Ngày 06-05-2019
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Mục tử của lòng Chúa thương xót
Lm Đan Vinh
23:03 06/05/2019
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH C
Cv 13,14.43-52 ; Kh 7,9.14b-17 ; Ga 10,27-30

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 10,27-30

(27) “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi. Tôi biết chúng và chúng theo tôi. (28) Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không bao giờ chúng phải diệt vong, và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi”. (29) “Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. (30) Tôi với Chúa Cha là một !”.

2. Ý CHÍNH:

Tin mừng của Gio-an hôm nay ghi lại những lời tâm sự của Chúa Giê-su với các môn đệ. Người đã tự ví mình là Mục Tử nhân lành, được Chúa Cha sai đến để thay quyền Cha mà chăm sóc, nuôi dưỡng và bảo vệ đoàn chiên đã được trao cho Người. Người và Chúa Cha chỉ là Một”.

3. CHÚ THÍCH:

- C 27-28: + Con chiên và Mục Tử: Trong Thánh kinh, hình ảnh con chiên mang một ý nghĩa tốt đẹp: Đức Chúa đã trao đàn chiên Ítraen cho một số mục tử chăn dắt (Tv 100,3) như: Mô-sê, Aharon (x. Tv 77,21), Giôsuê (x. Ds 27,18-21), Đavít (x.Tv 78,70-72)... Đến thời Tân ước, Chúa Giê-su đã tự xưng mình là Mục Tử nhân lành (x. Ga 10,11) và duy nhất của Thiên Chúa (x.Ga 10,16). Người lại trao quyền mục tử ấy cho các Tông đồ, Giám mục, Linh mục... để các vị này thay Người tiếp tục chăn dắt dân Ítraen Mới là Hội thánh. + Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi: Vào mỗi buổi tối, các mục tử thường đưa chiên về một cái chuồng lớn để nhốt chung với các bầy chiên khác. Sáng đến, mục tử đứng ở cửa chuồng gọi chiên của mình ra. Chiên sẽ nhận ra tiếng của mục tử và đi theo ông ra đồng ăn cỏ. Các mục tử thực sự là chủ của đoàn chiên thì sẽ chăm sóc cho chiên của mình, biết rõ tính của mỗi con để săn sóc và bảo vệ chúng cách hữu hiệu.

Ba thái độ mà các tín hữu cần phải thực hành để trở thành chiên ngoan của Mục Tử GIÊ-SU là Nghe, Biết và Theo Người như sau:
* NGHE: Lắng nghe là khởi đầu của đức tin như Chúa Cha đã nhắn nhủ các môn đệ của Đức Giê-su: “Các ngươi hãy vâng nghe Lời Người” (Mt 17,5) và thánh Phao-lô đã khẳng định: “Đức tin là bởi nghe” (Rm 10,17).
* BIẾT: Biết ở đây không phải là biết về tri thức, nhưng là về đời sống. Biết điều gì tức là có kinh nghiệm cụ thể về điều ấy. Biết một người nào là có liên hệ thân tình với người đó, như liên hệ giữa hai vợ chồng (x. Lc 1,34). Cũng vậy, Đức Giê-su biết rõ từng con chiên của Người.
* THEO: Chiên của Đức Giê-su có nhiệm vụ phải đáp trả lời mời gọi của Người bằng việc dứt khóat đi theo, quyết tâm vâng nghe lời dạy và sống theo gương lành của Người.
+ Tôi ban cho chúng sự sống đời đời: Đức Giê-su dẫn các tín hữu đi từ việc được nuôi sống (x. Ga 10,9) đến chỗ được sống dồi dào (x. Ga 10,10) và sống muôn đời (x. Ga 10,28). + Không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi: Là mục tử có trách nhiệm và đầy quyền năng, không bao giờ Đức Giê-su để chiên của Người bị giết hại hay bị cướp đoạt. Chỉ có chiên tự bỏ đàn để đi hoang. Còn Chúa thì không bao giờ bỏ mặc họ. Người là Mục Tử tốt lành, sẵn sàng đi tìm các chiên lạc để đưa về đoàn tụ trong một đoàn chiên duy nhất (x. Lc 15,4-7).
- C 29-30: + Tôi với Chúa Cha là một !: Lời tuyên bố này nói đến sự hiệp thông thân mật giữa Chúa Cha và Chúa con. Công đồng Nixêa năm 325 đã dựa trên lời này để tuyên tín: “Chúa Cha và Chúa con đồng một Bản tính Thiên Chúa, nhưng là hai Ngôi vị khác nhau”, để chống lại lạc thuyết Ariô (thế kỷ thứ IV) không công nhận Thần tính của Chúa Giê-su. Chính nhờ mang Bản tính Thiên Chúa mà Chúa Giê-su đã hứa ban cho các tín hữu được sự sống đời đời. Người cũng nhiều lần tự xưng: “Ta là” giống như Đức Chúa khi xưa. Sau cùng Người đã bị tử hình thập giá và ngày thứ ba đã từ cõi chết sống lại để phục hồi sự sống cho lòai người chúng ta.

4. CÂU HỎI:

1) Hãy kể tên một số vị Mục tử thời Cựu ước đã được Thiên Chúa trao quyền mục tử để thay Người chăn dắt đòan chiên là dân Ítraen.
2) Ba thái độ mà các con chiên ngoan của mục tử Giê-su phải có là gì ?
3) Chúa Giê-su hứa ban những quyền lợi gì cho các con chiên của Người ?
4) Công đồng Nixêa đã dựa vào đâu để tuyên bố tín điều về Thần Tính của Chúa Giê-su chống lại lạc thuyết Ariô ?

II.SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Tôi chính là mục tử nhân lành, Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14).

2. CÂU CHUYỆN:

1) MỤC TỬ TỐT LÀNH SẴN SÀNG THÍ MẠNG SỐNG VÌ ĐOÀN CHIÊN:

Vào cuối thế chiến thứ II, xảy ra vụ năm người lính Đức bị phục kích và bị sát hại gần thành phố Chani, miền bắc nước Ý năm 1943. Thế là viên tướng chỉ huy Đức Quốc Xã liền bắt 50 người có địa vị nhất của thành phố mang ra xử bắn để răn đe.
Hai Đức Giám Mục chánh và phó của thành phố cố gắng can thiệp nhưng không có hiệu quả. Tất cả 50 người đều bị trói, bị bịt mắt và xếp thành hàng dài. Rồi sau thời gian chờ đợi căng thẳng, viên sĩ quan ra lệnh cho quân lính chuẩn bị nhắm bắn. Bấy giờ hai vị giám mục đã yêu cầu viên chỉ huy cho phép ôm hôn từ biệt từng người và được chấp thuận. Các ngài đã lợi dụng giây phút quý báu để ban phép giải tội cho họ. Sau đó hai vị giám mục đã không về chỗ mà lại tình nguyện đứng vào hàng ngũ những người bị xử bắn. Đức Giám Mục chính tòa đã nói với viên chỉ huy: “Không phải 50, nhưng là 52 người trong đó có chúng tôi. Ông vẫn quyết định bắn chúng tôi, thì hãy ra lệnh. Xin Thiên Chúa tha thứ cho ông.”
Khi ngài vừa dứt lời, thì bầu khí đang nặng nề sự chết chóc đột nhiên biến mất và thay vào bằng những tiếng reo hò vang dậy, vì quân lính Đức đang nhắm bắn tử tội đã được viên sĩ quan ra lệnh hạ vũ khí. Hôm đó trên đường từ pháp trường về, cả hai vị mục tử cũng như đoàn chiên đều sung sướng dâng Chúa lời Thánh vịnh: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng mình như giữa giấc mơ. Vang vang ngoài miệng câu cười nói, rộn rã trên môi khúc nhạc mừng. Bấy giờ trong dân ngoại, người ta bàn tán: Việc Chúa làm cho họ, vĩ đại thay!” (Tv 126,1-2).

2) “GIAI ĐIỆU HẠNH PHÚC”:

Trong một cuốn phim tựa đề là “Giai điệu hạnh phúc” (La mélodie du bonheur), cô MERI là một người đang đi tìm hiểu ơn gọi tại một tu viện nữ. Một hôm bà bề trên sai cô đi làm gia sư trong một gia đình quí tộc. Ông đại uý chủ nhà là người giàu có, góa vợ và luôn tỏ ra nghiêm khắc trong cách giáo dục con cái. Ông muốn chúng có tinh thần kỷ luật giống như người lính trong quân đội. Khi mới đến nhận việc, cô Meri đã bị bọn trẻ cố tình trêu chọc. Nhưng nhờ tình thương của một thầy giáo, kèm theo sự hiểu biết tâm lý và cách ứng xử mềm dẻo nhưng cương quyết, cùng những bài hát vui tươi và vũ điệu lôi cuốn của cô...
Cuối cùng cô đã chinh phục được tình cảm của lũ trẻ, biến chúng trở nên những trẻ em ngoan ngoãn dễ dạy. Chúng luôn vâng lời cô giáo, không cần cô phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc theo kiểu người cha của chúng. Cuối cùng cô còn chinh phục được tình cảm của chính ông đại uý chủ nhà. Câu chuyện kết thúc bằng việc cả gia đình ông đại úy đã khôn ngoan thoát khỏi sự ruồng bắt của chính quyền phát xít Đức lúc đó. Họ cùng nhau vượt qua biên giới an toàn để bước vào một cuộc sống mới đầy yêu thương và hạnh phúc.

3) MỘT BÀ MẸ SẴN SÀNG HY SINH CHẾT CHO CON ĐƯỢC SỐNG:

Trong thiệp báo tin Ma-ri-a Cristina qua đời không mang màu đen tang chế nhưng được viền một màu xanh hy vọng. Chính giữa thiệp nổi lên hình một bông hoa hồng, có đọng những giọt sương mai óng ánh. Giữa bông hoa là ảnh chân dung của Cristina đang tươi cười duyên dáng trong chiếc áo cưới rất đẹp. Bên dưới bức ảnh là lời nguyện rút ra từ nhật ký của Cristina: “Lạy Cha, xin dâng Cha niềm vui của con như ca khúc chúc tụng Cha, trái tim con như căn nhà tiếp đón Cha và cuộc đời con để Cha thực hiện điều Cha muốn.”
Cuộc đời của Cristina đã kết thúc vào năm 26 tuổi. Bệnh ung bướu ác tính tại tử cung đã mắc vào năm 18 tuổi, tưởng đã được chữa lành, giờ lại xuất hiện. Nàng đã có hai con một trai một gái. Cristina đang chờ sinh con thứ ba. Khi nghe bác sĩ thông báo hung tin: "Cristina, tôi rất tiếc phải cho bà biết chứng ung thư ác tính đã tái xuất hiện". Sau khi im lặng một giây, Cristina đã nhìn thẳng vào mắt vị bác sĩ và nói: “Tôi đang mang thai, bác sĩ ạ!”. Viên bác sĩ đã hiểu và không dám đề ra lối trị liệu hóa chất sẽ giết chết bào thai! Mà chỉ kê toa thuốc dưỡng thai.
Sau đó đến tháng 8 năm 1994 thì Ma-ri-a Cristina đã sinh hạ bé Riccardo. Ngay sau khi sinh, chị mới bắt đầu dùng phương pháp trị liệu bằng hóa chất, nhưng đã quá trễ, bướu ung thư đã ăn sâu vào các cơ quan nội tạng. Người mẹ trẻ đã êm ái trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22-10-1995, để lại 3 con thơ dại. Cái chết anh dũng của Cristina để bảo vệ thai nhi đã cho thấy một tình thương vô bờ của một bà mẹ trẻ đối với đứa con thân yêu của mình. Chị đã thực hành lời Chúa: “Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên”.

4) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỦA MỤC TỬ GIÊ-SU:

Một ngày kia, Chúa Giê-su đã hiện ra cho thánh Hiêrônimô và hỏi: “Này Hiêrônimô, hôm nay con có gì để dâng cho Thầy không?”
Hiêrônimô đáp: “Con dâng cho Chúa tất cả những bộ sách con đã viết và nhất là bộ Kinh Thánh con mới dịch xong.”
Chúa Giê-su mỉm cười chấp nhận nhưng vẫn chưa thỏa mãn, Người hỏi tiếp: “Con còn có gì khác để dâng cho Ta nữa không?”
Hiêrônimô không chút do dự trả lời: “Con xin dâng cho Chúa tất cả những hy sinh, khổ cực con gặp thường ngày từ trước cho tới bây giờ. Con dâng cho Chúa trọn cả cuộc đời tu trì của con đây.”
Chúa Giê-su chấp nhận nhưng vẫn chưa hoàn toàn mãn nguyện, Người lại hỏi lần thứ ba: “Con cố nghĩ xem còn có gì thêm để dâng cho Ta nữa không?”
Lần này, Hiêrônimô suy nghĩ và đã thưa cùng Chúa: “Con nghĩ con đã dâng cho Chúa tất cả mọi sự của con rồi, Không còn gì khác xứng đáng để dâng cho Chúa.”
Bấy giờ Chúa Giê-su đã âu yếm nhìn Hiêrônimô và nhỏ nhẹ phán: “Hiêrônimô, tại sao con không dâng cho Ta những tội lỗi cùng những thói hư của con? Con giữ chúng lại làm gì? Ta đã xuống thế, chịu chết trên cây thập tự chính là để đền mọi tội lỗi của con đó”.
Bấy giờ Hiêrônimô đã thành kính dâng lên Chúa tất cả, kể cả mọi tội lỗi của mình.

3. THẢO LUẬN:

1) Hãy cho biết Chúa Giê-su trong Tin Mừng đã tự xưng là mục tử tốt lành , phân biệt với các đầu mục dân Do thái là các kinh sư, Biệt phái và Tư tế đền thờ như thế nào?
2) Mỗi người chúng ta có thể làm gì để tích cực cộng tác với các vị chủ chăn trong giáo xứ trong việc phục vụ cộng đoàn?
3) Mỗi người chúng ta cần làm gì để thêm nhiều bạn trẻ tình nguyện hiến thân phụng sự Chúa trong các chủng viện hay dòng tu nam nữ?

