển đổi về phương diện xã hội và yêu cầu tôi chấp nhận tên và đại danh từ họ đã chọn. Trong trường hợp này, tôi nghĩ điều quan trọng là cha mẹ phải duy trì các ranh giới dựa trên thực tại.

Các thiếu niên cần phải vượt qua ranh giới; họ cần khám phá và đặt câu hỏi và vật lộn. Nhưng cha mẹ cần yêu thương và kiên nhẫn giữ vững các ranh giới nhất định trong suốt diễn trình khám phá đó, và giữ vững một số đường rào cản đường rầy.

Các kết quả của một nghiên cứu năm 2020 về các tác động tâm lý của việc khẳng định xã hội cho thấy phẩm chất của các mối liên hệ gia đình và bạn bè, chứ không phải tình trạng chuyển đổi xã hội, có tính dự đoán được của hoạt động tâm lý.

Nói cách khác, việc cung cấp cho những người trẻ đặt câu hỏi về phái tính một cách yêu thương và hỗ trợ không đòi hỏi phải khẳng định căn tính phái tính được họ tri nhận. Những phát hiện này chứng thực một nghiên cứu từ năm 2019 so sánh các trẻ em chuyển đổi về phương diện xã hội với các trẻ em không phù hợp về phái tính nhưng không chuyển đổi về phương diện xã hội.

Grabowski:

Tôi đã nhận được điện thoại từ các nghiên cứu sinh tiến sĩ cũ mà tôi đã giảng dạy, những người hiện đang giảng dạy tại các cơ sở Công Giáo khác nhau trên khắp đất nước hỏi câu hỏi này. Tôi nghĩ điều quan trọng là phản ứng với con người hoặc tình huống bằng cả đức ái lẫn sự thật.

Đối với tôi, điều này có nghĩa là nếu một sinh viên xuất hiện trong lớp của tôi và yêu cầu được gọi bằng một số tên khác với tên trong hồ sơ sinh viên chính thức của họ, tôi sẽ vui vẻ làm điều đó. Dù sao, tôi vẫn mời tất cả các sinh viên của tôi cho tôi biết nếu họ có tên hoặc biệt hiệu ưa thích nào. Nhiều tên có thể được áp dụng cho cả hai giới dù một cách sử dụng được coi là phổ biến hơn.

Tuy nhiên, tôi sẽ không sử dụng các đại danh từ rõ ràng là mâu thuẫn với thực tại cơ thể của người ở trước mặt tôi. Tôi nghĩ điều này sẽ tham gia vào một sự giả dối và điều đó sẽ sai về phía tôi và không bác ái đối với người đưa ra yêu cầu — bất kể chân thành đến đâu.

Tôi cũng sẽ không sử dụng một trong những bộ đại danh từ mới được phát minh bởi một số người chuyển giới (ví dụ: Ze / Zir / Zirs, Ey / Em / Eirs, Mx) vì những lý do tương tự. Nhưng điểm căn bản là lời nói có nghĩa là để truyền đạt thực tại và làm điều đó một cách trung thực. Gây bạo lực đối với ngôn ngữ và thực tại không phải là một cách hay để giải quyết nỗi đau của một người đang đấu tranh với chứng khó chịu về phái tính.

Hỏi: Giáo Hội như một định chế cũng có một con đường chông gai phải đi ở đây.

Một lần nữa, chúng ta cần tôn vinh mọi người bằng tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu dành đặc ân cho những người đang đau khổ, những người ở bên lề và nhất là những người đang đau khổ ở bên lề.

Làm thế nào để các định chế Công Giáo - và đặc biệt các trường Công Giáo - vừa tôn vinh bổn phận yêu thương của chúng ta như Chúa Kitô đã làm, vừa tôn trọng sự thật về giới tính và phái tính?


Favale:

Các định chế Công Giáo không thể chỉ nói “không” với lý thuyết căn tính phái tính. Họ cũng phải nêu rõ tầm nhìn tích cực về tư cách nhân vị và cam kết đồng hành với những người đang trải nghiệm sự bất phù hợp về phái tính.

Để đáp ứng phương thức "khẳng định phái tính", chúng ta phải đưa ra một khẳng định về toàn bộ con người. Chúng ta phải khẳng định rõ ràng, nhấn mạnh và nhiều lần về tính đáng yêu của mỗi nhân vị: bạn là người được yêu thương vô tận. Mọi người cần nghe được điều này. Chúng ta cũng cần khẳng định sự tốt lành và hồng phúc cơ thể con người, ngay cả trong hoàn cảnh đau khổ và giới hạn thể lý, điều này báo hiệu sự liên thuộc lẫn nhau của chúng ta và sự phụ thuộc tối hậu của chúng ta vào Thiên Chúa.

Chúng ta cũng cần khẳng định hồng phúc độc đáo của mỗi cá nhân và thúc đẩy sự phát triển cá tính riêng của mỗi con người. Chúng ta cần lắng nghe, với lòng cảm thương, trải nghiệm phức tạp của cá nhân - đặc biệt là những mong muốn và nhu cầu đã khiến họ chấp nhận lý thuyết căn tính phái tính.

Chúng ta cần đi bên cạnh người ấy, với lòng kiên nhẫn và khiêm nhường, và cảm thức kính trọng đối với mầu nhiệm bên trong mỗi người mà chỉ có Thiên Chúa mới biết. Tuy nhiên, như Edith Stein từng nói, chúng ta cũng cần phải lắng nghe tiếng nói của bản nhiên và tiếng nói của Thiên Chúa.

Đức Thánh Cha Phanxicô nói rõ diễn trình đồng hành là một cuộc hành hương, không phải là con đường luẩn quẩn chỉ biết quan tâm tới mình –- đó là một cuộc hành trình có đích đến, đi vào sự hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, và là cuộc hành trình đòi hỏi bước đi một cách trung thành với Chúa Kitô, Đấng đồng hành với chúng ta, ngay khi chúng ta đang đồng hành với nhau.

Grabowski:

Tôi nghĩ Đức Thánh Cha Phanxicô một lần nữa cung cấp một số hiểu biết chủ chốt ở đây. Nếu bạn đọc giáo huấn của ngài, bạn sẽ thấy cả những lời cảnh cáo chống lại việc vũ khí hóa giáo huấn của Giáo hội chống lại từng cá nhân bằng cách biến họ thành “những viên đá chết” để ném vào người khác (Amoris Laetitia, số 49; xem số 38) và những lời phê bình dài và sắc cạnh đối với các biểu thức hiện thời của các lạc giáo cổ xưa như thuyết Pêlagiô (xem Gaudette et exsultate, các số 47-62) hoặc Ngộ đạo (Gaudette et exsultate, các số 36-46).

Nói cách khác, con người cần được gặp gỡ bằng tình yêu và lòng thương xót. Những mớ ý tưởng sai lầm và phá hoại cần được chống đối và đánh bại.

Những người đang chật vật với bất hợp phái tính cần những người có đức tin gặp gỡ họ, lắng nghe họ và đồng hành với họ trong tình yêu và tình bạn dựa trên sự thật. Ý thức hệ phái tính, như một biểu hiện của thế kỷ 21 của Thuyết Ngộ đạo, cần được phơi bày như con đường sai lầm và hão huyền đối với sự phát triển mạnh mẽ của con người.

Đồng thời, sách thánh và giáo huấn của Giáo hội có sự trình bày rõ ràng phong phú và đẹp đẽ về ý nghĩa của cơ thể có giới tính để cung ứng - một sự trình bầy rất nhất quán với khoa học và y học đương thời. Điều này không đâu rõ ràng hơn là trong các bài giáo lý về thần học thân xác được Thánh Gioan Phaolô II trình bày rõ ràng.

Những suy tư này dạy chúng ta rằng cơ thể không phải là một màn hình để chiếu một căn tính, mà là một cửa sổ để đi vào các tầng sâu thẳm của con người. Vì ý nghĩa của thân xác được bộc lộ đầy đủ trong việc tự hiến, nên ý nghĩa sâu xa nhất của nó có tính phu thê, hướng chúng ta đến sự hiệp thông của tình yêu trong bất cứ bậc sống nào chúng ta được kêu gọi bước vào.

Điều chủ yếu là các trường Công Giáo phải truyền đạt toàn diện tầm nhìn này bởi vì nó cung cấp một giải pháp mang lại sự sống thay cho nhiều biến dạng cạnh tranh mà trẻ em và người trẻ đang phải tiếp xúc. Nhưng tầm nhìn đó có nghĩa như một lời mời gọi thương xót và chữa lành cho tất cả những ai nghe được nó – chứ không phải là một vũ khí để triển khai chống lại những người đang bị tổn thương.

Hỏi: Cần có can đảm để phát biểu một số quan điểm này. Trong rất nhiều bối cảnh - từ trường trung học hoặc lớp học đại học, đến cuộc họp buổi sáng với nhóm bán hàng - khẳng định công khai các quan điểm giống như những quan điểm mà các bạn đã trình bày trong hai cuộc phỏng vấn này có thể biến người ta trở thành kẻ hạ đẳng ngay lập tức.

Các bạn có bất cứ lời khuyên nào cho những người muốn đi theo hướng dẫn của các bạn?

Đặc biệt, các bạn đã tìm thấy thực hành linh đạo nào tốt nhất để xây dựng loại can đảm này chưa?


Grabowski:

Đây là một câu hỏi đáng lưu ý và đối với tôi hơi ngạc nhiên. Bất chấp đã viết về nền chính trị phái tính rất căng thẳng của chúng ta và các nỗ lực "triệt tiêu" những người lên tiếng chống lại ý thức hệ phái tính trong cuốn sách. Và cuốn sách đã nhận được một chút phản ứng dữ dội: Nhà xuất bản ngại không niêm yết nó trên Amazon và các cố gắng của công ty nhằm quảng cáo nó trên các trang web truyền thông xã hội hoặc các diễn đàn kỹ thuật đã bị từ chối.

Tuy nhiên, tôi không thấy việc chọn chủ đề này chủ yếu như một minh chứng cho lòng dũng cảm.

Đối với tôi, viết cuốn sách vào lúc này đúng hơn là vấn đề vâng lời. Đây là lĩnh vực nghiên cứu để viết luận án của tôi hơn 30 năm trước và tôi đã luôn có ý định quay lại nó dưới hình thức sách. Tôi thực sự đang dự định viết một cuốn sách về chủ đề khác thì một ngày nọ, trong lúc cầu nguyện, tôi cảm thấy Chúa thúc giục tôi và nói, "đây là lúc để xem lại chủ đề đó."

Nhìn vào quỹ đạo tiếp diễn của nền văn hóa dường như đã xác nhận sự sáng suốt về thời điểm của cuốn sách. Vì vậy, về các thực hành linh đạo tốt nhất, tôi xin nói chỉ cần cầu nguyện và "làm bất cứ điều gì Người nói với bạn." Việc cố gắng nói thông điệp Kitô giáo một cách trung thực và làm chứng cho niềm hy vọng mà nó mang lại, luôn phản văn hóa – một “dấu hiệu của sự mâu thuẫn”. Chỉ có điều là lúc này chúng tôi đang gặp phải sức chống đối này khi trình bầy viễn kiến Kitô giáo về thân xác con người.

Favale:

Đây là một câu hỏi hay — một câu hỏi mà tôi đang tích cực học cách lèo lái. Vì vậy, tôi vẫn chưa phải là một chuyên gia dày dạn kinh nghiệm. Khi viết và nói về chủ đề này, tôi cảm thấy như mình đang đi trên một sườn núi hẹp, cố gắng cân bằng giữa lòng cảm thương với việc nói sự thật.

Để nói sự thật, tôi dựa vào sự tương phản bên trong tôi, cái tôi duy nữ nổi loạn của tôi cảm thấy cái hăng say của việc bơi ngược dòng. Để cảm thương, tôi dựa vào trái tim làm mẹ của mình, trái tim có thể coi mỗi con người đơn nhất đều quý giá và đáng được yêu thương. Tôi cần giữ cân bằng các lực lượng này, nhưng tôi liên tục chao đảo và mắc sai lầm.

Tôi cũng thường xuyên chán nản, choáng ngợp với cảm giác rằng điều này quá lớn đối với tôi, tôi không đủ sức để đảm nhận việc này.

Điều này đã xảy ra với tôi vào cuối tuần trước, sau Thánh lễ, tôi đi lên phía bên này bàn thờ để thắp nến và cầu nguyện một cách bực tức. Đó là lần đầu tiên tôi đến bàn thờ đặc biệt này (giáo xứ mới); Tôi quỳ xuống và nhìn lên để thấy Đức Maria hiện rõ trên tôi, nhìn xuống với vẻ dịu dàng, và ngài đang được Thánh Agnes ở bên phải và Thánh Rita ở bên trái của ngài. Gần Thánh Agnes là một bức ảnh của Thánh Catherine thành Alexandria. Tất cả các ngài đang nhìn chăm chăm vào tôi, và tôi đột nhiên cảm thấy được bao bọc bởi những người mẹ của tôi trong đức tin — tất cả những người phụ nữ tận tụy đáng kinh ngạc, dũng cảm, liều lĩnh này đã phải đối mặt với những nghịch cảnh lớn hơn tôi nhiều.

Vì vậy, tôi phó thác cho sự chuyển cầu của các ngài và trên hết là cho Đức Maria. Đó là thực hành linh đạo chính của tôi: phó thác cho Đức Maria.

Tôi cũng có một hình xâm lớn thánh Gioan Arc trên cánh tay của mình, nhưng điều đó không dành cho mọi người.
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Bổ nhiệm Giám quản Tông tòa giáo phận Nha Trang
Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ
08:45 24/07/2022
WHĐ (23.7.2022) – Hôm nay, ngày 23 tháng 07 năm 2022, Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski, Sứ thần Toà Thánh tại Singapore kiêm Đại diện Tòa Thánh không thường trú tại Việt Nam thông báo:
Đức Thánh Cha Phanxicô đã chấp thuận cho Đức cha Giuse Võ Đức Minh từ nhiệm sứ vụ Giám mục Chính toà giáo phận Nha Trang; đồng thời, bổ nhiệm Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Huế, làm Giám quản Tông tòa giáo phận Nha Trang “trống tòa và theo ý Toà Thánh” (sede vacante et ad nutum Sanctae Sedis).
Linh mục Giuse Đào Nguyên Vũ

Tiểu sử Đức Giám Mục Giuse Võ Đức Minh

- 10-09-1944: sinh tại Mỹ Đức, Lệ Thủy, Quảng Bình
- 1951 – 1956: học cấp 1 tại Thành phố Đà Lạt
- 1956 – 1965: học tại Tiểu chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
- 1965 – 1966: học tại Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn
- 1966 – 1971: học tại Đại chủng viện Thánh Carôlô, Giáo phận Lausanne, Genève, Fribourg (Thụy Sỹ), Đại học Fribourg, Thụy Sỹ, tốt nghiệp với học vị Thạc sĩ Thần học Kinh Thánh (STL)
- 24-04-1971: thụ phong linh mục tại Fribourg do Đức Cha Simon-Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục giáo phận Đà Lạt
- Hè 1971: Phó xứ tại Kranken und Erholungsheim, Aachen, Đức
- Hè 1972: Phó xứ tại Notre Dame, Vevey, Thụy Sỹ; Quyền Quản xứ tại Notre Dame du Peuple, Genève, Thụy Sỹ
- Hè 1973: Phó xứ tại Notre Dame des Neiges, Montréal, Canada
- 1971 – 1974: học tại Giáo hoàng Học viện Kinh thánh (Biblicum-Roma), tốt nghiệp với học vị Thạc sĩ Kinh Thánh (SSL)
- 1974: trở về giáo phận Đà Lạt; Giáo sư Kinh Thánh tại Đại chủng viện Minh Hòa, Đà Lạt, tại Giáo Hoàng Chủng viện Thánh Piô X, Đà Lạt, Đại chủng viện Thánh Giuse, Sài Gòn, Đại chủng viện Sao Biển, Nha Trang và một số Học viện của các Hội Dòng
- 03-1975 – 20-06-1991: thư ký của Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm, Giám mục Đà Lạt
- 03-1975 – 10-1975: quản lý Tòa Giám mục Đà Lạt
- 20-06-1991 – 9-11-2005: Linh mục Quản xứ Chánh Tòa Đà Lạt kiêm Quản hạt Đà Lạt
- 19-06-1999 – 09-11-2005: Linh mục Tổng Đại diện giáo phận Đà Lạt
- 09-11-2005: được Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI bổ nhiệm làm Giám mục Phó giáo phận Nha Trang
- 15-12-2005: được truyền chức giám mục tại Nhà thờ Chánh Tòa Đà Lạt do Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám mục giáo phận Nha Trang chủ phong, Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám mục giáo phận Đà Lạt và Đức cha Phaolô Bùi Văn Đọc, Giám mục giáo phận Mỹ Tho phụ phong
- 30-12-2005: tựu chức Giám mục Phó giáo phận Nha Trang
- 04-12-2009: tiếp nối sứ vụ Giám mục Chánh tòa Nha Trang
Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức cha Giuse Võ Đức Minh đã đảm nhiệm các trách vụ:
- 2007 – 2010: Phó Tổng thư ký Hội Đồng Giám mục Việt Nam
- 2007 – 2019: Chủ tịch Ủy Ban Kinh thánh trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

Tiểu sử Đức Tổng Giám Mục Giuse Nguyễn Chí Linh

- 22-11-1949: Sinh tại xã Hải Thanh, Tĩnh Gia, Thanh Hoá
- 1955 – 1962: học tại trường Tiểu học giáo xứ Thanh Hải, Phan Thiết
- 1962 – 1967: học tại Tiểu chủng viện Nha Trang
- 1967 – 1968: học tại Trường Thiên Hựu, Huế
- 1968 – 1970: học tại Chủng viện Chúa Chiên Lành, Đà Lạt
- 1970 – 1977: học tại Giáo hoàng Học viện Thánh Piô X, Đà Lạt
- 1977 – 1992: sống với gia đình tại giáo xứ Song Mỹ, Nha Trang
- 30-12-1992: thụ phong linh mục cho giáo phận Nha Trang do Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, Giám mục giáo phận Nha Trang
- 1992 – 1995: Phó xứ Phước Thiện, giáo phận Nha Trang
- 1995 – 2003: du học Paris, Pháp; tốt nghiệp với học vị Tiến sĩ Triết học
- 08-11-2003: trở về Việt Nam, làm giáo sư Đại chủng viện Sao Biển, Nha Trang
- 12-06- 2004: được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II bổ nhiệm làm Giám mục chính toà giáo phận Thanh Hoá
- 04-08-2004: được truyền chức giám mục tại Nhà thờ chính toà Thanh Hoá do Đức cha Phaolô Nguyễn Văn Hòa, Giám mục giáo phận Nha Trang chủ phong, Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt, Giám mục giáo Phận Lạng Sơn và Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên, Giám mục giáo phận Hải Phòng phụ phong
- 2007: Giám quản Tông toà giáo phận Phát Diệm đến ngày 08 tháng 09 năm 2009
- 29-10-2016: Được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục tổng giáo phận Huế, kiêm Giám quản Tông toà giáo phận Thanh Hoá đến ngày 27 tháng 06 năm 2018.
Trong Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh đã đảm nhiệm các trách vụ:
- 2004 – 2007: Chủ tịch Uỷ ban Giáo dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam
- 2007 – 2013: Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam
- 2013 – 2016: Chủ tịch Uỷ ban Mục vụ Di dân trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam

- Từ tháng 10/2016 đến nay: Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Nguồn: hdgmvietnam.com
 
VietCatholic TV
Nga tê liệt vì HIMARS. Bà Zelenskiy thành công lớn. Gorbachev: Công việc cả đời tôi bị Putin phá hủy
VietCatholic Media
05:03 24/07/2022


1. Quân đội Ukraine cho biết hỏa lực pháo binh khiến Nga không thể tiến thêm chút nào ở Donetsk

Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết: các lực lượng Nga đã không đạt được bất kỳ tiến bộ nào trên bộ ở Donetsk mặc dù đã bắn một loạt đạn pháo và hỏa tiễn trên khắp các chiến tuyến.

Hai khu vực mà giao tranh dường như trở nên dữ dội nhất ở miền đông Ukraine là ngay phía tây Lysychansk - nơi đã rơi vào tay quân Nga vào đầu tháng - và phía nam Bakhmut, nơi Nga nhiều lần cố gắng tiêu diệt hệ thống phòng thủ Ukraine nhưng đến nay chỉ chiếm được vài km lãnh thổ.

Tại Bakhmut: Các lực lượng Ukraine tiếp tục bảo vệ một vùng lãnh thổ dài khoảng 30 km

Bộ Tổng tham mưu Các lực lượng vũ trang Ukraine cho biết hôm thứ Sáu, người Nga đã pháo kích vào khoảng một chục khu định cư ở phía nam và phía đông Bakhmut và tiến hành một cuộc không kích gần Striapivka, phía đông thành phố. Cuộc tấn công kết thúc với các tổn thất nặng nề của quân Nga”

“Những người lính của chúng tôi đã đánh đuổi các đơn vị vô tổ chức của quân xâm lược trở lại. Quân Nga tiếp tục cố gắng tấn công theo hướng Vuhlehirska và gần Pokrovske, các cuộc chiến tiếp tục diễn ra.”

Bộ Tổng tham mưu cho biết thêm, các cuộc pháo kích đã diễn ra ở phía bắc thành phố Sloviansk gần đó.

Trong đánh giá mới nhất của mình về chiến trường, Viện Nghiên cứu Chiến tranh, gọi tắt là ISW, cho biết cường độ hành động của các lực lượng Nga “không khác biệt bao nhiêu” so với thời gian tạm dừng hoạt động được tuyên bố chính thức trước đó và nhóm của Nga ở phía tây bắc Sloviansk đã “tiến hành ít cuộc tấn công bộ binh dọc theo biên giới phía sau Kharkiv-Donetsk so với thời gian tạm dừng hoạt động chính thức”.

ISW cho biết: “Việc thiếu các chiến thắng trong các cuộc tấn công bộ binh ngoài các khu vực Sloviansk, Siversk và Bakhmut là phù hợp với đánh giá của ISW rằng cuộc tấn công của Nga sẽ phải dừng lại nếu không chiếm được Sloviansk hoặc Bakhmut”.

Ở phía Bắc Ukraine: Bộ Tổng tham mưu cho biết các cuộc pháo kích lẻ tẻ vẫn tiếp tục xuyên biên giới vào các khu vực phía bắc Chernihiv và Sumy.

Ở Miền Nam Ukraine: Giao tranh đã gia tăng dọc theo một phần biên giới giữa khu vực Mykolaiv và Kherson. Người Ukraine cho biết những nỗ lực của người Nga nhằm thực hiện các cuộc tấn công xung quanh Cầu Davydiv ở Kherson “đã bị binh lính Ukraine trấn áp ngay lập tức.”

Valentyn Reznichenko, người đứng đầu Cục quản lý quân sự-dân sự khu vực Dnipropetrovsk, cho biết 8 người đã bị thương trong các vụ tấn công bằng hỏa tiễn của Nga tại các thành phố Nikopol và Kryvih Rih nhằm vào các khu dân cư và trường học.

2. Hoa Kỳ nhìn thấy “dấu hiệu” rằng lực lượng Nga đang “cố gắng điều chỉnh” để đối phó với các tác động của HIMARS

Hai quan chức cấp cao của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là John Huth và Kevin Ryder nói với các phóng viên hôm thứ Sáu rằng Mỹ đang nhận thấy “những dấu hiệu” cho thấy các lực lượng Nga chiến đấu ở Ukraine đang “cố gắng điều chỉnh trước các tác động của HIMARS gây ra cho họ” trên chiến trường.

“Người Ukraine đã tập trung rất nhiều nỗ lực vào các sở chỉ huy và trạm kiểm soát của Nga, các khu vực cung cấp hậu cần của họ, bao gồm tất cả các loại nguồn cung cấp, đặc biệt là đạn dược, do đó, người Nga đang cố gắng giảm thiểu ảnh hưởng của HIMARS”

Các quan chức này không thể nói những nỗ lực của các lực lượng Nga trong việc giảm thiểu tác động từ HIMARS đã hiệu quả đến mức nào.