4. SUY NIỆM:

1) Hình ảnh Mục Tử trong Cựu Ước và Tân Ước:

- Trong Cựu Ước, hình ảnh Mục Tử Nhân Lành đã được các ngôn sứ dùng để ám chỉ Đức Chúa như sau: “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính, vì danh dự của Người. Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,1-4). Hình ảnh người mục tử cũng được dùng để ám chỉ các vị lãnh đạo thời bấy giờ. Nhưng thật đáng buồn khi các vua chúa đã không sống đúng vai trò mục tử của mình như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm Lời Đức Chúa quở trách họ: “Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! … Chiên của Ta tán loạn vì thiếu mục tử và biến thành mồi cho mọi dã thú, chúng chạy tán loạn. Chiên của Ta tản mác trên các ngọn núi, trên mọi đỉnh đồi, trên khắp mặt đất… thế mà chẳng ai chăm sóc, chẳng ai kiếm tìm” (Ed 34,2-6).
- Sang thời Tân Ước, Đức Giê-su cũng khẳng định: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành sẵn sàng hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Kẻ làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh ta, nên khi thấy sói đến, anh ta liền bỏ chiên mà chạy trốn. Sói vồ lấy chiên và làm cho đoàn chiên tan tác, vì anh ta chỉ là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến đoàn chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên tôi, và chiên của tôi biết tôi. Như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử." (Ga 10,11-16).

2) Hai loại mục tử:

Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã phân biệt ra hai loại mục tử như sau:
- Mục tử nhân lành: Đức Giê-su nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Đức Giê-su đã thể hiện sứ vụ mục tử của loài người: Trong thời gian giảng đạo, Người đã đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng về Nước Trời, dạy cho người ta biết Thiên Chúa là Tình Yêu và đòi chúng ta phải biết đáp lại tình yêu của Thiên Chúa bằng việc yêu thương tha nhân bên cạnh, nhất là yêu thương những người nghèo hèn bệnh tật và bị bỏ rơi (x Mt 13,1-9). Người đến để cho «chiên được sống và sống dồi dào» (10,10). Đây cũng là sứ vụ mà các mục tử hôm nay cần quan tâm thực hiện, là lo cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào qua việc chuyên tâm dạy giáo lý và rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Dồi dào qua việc tích cực góp phần chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền của dân (x. Mt 8,16-17), xua trừ ma quỷ (x. Mt 9,32-34), chia sẻ cơm bánh (x. Mt 14,15-21), phục sinh kẻ chết (x. Ga 11,43-44).
- Mục tử giả hiệu: Là người chăn thuê, ám chỉ các đầu mục dân Do Thái đương thời gồm các kinh sư, người Pha-ri-sêu và các tư tế phục vụ Đền thờ. Những người này «không thiết gì đến chiên» (10,13), vô trách nhiệm trước sự an nguy của đoàn chiên: «khi thấy sói đến, họ bỏ chiên mà chạy», để «sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn» (10,12). Đối với hạng mục tử này, đoàn chiên chỉ có giá trị lợi dụng để phục vụ cho họ như ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã tuyên sấm lời Đức Chúa: «Khốn cho các mục tử Ít-ra-en, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Sữa chiên thì các ngươi uống, len thì các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, nhưng đoàn chiên thì lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc» (Ed 34,2-4).

3) Thế nào là một mục tử lý tưởng theo Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ?:

- Đức Thánh Cha Phan-xi-cô quan niệm mục tử lý tưởng phải là "người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót. Là những người yêu sự khó nghèo, sự khó nghèo nội tâm trước mặt Chúa, cũng như khó nghèo bên ngoài như sự đơn sơ và khắc khổ trong cuộc sống. Là những người không có "tâm lý của các ông hoàng". Là những người không tham vọng và là các phu quân của Giáo Hội. Là những người có khả năng thức tỉnh đoàn chiên được giao phó, và quan tâm duy trì sự hiệp nhất, canh giữ đoàn chiên, chú ý tới các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên. Nhất là, làm cho niềm hy vọng được lớn lên. Ước gì các Mục Tử luôn có mặt trời và ánh sáng trong trái tim. Là những người có khả năng hỗ trợ Thiên Chúa nơi dân Người, với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn.
- Cuối cùng vị mục tử có ba vị trí trong đoàn chiên khi thi hành sứ vụ chăn dắt đoàn chiên như sau:
Một là ở đàng trước để dẫn đường.
Hai là ở giữa để duy trì sự hiệp nhất và động viên tinh thần của đoàn chiên.
Ba là ở đàng sau để tránh cho chiên khỏi đi tụt hậu, và tạo điều kiện để đoàn chiên đánh hơi hầu tìm ra một hướng đi mới cho đoàn.
- Trong kinh Năm Thánh “Lòng Chúa thương xót” có đoạn cầu cho các mục tử trong Hội Thánh như sau: “Xin cho Hội Thánh được nên gương mặt hữu hình của Chúa nơi trần gian, gương mặt của Chúa sống lại hiển vinh. Chúa đã muốn các thừa tác viên của Chúa cũng phải khoác lên người sự yếu đuối để biết đồng cảm với những người đang sống trong u mê và lầm lạc: xin cho mọi người đến với các thừa tác viên đều thấy mình được Thiên Chúa tìm kiếm, yêu thương và tha thứ.”

4) Ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu:

- Hiện nay trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ đang thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ cách trầm trọng. Nhiều nhà thờ không có linh mục coi sóc, nhiều tu viện to lớn bị bỏ hoang vì không còn tu sĩ trẻ. Nguyên nhân của tình trạng này rất nhiều. Nhưng có lẽ nguyên nhân chính là do lỗi của mỗi tín hữu chúng ta: Vì chưa ý thức được tầm quan trọng của sứ vụ truyền giáo nên chúng ta chưa thiết tha nài xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa canh tân đời sống để làm chứng nhân tình thương của Chúa Giê-su trước mặt người đời; Các bậc cha mẹ Công Giáo chưa quảng đại dâng con cho Chúa và không khuyến khích chúng đi tu làm linh mục và làm tu sĩ để phục vụ Chúa và Hội Thánh cách hữu hiệu hơn.
- Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 cũng nhắc đến vai trò của giáo xứ trong việc vun trồng ơn thiên triệu như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được hướng dẫn để gặp được Đức Giê-su, để nghe lời Người và đi theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mạng cứu độ của Người”.

5. NGUYỆN CẦU:

- LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa qua các ngài. Xin ban cho chúng con những linh mục biết nhiệt tình rao giảng Lời Chúa, có sức làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành, giàu lòng từ bi thương xót noi gương Chúa xưa, Đấng đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.
- LẠY CHÚA. Xin cho các gia đình Công giáo trở thành một môi trường tốt ươm trồng ơn thiên triệu, bằng việc tạo bầu khí đạo đức và yêu thương giữa các thành viên với nhau. Xin cho chúng con luôn kính trọng yêu mến các linh mục coi sóc chúng con, thành tâm cộng tác với các ngài, sẵn sàng giúp đỡ các ngài chu toàn nhiệm vụ. Ước gì giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn luôn hiệp thông giữa chủ chăn và đàn chiên, là điều kiện để giáo xứ phát triển cả về vật chất cũng như tinh thần. Nhờ đó chúng con sẽ chu toàn được sứ mạng làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng xã hội Việt Nam hôm nay.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON


 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Đức Phanxicô nói với người tị nạn tại Bảo Gia Lợi: anh chị em đang vác “thánh giá của nhân loại”
Vũ Văn An
01:44 06/05/2019
Theo tin của Associated Press ngày 6 tháng 5, 2019, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã viếng một trại tị nạn kiểu mẫu tại Bảo Gia ợi (Bulgaria) và nói với họ rằng họ đang vác “thánh giá của nhân loại” sau khi thúc giục chính phủ không mấy thân thiện với di dân đừng nhắm mắt trước các đau khổ của họ.

Các trẻ em tị nạn từ Iraq, Pakistan và nhiều nơi khác đã hát mừng Đức Phanxicô vào hôm thứ Hai, tại trung tâm Vrazhdebna, tọa lạc tại một trường học được cải biến thuộc khu ngoại ô của Sofia, thủ đô Bảo Gia Lợi.

Chính phủ theo xu hướng trung hữu của Bảo Gia Lợi vốn bị các nhóm nhân quyền và Hội Đồng Âu Châu chỉ trích về lối đối xử của họ với người tầm trú, nhất là các vị thành niên không được người lớn đi cùng.

Đức Giáo Hoàng đang trong ngày thứ hai của chuyến đi ba ngày tới vùng Balkan. Ít giờ nữa, ngài sẽ cử hành Thánh Lễ tại khu đông dân Công Giáo ở Rakovsky và cho hơn 200 trẻ em rước lễ lần đầu.
 
Toàn văn bài giảng của Đức Phanxicô trong Thánh Lễ tại Rakovsky, Bảo Gia Lợi
Vũ Văn An
04:20 06/05/2019
Hôm thứ Hai, ngày 6 tháng Năm, 2019, hồi 11 giờ 15 sáng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã cử hành thánh lễ có cho rước lễ lần đầu tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Rakovsky, Bảo Gia Lợi.

Trong bài giảng của ngài trong Thánh lễ, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói với các bé trai và bé gái rước lễ lần đầu rằng đây là một cử hành sẽ dẫn các em đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người vào lòng các em.

Sau đây là toàn văn bài giảng của Đức Giáo Hoàng:



Anh chị em thân mến,

Tôi vui mừng chào đón các bé trai và bé gái, những em sẽ được rước lễ lần đầu và cha mẹ, họ hàng và bạn bè của các em. Với tất cả anh chị em, tôi xin gửi lời chào kính tuyệt đẹp vốn được trao đổi ở đất nước anh chị em vào thời điểm lễ Phục Sinh: “Chúa Kitô đã sống lại!” Lời chào này nói lên niềm vui của chúng ta như các Kitô hữu, như các môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta vui mừng vì yêu chúng ta, Chúa Giêsu đã hiến mạng sống mình trên thập giá và tiêu diệt tội lỗi. Ngài đã sống lại và làm cho chúng ta trở thành con trai và con gái nuôi của Thiên Chúa Cha. Chúng ta vui mừng vì Người đang sống và hiện diện giữa chúng ta, hôm nay và mãi mãi.

Các bé trai và bé gái thân mến, chúng con đã đến đây từ mọi ngõ ngách của “Lãnh thổ Hoa hồng” này để tham dự một cuộc cử hành tuyệt vời. Cha chắc chắn chúng con sẽ không bao giờ quên được ngày này: cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng con với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Một trong chúng con dám hỏi cha: làm thế nào chúng con có thể gặp được Chúa Giêsu? Người sống cách đây rất lâu, nhưng rồi Người đã chết và được mai táng trong mộ! Đúng vậy: Chúa Giêsu đã thực hiện một hành động yêu thương vô bờ để cứu loài người thuộc mọi thời đại. Người ở trong mộ ba ngày, nhưng chúng ta biết - các Tông đồ và nhiều nhân chứng khác từng thấy Người còn sống đã bảo đảm với chúng ta - rằng Thiên Chúa, Cha của Người và Cha của chúng ta, đã cho Người sống lại. Giờ đây, Chúa Giêsu đang sống và ở đây với chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể gặp gỡ Người hôm nay trong Bí tích Thánh Thể. Chúng ta không nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý của mình, nhưng chúng ta nhìn thấy Người bằng con mắt đức tin.

Cha đang nhìn chúng con, mặc áo choàng trắng của chúng con. Thật là một dấu hiệu có ý nghĩa và đẹp đẽ. Chúng con đang mặc y phục dự một cuộc cử hành! Rước Lễ lần đầu, trước hết, là một cuộc cử hành. Chúng ta cử hành mừng Chúa Giêsu, Đấng muốn luôn được ở bên cạnh chúng ta. Người sẽ luôn ở bên chúng ta. Cuộc cử hành này sở dĩ có được cũng là nhờ cha mẹ và ông bà, gia đình và cộng đồng của chúng ta, những người đã giúp chúng ta lớn lên trong đức tin.

Chúng con đã đi một chặng đường dài để đến đây, đến Rakovski. Các linh mục và giáo lý viên của chúng con, những người đã đồng hành cùng chúng con trong việc chuẩn bị cho chúng con dự ngày này, cũng đã đồng hành cùng chúng con trên con đường hôm nay dẫn chúng con đến gặp Chúa Giêsu và đón nhận Người vào lòng chúng con.

Như chúng ta đã nghe trong bài Tin Mừng hôm nay (xem Ga 6: 1-15), một ngày nọ, Chúa Giêsu đã làm năm ổ bánh và hai con cá hóa nhiều một cách lạ lùng, thỏa mãn cơn đói của đám đông theo Người và lắng nghe Người. Chúng con có nhận thấy phép lạ đã bắt đầu ra sao không? Nó bắt đầu với một em bé đã dâng tất cả những gì em có: năm cái bánh và hai con cá (x. Ga 6: 9). Giống như em bé đó, chúng con cũng đã giúp cho một phép lạ diễn ra ngày hôm nay. Phép lạ qua đó tất cả những người lớn tuổi chúng tôi đã nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, và được tràn đầy lòng biết ơn vì ngày hôm đó.

Hôm nay chúng con đã làm cho chúng tôi sống lại niềm vui đó và cử hành mừng Chúa Giêsu, đang hiện diện trong Bánh Ban Sự Sống. Một số phép lạ chỉ có thể diễn ra nếu chúng ta có một trái tim giống như chúng con: một trái tim có khả năng chia sẻ, mơ mộng, cảm thấy biết ơn, tín thác và tôn trọng người khác. Việc chúng con rước lễ lần đầu chứng tỏ rằng chúng con muốn gần gũi hơn với Chúa Giêsu mỗi ngày, lớn lên trong tình bạn với Người và dẫn người khác đến chỗ chia sẻ niềm vui mà Người muốn chúng ta cảm nhận. Chúa cần chúng con, bởi vì Người muốn làm phép lạ mang niềm vui của Người đến cho nhiều bạn bè và các thành viên trong gia đình chúng con.

Các bé trai và bé gái thân mến, cha rất vui được chia sẻ khoảnh khắc tuyệt vời này với chúng con và giúp chúng con gặp được Chúa Giêsu. Đối với chúng con, đây là một ngày được cử hành trong tinh thần bằng hữu, hân hoan và huynh đệ. Một ngày hiệp thông giữa chúng con và với toàn thể Giáo hội, một ngày, nhất là trong Bí tích Thánh Thể, nói lên sự hiệp thông làm cho tất cả chúng ta thành anh chị em. Đây là thẻ căn cước của chúng ta: Thiên Chúa là Cha của chúng ta, Chúa Giêsu là anh của chúng ta, Giáo hội là gia đình của chúng ta. Tất cả chúng ta là anh chị em, và lề luật của chúng ta là tình yêu.

Cha yêu cầu chúng con luôn luôn cầu nguyện cùng một cách hào hứng và hân hoan mà chúng con cảm thấy ngày hôm nay. Chúng con hãy nhớ rằng đây là bí tích rước lễ lần đầu của chúng con, chứ không phải rước lễ lần cuối cùng của chúng con! Chúng con hãy nhớ rằng, Chúa Giêsu luôn ở đó, chờ đợi chúng con. Cha hy vọng rằng hôm nay sẽ là khởi đầu của nhiều lần Rước lễ, để trái tim chúng con luôn được mừng lễ, tràn đầy niềm vui và trên hết là lòng biết ơn như ngày hôm nay.
 
Diễn từ của Đức Thánh Cha trong buổi cầu nguyện cho hòa bình ở Quảng trường Nezavisimost
J.B. Đặng Minh An dịch
16:25 06/05/2019
Ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô, lúc 8g30 sáng, ngài đã đến thăm một trại dành cho người di cư và tị nạn. Sau đó, lúc 9g30, ngài đã đáp máy bay đến Rakovsky và đã chủ sự thánh lễ tại Nhà Thờ Thánh Tâm vào lúc 11g15, cũng như cho hàng trăm trẻ em được rước lễ lần đầu. Buổi chiều, lúc 15g30, Ðức Thánh Cha đã gặp cộng đoàn Công Giáo tại Nhà Thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae tại Rakovsky.

Lúc 17g15, Đức Thánh Cha đã đáp máy bay trở về thủ đô Sofia để tham dự buổi cầu nguyện cho hòa bình cùng với các vị lãnh đạo các cộng đoàn tôn giáo tại Bảo Gia Lợi ở Quảng trường Nezavisimost vào lúc 18g15.

Trong diễn từ theo sau những lời cầu nguyện cho hòa bình, Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Chúng ta đã cầu nguyện cho hòa bình bằng những lời được linh hứng từ Thánh Phanxicô thành Assisi, người rất yêu mến Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa và Cha của tất cả mọi người. Một tình yêu mà ngài thể hiện với cùng một niềm đam mê và sự tôn trọng sâu sắc đối với vẻ đẹp của thiên nhiên và của tất cả những người ngài gặp gỡ trên đường hành hương. Một tình yêu đã thay đổi cách nhìn của ngài và giúp ngài nhận ra rằng trong tất cả mọi người, có “một ánh sáng lóe lên từ xác tín cá nhân của chúng ta rằng, khi mọi thứ được nói và được thực hiện, chúng ta được yêu mến vô hạn” (Niềm vui Phúc Âm, 6).

Tình yêu đó cũng khiến Thánh Phanxicô trở thành một người kiến tạo hòa bình thực sự. Mỗi người trong chúng ta được mời gọi theo bước chân của ngài bằng cách trở thành một người xây dựng hòa bình, một “nghệ nhân” của hòa bình. Hòa bình vừa là một ân sủng vừa là một nghĩa vụ; nó phải được cầu khẩn và nỗ lực làm việc, phải được cảm nhận như một phước lành và không ngừng tìm kiếm trong nỗ lực hàng ngày của chúng ta để xây dựng một nền văn hóa trong đó hòa bình được tôn trọng như một quyền cơ bản. Một nền hòa bình tích cực, được “khích lệ” chống lại tất cả những hình thức ích kỷ và thờ ơ khiến chúng ta đặt lợi ích nhỏ nhoi của một số ít trước phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người.

Hòa bình đòi hỏi và yêu cầu chúng ta chấp nhận đối thoại như là con đường của chúng ta, sự hiểu biết lẫn nhau như là quy tắc ứng xử và sự hiểu biết hỗ tương là phương pháp và tiêu chuẩn của chúng ta (xem Tài liệu về tình huynh đệ của con người, Abu Dhabi, ngày 4 tháng 2 năm 2019). Bằng cách đó, chúng ta có thể tập trung vào những gì hợp nhất chúng ta, thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau trước những khác biệt của chúng ta và khuyến khích nhau nhìn về một tương lai tràn đầy cơ hội và phẩm giá, đặc biệt là cho các thế hệ tương lai.

Tối nay, chúng ta đã tập trung để cầu nguyện trước những chiếc đèn này do con cái chúng ta mang đến. Chúng tượng trưng cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy trong chúng ta và điều đó có nghĩa là trở thành ngọn hải đăng của lòng thương xót, tình yêu và hòa bình ở mọi nơi chúng ta hiện diện. Đó là một ngọn hải đăng có thể chiếu ánh sáng lên toàn bộ thế giới của chúng ta. Với ngọn lửa tình yêu, chúng ta có thể làm tan chảy cơn lạnh băng giá của chiến tranh và xung đột. Buổi lễ cầu nguyện cho hòa bình của chúng ta diễn ra trên tàn tích của khu phố Serdika xưa, tại Sofia, trung tâm của Bảo Gia Lợi. Từ đây, chúng ta có thể thấy những nơi thờ phượng của các Giáo hội và các tôn giáo khác nhau: Thánh Nedelya của anh chị em Chính thống giáo, Thánh Giuse của chúng tôi những người Công Giáo, hội đường của các anh cả của chúng ta, những người Do Thái Giáo, đền thờ của anh chị em Hồi giáo và, gần gũi với chúng ta hơn nữa, là nhà thờ của Giáo Hội Armenia [Tông truyền].

Trong nhiều thế kỷ, người Bảo Gia Lợi ở thủ đô Sofia thuộc các nhóm văn hóa và tôn giáo khác nhau đã tập trung tại nơi này để họp và thảo luận. Cầu xin cho địa điểm biểu tượng này trở thành một chứng tá cho hòa bình. Đêm nay, tiếng nói của chúng ta hòa quyện với nhau trong việc giãi bày mong muốn hòa bình thiết tha của chúng ta. Hãy có hòa bình trên trái đất: trong gia đình, trong trái tim của chúng ta và trên hết là ở những nơi mà rất nhiều tiếng nói đã bị câm nín bởi chiến tranh, bị bóp nghẹt bởi sự thờ ơ và bị phớt lờ do sự đồng lõa mạnh mẽ của các nhóm lợi ích. Cầu xin cho tất cả mọi người biết làm việc cùng nhau để biến giấc mơ này thành hiện thực: các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị và văn hóa. Xin cho mỗi người chúng ta, ở mọi nơi, trong mọi việc chúng ta làm, có thể nói: “Lạy Chúa, xin hãy biến con thành một khí cụ bình an của Chúa.”

Đó là một lời cầu xin cho giấc mơ của Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII trở thành sự thật: giấc mơ về một trái đất nơi hòa bình không bao giờ vắng bóng. Chúng ta hãy chia sẻ khát vọng đó và, bằng chứng tá của cuộc sống, chúng ta hãy nói: Pacem in terris! Bình an dưới thế cho người Chúa thương.


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Kết thúc chuyến viếng thăm Bảo Gia Lợi , Đức Phanxicô thúc giục các nhà lãnh đạo tôn giáo làm việc cho hòa bình
Vũ Văn An
21:57 06/05/2019
Theo Gerard O’Connell của Tạp chí America, trong ngày cuối cùng của ngài tại Bảo Gia Lợi (Bulgaria), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đưa ra lời kêu gọi thống thiết xin các nhà lãnh đạo chính trị, tôn giáo và văn hóa của đất nước hãy quyết tâm làm việc cho hòa bình tại quê hương mình và tại ngoại quốc. Ngài nói với họ rằng “với ngọn lửa tình yêu, chúng ta có thể làm cho tảng đá lạnh giá của chiến tranh và tranh chấp chẩy tan ”.



Ngài kêu gọi họ “trở thành những người tạo hòa bình” vào cuối buổi cầu nguyện cho hòa bình, với sự tham dự của các cộng đồng tôn giáo tại Bảo Gia Lợi, trong đó có các truyền thống Công Giáo, Chính thống giáo Armenia và Thệ Phản; cũng có sự tham dự của các cộng đồng Hồi Giáo và Do Thái Giáo.

Nhưng không có sự hiện diện nào của đại diện Chính Thống Giáo Bảo Gia Lợi, vì họ theo truyền thống Nga, không tham dự các buổi cầu nguyện chung với Công Giáo. Tuy nhiên, nhiều nguồn tin cho hay có sự hiện diện của các tín hữu Chính thống. Về phần chính phủ, có sự hiện diện của bộ trưởng tôn giáo vụ.

Biến cố trên là để vinh danh Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII, người vốn là sứ thần Tòa Thánh trong các năm 1925-1935 và khi làm giáo hoàng đã công bố Thông Điệp “Pacem in Terris” (“Bình an dưới thế) được Đức Phanxicô lấy làm huy hiệu cho chuyến thăm Bảo Gia Lợi.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói chuyện tại một chiếc bục đặt tại Quảng Trường Nezavisimost (Độc lập), tọa lạc tại trung tâm Thủ Đô Sofia, một khu vực bị oanh kích nặng nề trong Thế Chiến II nhưng đã được tái thiết giữa các năm 1952 và 1958, trở thành nơi trình diễn xã hội chủ nghĩa cổ điển.

Một bức tượng của Lenine từng được đặt ở đây và đây cũng là đại bản doanh của Đảng Cộng Sản Bảo Gia Lợi. Trong nhiều thập niên, cho đến khi chủ nghĩa cộng sản sụp đổ năm 1989, nơi này được gọi là Quảng trường Lenin. Thành thử, việc chọn địa điểm này để tổ chức biến cố tối nay không phải là chuyện tình cờ. Buổi lễ được trực tiếp phát hình trên hệ thống truyền hình quốc gia cho cả nước gồm bảy triệu người dân.

Giữa cơn mưa như trút xuống, buổi lễ một giờ bắt đầu với các ca đoàn từ các cộng đồng tôn giáo khác nhau của quốc gia hát bài thánh ca của Thánh Phanxicô Assisi, “Lạy Chúa, xin biến con thành khí cụ bình an của Chúa” bằng tiếng Ý và tiếng Bảo Gia Lợi, sau đó là bài đọc Thánh vịnh 122. Các trẻ em đại diện cho các cộng đồng tôn giáo khác nhau của Bảo Gia Lợi mang các chiếc đèn lồng, mà Đức Giáo Hoàng Phanxicô cho là "tượng trưng cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy trong chúng ta và nhằm trở thành ngọn hải đăng của lòng thương xót, tình yêu và hòa bình ở bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện. Một ngọn hải đăng có khả năng chiếu sáng toàn bộ thế giới của chúng ta".

Đức Giáo Hoàng Phanxicô sau đó đã nói chuyện, nhấn mạnh đến tầm quan trọng sâu sắc hơn của biến cố tối nay trong một bài diễn văn ngắn gọn nhưng đầy thách thức gửi tới những người mà ngài gọi là “anh chị em thân mến”. Ngài bắt đầu bằng cách nói với họ, “Chúng ta đã cầu nguyện cho hòa bình bằng những lời lẽ được gợi hứng từ Thánh Phanxicô Assisi, người rất yêu mến Thiên Chúa Tạo Hóa và là Cha của mọi người. Một tình yêu mà ngài biểu lộ với một niềm đam mê tương tự và sự tôn trọng sâu sắc đối với vẻ đẹp của sáng thế và đối với tất cả những người ngài gặp trên đường lữ thứ của ngài”.

Đức Giáo Hoàng nói rằng tình yêu đã thay đổi cách nhìn sự vật của Thánh Phanxicô và “giúp ngài nhận ra rằng trong mọi con người, đều có một ánh sáng lóe lên phát sinh từ việc chúng ta biết chắc chắn rằng dù nói chi và làm chi, chúng ta cũng vẫn được yêu thương vô tận”. Ngài nói, “Tình yêu này cũng khiến Thánh Phanxicô trở thành một người tạo hòa bình thực sự”.

Đức Giáo Hoàng nói, giống như Thánh Phanxicô, "mỗi người trong chúng ta được mời gọi bước chân theo ngài bằng cách trở thành người tạo hòa bình, một ‘thợ thủ công’ của hòa bình”.

Đức Giáo Hoàng nhắc nhở họ rằng hòa bình “vừa là một hồng phúc vừa là một nhiệm vụ: nó phải được cầu khẩn và làm việc cho, được tiếp nhận như một phước lành và không ngừng tìm kiếm khi chúng ta hàng ngày cố gắng xây dựng một nền văn hóa trong đó hòa bình được tôn trọng như một quyền căn bản”. Ngài nhấn mạnh rằng nền hoà bình này phải là “một nền hòa bình tích cực”, nghĩa là một nền hòa bình “được củng cố chống lại mọi hình thức ích kỷ và thờ ơ khiến chúng ta đặt lợi ích nhỏ mọn của một số ít trước phẩm giá bất khả xâm phạm của mỗi người”.

Rồi, trích dẫn Văn kiện về Tình Huynh đệ Nhân bản mà ngài đã ký với Đại Giáo Trưởng của Al-Azar ở Abu Dhabi vào ngày 4 tháng 2, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói, “Hòa bình đòi hỏi và yêu cầu chúng ta tiếp nhận đối thoại làm đường đi của chúng ta, tiếp nhận việc hiểu nhau làm luật ứng xử của chúng ta và việc hiểu nhau làm phương pháp và tiêu chuẩn”. Ngài nói, nhờ cách này, “chúng ta có thể tập chú vào những gì hợp nhất chúng ta, biểu lộ sự tôn trọng lẫn nhau đối với các khác biệt của chúng ta và khuyến khích nhau nhìn về một tương lai đầy cơ hội và phẩm giá, đặc biệt vì các thế hệ tương lai".