“Tôi không thể cho bạn biết mức độ ảnh hưởng của chúng, nhưng nó có vẻ không tốt lắm”

Quan chức này cũng lưu ý rằng các báo cáo rằng lực lượng Nga đã phá hủy 4 HIMARS là sai sự thật.

“Kể từ sáng nay, trong các cuộc trò chuyện của chúng tôi với người Ukraine, điều đó không đúng. Tất cả HIMARS tiếp tục thực sự là một cái gai đối với phía Nga,” quan chức này nói thêm.

3. Mỹ xem xét khả năng cung cấp cho Ukraine máy bay chiến đấu, Kirby nói

Bộ Quốc phòng Mỹ đang nghiên cứu khả năng gửi máy bay chiến đấu tới Ukraine trong tương lai. Thiếu tướng John Kirby, điều phối viên truyền thông của Hội đồng An ninh Quốc gia cho biết: “Bộ Quốc phòng đang tiến hành một nghiên cứu sơ bộ về khả năng này liên quan đến việc cung cấp máy bay chiến đấu cho người Ukraine”.

Đồng thời, theo ông, quyết định này dự kiến sẽ không được thông qua trong tương lai gần, vì việc tích hợp các máy bay được trang bị hệ thống hiện đại là một nhiệm vụ khó khăn và cần nhiều thời gian. Trong số đó, Kirby nói rõ, đó là về đào tạo phi công, cũng như cung cấp các cơ hội bảo trì và sửa chữa.

“Vì vậy, Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này, nhưng chúng tôi cũng sẽ tiếp tục gửi vũ khí và thiết bị cho Ukraine trong các gói hỗ trợ an ninh,” Kirby lưu ý.

Tuần trước, Yuriy Ihnat, Phát ngôn nhân của Bộ Tư lệnh Lực lượng Vũ trang Ukraine, cho biết chính quyền Ukraine đang đàm phán với các đối tác phương Tây về việc tiếp nhận máy bay và đào tạo phi công Ukraine.

4. Gorbachev cảm thấy công việc cả đời của mình đã bị Putin phá hủy

Mikhail Gorbachev, nhà lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô, người đã mở ra những cải cách dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản và của Liên Xô, tin rằng công việc của cuộc đời ông đã bị phá hủy hoàn toàn bởi Vladimir Putin.

Nhà báo kiêm nhà phê phán nổi tiếng Điện Cẩm Linh Alexei Venidiktov nói với Forbes Nga rằng ông vẫn giữ liên lạc với nhà cựu lãnh đạo 91 tuổi, người từng là tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985 đến năm 1991.

Trong nhiệm kỳ của Gorbachev, các từ tiếng Nga “glasnost” (cởi mở) và “perestroika” (xây dựng lại) đã được sử dụng trong từ vựng tiếng Anh, như những chính sách cho phép tự do ngôn luận và cải cách kinh tế cũng như xoa dịu căng thẳng giữa Mạc Tư Khoa và phương Tây. Công việc cả đời của ông Gorbachev là lật nhào chế độ độc tài, đưa nước Nga thoát khỏi tình trạng cô lập với thế giới.

Kể từ khi Putin xâm lược Ukraine vào ngày 24 tháng 2, Nga đã thông qua các đạo luật ngày càng độc đoán, chẳng hạn, khiến việc chỉ trích chiến tranh trở thành hành vi phạm tội có thể dẫn đến án tù nặng nề. Một cuộc đàn áp đã chấm dứt tất cả những tiếng nói bất đồng như Venidiktov, người từng là tổng biên tập của đài phát thanh Tiếng vọng của Mạc Tư Khoa, đã phải đóng cửa.

Trong khi đó, NATO đã tăng cường hiện diện ở Đông Âu để đáp trả sự hung hăng của Nga và Mạc Tư Khoa nhận thấy mình bị cô lập trên trường quốc tế do các lệnh trừng phạt cứng rắn của phương Tây.

“Những gì Mikhail Sergeevich Gorbachev đã làm đều bị phá hủy,” Venidiktov nói. Tất cả các cải cách của Gorbachev – thành hư không, thành tro, thành khói”.

“Khi họ hỏi tôi: 'Có điều gì chỉ ra điều đó không?' Tôi trả lời: 'Khi Gorbachev mãn nhiệm, có 4.000 lực lượng phản ứng nhanh của NATO ở Âu Châu. Hiện NATO đã thông báo rằng sẽ có 300.000 vào cuối năm sau.'

“Đó là mức độ đe dọa. Mức độ quá đông của quân đội NATO tại biên giới của chúng tôi,” ông nói thêm.

Vào tháng 6, các nhà lãnh đạo NATO đã đồng ý tăng từ 40.000 quân hiện tại lên 300.000 binh sĩ và đặt họ trong tình trạng báo động cao từ giữa năm 2023, để chống lại Nga.

Tờ New York Times đưa tin rằng vào năm 1991, khi Gorbachev rời bỏ quyền lực, NATO chỉ có một lữ đoàn đa quốc gia phản ứng nhanh gồm tối đa 5.000 quân, mà họ tuyên bố sẽ mở rộng.

Putin nói rằng việc mở rộng liên minh là một trong những lý do biện minh cho cuộc chiến ở Ukraine. Tuy nhiên, chính cuộc xâm lược Ukraine của ông ta đã là cái cớ cho NATO tăng quân.

Mặc dù cựu lãnh đạo Liên Xô đã không bình luận công khai kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Venidiktov nói, “Tôi có thể nói với bạn rằng Gorbachev rất buồn, tất nhiên, ông ấy hiểu. Đó là tác phẩm để đời của ông ấy”.

“Tự do là công việc của Gorbachev. Mọi người đã quên ai là người đã trao quyền tự do cho Giáo Hội Chính thống Nga. Đó chính là Mikhail Sergeyevich Gorbachev,” Venidiktov nói thêm. “Tự do ngôn luận, luật đầu tiên về báo chí là do Mikhail Sergeevich Gorbachev. Sở hữu tư nhân, thị trường tự do là do Mikhail Sergeevich Gorbachev. Ông ấy phải nói sao bây giờ trước thực trạng ngày hôm nay?”

Gorbachev được cho là bị các vấn đề về thận lâu dài và đang chạy thận nhân tạo

5. Mario Draghi từ chức, khiến nước Ý rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị

Ý sẽ tổ chức một cuộc bầu cử quốc gia nhanh chóng vào ngày 25 tháng 9 sau khi Thủ tướng Mario Draghi từ chức sau sự sụp đổ của chính phủ đoàn kết dân tộc của ông, gây ra những chấn động trên thị trường tài chính.

Đây sẽ là cuộc bầu cử quốc gia mùa thu đầu tiên trong hơn một thế kỷ ở Ý, nơi nửa cuối năm thường diễn ra việc thông qua luật ngân sách tại quốc hội cho năm tới.

Xem ra đây có thể là một chiến dịch quyết liệt được thực hiện trong cái nóng gay gắt của mùa hè ở một quốc gia bị hạn hán.

Một nghiên cứu về các cuộc thăm dò dư luận cho thấy một khối các đảng bảo thủ, dẫn đầu bởi đảng Huynh Đệ Cực Hữu của Ý, có vẻ sẽ giành được đa số rõ ràng trong cuộc bỏ phiếu.

Draghi, một cựu giám đốc ngân hàng trung ương nắm chính quyền không qua tuyển cử, là người đã lãnh đạo một liên minh rộng rãi trong gần 18 tháng, đã nộp đơn từ chức trước đó vào hôm thứ Năm và được Tổng thống Sergio Mattarella yêu cầu tiếp tục ở lại với vai trò điều hành tạm thời.

Draghi nói với các đồng nghiệp trong nội các: “Chúng ta phải đối phó với các trường hợp khẩn cấp liên quan đến đại dịch, chiến tranh ở Ukraine, lạm phát và chi phí năng lượng.”

Ông nói rằng chính phủ cũng phải thực hiện Kế hoạch phục hồi và củng cố quốc gia trong đó cho thấy Ý phải vay hàng tỷ euro tiền của Liên minh Âu Châu sau đại dịch để đổi lấy các cải cách.

Mặc dù cuộc bỏ phiếu được ấn định vào cuối tháng 9, nhưng có thể mất nhiều tuần mặc cả trước khi chính quyền mới tuyên thệ nhậm chức.

Liên minh của Draghi đã sụp đổ vào thứ Tư khi ba đối tác chính của ông không tham dự một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm mà ông đã kêu gọi để cố gắng chấm dứt chia rẽ và nối lại liên minh đang gặp khó khăn của họ.

Ông đã tìm cách khẳng định lại quyền lực của mình khi các đảng phái bắt đầu đi theo các hướng khác nhau trước khi cơ quan lập pháp kết thúc dự kiến vào nửa đầu năm sau.

Cuộc khủng hoảng chính trị đã kết thúc những tháng ổn định ở Ý, trong đó Draghi đã giúp định hình phản ứng cứng rắn của Âu Châu đối với cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine và đã nâng cao vị thế của nước này trên thị trường tài chính.

Trái phiếu và cổ phiếu của Ý bị bán tháo mạnh do lo ngại rằng cuộc khủng hoảng chính trị sẽ làm trì hoãn các cuộc cải cách và rằng chính phủ mới có thể là một đối tác khó khăn hơn đối với Liên minh Âu Châu.

Lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Ý đã tăng lên mức tột đỉnh là 3,75% trước khi kéo trở lại khoảng 3,60% vào cuối phiên giao dịch.

Draghi, thủ tướng thứ sáu của Ý trong một thập kỷ, đã nhận được tràng pháo tay nồng nhiệt từ các nhà lập pháp khi ông xuất hiện ngắn gọn tại hạ viện hôm thứ Năm, báo hiệu ý định từ chức của ông.

“Ngay cả các chủ ngân hàng trung ương đôi khi cũng xúc động con tim,” ông nói một cách châm biếm khi nhận được sự hoan nghênh

Ông Draghi, cựu chủ tịch Ngân hàng Trung ương Âu Châu đã giúp đưa Ý hiện diện mạnh mẽ hơn trên trường quốc tế.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy cảm ơn ông vì “sự ủng hộ vững chắc”.

“Tôi tin rằng sự ủng hộ tích cực của người dân Ý dành cho Ukraine sẽ tiếp tục,” ông nói trên Twitter.

Mặc dù nắm chính quyền không qua tuyển cử, Draghi rất nổi tiếng khi nhiều người Ý chán ngấy với nhiều năm chính phủ xoay vòng.

Tuy nhiên, đảng Huynh Đệ Italia, do Giorgia Meloni dẫn đầu, đã hoan nghênh tin tức về cuộc bầu cử. Cô là nhà lãnh đạo chính duy nhất không tham gia chính phủ của Draghi và sự nổi tiếng của cô đã tăng vọt. Nhóm của cô chỉ được 4% trong cuộc bầu cử năm 2018, nhưng hiện đã giành được hơn 22%, trở thành đảng lớn nhất của Ý.

Nếu đảng Huynh Đệ Italia giành chiến thắng trong cuộc bỏ phiếu vào tháng 9, cô ấy sẽ quyết định ai sẽ là thủ tướng và có thể tự đề nghị mình vào vị trí cao nhất đó.

6. Tòa Bạch Ốc hoan nghênh thỏa thuận ngũ cốc, nhưng cảnh báo việc thực hiện nó sẽ đòi hỏi người Nga tuân thủ các cam kết

Tòa Bạch Ốc cho biết họ hoan nghênh thỏa thuận giữa Nga, Ukraine và Thổ Nhĩ Kỳ về việc xuất khẩu ngũ cốc ra khỏi Ukraine, nhưng cảnh báo việc thực thi thỏa thuận trên thực tế sẽ đòi hỏi tất cả các bên phải tuân thủ các cam kết của mình.

John Kirby, điều phối viên truyền thông của Hội đồng An ninh Quốc gia, cho biết: “Có những chi tiết ma quỷ đã được biết ở đây”, ám chỉ thành tích bất hảo của Nga trong việc tôn trọng các hiệp ước.

Ông cảm ơn Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc và Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Erdogan đã giúp môi giới thỏa thuận và cho biết nó có thể giúp giảm bớt khả năng thiếu lương thực trên toàn thế giới.

Nhưng ông nói “tất nhiên thành công sẽ phụ thuộc vào việc Nga tuân thủ thỏa thuận này”.