Đức Giáo Hoàng nhắc mọi người nhớ rằng họ tập hợp nhau “để cầu nguyện trước các ngọn đèn do con cái chúng ta đem đến này”, những ngọn đèn, theo ngài, “tượng trưng cho ngọn lửa tình yêu bùng cháy trong chúng ta và nhằm trở thành ngọn hải đăng của lòng thương xót, tình yêu và hòa bình ở bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện. Một ngọn hải đăng có khả năng chiếu sáng toàn bộ thế giới của chúng ta”.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô lưu ý rằng buổi phụng vụ cầu nguyện cho hòa bình này đã diễn ra trên các phế tích của Serdica cổ đại, một thành phố La Mã đã bị chiếm đóng bởi các nhóm khác nhau trong nhiều thế kỷ, và ngày nay người ta có thể thấy những nơi thờ phượng của các truyền thống tôn giáo khác nhau trong quốc gia: Chính thống giáo, Công Giáo, Do Thái giáo, Hồi giáo và chính thống giáo Armenia.

Ngài cũng nhắc nhớ rằng, “trong nhiều thế kỷ”, người Bảo Gia Lợi của Sofia “thuộc các nhóm văn hóa và tôn giáo khác nhau đã tụ tập ở nơi này để gặp gỡ và thảo luận. Ngài cầu xin cho nơi mang tính biểu tượng này “trở thành nhân chứng của hòa bình”.

Ngài kết luận bằng cách mời gọi người khác cùng với ngài “bày tỏ khát vọng hòa bình mãnh liệt của chúng ta”, nhưng Đức Giáo Hoàng tránh sử dụng từ ngữ “cầu nguyện” vì tôn trọng các Kitô hữu Chính thống là những người chống lại việc cầu nguyện chung. Ngài nói: “Xin hãy có hòa bình trên trái đất: trong các gia đình chúng ta, trong các tâm hồn chúng ta và trên hết tại những nơi quá nhiều giọng nói đã bị chiến tranh bắt phải im lặng, bị lòng dửng dưng làm cứng đờ và bị làm ngơ do việc a tòng mạnh mẽ với các nhóm quyền lợi”.

Ngài kêu gọi các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị và văn hóa của “Lãnh thổ Hoa hồng” này “cùng nhau làm việc để biến giấc mơ này thành hiện thực”. Ngài nói thêm rằng Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII cũng mơ ước sẽ có “pacem in terris, " hoà Bình dưới thế.

Buổi phụng vụ cầu nguyện cho hòa bình kết thúc với việc mọi người trao đổi nụ hôn bình an. Sau đó tất cả hát bài “Alleluia!”

Đó là thông điệp cuối cùng của Đức Giáo Hoàng Phanxicô gửi người Bảo Gia Lợi. Sáng mai, ngài lên máy bay tới Bắc Macedonia, trong tư cách vị giáo hoàng đầu tiên đến thăm nước này, và từ đó, ngài sẽ trở về Rôma vào tối mai, 7 tháng Năm.
 
Diễn từ của Đức Thánh Cha với cộng đoàn Công Giáo tại Nhà Thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae tại Rakovsky
J.B. Đặng Minh An dịch
22:58 06/05/2019
Ngày thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha Phanxicô, lúc 8g30 sáng, ngài đã đến thăm một trại dành cho người di cư và tị nạn. Sau đó, lúc 9g30, ngài đã đáp máy bay đến Rakovsky và đã chủ sự thánh lễ tại Nhà Thờ Thánh Tâm vào lúc 11g15, cũng như cho hàng trăm trẻ em được rước lễ lần đầu. Buổi chiều, lúc 15g30, Ðức Thánh Cha đã gặp cộng đoàn Công Giáo tại Nhà Thờ Tổng Lãnh Thiên Thần Micae tại Rakovsky.

Trong diễn từ tại đây, Đức Thánh Cha đã đưa ra các lời khuyên cho các linh mục, các gia đình, các cặp vợ chồng, và các cộng đoàn. Ngài nói:


Anh chị em thân mến,

Chào anh chị em! Cảm ơn anh chị em đã chào đón nồng nhiệt và nhảy múa và đưa ra các chứng từ của anh chị em. Tôi được bảo cho biết là bản dịch có trên màn hình. Điều đó thật tốt.

Đức Giám Mục Iovcev yêu cầu tôi giúp anh chị em, những người đang tràn đầy niềm vui tại cuộc gặp gỡ dân Chúa với vô số khuôn mặt và đặc sủng, biết “nhìn với con mắt đức tin và tình yêu”. Nhưng trước tiên, tôi muốn cảm ơn anh chị em vì đã giúp tôi nhìn rõ hơn và hiểu đầy đủ hơn một chút tại sao vùng đất này rất thân thương và quan trọng đối với Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Ở đây, Chúa đã chuẩn bị những gì sẽ là một bước quan trọng trong hành trình giáo hội của chúng ta. Tại đây, ngài đã phát triển tình huynh đệ bền chặt với anh chị em Chính thống giáo của chúng ta, và điều này dẫn ngài đến với con đường thúc đẩy tình cảm huynh đệ được mong mỏi từ lâu, nhưng mong manh hơn bao giờ giữa các cá nhân và cộng đồng.

Để nhìn với con mắt đức tin. Tôi muốn nhắc lại một điều vị “Giáo Hoàng Gioan nhân từ” đã từng nói. Trái tim ngài rất hòa hợp với Chúa đến mức ngài có thể bộc lộ sự bất đồng của mình với những người đã không nhìn thấy gì khác xung quanh ngoài sự ác và gọi họ là “các tiên tri về ngày thế mạt”. Ngài xác tín về sự cần thiết phải tin tưởng vào ơn quan phòng của Thiên Chúa, Đấng luôn đồng hành với chúng ta và ngay cả trong nghịch cảnh vẫn có khả năng đưa ra những kế hoạch sâu sắc và không lường trước được của Người (Diễn từ Khai Mạc Công đồng Vatican II, 11 tháng 10 năm 1962).

dân Chúa học cách nhìn, tin tưởng, khám phá và để mình được hướng dẫn bởi quyền năng phục sinh. Tất nhiên, họ nhận ra rằng sẽ luôn có những lúc đau đớn và những tình huống bất công, nhưng họ không khoanh tay, co rúm lại vì sợ hãi hoặc thậm chí tệ hơn, tạo ra bầu không khí hoài nghi, khó chịu hoặc gây gián đoạn, vì điều này chỉ làm hại linh hồn, làm nhạt nhòa hy vọng và cản trở mọi giải pháp khả thi. Những người nam nữ của Thiên Chúa có can đảm để thực hiện bước đầu tiên - điều rất quan trọng là thực hiện bước đầu tiên - trong việc tìm ra những phương thế sáng tạo để làm chứng một cách trực tiếp rằng Tình yêu không chết, nhưng đã chiến thắng mọi trở ngại. Những người nam nữ của Chúa tham gia vào vì họ đã học được rằng, trong Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa đã tham gia. Ngài tự đặt mình vào thế bị đe dọa để không ai cảm thấy cô đơn hay bị bỏ rơi. Và đây là vẻ đẹp của đức tin của chúng ta: Thiên Chúa tham gia bằng cách biến mình thành một người trong chúng ta.

Tôi muốn chia sẻ với anh chị em một kinh nghiệm tôi đã có một vài giờ trước đây. Sáng nay tôi đã đến thăm trại tị nạn Vrazhdebna và gặp những người đang xin tị nạn và những người tị nạn từ nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới, những người đang tìm kiếm một nơi tốt hơn để sống hơn là nơi họ đã bỏ đi. Tôi cũng đã gặp các tình nguyện viên của Caritas [cộng đoàn vỗ tay hoan hô các tình nguyện viên Caritas mặc áo thun đỏ đang đứng lên]. Khi tôi đến đây và thấy các tình nguyện viên của Caritas, tôi đã hỏi họ là ai vì tôi nghĩ họ là lính cứu hỏa! Tất cả đều màu đỏ! Ở đó [tại Trung tâm Vrazhdebna] họ nói với tôi rằng cốt lõi của trung tâm tị nạn này là cuộc sống và công việc được phát sinh từ sự thừa nhận rằng mỗi người đều là con của Chúa, bất kể sắc tộc hay tôn giáo. Để yêu một người, không cần phải hỏi sơ yếu lý lịch của người đó; tình yêu đi trước, nó luôn luôn tiến lên, nó bước những bước đầu tiên. Tại sao? Vì tình yêu là nhưng không? Trong Trung tâm Caritas đó có nhiều Kitô hữu đã học cách nhìn bằng mắt của chính Chúa. Thiên Chúa không lo lắng về các nhãn hiệu, nhưng tìm kiếm và chờ đợi mỗi người với đôi mắt của một người Cha. Nhưng anh chị em có biết điều này không? Chúng ta phải cẩn thận! Chúng ta đã rơi vào nền văn hóa của những nhãn hiệu: “người này là như vậy, còn người kia thì thế này, còn con người này thì như thế.. .”. Đây không phải là những gì Chúa muốn. Họ đều là những con người, được tạo thành theo hình ảnh của Chúa. Không nhãn hiệu gì cả! Chúng ta hãy để chuyện phán xét lại cho Chúa; chúng ta chỉ nên trao ban tình yêu, cho mỗi người. Điều này cũng đúng với các tin đồn. Thật dễ dàng để tin đồn đến giữa chúng ta! “Ah, người này là như vậy, người đó làm như thế.. .”. Chúng ta luôn dán nhãn cho mọi người. Tôi không nói về anh chị em, bởi vì tôi biết không có tin đồn ở đây, nhưng hãy nghĩ về những nơi xảy ra tin đồn. Và điều đó có nghĩa là dán nhãn: dán nhãn người ta. Chúng ta phải chuyển từ văn hóa dán nhãn mọi thứ sang thực tế của việc phân định từng trường hợp. Nhìn bằng con mắt đức tin là một lời triệu tập đừng dành cả đời để dán nhãn, phân loại những người xứng đáng với tình yêu và những người không xứng đáng, nhưng cố gắng tạo ra những điều kiện mà mọi người đều có thể cảm thấy được yêu, đặc biệt là những người cảm thấy bị Chúa lãng quên bởi vì họ bị quên lãng bởi anh chị em của họ. Anh chị em ơi, những người yêu thương không lãng phí thời gian vào lòng tự thương hại, mà luôn cố gắng làm điều gì đó cụ thể. Trong Trung tâm đó, họ học cách nhìn nhận vấn đề, thừa nhận và đối mặt với chúng; họ để mình bị chất vấn và cố gắng phân biệt mọi việc bằng con mắt của Chúa. Như Đức Giáo Hoàng Gioan nói: “Tôi chưa bao giờ gặp một người bi quan mà còn làm được một điều gì tốt”. Người bi quan không bao giờ làm điều gì tốt. Những người bi quan phá hỏng mọi thứ. Khi tôi nghĩ về một người bi quan, tôi nghĩ về một chiếc bánh pie ngon. Người bi quan làm gì? Người ấy đổ giấm lên chiếc bánh, và làm hỏng mọi thứ. Những người bi quan phá hỏng mọi thứ. Trái lại, tình yêu luôn luôn mở ra! Đức Giáo Hoàng Gioan nói thật chí lý: “Tôi chưa bao giờ gặp một người bi quan mà còn làm được một điều gì tốt”. Chúa là người đầu tiên không bi quan. Ngài không ngừng cố gắng mở ra những con đường phục sinh cho tất cả chúng ta. Chúa là một người lạc quan vô phương cứu chữa! Ngài luôn tìm cách nghĩ tốt về chúng ta, để đưa chúng tiến lên, để đánh cuộc trên chúng ta. Thật tuyệt vời làm sao khi cộng đồng của chúng ta trở thành những nơi xây dựng hy vọng! Người lạc quan là một người nam nữ tạo ra hy vọng trong cộng đồng.

Mặt khác, để nhìn mọi thứ bằng con mắt của Chúa, chúng ta cần những người khác. Chúng ta cần họ dạy chúng ta nhìn và cảm nhận cách Chúa Giêsu nhìn và cảm nhận, để cho trái tim chúng ta cùng chung nhịp đập với cảm xúc của chính Ngài. Đây là lý do tại sao nó làm tôi hài lòng khi Mitko và Miroslava, cùng với cô con gái nhỏ Bilyana của họ nói với chúng ta rằng giáo xứ luôn là ngôi nhà thứ hai của họ, là nơi họ luôn tìm thấy sức mạnh để tiếp tục, giữa những lời cầu nguyện của cộng đồng và sự hỗ trợ của những người thân yêu. Một giáo xứ lạc quan, giúp mọi người tiến lên.

Giáo xứ, theo cách này, trở thành một ngôi nhà ở giữa các ngôi nhà. Giáo xứ xoay sở để làm cho Chúa hiện diện ở đó, nơi mọi gia đình, mọi người cố gắng kiếm được lương thực hàng ngày của họ. Ở đó, ở mỗi góc phố, có Chúa ở đó, Đấng không muốn cứu chúng ta bằng sắc lệnh, nhưng đã đến giữa chúng ta. Ngài muốn tham gia vào trung tâm của các gia đình chúng ta và nói với chúng ta, như Ngài đã nói với các môn đệ: “Bình an cho anh em!” Lời chào của Chúa thật tốt lành: “Bình an cho anh em!” Nơi có bão tố, nơi có bóng tối, nơi có nghi ngờ, nơi có lo âu, Chúa nói: “Bình an cho anh em!”. Và Ngài không chỉ nói điều đó thôi: Ngài còn mang bình an đến cho chúng ta.

Tôi hạnh phúc khi thấy anh chị em thích “lời khuyên” mà tôi chia sẻ với các cặp vợ chồng: “Không bao giờ đi ngủ trong tức giận, thậm chí dù chỉ một đêm”. Từ những gì tôi quan sát, tôi thấy nó có hiệu quả với anh chị em! Đó là một chút lời khuyên cũng có thể hữu ích cho tất cả các Kitô hữu. Tôi muốn nói với các cặp vợ chồng đừng nên tranh cãi, nhưng nếu họ cãi nhau, thì không sao, vì vượt qua chuyện đó cũng là bình thường. Bình thường thôi mà. Và đôi khi thậm chí tranh cãi khá gay gắt - đôi khi cả chén dĩa cũng bay - nhưng có thể vượt qua, miễn là ngày đó kết thúc trong hòa bình. Đừng bao giờ kết thúc một ngày trong chiến tranh. Tất cả các cặp vợ chồng: đừng bao giờ kết thúc một ngày mà vẫn còn hậm hực với nhau. Và anh chị em có biết tại sao không? Bởi vì “chiến tranh lạnh” vào ban ngày trở nên rất nguy hiểm sau đó. “Nhưng, thưa Cha, làm thế nào để chúng ta làm hòa? Con có thể học cách nói lời dàn hòa ở chỗ nào? Hãy làm như thế này [Đức Thánh Cha làm điệu bộ vuốt ve]: chỉ cần một cử chỉ như thế và hòa bình được tái lập. Chỉ cần một cử chỉ của tình yêu. Anh chị em hiểu không? Điều này là dành cho các cặp vợ chồng.