Tướng Kirby nói thêm: “Rất nhiều điều sẽ phụ thuộc vào việc thực hiện và mức độ mà người Nga thực sự đồng ý với việc kết thúc cuộc thương lượng”. Ông nhấn mạnh rằng Mỹ “hy vọng” thỏa ước này thành công và sẽ giảm bớt tình trạng mất an ninh lương thực toàn cầu.

7. Ngoại trưởng Ukraine 'không tin tưởng Nga' tôn trọng thỏa thuận Hắc Hải:

Ukraine nhấn mạnh rằng Kyiv không tin tưởng Nga sẽ tôn trọng thỏa thuận mới được ký kết về việc dỡ bỏ các phong tỏa ở Hắc Hải và giải phóng hàng chục triệu tấn ngũ cốc của Ukraine.

Bộ trưởng Ngoại giao Dmytro Kuleba nói với các nhà báo trong cuộc họp báo hôm thứ Sáu rằng Ukraine đặt niềm tin vào Liên Hiệp Quốc - tổ chức sẽ điều phối việc đưa các tàu Ukraine qua Hắc Hải một cách an toàn - chứ không phải Mạc Tư Khoa.

Kuleba nói: “Ukraine không tin tưởng Nga. Tôi không nghĩ rằng có lý do để tin tưởng Nga.”

“Chúng tôi đầu tư niềm tin vào Liên Hiệp Quốc như là động lực của thỏa thuận này”, ông Kuleba nói thêm, đồng thời lưu ý rằng Tổng thư ký António Guterres “cũng đầu tư vào danh tiếng và năng lực của mình, để bảo đảm rằng thỏa thuận này hoạt động và Nga không phá vỡ nó, vì Nga đã phá vỡ rất nhiều giao dịch và thỏa thuận khác.”

Bộ trưởng Cơ sở hạ tầng Ukraine Oleksandr Kubrakov và Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu đều đã ký các thỏa thuận song song riêng biệt với Liên Hiệp Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ tại Istanbul vào hôm thứ Sáu, sau hai tháng hội đàm.

Các hiệp định sẽ cho phép thành lập một trung tâm điều phối ở Istanbul do các quan chức Liên Hiệp Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga và Ukraine làm việc. Các giao dịch có hiệu lực trong 120 ngày, sau đó các bên có thể đồng ý gia hạn.

Newsweek đã liên hệ với Ngoại trưởng Nga để yêu cầu bình luận.

Ukraine đã tự bảo vệ mình trước cuộc xâm lược toàn diện ban đầu trong 149 ngày. Cuộc giao tranh hiện tập trung vào khu vực phía đông Donbas và ở phía nam, nơi quân đội Nga đã chiếm đóng các vùng lãnh thổ Ukraine, bao gồm cả các cảng quan trọng.

Ngay cả những khu vực vẫn nằm trong tay Ukraine, như Odessa, đã bị phong tỏa bởi sự hiện diện của hải quân Hắc Hải của Nga và các thủy lôi của hải quân Ukraine nhằm bảo vệ bờ biển phía Nam của Ukraine, chống lại các cuộc đổ bộ. Truyền thông Nga đã đưa tin rằng lối đi an toàn sẽ được tạo ra từ Odessa.

BBC đưa tin rằng theo các điều khoản của thỏa thuận được ký hôm thứ Sáu, Mạc Tư Khoa cho biết họ sẽ không tấn công vào các cảng trong khi các chuyến hàng đang vận chuyển. Các tàu Ukraine sẽ hướng dẫn các tàu chở hàng đi qua các vùng nước không có thủy lôi, và các tàu này sẽ được Thổ Nhĩ Kỳ kiểm tra — với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc — để bảo đảm không có vũ khí. Xuất khẩu ngũ cốc và phân bón của Nga qua Hắc Hải cũng sẽ được tạo điều kiện thuận lợi.

Các nhà lãnh đạo thế giới hy vọng rằng các thỏa thuận sẽ giảm bớt giá lương thực tăng vọt, đặc biệt là ở Trung Đông và Phi Châu, nơi một số quốc gia đặc biệt phụ thuộc vào xuất khẩu từ Ukraine và Nga.

“Hôm nay, có một ngọn hải đăng trên Hắc Hải,” Guterres nói hôm thứ Sáu. “Một tia sáng của hy vọng... khả năng... và trợ giúp trong một thế giới cần nó hơn bao giờ hết.”

Tuy nhiên, Guterres thừa nhận với BBC rằng Liên Hiệp Quốc không có cách nào trừng phạt Nga nếu Mạc Tư Khoa không tôn trọng lối đi an toàn cho hàng hải Ukraine.

Mykhailo Podolyak, cố vấn hàng đầu của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy, đã viết trên Twitter rằng bất kỳ “hành động khiêu khích” nào của Nga vi phạm các hiệp định sẽ bị “đáp trả ngay lập tức bằng quân sự”.
 
Linh mục trừ tà chứng kiến Thánh Agape cứu người phụ nữ bị cha mẹ ruột dâng cho Sa tan từ tấm bé.
VietCatholic Media
05:06 24/07/2022


1. 60.000 vé dự lễ Đức Thánh Cha tại Edmonton được giữ hết trong vài phút

60.000 vé miễn phí để tham dự thánh lễ Đức Thánh Cha Phanxicô cử hành, ngày 26 tháng Bảy tới đây tại Sân vận động ở thành phố Edmonton đã được giữ hết trong vòng vài phút.

Edmonton, thủ phủ bang Alberta, là chặng dừng đầu tiên của Đức Thánh Cha, trong chuyến viếng thăm một tuần tại Canada, từ ngày 24 đến 30 tháng Bảy tới đây.

Theo báo “Toronto Star”, Ngôi Sao Toronto, ra ngày 17 tháng Bảy vừa qua, ban tổ chức cuộc viếng thăm của Đức Thánh Cha cảnh giác các tín hữu đừng mua vé chợ đen, vì có thể đó là những vé giả. “Thật là buồn và đáng lo âu vì có những kẻ lợi dụng vé dự lễ miễn phí trong cuộc viếng thăm chữa lành, hòa giải và hy vọng, để bán lại”.

Mặt khác, Hội đồng Giám mục Canada thông báo có những tiến bộ trong cuộc lạc quyên toàn quốc 30 triệu Đôla Canada để thiết lập quỹ quốc gia nhằm tài trợ các dự án chữa lành và hòa giải với các thổ dân bản xứ.

Quỹ này đã quyên được bốn triệu 600.000 Đôla Canada tại các giáo phận. Các đơn xin tài trợ trước tiên phải nộp ở Ủy ban giáo phận hoặc địa phương về hòa giải.

Chủ tịch ngân quỹ này, tù trưởng Wilton Littlechild, nói rằng “Qũy hòa giải thổ dân là một cố gắng rất quan trọng để hỗ trợ con đường chữa lành và hòa giải giữa Giáo Hội Công Giáo và các thổ dân. Chúng tôi vui mừng vì những tiến bộ đạt được và mong sớm phân phối quỹ này càng sớm càng tốt đối với các dự án trên toàn quốc”.

Ban giám đốc và điều hành cho biết quỹ này sẽ được quản lý theo những tiêu chuẩn minh bạch nhất, dưới sự giám sát của Ban, gồm các vị lãnh đạo thổ dân trên toàn nước Canada.

2. Cựu Thủ tướng Úc Morrison khuyến khích các tín hữu đặt niềm tin vào Chúa hơn là vào các chính trị gia.

Trong một diễn từ tại Trung tâm Cuộc sống Chiến thắng ở Perth, tức nhà thờ Ngũ tuần do cựu vô địch quần vợt Margaret Court điều hành, cựu Thủ tướng Morrison khuyến khích giáo đoàn đặt niềm tin vào Chúa hơn là vào các chính trị gia.

“Chúng ta tin tưởng vào Thiên Chúa. Chúng ta không tin tưởng vào các chính phủ. Chúng ta không tin tưởng vào Liên Hiệp Quốc”, Morrison nói như thế trong diễn từ hôm Chúa nhật 17 tháng 7.

“Chúng ta không tin tưởng vào tất cả những điều này, dù chúng có thể tốt và quan trọng như vai trò chúng thủ diễn. Tin tôi đi, tôi đã làm việc trong đó và chúng quan trọng đấy.”

“Nhưng như một người đã từng ở trong đó, tôi có thể đoan chắc nếu bạn đặt niềm tin của mình vào những điều đó thì bạn đang mắc sai lầm. Trước hết, những điều đó có thể sai lầm. Tôi rất vui vì chúng ta có niềm hy vọng lớn hơn.”

Morrison đã tham dự buổi lễ theo lời mời của Bà Court để đánh dấu sinh nhật lần thứ 27 của nhà thờ. Cùng tham dự còn có cựu nghị sĩ đảng Tự do liên bang Vincent Connelly và cựu thủ hiến Tây Úc Richard Court, mà người anh trai đã kết hôn với Margaret Court.

Trong bài phát biểu kéo dài 50 phút trước cộng đoàn, dân biểu đơn vị Cook đề cập tới sự thất bại trong cuộc bầu cử của hai Đảng Liên minh, khi nói với đám đông rằng ông tin Thiên Chúa có một kế hoạch dành cho ông.

“Các bạn có tin rằng nếu các bạn thua một cuộc bầu cử nhưng Thiên Chúa vẫn yêu các bạn và có một kế hoạch cho các bạn không? Tôi tin. Bởi vì tôi vẫn tin vào các phép lạ,” ông nói như thế trước những tràng pháo tay từ những người đi lễ.

Trong phần lớn bài giảng, ông nói về sự lo lắng, được ông định nghĩa là những lo âu hàng ngày mà “dầu của Thiên Chúa” có thể xoa dịu.

Ông nói “Tất cả những trạng thái lo lắng này, tất cả các lo lắng này... tất cả các cảm giác này về các hóa đơn đang ập tới, tất cả cảm giác này về sự lo lắng, và rồi dầu của Thiên Chúa, thuốc mỡ của Thiên Chúa, xuất hiện trong tình huống này và giải thoát các bạn, nếu các bạn có nó, và nhận được hồng phúc của Người”.

Ông nói thêm: Đầu hàng lo lắng là “Kế hoạch của Sa-tan”.

“Chúng ta không thể để những lo lắng này phủ nhận chúng ta điều đó. Đó không phải là kế hoạch của Người. Đó là kế hoạch của Satan.”

Ông đã đưa ra sự phân biệt giữa lo lắng và bệnh tâm thần, khi nói rằng bệnh tâm thần có “các nhân tố rất thực” như các vấn đề sinh học và hóa học não cần được điều trị lâm sàng chuyên nghiệp.

Cuối bài phát biểu của Morrison, Court bước lên sân khấu, nói với cộng đoàn: “Chúa chắc chắn dành một cuộc sống cho bạn sau chính trị.”

3. Nhật ký trừ tà số 198: Các Thánh có chọn chúng ta không?

Đức Ông Stephen Rossetti là một linh mục ở Giáo phận Syracuse, phó giáo sư nghiên cứu tại Đại học Công Giáo Hoa Kỳ và tích cực tham gia vào mục vụ trừ tà trong 13 năm qua. Trên trang web catholicexorcism.org, ngài có bài viết nhan đề “Exorcist Diary #198: Do Saints Choose Us?”, nghĩa là “Nhật ký trừ tà số 198: Các Thánh có chọn chúng ta không”. Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Kim Thúy.

Cô “K” đã bị quỷ ám. Cô được cha mẹ ruột của mình hiến dâng cho ma quỷ: một người là phù thủy và người kia là người theo đạo Satan. Sự nuôi dạy của cô rất tàn bạo bao gồm thói quen dùng ma túy từ mẹ cô và những cuộc cưỡng hiếp liên tục của những người đàn ông.

Cha mẹ ruột đều chết rất trẻ. Cuối cùng K đã được một người đàn ông tốt bụng là một tín hữu Công Giáo sùng đạo nhận làm con nuôi. Sau khi giới thiệu cô với các bí tích Công Giáo, và chứng kiến các triệu chứng của cô, ông ấy nhận ra rằng cô đã bị qủy nhập. Ông đưa cô đến một nhà trừ tà.