Đúng là, như anh chị em cũng đã nói, chúng ta trải qua nhiều thử thách khác nhau; đó là lý do tại sao chúng ta cần cảnh giác ngăn chặn không cho sự tức giận, oán giận hoặc cay đắng chiếm hữu trái tim của chúng ta. Chúng ta phải giúp đỡ lẫn nhau trong việc này, chăm sóc lẫn nhau, để ngọn lửa mà Thánh Linh đã thắp lên trong lòng chúng ta không bao giờ lụi tàn.

Anh chị em đánh giá cao, và rất biết ơn các linh mục và nữ tu chăm sóc cho anh chị em. Các ngài thật tốt lành! Một tràng pháo tay dành cho các ngài. Khi tôi lắng nghe anh chị em, tôi đã bị đánh động bởi một vị linh mục không nói về việc ngài đã thành công như thế nào trong những năm phục vụ, nhưng về tất cả những người mà Chúa đặt để trên con đường của ngài để giúp ngài trở thành một mục tử tốt của Chúa. Và anh chị em là những người này.

dân Chúa biết ơn các linh mục của mình và các linh mục nhận ra rằng các ngài đang học cách trở thành các tín hữu – hãy chú ý đến điều này: các ngài đang học cách trở thành các tín hữu - với sự giúp đỡ của người dân, gia đình họ, trong khi sống giữa họ. Khi một linh mục hoặc một người tận hiến, thậm chí là một giám mục như tôi, sống cách xa dân Chúa, trái tim người ấy trở nên băng giá và mất khả năng để tin như dân Chúa tin. Đây là lý do tại sao tôi thích câu nói: dân Chúa giúp đỡ những người thánh hiến - có thể là linh mục, giám mục hoặc các nữ tu - để trở thành các tín hữu. dân Chúa là một cộng đồng sống động, một cộng đồng hỗ trợ, đồng hành, hòa nhập và làm phong phú. Không bao giờ tách rời, nhưng hợp nhất, nơi mọi người học cách trở thành một dấu chỉ và phước lành của Thiên Chúa cho người khác. Một linh mục không có dân của mình sẽ mất đi bản sắc, và những người dân có thể trở nên rời rạc nếu không có các linh mục. Đó là sự hiệp nhất giữa linh mục, là người hỗ trợ và chiến đấu cho dân mình, và những người ủng hộ và chiến đấu cho linh mục của họ. Đây là một điều tuyệt vời! Mỗi người cống hiến cuộc đời của mình cho người khác. Không ai trong chúng ta có thể chỉ sống cho chính mình; chúng ta sống vì người khác Thánh Phaolô đã nói điều này trong một lá thư của ngài: “Không ai sống với chính mình”. “Nhưng mà thưa Cha, con biết có một người sống cho bản thân mình mà thôi”. Thế thì người đó có hạnh phúc không? Anh ta có khả năng trao ban cuộc sống của mình cho người khác không? Anh ta có thể mỉm cười không? Họ là những người ích kỷ. Dân tư tế có thể nói cùng với các linh mục của mình: “Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em”. Đây là dân Chúa hợp nhất với linh mục của họ. Đó là cách chúng ta học để trở thành một Giáo Hội, một gia đình và một cộng đồng chào đón, lắng nghe, đồng hành, quan tâm đến người khác, tỏ lộ dung nhan đích thật của mình, đó là khuôn mặt của một người mẹ. Giáo Hội là một người mẹ. Một Giáo Hội là mẹ - Giáo Hội Mẹ - trải nghiệm và biến vấn nạn của con cái thành vấn đề của chính mình, không đưa ra câu trả lời được làm sẵn. Không. Khi các bà mẹ phải phản ứng trước thực tế của con cái họ, họ nói những gì xuất hiện trong tâm trí họ lúc đó. Các bà mẹ không có câu trả lời làm sẵn: họ trả lời bằng trái tim, bằng tâm hồn của một người mẹ. Giáo Hội cũng vậy, Giáo Hội này được tạo thành từ tất cả chúng ta, người dân cùng với các linh mục, các giám mục, những người nam nữ tận hiến: tất cả đang tìm kiếm những con đường của cuộc sống bên nhau, những con đường hòa giải trong khi nỗ lực làm cho Nước Chúa trị đến. Một Giáo Hội, một gia đình và một cộng đồng đương đầu với những vấn đề rắc rối của cuộc sống, những vấn nạn thường rối tung lên như những quả bóng len rối; trước khi gỡ rối những vấn đề này, nó phải biến những vấn đề ấy thành những vấn đề của riêng mình, xắn tay vào, trong tình yêu mến. Một người mẹ cũng thực hiện điều này: khi bà nhìn thấy con trai hay con gái mình “rối tung lên” giữa tất cả các loại khó khăn, bà không lên án họ: bà xắn tay vào những khó khăn, đặt những nút thắt này trong tay của mình, biến những khó khăn ấy thành khó khăn của mình và giải quyết chúng. Giáo Hội của chúng ta, là một người mẹ, cũng làm như thế. Chúng ta phải nhìn Giáo Hội như thế. Giáo Hội là người mẹ chấp nhận chúng ta như chúng ta là, với những khó khăn, thậm chí cả với tội lỗi của chúng ta. Giáo Hội là một người mẹ, Giáo Hội luôn biết cách giải quyết mọi thứ. Thật tuyệt vời khi có một người mẹ như vậy phải không? Đừng bao giờ tách mình ra khỏi người mẹ ấy, đừng bao giờ rời khỏi Giáo Hội! Bởi vì nếu anh chị em ra đi, anh chị em sẽ mất ký ức về tình mẫu tử của Giáo Hội; anh chị em sẽ bắt đầu nghĩ xấu về Giáo Hội là mẹ của anh chị em, và anh chị em càng đi xa, hình ảnh người mẹ sẽ càng trở thành hình ảnh của một người mẹ kế độc ác. Nhưng cho dù người mẹ kế độc ác ở trong trái tim anh chị em; thì Giáo Hội vẫn là một người mẹ.

Một gia đình giữa các gia đình - đây là Giáo Hội – hãy mở ra để làm chứng trong thế giới ngày nay, như người nữ tu đã nói với chúng ta, hãy mở lòng ra đối với đức tin, hy vọng và tình yêu dành cho Chúa và cho những người mà Ngài yêu mến cách riêng. Đó là một ngôi nhà mở toang cửa. Giáo Hội là một ngôi nhà với những cánh cửa mở, vì Giáo Hội là một người mẹ. Một điều mà một linh mục vĩ đại đã viết ra thực sự gây ấn tượng đối với tôi. Ngài là một nhà thơ yêu mến Đức Mẹ rất nhiều. Ngài cũng là một linh mục và là một người tội lỗi, ngài biết mình là kẻ có tội, nhưng ngài đã đến với Đức Mẹ và khóc trước mặt Mẹ. Lần kia, ngài đã viết một bài thơ cầu xin sự tha thứ từ Đức Mẹ và quyết tâm không bao giờ tách mình ra khỏi Giáo Hội. Đây là những gì ngài đã viết: “Tối nay, Lạy Mẹ của con, lời hứa của con là chân thành. Nhưng, để cho chắc, xin đừng quên để lại chìa khóa ở bên ngoài cánh cửa”. Đức Maria và Giáo Hội không bao giờ đóng cửa từ bên trong! Nếu cửa đóng, chìa khóa luôn ở bên ngoài: anh chị em có thể mở nó. Và đây là hy vọng của chúng ta. Đó là hy vọng hòa giải. “Cha ơi, Cha nói rằng Giáo Hội và Đức Mẹ là một ngôi nhà với những cánh cửa mở tung, nhưng thưa Cha, trước những điều khủng khiếp mà con đã thực hiện trong cuộc sống của con thì đối với con những cánh cửa của Giáo Hội, và thậm chí cả cửa trái tim của Mẹ, đã khép kín rồi”. Anh chị em nói đúng: những cánh cửa đã đóng, nhưng cứ đến gần hơn, xem xét cẩn thận và anh chị em sẽ thấy rằng chìa khóa là ở bên ngoài. Chỉ cần mở và đi vào. Anh chị em không cần phải rung chuông. Hãy mở với chìa khóa ngay tại đó”. Và điều này đúng cho toàn bộ cuộc sống của chúng ta.

Theo nghĩa này, tôi có một “công việc” cho anh chị em. Anh chị em là những con cái, trong đức tin, của những chứng nhân vĩ đại đã làm chứng bằng cuộc sống của các ngài với tình yêu của Chúa ở những vùng đất này. Hai anh em Thánh Cyrilô và Methôđiô, những người thánh thiện với những giấc mơ vĩ đại, xác tín rằng cách nói chuyện chân thực nhất với Chúa là bằng ngôn ngữ của chính mình. Điều này khiến các ngài mạnh dạn quyết định dịch Kinh thánh, để không ai có thể thiếu Lời sự sống.

Là một ngôi nhà với những cánh cửa mở, theo bước chân của hai Thánh Cyrilô và Methôđiô, có nghĩa là ngày nay cũng vậy, chúng ta cần phải táo bạo và sáng tạo. Chúng ta phải hỏi làm thế nào chúng ta có thể dịch tình yêu mà Chúa dành cho chúng ta thành ngôn ngữ cụ thể và dễ hiểu cho thế hệ trẻ. Chúng ta phải mạnh dạn, và can đảm. Từ kinh nghiệm, chúng ta biết rằng “những người trẻ thường xuyên không tìm được trong các chương trình thường lệ của chúng ta một câu trả lời cho những mối quan tâm, các nhu cầu, các vấn nạn và các nan đề của họ” (Christus Vivit, 202). Và điều này đòi hỏi chúng ta những nỗ lực mới và giàu trí tưởng tượng trong việc tiếp cận mục vụ của chúng ta. Hãy tìm cách chạm đến trái tim của họ, để tìm hiểu về những kỳ vọng của họ và khuyến khích ước mơ của họ, như một gia đình cộng đồng hỗ trợ, đồng hành và hướng họ đến tương lai với hy vọng. Một cám dỗ lớn mà những người trẻ phải đối mặt là thiếu những gốc rễ, những gốc rễ sâu xa để hỗ trợ họ; kết quả là, họ cảm thấy bị bứng gốc và cô đơn. Những người trẻ của chúng ta, khi cảm thấy được kêu gọi thể hiện tất cả tiềm năng mà họ sở hữu, thường bỏ cuộc giữa chừng vì những chán nản hoặc thất vọng mà họ trải qua, vì họ không có nguồn gốc để dựa vào khi nhìn về tương lai (xem thượng dẫn. 179-186). Khi họ bị buộc phải rời bỏ nhà cửa, đất nước và gia đình họ, tình cảnh còn bi đát đến mức nào.

Tôi muốn nhấn mạnh những gì tôi nói về những người trẻ, những người thường xuyên mất gốc. Ngày nay, trên thế giới, có hai nhóm người phải chịu đựng rất nhiều: người trẻ và người già. Chúng ta phải giúp đỡ để cho họ gặp nhau. Người già là gốc rễ của xã hội chúng ta; chúng ta không thể xua đuổi họ khỏi cộng đồng của chúng ta; họ là ký ức sống động của đức tin chúng ta. Người trẻ cần gốc rễ, cần ký ức. Chúng ta phải bảo đảm rằng họ có thể giao tiếp với nhau, mà không sợ hãi. Có một lời tiên tri thập đẹp của tiên tri Giôen: “người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.” (3: 1). Khi người trẻ gặp gỡ người già và người già gặp gỡ người trẻ, người già bắt đầu sống lại, bắt đầu mơ trở lại, và người trẻ lấy hết can đảm từ người già; họ đi về phía trước và bắt đầu thực hiện những gì là quan trọng nhất trong cuộc sống của họ, đó là “dành nhiều thời gian” cho tương lai. Chúng ta cần những người trẻ tuổi “trở nên quen thuộc” với tương lai, nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu họ có gốc rễ của người già. Khi tôi đến giáo xứ này, có rất nhiều người già trên đường phố, nhiều đàn ông và phụ nữ lớn tuổi. Họ đang mỉm cười. Họ có kho báu bên trong họ. Và có nhiều anh chị em trẻ cũng chào hỏi và mỉm cười. Cầu xin cho họ có thể gặp nhau! Xin cho người già có thể trao cho những người trẻ khả năng để nói tiên tri này, nghĩa là, biết “dành nhiều thời gian” với tương lai. Đây là những đánh cuộc của ngày hôm nay. Và chúng ta đừng sợ hãi. Chúng ta hãy đương đầu với những thử thách mới, miễn là chúng ta nỗ lực để bảo đảm rằng người dân của chúng ta không bao giờ thiếu ánh sáng và niềm an ủi phát sinh từ tình huynh đệ với Chúa Giêsu, không thiếu một cộng đồng đức tin để hỗ trợ họ, và không thiếu những chân trời mới mẻ hơn bao giờ có thể mang lại cho họ ý nghĩa và mục tiêu trong cuộc sống (x. Niềm Vui Phúc Âm, 49). Xin cho chúng ta đừng bao giờ quên rằng những chương đẹp nhất trong cuộc đời của Giáo Hội đã được viết khi dân Chúa bắt đầu với sự sáng tạo để diễn dịch tình yêu của Thiên Chúa trong thời của họ, bằng những thử thách mà họ gặp phải dần. dân Chúa là một dân tộc hợp nhất với các cảm thức đức tin phù hợp với mình. Thật tốt khi biết rằng anh chị em có thể tin tưởng vào một lịch sử sống động tuyệt vời, nhưng thậm chí còn đẹp hơn nữa khi nhận ra rằng anh chị em đang được yêu cầu viết chương tiếp theo. Những trang này chưa được viết. Anh chị em phải viết những trang ấy. Tương lai nằm trong tay anh chị em; anh chị em phải viết cuốn sách của tương lai. Đừng bao giờ mệt mỏi trở thành một Giáo Hội tiếp tục sản sinh, giữa những mâu thuẫn, đau khổ và cả bao nhiêu những nghèo khổ, Giáo Hội là người mẹ liên tục sinh con, mang lại sự sống cho những đứa con trai và con gái mà vùng đất này cần đến ngày nay, vào đầu thế kỷ hai mươi mốt này. Hãy luôn luôn lắng nghe một tai với Tin Mừng, và tai kia với trái tim của dân tộc anh chị em.

Cảm ơn anh chị em, tôi vẫn chưa nói xong! Tôi vẫn còn đang hành hạ anh chị em thêm một chút nữa - cảm ơn anh chị em vì cuộc gặp gỡ rất thú vị này. Và, khi nghĩ về Thánh Giáo Hoàng Gioan, tôi muốn phép lành mà giờ đây tôi dành cho anh chị em sẽ trở thành một sự vuốt ve của Chúa cho mỗi người trong anh chị em. Thánh Giáo Hoàng Gioan đã ban phép lành này với mong muốn đó là một sự âu yếm của Chúa, đó là phép lành mà ngài đã ban dưới ánh trăng khi khai mạc Công đồng Vatican II.

Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện, chúng ta hãy cầu xin cùng Đức Mẹ, Đấng là hình ảnh của Giáo Hội. Hãy cầu nguyện bằng ngôn ngữ của anh chị em. [Anh chị em giáo dân đã đọc kinh Kính Mừng bằng tiếng Bảo Gia Lợi]


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Khai mạc khóa họp thường niên của Tuyên Úy Đoàn Liên Bang Úc tại Melbourne
Trần Văn Minh
04:26 06/05/2019
Melbourne, Thánh lễ đồng tế của Tuyên Úy Đoàn Liên Bang Úc Châu, đã được cử hành lúc 6 giờ 15 phút tại Trung Tâm Công Giáo Việt Nam Thánh Vinh Sơn Liêm chiều 6/5/2019, với sự hiện diện của quý Cha trong Tuyên Úy Đoàn từ các Tiểu Bang Nam Úc, Queensland, Sydney và Melbourne về dự họp.

Thánh lễ đồng tế của Tuyên Úy Đoàn Liên Bang Úc Châu


Hình cập nhật hằng ngày

Thánh lễ đồng tế do Linh mục Trần Ngọc Tân quản nhiệm Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm kiêm Tuyên Úy trưởng tuyên úy đoàn chủ tế: Quý Cha Nguyễn Minh Nguyên (Brisbane,) Bùi Sơn Lâm, Trần Văn Trợ, Nguyễn Văn Mạnh (Sydney) Đức Ông Nguyễn Minh Tâm (Nam Úc) Vũ Ngọc Tuyển, Nguyễn Hữu Quảng Melbourne đồng tế.

Trong Thánh lễ, Linh mục chủ tế đã cầu nguyện cho Quý Cha tuyên úy trong các cộng đoàn đã qua đời được về bên Chúa, và quý cha cựu quản nhiệm các cộng đoàn đã chuyển nơi phục vụ luôn được Chúa ban cho hồn an xác mạnh. Cũng xin Chúa Thánh Thần soi sáng cho cuộc họp mang lại nhiều hiệu quả đức tin, để quý cha dẫn dắt đoàn chiên theo đúng ý của Chúa.

Được biết, Tuyên Úy Đoàn Úc Châu mỗi năm họp một lần, và mỗi lần tại một tiểu bang. Năm nay họp tại Cộng đoàn Thánh Vinh Sơn Liêm Melbourne.
 
Góc suy tư ngày Đại Hội Di Dân – Đồng hương giáo phận Qui Nhơn 2019: Tuổi trẻ ơì ! Đừng để bị khinh thường
Lm. Giuse Trương Đình Hiền – Anna Nguyễn Thị Linh Chi
08:23 06/05/2019
Vào đề: (Thay lời huấn dụ khai mạc)

Anh chị em Qui Nhơn rất thân mến của tôi,

Được hiện diện giữa những người con đất mẹ Qui Nhơn nơi vùng đất miền nam xa xôi nầy, tôi chợt nhớ mấy câu thơ của tác giả Như Khuyên trong bài viết “NHỮNG CÁNH CHIM THIÊN DI”:

Có một loài chim ở rất xa…

Đưa con rời khỏi chốn quê nhà.

Vượt núi, vượt đồi, qua biển cả

Ước mong đời con sẽ thăng hoa.

Gần giống như những cánh chim thiên di vào mỗi độ chuyển mùa, cứ mỗi Mùa Phục Sinh trở lại, anh chị em đồng hương Qui Nhơn trong cuộc sống di dân lại tìm đến với nhau để chung chia tâm tình của những người con Qui Nhơn đã từng “rời khỏi chốn quê nhà, vượt núi, vượt đồi, qua biển cả”… với cùng tâm nguyện “Ước mong đời … sẽ thăng hoa” !

Và cũng như ý tưởng rất gợi hình trong đoạn thơ kế tiếp:

Con chim nhỏ sống nơi vùng trời lạ…

Thấy cuộc đời như một bản tình ca,

Còn chim mẹ thì mỗi ngày vất vả…

Đi tìm mồi về mớm đút nuôi con.

Vâng, Mẹ Qui Nhơn, dẫu là Mẹ Giáo phận, hay là những người cha, người mẹ những đấng sinh thành, hoặc là chính gia đình, mái ấm của anh chị em vẫn hướng về anh chị em như những “con chim nhỏ sống nơi vùng trời lạ”, và luôn mang tâm nguyện cũng như ý thức trách nhiệm phải “tìm mồi về mớm đút nuôi con”.

Phải chăng, loại hình “Đại Hội Di Dân-Đồng hương” nầy chính là một cơ hội, một điểm dừng chân, để Giáo phận, để mọi người chúng ta cùng chia sẻ cho nhau những “chút mồi tâm linh” cần thiết, để sưởi ấm những “cánh chim thiên di”, mà có thể, cuộc sống tất bật nơi dất khách quê người, đôi lúc đã làm chúng ta băng giá, mỏi mệt.

Chủ đề Đại Hội Di Dân-Đồng hương Qui Nhơn lần thứ V như chúng ta biết đó chính là “GIA ĐÌNH VƯỢT KHÓ CÓ CHÚA CÙNG VUI”. Đây là định hướng mục vụ của Giáo phận Qui Nhơn trong Niên khoá 2018-2019, như một cách triển khai và áp dụng thực hành chủ trương mục vụ “TAM NIÊN VỀ GIA ĐÌNH” của HĐGMVN mà Năm thứ 3 – 2019, đó là: ĐỒNG HÀNH VỚI CÁC GIA ĐÌNH KHÓ KHĂN.

Nếu phải tóm tắt ý nghĩa được lồng trong slogan “GIA ĐÌNH VƯỢT KHÓ CÓ CHÚA CÙNG VUI”, thì tôi có thể dừng lại ở ba điểm nầy:

– Một trong những ưu tiên mục vụ hàng đầu hiện nay của Giáo Hội đó là GIA ĐÌNH (Giáo Hội đã dành ra liên tiếp 2 kỳ họp THĐGMTG: 2014, 2015 để bàn thảo về chuyên đề mục vụ nầy).

– Giáo hội nhận thức rõ rằng: trong cũng như ngoài Giáo Hội, hiện đang có rất nhiều gia đình gặp khó khăn cần được đồng hành, chăm sóc và giúp vượt qua (Riêng HĐGMVN trong thư chung 27/9/2018 đã tập chú vào 3 loại hình khó khăn của các gia đình: DI DÂN, HÔN NHÂN KHÁC ĐẠO, ĐỔ VỠ).

– Cho dù vậy, Giáo Hội vẫn hướng về gia đình với tất cả niềm hy vọng vì gia đình chính là công trình của Chúa và là công cụ Chúa dùng để thánh hoá và cứu chuộc nhân loại. Vì thế, phương thuốc hiệu quả nhất để chữa lành các vết thương gia đình hôm nay đó chính là “Gia đình nên thánh”, là mời Chúa hiện diện trong các gia đình. Khi đã có Chúa thì mọi khó khăn sẽ dễ dàng vượt qua. “GIA ĐÌNH VƯỢT KHÓ CÓ CHÚA CÙNG VUI” là như thế !

Để khai triển chủ đề trên cách cụ thể và thiết thực hơn, hôm nay tôi xin gói gọn một đối tượng, một thành phần mà hầu như gia đình nào cũng có, và cũng là đối tượng, là thành phần làm đau tim các bậc làm cha làm mẹ, làm điêu đứng các thầy cô nơi học đường, làm đau đầu nhức óc ban quản trị, điều hành các xí nghiệp, nhà máy, công ty, khu chế xuất, làm nghẹt thở các chú công an giao thông cũng như khách bộ hành, làm các linh mục coi xứ, các anh chị giáo lý viên, các ông trong Hội Đồng giáo xứ… mất ngủ mất ăn …

Thế nhưng, đó cũng chính là đối tượng, là thành phần làm nên sức sống và niềm vui cho các gia đình, là sức mạnh và nguồn lực chính yếu của quốc gia, dân tộc, là nhân tố cột trụ quyết định sự phát triển, hưng thịnh, văn minh và giàu có của mọi tổ chức…; nói chung, là hiện tại không thể xem thường và là tương lai không thể không chuẩn bị, đầu tư và hướng tới.

Đối tượng đó, thành phần đó là gì mà ghê gớm thế các bạn ?

Vâng. Đó chính là GIỚI TRẺ. Và chủ đề tôi muốn chia sẻ hôm nay đó chính là:

GIỚI TRẺ ƠI ! ĐỪNG ĐỂ BỊ KHINH THƯỜNG

Tôi muốn chia sẻ với các bạn 3 trọng điểm dựa trên uy tín của Lời Chúa và Huấn quyền của Hội Thánh đó là: Lệnh của Đức Kitô (Lc 7,14); lời khuyên của Thánh Phaolô (1 Tm 4,12); huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô (Tông huấn Đức Kitô hằng sống – Christus Vivit, số 15)

I. HỠI NGƯỜI BẠN TRẺ ! HÃY CHỖI DẬY (Mệnh lệnh của Đức Kitô)

1. Bối cảnh Tin Mừng: Đức Kitô gặp một “người trẻ đang chết” (Lc 7,11-17):

Sau đó, Đức Giê-su đi đến thành kia gọi là Na-in, có các môn đệ và một đám rất đông cùng đi với Người. Khi Đức Giê-su đến gần cửa thành, thì đang lúc người ta khiêng một người chết đi chôn, người này là con trai duy nhất, và mẹ anh ta lại là một bà goá. Có một đám đông trong thành cùng đi với bà. Trông thấy bà, Chúa chạnh lòng thương và nói: “Bà đừng khóc nữa!”. Rồi Người lại gần, sờ vào quan tài. Các người khiêng dừng lại. Đức Giê-su nói: “Này người thanh niên, tôi bảo anh: hãy trỗi dậy!”. Người chết liền ngồi lên và bắt đầu nói. Đức Giê-su trao anh ta cho bà mẹ. Mọi người đều kinh sợ và tôn vinh Thiên Chúa rằng: “Một vị ngôn sứ vĩ đại đã xuất hiện giữa chúng ta, và Thiên Chúa đã viếng thăm dân Người”. Lời này về Đức Giê-su được loan truyền khắp cả miền Giu-đê và vùng lân cận.

– Trên những nẻo đường xuôi ngược hôm nay, cũng có nhiều “bạn trẻ đang chết”.

Điều nầy thì chắc các bạn biết rõ và biết nhiều hơn tôi. Chỉ cần mở chiếc smarphone có liên kết mạng 3G hoặc 4G, thì bất cứ ở đâu, giờ nào chúng ta cũng đều thấy hiện ra những thông tin về “chết”: chết vì tai nạn xe, chết đuối, chết vì nhìn đểu, chết vì lỡ thày lay nhắc có đèn đỏ, chết vì bị đánh ghen, chết vì trộm cướp, chết vì đủ loại bệnh, chết vì bị…kết án tử hình…Có cả những cái chết vì “bị ước ao cho chết” !…

Và nói chung, đã chết là có “buồn”, luôn đi kèm với một dấu chỉ mà chắc chẳng ai ham: tang chế, thê lương, não nề, thất vọng…

Thi sĩ Công Giáo Hàn Mặc Tử có nhiều bài thơ về “chết”, trong đó, bài thơ “Hồn lìa khỏi xác” đã kết với 4 câu nghe thật bi ai:

Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng,

Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương.

Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng,

Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương.

– Chết: một dấu chỉ buồn:

Trên con đường đưa xác con ra nghĩa địa, bà mẹ Naim đang khóc, những giọt nước mắt buồn đau mất đứa con một, một sự mất mát quá lớn, một nỗi đau xé ruột !

Vâng, ngoại trừ những cái chết của những ác nhân, gây tội ác tầy trời cho nhân loại, đến độ ai cũng ước ao “chết đi cho rồi”, còn ngoài ra, không có cái chết nào “đáng được mong mỏi”. Chúng ta đừng quên, chính Đức Kitô, Con Chúa Trời hằng sống, trong thân phận phận con người, cũng đã run sợ trước cái chết cận kề, và đã dâng lời khẩn nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cất chén nầy xa con. Tuy vậy, xin đừng theo ý con một xin vâng ý Cha” (Lc 22,42)

Nhưng có lẽ câu chuyện chúng ta lại không dừng lại ở cái chết thể lý, mà là một cái chết khác, hao hao giống cái chết trong bài thơ “Những Giọt Lệ” của thi sĩ họ Hàn:

Người đi một nửa hồn tôi chết (mất)

Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ !

Và đây mới là cái “chết” đáng quan tâm nhất mà đôi khi chúng ta lãng tránh, trốn chạy hoặc cố tình không dám đối mặt…!

2. Người trẻ hôm nay “chết như thế nào”:

– “Chết” trong các mối tương quan:

Một trong những ý nghĩa trọng tâm và là hệ luỵ chắc chắn của cái chết đó là “cắt đứt mọi mối tương quan”, mà danh từ Việt Nam gọi là “Vĩnh biệt”: Chia biệt vĩnh viễn, cách xa miên trường…

Khi nói về một người đang chết về tinh thần có nghĩa là người đó đang cắt đứt mọi mối tương quan với chính mình, với tha nhân, với Thiên Chúa, biến mình thành một người xa lạ; hoặc muốn chung quanh mình cũng trở thành xa lạ !