Trong quá trình giải thoát, nhóm trừ tà đã rất ngạc nhiên khi K nói rằng một người tên là “Agape” xuất hiện và đang giúp đỡ cô ấy. K không biết Agape là ai, và hầu hết cả nhóm trừ tà cũng không biết. K nghĩ rằng Agape là một thiên thần; khi cô ấy xuất hiện, cô ấy được bao quanh bởi một luồng sáng lớn. Chỉ sau khi cô ấy tự nhận mình là “Agape”, K mới nhận ra người đó là con người.

Sau khi nghe K mô tả về Agape và thực hiện một số nghiên cứu, nhóm trừ tà nhận ra rằng cô ấy đang mô tả Thánh Agape - một trinh nữ tử đạo ở thế kỷ thứ 4. Thánh Agape cũng mồ côi từ nhỏ. Cô và hai chị gái của mình đã sống đời khiết tịnh dưới sự hướng dẫn của linh mục Xeno. Họ từ chối một số lời đề nghị kết hôn. Họ đã tử vì đạo dưới thời Hoàng đế Điôclêxiô.

K phải chịu đựng những cuộc tấn công thể xác của ma quỷ cũng như những cuộc tấn công tình dục lặp đi lặp lại của những người đàn ông, nhiều người trong số họ bị ma quỷ soi dẫn. Những người đàn ông này vô tình là tay sai của Satan đang cố gắng tấn công tình dục hoặc quyến rũ cô ấy, bao gồm cả việc dụ dỗ cô ấy bằng ma túy bất hợp pháp. Trong những khoảnh khắc bị cám dỗ và bị ma quỷ tấn công, Agape xuất hiện và thì thầm vào tai K những thông điệp đặc biệt về ân sủng. Khi Thánh Agape xuất hiện, cô thường thấy những con quỷ rời đi.

Thánh Agape là vị thánh hoàn hảo và là người cầu thay nguyện giúp cho K khi K là mục tiêu của các cuộc tấn công dữ dội của ma quỷ. Sự hiện diện và lời cầu bầu của Thánh Agape là rất nhiều, rất cần thiết. Chúng tôi cảm ơn Chúa vì sự giúp đỡ của vị thánh này.

Nhiều khi chúng ta nuôi dưỡng lòng sùng kính đối với một vị thánh cụ thể, vì nghĩ rằng chúng ta đã chọn vị thánh đó. Nó có thể là ngược lại. Có thể, bởi ân sủng của Thiên Chúa, một vị thánh cụ thể đã được chọn cho chúng ta. Trong tương lai, khi chúng ta bắt đầu các buổi trừ tà, hoặc đơn giản là bắt đầu cuộc sống hàng ngày, có lẽ chúng ta phải bắt đầu bằng cách hỏi Chúa xem vị thánh nào đã được chọn cho chúng ta.
Source:Catholic Exorcism
 
Tướng lỡ miệng nổ quá lớn, ép lính Nga chiếm cho được, 11 xe tăng cháy rụi, hàng trăm lính tử trận
VietCatholic Media
15:14 24/07/2022


1. Tướng lỡ nổ quá lớn, thúc ép lính Nga quay lại Vuhlehirsk, 11 xe tăng cháy rụi

Trong bản báo cáo chiều Chúa Nhật 24 tháng 7, Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết “Các nỗ lực tấn công của quân Nga từ các hướng khác nhau nhằm chiếm nhà máy nhiệt điện Vuhlehirsk đã thất bại thảm hại. Quân Nga đã tung một lượng lớn xe tăng trong trận chiến này. Tuy nhiên, quân trú phòng Ukraine đã đẩy lùi quân xâm lược một lần nữa gây tổn thất lớn cho người Nga.”

Hôm thứ Năm, phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Nga, Trung tướng Igor Konashenkov, cho rằng quân Nga đã chiếm được Vuhlehirsk. Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine phản bác và cho biết tính đến chiều ngày thứ Năm 21 tháng 7, quân Nga đã bỏ chạy khỏi nơi mà phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng Nga vừa tuyên bố chiến thắng.

Các chỉ huy Nga có lẽ chịu áp lực nên đưa quân tấn công một lần nữa, mặc dù họ biết rõ khó lòng vượt qua được hỏa lực của quân Ukraine.

Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine cho biết từ ngày 24 tháng 2 đến ngày 24 tháng 7, Lực lượng vũ trang Ukraine đã loại khỏi vòng chiến khoảng 39.520 binh sĩ Nga, trong đó có 280 binh sĩ chỉ trong một ngày qua.

Quân phòng thủ Ukraine cũng phá hủy 1.722 xe tăng Nga, 3.942 xe chiến đấu bọc thép, 869 hệ thống pháo, 255 hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt, 113 hệ thống phòng không, 221 máy bay chiến đấu, 188 máy bay trực thăng, 714 máy bay không người lái tác chiến-chiến thuật, 170 hỏa tiễn hành trình, 15 tàu chiến, 2.823 xe tải và xe chở nhiên liệu, và 73 thiết bị đặc biệt.

2. Quân đội Ukraine tiêu diệt 54 kẻ xâm lược, phá hủy 3 xe tăng và các thiết bị khác ở phía nam

Hôm 23 tháng 7, lực lượng Không Quân Ukraine ở miền Nam Ukraine đã tiến hành 6 cuộc tấn công hỗ trợ bộ binh trong vùng Kherson. Kết quả, họ đã loại khỏi vòng chiến 54 quân nhân Nga trong một ngày.

Phát ngôn nhân Bộ Tổng Tham Mưu Ukraine nói: “Quân Nga, với ba xe tăng T-62 và một xe chiến đấu bọc thép 82A, đã cố gắng thực hiện các hành động tấn công trong khu vực Kherson theo hướng các khu định cư của Sukhy Stavok, Andriivka, cùng với lực lượng súng trường cơ giới và các trung đội xe tăng. Tuy nhiên, người Nga đã không thành công và rút lui với tổn thất nặng. 54 quân nhân Nga bị loại khỏi vòng chiến cùng với 3 chiếc xe tăng T-62, 3 hệ thống hỏa tiễn phóng hàng loạt, pháo Msta-B, một kho đạn và một điểm tiếp tế đạn dược trong vùng Kherson.”

3. Mỹ lên án mạnh mẽ cuộc tấn công hỏa tiễn của Nga vào cảng Odesa. Mới ký kết chưa đầy 24g Nga đã vi phạm.

Hoa Kỳ đã lên án mạnh mẽ cuộc tấn công hỏa tiễn của Nga vào cảng Odesa, sau khi ký kết thỏa thuận cho phép xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine.

Ngoại trưởng Hoa Kỳ Antony Blinken nói:

“Hoa Kỳ lên án mạnh mẽ cuộc tấn công của Nga vào cảng Odesa ngày hôm nay. Nó làm suy yếu nỗ lực mang lương thực cho người đói và độ tin cậy của các cam kết của Nga đối với thỏa thuận được hoàn tất ngày hôm qua để cho phép xuất khẩu của Ukraine.”

Hôm 23 tháng 7, lực lượng Nga đã tấn công Cảng biển Thương mại Odesa bằng hỏa tiễn hành trình Kalibr. Hai hỏa tiễn bị lực lượng phòng không Ukraine bắn hạ. Hai hỏa tiễn khác đã bắn trúng các cơ sở hạ tầng của cảng.

Vào ngày 22 tháng 7, sau cuộc họp bốn bên gồm Ukraine, Thổ Nhĩ Kỳ, Liên Hiệp Quốc và Nga tại Istanbul, một thỏa thuận đã được ký kết cho phép xuất khẩu ngũ cốc và thực phẩm khác từ các cảng của Ukraine.

Thỏa thuận được ký kết bởi Bộ trưởng Cơ sở hạ tầng Oleksandr Kubrakov thay mặt Ukraine, Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres và Bộ trưởng Quốc phòng Hulusi Akar thay mặt cho Thổ Nhĩ Kỳ.

Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei Shoigu đã thay mặt Nga ký thỏa thuận theo hình thức tương tự.

Theo các thỏa thuận được ký kết tại Istanbul, nó có kế hoạch vận chuyển ngũ cốc Ukraine để xuất khẩu qua các cảng Odesa, Pivdennyi và Chornomorsk của Ukraine. Việc xuất khẩu nông sản từ các cảng của Ukraine trở lại có thể mang lại doanh thu ngoại tệ 1 tỷ USD mỗi tháng.

4. Người từng viết các bài phát biểu cho Putin khẳng định Nga đã thua

Một người từng viết các bài phát biểu cho Tổng thống Nga Vladimir Putin nói trong một cuộc phỏng vấn rằng người Nga “rõ ràng là đã thua” trong cuộc chiến Ukraine.

Abbas Gallyamov, người từng viết các bài phát biểu cho Putin nói với Đài Âu Châu Tự do: “Họ không biết phải làm gì nên tùy cơ ứng biến. Putin cần đạt được điều gì đó có thể thuyết phục người Nga rằng ông ấy đã thắng và ông ấy không thể đạt được điều đó”

Bình luận của Gallyamov được đưa ra sau khi Ngoại trưởng Nga Sergei Lavrov tuyên bố hồi đầu tuần rằng tham vọng lãnh thổ của Nga vượt ra ngoài khu vực Donbas - vốn là trọng tâm của Nga trong những tháng gần đây.

Theo Reuters, trong một cuộc phỏng vấn với truyền thông nhà nước, Ngoại trưởng Lavrov cho biết tham vọng địa lý của Nga “giờ đã khác” và “không còn chỉ là Donetsk và Luhansk”

“Tham vọng của chúng ta giờ đây cũng bao gồm các vùng Kherson và Zaporizhzhia và một số vùng lãnh thổ khác,” Lavrov nói.

Nga đã chiếm đóng một phần Kherson và Zaporizhzhia kể từ khi nước này tiến hành cuộc xâm lược Ukraine vào tháng Hai.

Aglaya Snetkov, một giáo sư tại Đại học London nói với Đài Âu Châu Tự do rằng người Nga “rõ ràng đang lúng túng” ở Ukraine.

“Họ đã có một kế hoạch điên rồ, và sau đó nó không thành công, và rồi họ phải điều chỉnh,” Snetkov nói.

Đầu tháng này, Bộ Quốc phòng Vương quốc Anh cho biết khi quân đội Nga gần đây đã tập hợp quân tiếp viện gần Ukraine, nhiều binh sĩ của họ đang được bố trí trong “các nhóm đặc biệt,” và sử dụng thiết bị không phù hợp.

“Bất chấp tuyên bố của Tổng thống Putin vào ngày 7 tháng 7 năm 2022 rằng quân đội Nga 'thậm chí còn chưa bắt đầu' các nỗ lực của họ ở Ukraine, nhiều lực lượng tiếp viện của họ là các nhóm được triển khai với các thiết bị lỗi thời hoặc không phù hợp”

Hôm thứ Bảy, Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskiy đã tung ra thông tin rằng Hoa Kỳ có ý định gửi Hệ thống Hỏa tiễn Pháo binh Cơ động Cao hay HIMARS để hỗ trợ trong cuộc chiến chống lại người Nga. Gói hỗ trợ an ninh trị giá 270 triệu USD mới cho Ukraine được Tòa Bạch Ốc công bố hôm thứ Sáu bao gồm bốn HIMARS.

“Cảm ơn tổng thống Hoa Kỳ về gói viện trợ quốc phòng mới cho Ukraine. Những vũ khí cực kỳ quan trọng, mạnh mẽ sẽ cứu sống quân đội ta, đẩy nhanh tiến độ giải phóng đất nước ta khỏi tay giặc Nga. Tôi đánh giá cao tình hữu nghị chiến lược giữa các quốc gia của chúng ta. Cùng nhau chiến thắng!” Zelenskiy nói.

5. Hơn 5.000 phụ nữ Ukraine bảo vệ đất nước trên tiền tuyến.

Hơn 50.000 phụ nữ phục vụ trong Lực lượng vũ trang Ukraine, trong đó hơn 5.000 phụ nữ hiện đang ở tiền tuyến.

Courtesy: Українське національне інформаційне агентство - Thông tấn quốc gia Ukraine

Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hanna Maliar đã phát biểu như trên tại Hội nghị thượng đỉnh quốc tế lần thứ hai của các đệ nhất phu nhân và đệ nhất phu quân, được tổ chức tại Kyiv vào ngày 23 tháng 7.