Thế mà có rất nhiều người lại chuộng cái lối “sống dở chết dở” nầy mới chết chứ ! Nếu các bạn không tin thì cứ lấy điện thoại ra, mở Google, đánh tên bài hát “Người lạ ơi” của nhạc sĩ Châu Đăng Khoa, các bạn sẽ nghe thấy tâm sự của người trẻ hôm nay về “cái chết” nầy:

…Người lạ ơi! Người đến ủi an tâm hồn này được không?

Người lạ ơi! Xin hãy cho tôi mượn bờ vai

Tựa đầu gục ngã vì mỏi mệt quá

Người lạ ơi! Xin hãy cho tôi mượn nụ hôn

Mượn rồi tôi trả, đừng vội vàng quá

Người lạ ơi! Xin hãy ghé mua giùm tôi

Một liều quên lãng, để tôi thanh thản

Người lạ ơi! Xin hãy cho tôi mượn niềm vui

Để lần yếu đuối này là lần cuối thôi

Cô đơn, lẻ loi, tâm tư như sóng đánh

Chơi vơi, mệt mỏi, tâm hồn thì mong manh

Không cần người phải quá sâu sắc,

chỉ cần bờ vai người đủ rộng

Chân thành đừng giấu sau màu mắt,

cùng chia sớt những nỗi sầu mênh mông

Cho trái tim yếu đuối được nghỉ ngơi,

cõi lòng hoang sơ hôm nay thôi dậy sóng

Một người với tôi vậy là đủ,

những thứ còn lại chẳng quan trọng…

Một cuộc sống, một tâm hồn…mà mọi biểu hiện tương quan sâu thẳm nhất, cần thiết nhất… lại chỉ được xây dựng trên “Người lạ ơi” thì chết quách chứ sống chi cho “khổ dậy trời” !

– Chết mà vẫn tường mình đang sống: chọn lầm giá trị:

Không phải Giáo Hội không biết đến rất nhiều những thách đố đang dập vùi người trẻ trên mọi miền thế giới. Riêng tông huấn Đức Kitô Hằng Sống đã dành ra liên tiếp 3 số 72,73,74 để liệt kê những nỗi oan khiên, bi đát mà rất nhiều trẻ đang gánh chịu.[1]

Tuy nhiên, ở đây muốn nhấn mạnh đến khía cạnh giới trẻ chính là chủ thể chứ không phải nạn nhân, đang chọn lựa cuộc sống mang “dáng đứng cái chết” !

Sách Khải Huyền có đoạn viết: “Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thật ra đã chết” (Kh 3,1).

– Chết vì chọn sống theo “tinh thần thế tục”:

Chúng ta có thể nhận ra những chỉ dấu về “cuộc sống mà như đã chết” của người trẻ hôm nay (đặc biệt, của người trẻ Công Giáo), đó chính là cuộc sống mà Thánh Phaolô gọi tên là “thuộc hạ giới”, hay thời hôm nay được Giáo Hội gọi chung là “tinh thần thế tục”:

“Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: ấy là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam; mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng. Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ không vâng phục. Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy. Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục. Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu…” (Cl 3,5-10).

Người trẻ hôm nay bị ám ảnh và áp lực nặng nề bởi vị thần “mammon”: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của (Mammon) được.” (Lc 16,13).

Người trẻ hôm nay bị ảnh hưởng nặng nề lối sống “vô cảm”, “sống chết mặc bay” (chủ nghĩa MACKENO).

Người trẻ hôm nay chọn kiểu sống dễ dãi, ích kỷ, càng ít trách nhiệm càng tốt, lười biếng. Cứ quan sát cách người trẻ tham dự Thánh Lễ Chúa Nhật tại một số nơi: Ngồi trên xe, chat điện thoại, ôm eo nói chuyện…

Sẵn sàng hùa nhau đi bão sau một trận đá bóng và để lại đằng sau một bãi rác kinh hoàng, nhưng được mấy người xung phong dấn thân trong công tác dọn sạch môi trường, phục vụ từ thiện…

Ngày nay, sinh hoạt giới trẻ tại các giáo xứ (các lớp giáo lý, thánh lễ, học hỏi Lời Chúa…) đang thưa thớt, eo sèo; nhưng ở các quán cà-phê, quán nhậu, karaoke, rạp chiếu bóng…thì đầy !

Một cuộc sống mà sách Khải huyền định nghĩa là “hâm hẩm” thì “chết chắc” chứ sống gì được nữa trời !

“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta.” (Kh 3,15-16)

Đề nghị các bạn xem lại mình thử mình đã “chết thế nào” trong đời sống làm người và làm con cái Chúa, theo “bản xét mình Mùa Chay” sau đây:

Chúa muốn con đi thật xa,

Con thì lại thích la cà rong chơi.

Chúa đưa lên đĩnh cao vời,

Đầm lầy con muốn xây đời ấm êm.

Chúa mời theo Chúa ngày đêm,

Riêng con mặc cả, bớt thêm, hẹn chờ.

Chúa chọn bé nhỏ đơn sơ,

Con ưa hào nhoáng tôn thờ siêu sao.

Chúa khó nghèo, Chúa lao đao,

Sang giàu con chuộng, chức cao con tìm.

Yêu người Chúa trọn một niềm,

Đời con ích kỷ con tim hững hờ.

Nước sâu thuyền Chúa đợi chờ,

Con thì đành đoạn trên bờ quay lưng.

Chúa mang thập giá không dừng,

Khổ đau vừa chạm ngập ngừng con xa.

Chúa vào sa mạc với Cha,

Com tìm đô hội hát ca với đời.

Chúa lo công việc Nước Trời,

Suốt ngày con bận việc đời riêng con…

Ý Cha Chúa nguyện vuông tròn,

Kiêu căng con giữ ý con chẳng dời…

Con khác Chúa quá Chúa ơi,

Mùa Chay xin Chúa cải đời cho con !

(Sơn Ca Linh Mùa Chay 2018

3. Cơ may của người trẻ “đang chết”: Đức Kitô đang đến ngược đường:

Ai trong chúng ta dám tự hào rằng mình “không bao giờ chết”, không bao giờ trải qua những vấp váp, thương tích, bệnh hoạn, sa ngã…!

Đức Thánh Cha Phanxicô đã tiên liệu tất cả, khi ngài ân cần nói với chúng ta:

“Nếu các con mất sức sống nội tâm, các giấc mơ, lòng nhiệt thành, tính lạc quan và lòng quảng đại của các con, thì Chúa Giêsu đang đứng trước các con như đã có lần Người đứng trước người con trai đã chết của bà goá, với tất cả quyền năng của sự Phục Sinh của Người, Người thúc giục các con: “Hỡi chàng thanh niên, Ta truyền cho ngươi, hãy chỗi dậy” (Lc 7:14). (ĐKHS số 20).

Ngày xưa, vào những ngày này, các môn sinh của Chúa Giêsu cũng có những người “sống mà như đã chết” trước biến cố dữ dằn của cuộc Khổ Nạn.

Tuy nhiên, “trên những nẻo đường đau thương thất vọng”, khi thì trên con đường trở về từ “Mồ trống” vào sáng sớm tinh mơ, lúc thì trên nẻo Emmaus, có lần ở tại bãi biển Tibê-ri-át, … một Tin Vui, một niềm hy vọng, niềm tin Phục sinh đã được nhen nhóm lên, và rồi, đã rực sáng trên mọi nẻo đường thế giới.

Đơn giản: Đấng Phục Sinh đã có mặt.

Không chỉ một sự “hiện diện câm nín”, thờ ơ, nhưng là một “đồng hành gần gũi, thân thương, trực tiếp “chạm đến quan tài”, chạm đến trái tim, cùng với “mệnh lệnh của sự sống”: “Bạn trẻ ! Hãy chỗi dậy” !

Ngày hôm nay, chúng ta đều được gọi mời sống hiện thực “kinh nghiệm phục sinh” độc đáo và chia sẻ kinh nghiệm đó cho thế giới.

“Đàng khác, Chúa Giêsu đã sống lại và Người muốn biến chúng ta thành những người chia sẻ sự sống mới của việc phục sinh. Người là sự trẻ trung thật sự của một thế giới đang già đi, sự trẻ trung của một vũ trụ đang chờ đợi trong cơn “chuyển bụng đau đớn” (Rm 8:22) để được mặc lấy ánh sáng và sống sự sống của Người. Với Người ở kề bên, chúng ta có thể uống nước từ suối nguồn thật sự, là nước làm cho tất cả mọi ước mơ, dự án, lý tưởng cao thượng của chúng ta được sống, trong khi thúc đẩy chúng ta công bố điều làm cho cuộc sống thật sự đáng giá.” (ĐKHS số 31,32)

II. TUỔI TRẺ ƠI ! ĐỪNG ĐỂ BỊ KHINH THƯỜNG (Lời khuyên của Thánh Phaolô)

Hôm nay, xin mời các bạn lắng nghe lời hiệu triệu của Thánh Phaolô, một người trẻ đã kinh qua một kinh nghiệm độc đáo, hi hữu, hiện thực khi được Đức Kitô phục sinh “chạm đến”, một “cú chạm sét đánh trên đường Đa-mát” (Cv 22,1-21)

1. Bối cảnh Lời Chúa: Thầy Phaolô khuyên trò Timôthê (1 Tm 4,12-16)

“Chớ gì đừng có ai coi thường anh vì anh còn trẻ. Trái lại, anh hãy nên gương mẫu cho các tín hữu về lời ăn tiếng nói, về cách cư xử, về đức ái, đức tin và lòng trong sạch. Trong khi chờ tôi đến, hãy chuyên cần đọc Sách Thánh trong các buổi họp, chuyên cần khuyên nhủ và dạy dỗ. Đừng thờ ơ với đặc sủng đang có nơi anh, đặc sủng Thiên Chúa đã ban cho anh nhờ lời ngôn sứ, khi hàng kỳ mục đặt tay trên anh. Anh hãy tha thiết với những điều đó, chuyên chú vào đó, để mọi người nhận thấy những tiến bộ của anh. Anh hãy thận trọng trong cách ăn nết ở và trong lời giảng dạy. Hãy kiên trì trong việc đó. Vì làm như vậy, anh sẽ cứu được chính mình, lại còn cứu được những người nghe anh giảng dạy.”

2. Lưu ý 4 lời khuyên:

– Trưởng thành nhân bản (Lời ăn tiếng nói, cách cư xử): Tục ngữ Việt nam có câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở”; đó chính là những bài học “nhân bản”, bài học “biết sống” (savoir vivre) mà nếu không ý thức, chuẩn bị, đào luyện…e rằng khó “làm một Kitô hữu” đừng nói chi “làm thánh”.

Về vấn đề này, xin được nhắc lại cái “nguyên tắc vàng” mà cha bề trên Lành (Albert Delagnes)[2] đã nhắn nhủ các chủng sinh:

“Các con muốn trở thành linh mục thánh thiện, trước tiên các con phải lo rèn luyện nên người lương thiện (honnête homme), trên cơ sở vững chắc ấy các con nỗ lực xây dựng con người Kitô hữu đạo đức (bon chrétien), rồi từ đó các con mới có triển vọng trở thành linh mục thánh đức (saint prêtre).

Để thích hợp, chúng ta hoàn toàn có thể thay thế hai từ linh mục bằng hai từ người trẻ.

Để giúp “trưởng thành nhân bản”, ngày nay có vô vàn vô số phương tiện để học hỏi, thăng tiến, trau dồi. Rất tiếc, nhiều người trẻ chúng ta đã để “tuổi 20 qua đi”[3] mà không tận dụng được gì, học hỏi được gì nơi cái “kho tàng mở” chất chứa muôn nghìn báu vật của thế giới. (Riêng các bạn gái thì thật là thiếu sót nếu không đọc ALL THE RULES của Ellen Fein và Sherrie Schneider)[4]

– Trưởng thành trong đức ái: Hãy chiêm ngưỡng hành vi “Rửa Chân” của Thầy Giêsu (Ga 13,1-20), chúng ta sẽ có câu kết luận và những áp dụng thực tiển cho chính mình.

– Trưởng thành trong đức tin: Xin đề nghị 4 điều căn bản: Cầu nguyện, Lời Chúa, Thánh lễ, Toà giải tội.

– Cầu nguyện: Không thể sống và đứng lên nếu không gặp gỡ Đức Kitô. (Nhớ chuyện chàng trai con bà goá Naim, bao câu chuyện khác trong Tin Mừng về những cuộc gặp gỡ với Đức Kitô)

– Lời Chúa: Không thể sống và chiến thắng “sự chết” nếu không có Lời (Nhớ chuyện Chúa Giêsu chiến đấu với ma quỉ: dùng chỉ 1 đòn duy nhất: “Có Lời chép rằng…” – Mt 4,1-11)

– Thánh lễ: Không thể sống và sống phong phú nếu không tiếp cận Thánh Thể (Nhớ chuyện Giu-đa: “Sau khi ăn miếng bánh, Giu-đa liền đi ra. Bấy giờ trời sụp tối !” – Ga 13,30).

– Toà Giải Tội: Không thể sống và sống hạnh phúc nếu không hoán cải trở về Nhà Cha (Nhớ dụ ngôn Người Cha nhân hậu – Lc 15,11-32)

Và có một sự “trưởng thành” rất đặc biệt, rất người, rất riêng, rất tế nhị và rất cần thiết, đó chính là “trưởng thành trong tình yêu”. Riêng chuyên đề nầy, tôi xin nhường lời lại cho bạn Linh Chi sẽ chia sẻ cùng các bạn…

– Trưởng thành trong tình yêu. Sống trong sạch.

(Bạn Anna Nguyễn Thị Linh Chi sẽ trình bày chuyên đề nầy…)

Tình yêu nam nữ là một món quà cao quý mà Thiên Chúa tặng ban để biểu lộ tình yêu của Ngài đối với con người. Chúng ta được dựng nên để yêu và được yêu, điều này đã được khắc ghi chính trong thân xác của mỗi người. Vì thế, Trong sạch không có nghĩa là sống độc thân. Trong sạch không phải là có cái nhìn tiêu cực và thiếu lành mạnh về tình dục.