“Ngoài 38.000 nữ quân nhân phục vụ trong quân đội, chúng tôi còn có những phụ nữ dân sự làm việc cho Lực lượng vũ trang Ukraine. Do đó, tổng cộng, chúng tôi có hơn 50.000 phụ nữ là một phần của Lực lượng vũ trang. Ngày nay, chúng tôi có hơn 5.000 phụ nữ ở tiền tuyến,” Maliar nói.

Khi tính đến những con số này, Thứ trưởng lưu ý, Ukraine ngày nay là một trong những quốc gia có tỷ lệ phụ nữ trong Quân đội cao nhất so với các quốc gia thành viên NATO.

6. Giáo sư lịch sử Timothy Snyder khẳng định: Quyền lực của Putin đang 'Suy yếu', chuẩn bị cho cuộc đấu tranh quyền lực đang được tiến hành

Giáo sư lịch sử Timothy Snyder của Đại học Yale hôm thứ Bảy nói rằng quyền lực của Tổng thống Nga Vladimir Putin đang “suy yếu” và lưu ý rằng việc chuẩn bị cho cuộc tranh giành quyền lực đang được tiến hành.

Snyder chỉ ra rằng một dấu hiệu cho thấy Putin đang “mất kiểm soát” là một số cựu quan chức Nga như Dmitry Medvedev đã nói về những hậu quả đang chờ đợi Ukraine và phương Tây.

Medvedev, đồng minh trung thành của Putin, người từng là cựu tổng thống Nga, gần đây đã cảnh báo rằng phản ứng của phương Tây đối với cuộc chiến của Nga ở Ukraine có thể khiến quốc gia Đông Âu này mất “tàn tích của chủ quyền nhà nước và biến mất khỏi bản đồ thế giới”.

“Thông thường tin tức về những tuyên bố như vậy tập trung vào nội dung của chúng. Thật là một cám dỗ để được nổi trong hỏa tiễn tuyên truyền gây sợ hãi của Nga. Nhưng vấn đề thực sự của câu chuyện là giờ đây những người ngoài vòng trong của Putin giờ đây cảm thấy có quyền tha hồ đưa ra những tuyên bố như vậy. Trước chiến tranh, điều này khó lòng xảy ra được,” Snyder nói.

Ông lập luận thêm rằng “tuyên truyền diệt vong” này thể hiện lòng trung thành với Putin trong khi cũng có thể chuẩn bị “cho một cuộc tranh giành quyền lực sau khi Putin sụp đổ”.

“Nếu Nga thua trong cuộc chiến, những người nói những điều cực đoan bây giờ sẽ phải tự bảo vệ mình. Về phần mình, tôi có xu hướng coi những tuyên bố quyết liệt là bằng chứng cho thấy những người Nga quan trọng nghĩ rằng Nga đang thua cuộc,” Snyder nói.

“Tôi không tin rằng một người trong nhiều năm được coi là người thay thế phóng khoáng cho Putin, như Medvedev lại tin vào những diễn từ bài Do Thái, chống đối Ba Lan, chống phương Tây mà ông ta đăng trên Telegram. Ông ta đang tạo một hồ sơ có thể hữu ích sau này giống như hồ sơ kỹ thuật của ông ta đã từng hữu ích,” giáo sư Yale nói.

Ngoài ra, Putin cũng bị coi là yếu vì quân đội của ông không đạt được mục tiêu ở Ukraine, theo Snyder. Một số nhà phê bình và quan chức trước đây cũng đưa ra nhận định tương tự, bao gồm Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, người cho rằng ông Putin đã thất bại trong việc đạt được các mục tiêu chiến lược của mình ở Ukraine.

“Sự cân bằng giúp Putin nắm quyền - làm chủ được các đối thủ, sự ủng hộ dễ dàng trong dân chúng, sự trung thực của quân đội - đang bị thách thức bởi thực tế của một cuộc chiến tốn kém không thể đoán trước được. Putin đã rất giỏi trong việc giữ tất cả chúng ta trong một màn sương mù. Nhưng bây giờ bản thân ông ta dường như lạc trong sương mù của chiến tranh,” Snyder nói.

Tháng 6 vừa qua, giáo sư đã chỉ trích việc phong tỏa Hắc Hải của Nga ngăn cản việc chuyển xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine sang các quốc gia khác, nói rằng động thái này “nhằm tạo ra một dòng người tị nạn” có khả năng gây bất ổn cho Liên minh Âu Châu.

“Kế hoạch gây ra nạn đói của Putin cũng nhằm tạo ra những người tị nạn từ Bắc Phi và Trung Đông, là những khu vực thường cần đến lương thực của Ukraine. Điều này sẽ tạo ra sự bất ổn trong Liên Hiệp Âu Châu.”

Các cảng trên bờ Hắc Hải ở Ukraine đã phải đóng cửa do cuộc chiến của Nga ở Ukraine, do đó đe dọa nguồn cung cấp lương thực. Tuy nhiên, cả hai nước đã đồng ý đạt được một thỏa thuận do Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Hiệp Quốc làm trung gian nhằm mở cửa các cảng ở Hắc Hải nhằm giải phóng hàng chục triệu tấn ngũ cốc của Ukraine. Vào một ngày bình thường, khoảng 3.000 container chở ngũ cốc sẽ cập cảng Ukraine, bao gồm cả Odessa, nơi chúng được giữ trong các hầm chứa rộng lớn.

Tuy nhiên, Ukraine cáo buộc Nga tấn công cảng của họ ở Odessa bằng hỏa tiễn vài giờ sau khi thỏa thuận ngũ cốc được ký kết. Bộ Tư lệnh miền Nam của quân đội Ukraine cho biết, hai hỏa tiễn hành trình Kalibr của Nga đã bắn trúng cơ sở hạ tầng cảng, nhưng không có người bị thương, hãng tin AP đưa tin. Tuy nhiên, thống đốc khu vực Odessa nói rằng một số người bị thương chưa được xác định.

7. Tổ chức bác ái nói :Nhân viên cứu trợ bị giết bởi cuộc tấn công hỏa tiễn ở Ukraine

Hai nhân viên cứu trợ Hare Krishnas có trụ sở tại Anh đã thiệt mạng trong một vụ tấn công bằng hỏa tiễn ở Ukraine sau khi giao thực phẩm cho dân thường đang có nguy cơ chết đói.

Krishna-Tattva Prabhu, 40 tuổi và Madana Gopal Das, 39 tuổi, vừa trở về sau khi giao thức ăn từ xe tải của họ khi căn cứ của họ bị phá hủy trong vụ nổ.

Cả hai người đàn ông đều bị chôn vùi trong đống đổ nát và công nhân thứ ba, Arjuna Das, đang được điều trị tại bệnh viện sau khi được kéo ra khỏi đống gạch đá.

Krishna-Tattva Prabhu và Madana Gopal Das đã làm tình nguyện viên cho Đền Bhaktivedanta Manor Hare Krishna ở Letchmore Heath, Hertfordshire, Anh, và đi đến Đông Âu để giúp đỡ những người gặp khó khăn.

Arjuna Das, công nhân bị thương, là quản lý của cơ quan bác ái này.

Một phát ngôn viên của tổ chức bác ái cho biết những người đàn ông đang phục vụ những người nông dân đói khát và người già ở Donbas khi trụ sở của họ bị tấn công.

Các nhân viên bác ái đã được Food for All vinh danh hôm thứ Bảy như là các nạn nhân của vụ đánh bom ở Alchevsk, trong vùng Luhansk bị chiến tranh tàn phá.

Thiết bị nhà bếp của họ được mua ở London và được quyên góp bởi Tổ chức Food for All, do Hiệp hội Ý thức Krishna Quốc tế điều hành.

Food for All đã đi khắp các vùng của Ukraine và dọc theo biên giới Ba Lan để cung cấp thức ăn nóng cho các gia đình đang gặp khó khăn trong bối cảnh cuộc xâm lược của Nga đang diễn ra, cho đến nay đã chứng kiến khoảng 5 triệu người phải rời bỏ nhà cửa.

Tổ chức bác ái cho biết hậu quả của vụ tấn công là họ đã mất trụ sở chính trong khu vực cũng như giám đốc và lãnh đạo, Krishna-Tattva Prabhu.

Chương trình tuyên bố họ đã cung cấp hơn 1.000 bữa ăn nóng mỗi tuần cho dân thường kể từ khi đến vùng Donbas vào năm 2014, và cũng thực hiện các chương trình bác ái khác.

Parasurama Das, giám đốc của Food for All, cho biết: “Kể từ khi bắt đầu chiến tranh, Krishna Tattva đã phục vụ bữa ăn chay, quần áo, nước và nến hàng ngày với một đội từ đền Hare Krishna địa phương.

“Những người nghèo chủ yếu là người già, họ ở nhà hơn là đi lánh nạn. Nhà cửa của họ bị phá hủy không có nước, điện và cửa hàng.

“ Họ đã được ca ngợi là những người tử vì đạo bởi các Giáo Hội Kitô Ukraine.”

Chỉ vài ngày trước đó, Krishna Tattva đã đăng tải những hình ảnh về một nghĩa địa tạm thời bên trong sân chơi cho trẻ em, cho thấy mức độ khốc liệt của chiến dịch ném bom của Nga vào các khu vực dân sự của Ukraine.

Tổ chức bác ái cho biết Food for All sẽ tiếp tục công việc của mình ở Ukraine với một bếp di động mới được gửi đến vùng bị chiến tranh tàn phá.

Văn phòng Đối ngoại, Khối thịnh vượng chung và Phát triển của Anh cho biết họ đang làm việc để xác minh các báo cáo về bất kỳ công dân Anh nào đang dính líu vào cuộc xung đột ở Ukraine.

Tại thời điểm này, văn phòng vẫn chưa xác nhận danh tính của những người thiệt mạng và bị thương trong vụ tấn công hỏa tiễn ở Alchevsk.

Parasuram Das, một người Krishna người Ái Nhĩ Lan, bắt đầu tổ chức bác ái Food for All khi đang làm đầu bếp tại nhà hàng Soho ở London vào năm 1988.

Giờ đây, tổ chức của ông đã thành lập các bếp ăn dã chiến ở Ukraine và các nước xung quanh.
 
50 năm tông du Giáo Hoàng, chưa lần nào như lần này. Câu chuyện cảm động hai chị em người Ukraine
VietCatholic Media
18:33 24/07/2022

1. Hai chị em ly tán khi còn nhỏ được đoàn tụ do chiến tranh ở Ukraine

Họ đã không gặp nhau trong 20 năm, nhưng khi một người trở thành người tị nạn, cô ấy đã tìm thấy sự chào đón với người chị gái đã mất tích từ lâu của mình.

Tatyana và Angelika là hai chị em người Ukraine đã xa nhau 20 năm. Gần đây họ đã đoàn tụ ở Tây Ban Nha do chiến tranh đang diễn ra. Chiến tranh không bao giờ là điều đáng để “biết ơn”, nhưng điều tốt cũng có thể xuất hiện từ bi kịch và đau khổ.

The Guardian đã đưa tin về câu chuyện cụ thể này với nhan đề “Khoảnh khắc vừa vui vừa buồn”. Angelika Batiai, 24 tuổi, nói với phóng viên Ashifa Kassam. “Ở đây tôi đã gặp lại em gái mình sau 20 năm, nhưng mặt khác, tôi vừa phải rời bỏ gia đình và bạn bè của mình để chạy khỏi một đất nước đang có chiến tranh”.

Kassam báo cáo rằng các vấn đề gia đình đã dẫn đến việc hai chị em phải xa nhau khi họ còn rất trẻ, và các vấn đề tài chính khiến hai người không thể ở bên nhau. Nghịch lý thay, tai họa của cuộc chiến đang diễn ra đã khiến các sự kiện xảy ra theo cách mà họ được đoàn tụ.

Câu chuyện của hai chị em này bắt đầu cách đây hơn 20 năm tại ngôi làng Nikolaev, miền nam Ukraine, trong một gia đình nghèo. Cuộc chia ly đã tạo ra một vết thương khi cha mẹ quyết định giao con gái của mình cho hai người họ hàng khác nhau vì họ không còn đủ điều kiện và phương tiện để nuôi con.

Tatyana Kluge García, 25 tuổi, nói với phóng viên rằng họ cầu xin cha mẹ giữ họ lại với nhau, “Nhưng về mặt kinh tế thì điều đó là không thể; Dì của Angelika không đủ khả năng để nuôi cả hai chúng tôi.”

Sau đó Tatyana về sống với bà ngoại nhưng tình hình không bền vững. Cuối cùng, cô phải sống trong một trại trẻ mồ côi và may mắn thay, năm 8 tuổi, cô được một gia đình Tây Ban Nha ở Girona bên Tây Ban Nha nhận làm con nuôi.

Vào thời điểm quan trọng nhất trong cuộc đời, Tatyana và Angelika cần một mái nhà trên đầu và một ai đó để chăm sóc họ, và trong hoàn cảnh cụ thể của họ, điều này phải trả giá bằng việc họ phải xa nhau. Chúng ta có thể hiểu được sự thật khó khăn này, nhưng chúng ta cũng có thể hiểu được lời cầu xin được đoàn tụ của họ, bởi vì gắn kết không chỉ là một vấn đề tình cảm.

Hai cô gái - bây giờ là phụ nữ trẻ - vẫn cần ở bên nhau, mặc dù trong thời gian đó họ đã sống cuộc sống riêng biệt và rất xa cách. Họ lớn lên ở các quốc gia khác nhau - Tây Ban Nha và Ukraine. Từ một cuộc sống chung hàng ngày, họ tiếp tục nói những ngôn ngữ khác nhau, một trở ngại gần như không thể vượt qua đối với cuộc gặp gỡ của họ.

“Tôi luôn nói rằng tôi sẽ đến Ukraine và tìm em tôi,” Tatyana nói với The Guardian. Cô tìm kiếm bất kỳ dấu vết nào của em gái mình trên mạng xã hội, thậm chí sử dụng cả mạng xã hội VK của Nga.

Tất nhiên, Angelika cũng có cùng ý tưởng và cũng đang tìm kiếm Tatyana. Vào năm 2019, cô đã tìm thấy hồ sơ Facebook của chị gái mình. Họ kết nối lại và bắt đầu trò chuyện, lên kế hoạch gặp mặt, nhưng đại dịch đã cản trở. Đây là mặt tốt nhất của mạng xã hội, khi thay vì đưa chúng ta vào một thực tế giả khiến chúng ta xa rời cuộc sống thực, nó cũng có thể giúp chúng ta tạo hoặc khôi phục các kết nối trong thế giới thực.

Khi chiến tranh nổ ra, công nghệ lại là yếu tố then chốt giúp Angelika thoát khỏi Ukraine và tìm đến Tây Ban Nha cùng Tatyana.

Khi Ukraine bị xâm lược và chiến tranh dẫn đến các vụ đánh bom lớn, ý tưởng về việc Angelika chạy trốn sang Tây Ban Nha đã hình thành. Cuộc gặp gỡ thực sự giống như một cuộc sinh nở vội vã gây ra bởi một cuộc xung đột lớn.

Tatyana vẫn giữ liên lạc trong từng khoảnh khắc khi Angelika trốn khỏi vùng chiến sự. Cô đã vượt qua khó khăn về giao tiếp để mua cho em gái mình một vé máy bay từ Warsaw. Việc bảo đảm cô ấy có thể thực hiện chuyến bay rất phức tạp và căng thẳng. “Tôi đã phát điên,” Tatyana nói với The Guardian. “Em tôi chưa bao giờ đi máy bay, không biết làm thủ tục hay kiểm tra hành lý của mình”.

Khoảng cách vật lý giữa hai chị em giờ đã biến mất; họ đã sống cùng nhau ở Girona được vài tháng nay. 20 năm xa cách của họ đã dẫn đến một khoảng cách khác nhau, bao gồm cả ngôn ngữ, thứ mà họ vẫn đang vượt qua. Kassam báo cáo rằng hai chị em giao tiếp với nhau bằng những từ mà họ đã học được bằng ngôn ngữ của người kia, cùng với cử chỉ và Google Translate. Tuy nhiên, họ nói với The Guardian rằng, họ khá thoải mái với nhau và hòa hợp rất tự nhiên.

Giờ đây, họ đã gần chinh phục lại được lãnh thổ xa lạ - ngôn ngữ - một biên giới tồn tại lâu dài dù có quan hệ máu mủ với nhau. Chúng tôi chắc chắn không thể nói rằng cuộc hội ngộ này là “nhờ chiến tranh.” Nhưng điều đáng chú ý là chỉ khi mọi thứ trở thành đối tượng của nỗi sợ hãi mất mát và cái chết, thị giác của chúng ta trở nên rõ ràng hơn và chúng ta nhận thức rõ hơn về những gì chúng ta thực sự muốn cứu hoặc phục hồi.
Source:Aleteia

2. Tòa Thánh lên tiếng Tiến Trình Công Nghị Đức không được tạo ra những phương thức mới đối với tín lý và luân lý’

Theo Cindy Wooden thuộc Catholic News Service, trong bản tin ngày 21 tháng 7 năm 2022, một tuyên bố của Tòa Thánh nói rằng “Xem ra cần phải minh xác rằng ‘Tiến Trình Công Nghị' ở Đức không có quyền bắt buộc các giám mục và các tín hữu thừa nhận các cách quản trị mới và các phương thức mới đối với tín lý và luân lý.”

Được văn phòng báo chí Tòa Thánh công bố bằng tiếng Đức và tiếng Ý vào ngày 21 tháng 7, tuyên bố trên cho biết Giáo Hội Công Giáo ở Đức không thể “khởi xướng các cơ cấu hoặc tín lý chính thức mới trong các giáo phận trước khi có sự hiểu biết nhất trí ở bình diện giáo hội hoàn vũ.”

Tuyên bố cho rằng làm như vậy, “sẽ gây ra một vết thương cho sự hiệp thông trong giáo hội và một mối đe dọa cho sự hiệp nhất của giáo hội.”

Phiên họp toàn thể lần thứ tư của Tiến Trình Công Nghị dự kiến sẽ họp vào ngày 8 đến 10 tháng 9 tại Frankfurt với kế hoạch tranh luận về một loạt các bản văn sửa đổi và bỏ phiếu về việc chúng có thể được thông qua như các nghị quyết của Tiến Trình Công Nghị.

Phiên họp toàn thể bao gồm các thành viên của hội đồng giám mục Đức, 69 đại diện của Ủy ban Trung ương Công Giáo Đức, và các đại diện khác của các thừa tác vụ tâm linh và các văn phòng giáo hội, những người trẻ và các cá nhân. Tổng cộng, Phiên họp toàn thể sẽ bao gồm 230 người.

Tại cuộc họp vào đầu tháng 2, Phiên họp toàn thể đã thông qua các nghị quyết kêu gọi giáo dân có vai trò và tiếng nói lớn hơn trong việc ra quyết định cho Giáo Hội và sự tham dự của giáo dân trong các đoàn kinh sĩ của nhà thờ chính tòa, là đoàn vốn có tiếng nói trong việc đề xuất tên các ứng cử viên được đệ trình lên Đức Giáo Hoàng để có thể được cử nhiệm làm giám mục.

Phiên họp toàn thể cũng đã thực hiện việc cân nhắc ban đầu các đề nghị nhằm khuyến khích việc nới lỏng luật bắt buộc độc thân đối với hầu hết các linh mục theo nghi lễ Latinh và ủng hộ việc phong chức phó tế cho phụ nữ. Việc chúc phúc cho những cuộc kết hợp đồng tính cũng đã được thảo luận rộng rãi, nhưng chưa được Phiên họp toàn thể chính thức thông qua.

Quyền hành của Phiên họp toàn thể trong việc đưa ra các quyết định cho Giáo Hội Công Giáo ở Đức đã được thảo luận rộng rãi và nhiều lần. Giám mục Georg Bätzing, chủ tịch hội đồng giám mục Đức, trong một lá thư hồi tháng 4 trả lời các giám mục từ các quốc gia khác chỉ trích tiến trình của Đức, nhấn mạnh rằng tất cả các nghị quyết kêu gọi cải cách chỉ có thể được thi hành ở bình diện giáo hội phổ quát sẽ được đệ trình lên Tiến trình thượng hội đồng toàn thế giới do Đức Giáo Hoàng Phanxicô khởi động để chuẩn bị cho Thượng hội đồng Giám mục năm 2023 về tính đồng nghị.

Trong một bức thư năm 2019 gửi những người Công Giáo Đức - một bức thư cũng được trích dẫn trong tuyên bố mới - Đức Giáo Hoàng Phanxicô nhấn mạnh rằng tính đồng nghị là một quá trình phải được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần với sự kiên nhẫn chứ không phải “tìm kiếm những kết quả tức thời tạo ra các hậu quả nhanh chóng và tức thì.” Ngài nói: Biến đổi “đòi phải có sự hoán cải mục vụ”.

Đức Giáo Hoàng nói, “Thưa các anh chị em, chúng ta hãy quan tâm đến nhau và lưu ý đến sự cám dỗ của cha đẻ sự dối trá và chia rẽ, bậc thầy phân rẽ, kẻ, bằng cách thúc đẩy chúng ta tìm kiếm một lợi ích biểu kiến hoặc một phản ứng đối với một tình huống nhất định, trên thực tế kết cục ở chỗ phân tán cơ thể dân thánh thiện và trung thành của Thiên Chúa”.

Tuyên bố vào tháng 7 của Tòa Thánh nhắc nhở người Công Giáo Đức về những lời lẽ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với họ vào năm 2019 rằng giáo hội địa phương và giáo hội hoàn vũ sống và triển nở với nhau.

Ngài nói, nếu các giáo hội địa phương tách biệt khỏi toàn thể, “họ sẽ trở nên suy nhược, thối rữa và chết. Do đó, cần phải giữ cho sự hiệp thông với toàn thể cơ thể Giáo hội luôn sống động và hữu hiệu.”

Tuyên bố của Tòa Thánh cho hay, “người ta hy vọng rằng các đề xuất từ Con đường của các giáo hội đặc thù ở Đức sẽ nhập vào Tiến Trình Công Nghị đang được thực hiện bởi giáo hội hoàn vũ để làm phong phú lẫn nhau và làm chứng cho sự hiệp nhất nhờ đó thân thể của Giáo hội bày tỏ lòng trung thành của nó đối với Chúa Kitô. “

Dưới đây là nguyên văn Tuyên bố ngày 21.07.2022 của Tòa Thánh

Để bảo vệ quyền tự do của dân Chúa và thi hành thừa tác vụ giám mục, xem ra cần phải minh xác rằng “Tiến Trình Công Nghị” ở Đức không có quyền bắt buộc các giám mục và tín hữu thừa nhận những cách thức quản trị mới và các phương thức mới đối với tín lý và luân lý.

Trước khi đạt được sự hiểu biết nhất trí ở bình diện Giáo hội hoàn vũ, sẽ không được phép khởi xướng các cơ cấu hoặc tín lý chính thức mới trong các giáo phận, một điều sẽ gây ra vết thương cho sự hiệp thông trong Giáo hội và là mối đe dọa đối với sự hiệp nhất của Giáo hội. Như Đức Thánh Cha đã nhắc lại trong Thư gửi Dân Lữ hành của Thiên Chúa tại Đức: “Giáo hội hoàn vũ sống trong và nhờ các Giáo hội đặc thù, cũng như các Giáo hội đặc thù sống và nở rộ trong và từ Giáo hội hoàn vũ. Nếu bị tách khỏi toàn bộ cơ thể của Giáo hội, chúng sẽ yếu đi, thối rữa và chết. Do đó, cần phải luôn luôn bảo đảm để sự hiệp thông với toàn thể Giáo Hội được sống động và hữu hiệu “[1]. Do đó, người ta hy vọng rằng những đề xuất của Con đường các Giáo hội Đặc thù ở Đức sẽ hội tụ với Tiến Trình Công Nghị đang được Giáo hội hoàn vũ bước theo, để làm phong phú lẫn nhau và làm chứng cho sự hiệp nhất nhờ thế thân thể Giáo hội biểu lộ lòng trung thành của mình với Chúa Kitô.

3. Tìm hiểu Hành trình Hòa giải Lịch sử của Đức Thánh Cha Phanxicô với Người bản địa Canada

Trong bài “Understanding Pope Francis’ Historic Voyage of Reconciliation to Canada’s Indigenous People”, nghĩa là “Tìm hiểu Hành trình Hòa giải Lịch sử của Đức Thánh Cha Phanxicô với Người bản địa Canada”, Linh mục Raymond J. de Souza, là chủ bút tập san Công Giáo Convivium của Canada, đã trình bày những nhận định về chuyến tông du hoàn toàn có một không hai trong gần 50 năm tông du nước ngoài của các vị Giáo hoàng trong bối cảnh những căng thẳng liên quan đến các trường nội trú dành cho người bản địa tại quốc gia này.

Xin kính mời quý vị và anh chị em theo dõi bản dịch sang Việt Ngữ qua phần trình bày của Thụy Khanh

Vào ngày Chúa Nhật, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ bắt đầu một chuyến tông du hoàn toàn có một không hai trong gần 50 năm tông du nước ngoài của các vị Giáo hoàng.

Đây sẽ là một cuộc hành hương không phải dành cho toàn bộ Giáo hội ở Canada, mà tập trung chặt chẽ vào các dân tộc bản địa. Nó sẽ có một tính cách “sám hối”, như Đức Thánh Cha đã mô tả nó trong bài huấn dụ buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa Nhật tuần trước. Và trong khi hầu hết các chuyến đi của các vị Giáo hoàng có nhiều chủ đề - lịch sử, gia đình, tuổi trẻ, truyền giáo, công lý, v.v. - thì chủ đề này chỉ nhằm mục đích thúc đẩy “hòa giải” vì thuật ngữ đó đã được hiểu trong chính trị Canada.

Một chút lịch sử để mọi sự được rõ ràng. Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, người dân Canada bắt đầu nghe thấy tiếng nói của người bản địa về “trường nội trú của người da đỏ”, một phần lịch sử của Canada mà phần lớn vẫn bị che giấu.

Trong những thập kỷ gần đây, thuật ngữ “Da đỏ” - được sử dụng trong hầu hết lịch sử Canada - đã được thay thế bằng “thổ dân” và bây giờ là “Bản địa”

Vào cuối thế kỷ 19, chính phủ Canada đã thiết lập chính sách trường nội trú cho trẻ em bản địa. Nền giáo dục sẽ truyền đạt khả năng đọc viết và làm toán cơ bản nhưng cũng có một khía cạnh văn hóa, một phần của dự án đồng hóa được thể hiện một cách khét tiếng nhất là “giết chết người da đỏ trong đứa trẻ”. Trẻ em bản địa thường bị cấm nói tiếng bản địa của họ hoặc mặc trang phục truyền thống của họ.

Lúc đầu, việc đi học là tự nguyện, nhưng vào đầu thế kỷ 20, nó trở thành bắt buộc, đồng nghĩa với việc trẻ em bị buộc phải tách khỏi gia đình. Hầu hết các trường đóng cửa vào những năm 1960, mặc dù một số trường vẫn tồn tại trong những năm 1980. Hiện nó được mọi người - các nhà lãnh đạo Giáo hội, tiểu bang và Người bản xứ - coi như một chương đen tối trong lịch sử Canada.

Trong khi các trường học được thành lập và tài trợ bởi chính phủ Canada, hoạt động của các trường học được giao cho các Giáo Hội. Người Công Giáo điều hành khoảng hai phần ba số trường học; phần ba còn lại do những người theo đạo Tin lành điều hành. Phần lớn các trường Công Giáo do Dòng Hiến Sĩ Đức Mẹ Vô nhiễm, gọi tắt là OMI, điều hành.

Lời khai của những người ngày nay được công nhận là “những người sống sót” bắt đầu vào năm 1990. Họ kể về bệnh tật và điều kiện vệ sinh không đầy đủ, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe cũng như tệ hại hơn, về lạm dụng thể chất và tình dục.

Trong hơn 30 năm, người Canada đã cống hiến sức lực đáng kể cho di sản trường nội trú. Đã có một quyết toán tài chính vào năm 2006 gần 4 tỷ đô la, trong đó cả chính phủ và Giáo Hội đều tham gia.

Có một lời xin lỗi chính thức từ chính phủ Canada tại Hạ viện ở Ottawa vào năm 2008. Đã có một lời xin lỗi từ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI tới một phái đoàn của các nhà lãnh đạo bản địa tại Vatican vào năm 2009.

Sau đó Ủy ban Sự thật và Hòa giải, gọi tắt là TRC, mở một cuộc điều tra do chính phủ liên bang thành lập. Ủy ban đã báo cáo vào năm 2015 và đưa ra một danh sách các “lời kêu gọi hành động”. Bất kể đã có lời xin lỗi năm 2009 từ Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, TRC yêu cầu Đức Thánh Cha Phanxicô phải xuất hiện ở Canada “trong vòng một năm” để xin lỗi một lần nữa.

Giáo Hội ở Canada đã chọn không bảo vệ lời xin lỗi của Đức Bênêđíctô, cũng như hàng chục lời xin lỗi theo đúng nghĩa đen đã được đưa ra bởi các thực thể Công Giáo khác nhau có liên quan, bắt đầu bằng lời xin lỗi toàn diện của OMI vào năm 1991, rất lâu trước khi hầu hết người dân Canada thậm chí còn chưa biết đến lịch sử trường nội trú dành cho người bản địa.

Vào năm 2015, người ta cho rằng vấn đề này sẽ nằm im, và trong khi đó, công việc hợp tác hàng ngày ở cấp địa phương vẫn sẽ tiếp tục.

Việc phát hiện ra những ngôi mộ không được đánh dấu tại các điểm dân cư-trường học cũ vào tháng 5 năm 2021 đã tạo ra một làn sóng phẫn nộ quốc tế về những gì đôi khi được báo cáo là “mồ chôn tập thể”, ngụ ý một vụ thảm sát trẻ em bản địa. Điều đó không bao giờ xảy ra, nhưng thông tin sai lệch lớn đã tạo ra một cuộc tranh cãi gay gắt khiến cả chính phủ Canada và các giám mục Công Giáo chấn động.

Chính phủ liên bang đã cam kết hàng trăm triệu đô la cho việc thăm dò các ngôi mộ. Cho đến nay, không có cuộc thăm dò nào như vậy đã diễn ra.

Sự tức giận đối với Giáo Hội Công Giáo không chỉ thể hiện bằng lời nói, mà còn qua hành động phá hoại tại hàng chục nhà thờ Công Giáo, bao gồm cả vụ hỏa hoạn tại một số nhà thờ ở các khu bảo tồn của Người bản xứ.

Do đó, các giám mục của Canada đã một lần nữa tập hợp các lời xin lỗi cá nhân khác nhau của các ngài thành một tuyên bố thống nhất vào tháng 9 năm ngoái và cam kết quyên góp 30 triệu đô la cho các dự án hòa giải trong 5 năm tới. “Hòa giải” là một thuật ngữ chung để đối phó với di sản của các trường nội trú dành cho người bản địa.

Và, mang tính biểu tượng nhất, các giám mục đã cam kết yêu cầu Đức Giáo Hoàng Phanxicô đến thăm Canada để xin lỗi trên mảnh đất của Người bản địa, như TRC đã yêu cầu vào năm 2015.

Trước khi phát hiện ra những ngôi mộ có thể xảy ra vào năm 2021, các giám mục đã làm việc trong một cuộc họp lần thứ hai của Đức Giáo Hoàng ở Rome, để làm mới lại lời xin lỗi mà Đức Bênêđíctô đưa ra vào năm 2009. Điều đó đã bị trì hoãn bởi đại dịch, nhưng cuối cùng đã được tổ chức vào tháng 3 và tháng 4 năm 2022, khi Đức Thánh Cha dành năm giờ chưa từng có với các nhóm Bản địa trong suốt cả tuần. Sau đó, ngài đã đưa ra một lời xin lỗi sâu sắc và mạnh mẽ và cam kết sẽ đến thăm Canada.

Đức Thánh Cha đã chọn tháng Bảy cho chuyến viếng thăm nhằm kỷ niệm ngày lễ Thánh Anna, 26 tháng Bảy, với những người Công Giáo bản địa, những người có lòng sùng kính đối với bà ngoại của Chúa Giêsu phù hợp với sự tôn trọng mà họ dành cho người lớn tuổi. Cuộc hành hương Công Giáo hàng năm tại Hồ Thánh Anna gần Edmonton là sự kiện tôn giáo hàng năm lớn nhất dành cho người Canada bản địa, đa số là các tín hữu Kitô. Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ tham dự vào thứ Ba.

Đức Giáo Hoàng sẽ dành sáu ngày ở Canada, trong đó ngày đầu tiên dành hoàn toàn để nghỉ ngơi. Ngài sẽ đến Edmonton vào Chúa Nhật và sau đó có bốn sự kiện trong hai ngày, tất cả đều được giới hạn trong một giờ vì sức khỏe giảm sút gần đây của Đức Thánh Cha.

Vào ngày thứ Tư, ngài sẽ đến Thành phố Quebec, giáo phận Công Giáo đầu tiên ở Bắc Mỹ. Với bốn sự kiện khác trong ba ngày ở đó, ngài dự kiến sẽ đề cao lịch sử 200 năm của Công Giáo-Bản địa có trước trường nội trú đầu tiên. Thật vậy, Thánh François de Laval, giám mục đầu tiên của Canada, đã được Đức Thánh Cha Phanxicô tuyên thánh một cách nhanh chóng một phần vì ngài bảo vệ phẩm giá của các dân tộc Bản địa.

Vào ngày cuối cùng của mình ở Canada, Đức Thánh Cha Phanxicô sẽ đi đến cực bắc để gặp người Inuit ở Iqaluit trước khi trở về Rôma trong đêm.

Lời xin lỗi của Đức Thánh Cha Phanxicô tại Vatican - một cách chân thành, cẩn thận về mặt thần học và diễn đạt một cách hùng hồn - dường như đã khiến chuyến thăm thực sự trở nên thoái trào khỏi cực điểm. Những gì Đức Thánh Cha sẽ nói thì ngài đã nói rồi - và đã được những người khác nói trong hơn 30 năm. Trong khi chuyến thăm của Giáo hoàng luôn là thời điểm đầy ân sủng, các nhà lãnh đạo Công Giáo nói một cách bán chính thức về chuyến đi như một bước cần thiết mà các ngài mong muốn hoàn thành và vượt qua.

Về phía Người bản xứ, đã có một số người thiếu quan tâm đến các sự kiện của Đức Giáo Hoàng và thiếu sự phối hợp đối với những người muốn tham dự, mặc dù chính phủ liên bang đã cam kết 35 triệu đô la để đưa những người sống sót đến gặp Đức Giáo Hoàng.

Các giám mục Công Giáo sẽ tài trợ chi phí 15 triệu đô la cho chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng, ngoài cam kết trước đó cho các dự án hòa giải. Điều đó sẽ không dễ dàng, vì phần lớn các giáo phận Canada đều bị hạn chế về tài chính.

Chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng sẽ làm nổi bật hai thực tế đối kháng.

Điều sẽ thu hút sự chú ý nhất là mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo chính trị Bản địa và các giám mục Công Giáo - một mối quan hệ căng thẳng được đánh dấu bởi sự nghi ngờ về động cơ xấu của cả hai bên. Thực tế khác là các mối quan hệ tốt đẹp thực tế ở cấp giáo xứ và giáo phận đã đánh dấu cuộc sống của hầu hết người Công Giáo Bản địa, nơi mà việc hòa giải đã được diễn ra trong ba thập kỷ.

Đây sẽ là chuyến thăm thứ tư của Đức Giáo Hoàng tới Canada. Thánh Gioan Phaolô II đã thực hiện một chuyến đi xuyên quốc gia, 12 ngày - một trong những chuyến đi dài nhất của ngài đến một quốc gia duy nhất - vào năm 1984. Trong chuyến đi đó, thời tiết xấu đã ngăn cản ngài đến thăm những người Canada bản địa ở cực bắc, vì vậy ngài đã trở lại vào năm 1987 cho mục đích đó. Chuyến đi thứ ba của ngài là vào năm 2002 cho Ngày Giới trẻ Thế giới ở Toronto. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI đã không đến thăm Canada.
Source:National Catholic Register