1. Trong sạch (hay còn gọi là Khiết tịnh) là gì?

Trong sạch thuộc về nhân đức Tiết độ, nhân đức ảnh hưởng đến đời sống tình dục của con người. Trong sạch giúp điều khiển và kiểm soát ao ước được vui thích, được khoái lạc của chúng ta, giúp chúng ta hưởng thụ niềm vui thích và khoái lạc theo như ý muốn của Thiên Chúa.

Trong sạch là sự hợp nhất giữa thân xác và linh hồn, là giữ tâm hồn tinh tuyền, phù hợp với bậc sống của mình. Vì thế, người đã có gia đình cũng phải sống Trong sạch trong đời sống Hôn nhân, nghĩa là phải Chung thủy, và Yêu thương vợ/chồng của mình trọn vẹn cả trái tim và thân xác.

Còn đang khi hẹn hò, Trong sạch có nghĩa là bạn có sức mạnh để chinh phục những ham muốn bất chính và vì thế, bạn có tự do để yêu vì một lý do đúng đắn. Trong sạch giải thoát các cặp đôi khỏi thái độ ích kỷ, lạm dụng lẫn nhau, coi nhau như vật dụng để thỏa mãn chính mình (chàng trai “dùng” cô gái để thỏa mãn nhu cầu thể lý và cô gái “dùng” chàng trai để thỏa mãn cảm xúc và tìm kiếm sư khẳng định bản thân). Từ đó họ có thể yêu nhau thật sự – dám làm điều tốt nhất cho người mình yêu thương.

Trong sạch ý thức được những ao ước tình dục và hướng nó để phục vụ tình yêu, để trong tình yêu đó, hai người trưởng thành và hòa thiện lẫn nhau.

2. Tại sao phải Trong sạch?

– Sống Trong sạch giúp bạn có Tự do để yêu

Chúng ta tự do không bởi được làm bất cứ điều gì mình muốn, chúng ta tự do, và có khả năng yêu thương, khi chúng ta có sự Tự chủ.

Trong sạch đòi hỏi chúng ta phải học biết Tự chủ để chọn lựa: hoặc chế ngự các đam mê và được bình an; hoặc làm nô lệ cho chúng và mất hết hạnh phúc. Khi có sự Tự chủ, bạn sẽ không bị những đam mê dục vọng đè bẹp; trái lại bạn dùng những năng lực sẵn có này để bày tỏ tình yêu. Bạn được thúc đẩy để sáng tạo và bày tỏ tình yêu của mình cho người ấy, chẳng hạn một chàng trai có thể viết những lời yêu thương dành tặng cô gái; giúp rửa xe khi cô ấy không hay biết, đặt hoa/đồ ăn đến phòng làm việc để tạo bất ngờ cho cô ấy,… Những điều nhỏ này sẽ đưa hai bạn đến sự gần gũi và sâu sắc hơn trong mối quan hệ. Phụ nữ chúng ta chẳng phải rất yêu thích những điều này sao? Chúng ta đâu muốn dùng thuốc tránh thai, đâu muốn đối mặt với cảm giác tội lỗi (mà điều này chắc chắn là tội, nhưng Thiên Chúa cho ta sự tự do lựa chọn), lo lắng nếu bị ba mẹ phát hiện, bị có thai, nhiễm bệnh, cảm giác bị dùng, bị phụ thuộc, bị mất đi giá trị,… Không! Chúng ta thích được ngạc nhiên với những ý tưởng bất ngờ, được yêu thương và trân trọng, như những Công Chúa.

Tôi không nói những cặp đôi không sống Trong sạch không làm được điều này. Nhưng Trong sạch thúc đẩy chúng ta làm thế nào có thể bày tỏ tình yêu mà không cần đến quan hệ tình dục – điều chỉ thuộc về Hôn nhân.

Một người không có đức Trong sạch thì không có tự do để yêu. Người ấy có thể có một số ý định tốt và một ước muốn chân thành săn sóc cho người yêu của mình, nhưng vì không có đức Trong sạch, tình yêu của người ấy không bao giờ thăng hoa, bởi nó bị chi phối bởi hooc-môn. Tình yêu đó sẽ bị pha trộn với khuynh hướng nhìn người yêu của mình theo những giá trị tính dục, là những gì làm anh vui thích về tình cảm hay làm cho những ham muốn xác thịt dậy lên trong tâm trí.

– Sống Trong sạch giúp đem đến một cái nhìn rõ ràng về tương lai.

Người ta thường nói rằng Tình yêu thì mù quáng, nhưng đúng hơn phải nói Tình dục/Đam mê/Sự hấp dẫn thể lý là mù quáng, còn Tình yêu thì cần hai mắt mở to để nhìn thấy rõ những khiếm khuyết của nhau, để chấp nhận và hoàn thiện nhau.

Nhiều cặp đôi cưới nhau về và sau vài cuộc cãi vã, họ tự hỏi “Tại sao tôi lại cưới người này?”, “Có phải chỉ vì tình dục không?” – Chúng ta quá tranh thủ để ngủ với nhau mà không nhận ra rằng chúng ta chưa học được cách giải quyết vấn đề cùng nhau. Tình dục trước Hôn nhân khiến các cặp đôi có những quyết định sai lầm về người bạn đời của mình (vì dục vọng gây nên cảm giác giả tạo về sự hoà hợp, phủ lấp sự vắng bóng tình yêu đích thực chưa kịp phát triển, làm họ mất đi khả năng phán đoán và óc sáng suốt nhìn nhận thực tế nơi người bạn đời của mình).

Tình dục dưới cái nhìn khoa học:

Khi người nữ có những cử chỉ âu yếm về thể xác, não của cô sẽ phóng thích Oxytocin – một hóa chất thần kinh, “chất keo thượng thặng” giúp nối kết người nữ với người nam. Người nữ cũng tiết ra Oxytocin khi sinh con hay cho con bú, để quên đi cảm giác đau đớn khi sinh con và kết nối với đứa bé.

Người nam cũng phóng thích Oxytocin, nhưng ít hơn người nữ. Ngược lại, họ phóng thích Vasopressin – hooc-môn làm tăng cảm giác trách nhiệm.

=> Điều này sẽ giúp người chồng càng tận tụy hơn với vợ con và giúp các đôi vợ chồng gắn kết với nhau, cùng nhau vượt qua những thử thách trong cuộc sống. Nhưng đó sẽ là “thảm họa” với những cặp đôi đang hẹn hò: Trong lúc mà não bộ của người nữ cần hoạt động hết công suất để thành công trong việc tìm đúng người bạn đời, cô càng không được để tâm trí mình bị ảnh hưởng và thay đổi bởi Oxytocin – làm mất đi khả năng phán đoán chính xác giá trị của mối quan hệ và coi nhẹ những diều tiêu cực đến khi quá muộn.

– Sống Trong sạch là một khoá huấn luyện về sự Hi sinh và Chung thủy.

Thước đo đích thực cho tình yêu là dám làm điều tốt nhất cho người mình yêu thương. Điều này dòi hỏi sự Hi sinh, nó cũng giải thích vì sao tình yêu thực sự thì hiếm hoi.

Cùng xem xét những nhân đức làm nên một cuộc Hôn nhân bền vững, có phải là: Kiên nhẫn, Hi sinh và Tự chủ? Một cặp đôi yêu nhau cách Trong sạch cũng luyện tập những phẩm chất đó.

Thực tế là, nếu bạn không thể nói không với tình dục trong giai đoạn này, thì lời hứa “chung thuỷ đến trọn đời” của bạn có ý nghĩa gì, khi vợ bạn mang thai, sinh con, đau bệnh,…?

Có rất nhiều mối quan hệ bắt đầu tốt đẹp và lãng mạn bay bổng, nhưng kết thúc đau khổ vì bị ham muốn tình dục phá huỷ. Khi sự thích thú khoái lạc được đề cao hơn những phẩm chất này, đôi bạn sẽ bỏ lỡ cơ hội xây dựng nền tảng đức hạnh, là những điều làm nên cuộc Hôn nhân bền vững.

3. Làm thế nào để sống trong sạch?

Canh giữ con mắt của mình

“Những gì là chân thật, cao quý. Những gì là chính trực, tinh tuyền. Những gì là đáng mến, đem lại danh thơm tiếng tốt. Những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý giữ lấy.” (Pl 4:8)

Đừng phủ lấp tâm trí và sự tưởng tượng của bạn bởi những chương trình truyền hình nghiêng về nhục dục, phim ảnh, tạp chí, âm nhạc, chuyện phiếm ca ngợi thú vui nhục dục lăng nhăng vô nghĩa. Nếu bạn coi trọng tình yêu, đừng để bị vướng phải mối nguy từ những thứ này.

Ăn mặc đoan trang

Đoan trang là hoa quả tự nhiên của một hiểu biết đúng đắn, đó là hiểu biết về giá trị thánh thiêng mà Thiên Chúa đã trao ban trên thân xác và tính dục mỗi người.

Khi người nữ ăn mặc thiếu đoan trang, họ vô tình thu hút sự chú ý của những người nam chỉ quan tâm đến thân xác và khơi dậy bản năng tính dục nơi họ. Sự thu hút nhanh chóng này khiến người nữ lầm tưởng đó là tình yêu và cho đi bản thân mình, còn người nam sau khi đã chiếm được cô gái, sẽ ngay lập tức cảm thấy chán hoặc mất hết động lực để theo đuổi cô bằng một tình yêu chân chính và cam kết. Những người nữ ý thức được điều này sẽ ăn mặc kín đáo va đoan trang để bảo vệ nhân phẩm và món quà thân xác mình.

4. Cầu xin Ơn Trong sạch

Khi những cám dỗ giới tính đến trong trí nghĩ, hãy dừng lại và cầu xin Ơn Trong sạch, rồi cầu nguyện cho người mà bạn nghĩ đến. Khi cầu nguyện, chúng ta không chỉ chiến đấu trong sự ủng hộ của Thiên Chúa mà là Chúa Giêsu Kitô, chính Ngài sẽ chiến đấu trong chúng ta. Tin tưởng rằng Ngài ao ước giúp đỡ chúng ta và Ngài có quyền hành để giúp đỡ chúng ta.

Cầu xin cho một trái tim trong sạch

Lạy Chúa, xin giúp con đón nhận tính dục của con như là một món quà từ Chúa. Xin ban ơn để con biết kháng cự những lời dối trá bóp méo món quà thần thánh này và giúp con sống đời tình dục của mình theo như sự thật của tình yêu biết trao ban. Xin ban cho con một trái tim trong sạch để con có thể nhìn thấy được hình ảnh của sự vinh quang của Chúa nơi người khác, và một ngày con sẽ được nhìn thấy Chúa mặt đối mặt. Amen.

Cầu xin ơn cứu rỗi cho khao khát tình dục

Lạy Chúa Giêsu, con ca tụng và cảm ơn Chúa vì món quà của những ao ước tình dục. Nhờ sức mạnh của cái chết và sự sống lại của Chúa, xin làm ngay thẳng trong con những quanh co, méo mó mà tội lỗi đã gây nên để con biết và cảm nghiệm ao ước tình dục như Chúa đã tạo dựng nó, như một ao ước để yêu cách tự do, hoàn toàn, trung tín và đón nhận sự sống. Amen.

Cầu xin trong giây phút của cám dỗ về thú tính

Lạy Chúa Giêsu, con cám ơn Chúa vì sắc đẹp của người này mà Chúa đã dựng nên để được yêu mến, không bao giờ để bị dùng như là một vật dụng cho thoả mãn của con. Con khước từ mọi xu hướng trong con để dùng người này cho sự vui thích của chính mình, và con xin Chúa sửa chữa những ao ước của con để nó nên ngay thẳng. Amen.

Ao ước tình dục là một điều tốt đẹp, vì nó xuất phát từ Thiên Chúa, không phải từ tội lỗi. Khi một cặp đôi sống Trong sạch, họ vẫn khao khát được trở nên Một với nhau, nhưng vì họ ý thức được giá trị của Tình dục, họ chọn hướng những ham muốn mãnh liệt trở thành động lực sáng tạo để biểu lộ tình yêu. Kết quả là, tình bạn và sự mật thiết giữa họ càng trở nên sâu đậm, mối tương quan của họ càng trở nên mạnh mẽ.

Do đó, những điều khiến bạn phải chờ đợi trong lúc yêu sẽ dạy bạn cách yêu như thế nào. Nếu bạn thấy chán chường với cảnh li dị đầy rẫy và hi vọng cuộc Hôn nhân của bạn sẽ bền vững, thì ngay hôm nay, hãy tập sống Trong sạch.

Khi sống Trong sạch, bạn sẽ khám phá ra một cuộc sống tươi mới với tràn đầy hi vọng, sống động hơn, nhiều giá trị đích thực hơn-bất-cứ-gì bạn có thể trải nghiệm khi trao thân mà chẳng có ràng buộc. Đó là sự vui thích làm phấn khởi tâm hồn!

Anna Nguyễn Thị Linh Chi

~~~000~~~

III. TUỔI TRẺ ƠI ! MỌI NGƯỜI ĐANG CHỜ BẠN (Huấn dụ của Đức Giáo Hoàng Phanxicô)

Giáo Hội Công Giáo chúng ta, đặc biệt Giới Trẻ, vừa đón nhận một hồng ân cao quý, đó chính là kết quả của THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI THƯỜNG LỆ KHOÁ XV, khai mạc vào ngày 3.10.2018 và bế mạc ngày 23.10.2018 với chủ đề: “Người trẻ, đức tin, và sự phân định ơn gọi”.

Và vào dịp lễ Truyền Tin vừa qua, thứ hai, 25/03/2019, Đức Thánh Cha đã ký và công bố Tông huấn hậu Thượng Hội đồng Giám mục thế giới về giới trẻ có tựa đề là “Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng của chúng ta” – “Vive Cristo, esperanza nuestra”, trong cuộc viếng thăm của ngài tại Đền thánh Đức Mẹ Loreto, trung Italia.

Trong dịp nầy, tôi chỉ xin giới thiệu “chút xíu sứ điệp” mà Đức Thánh Cha muốn gởi đến chúng ta như một chút hành trang cho cuộc Đại Hội nầy:

1. Có một điều chúng ta đừng bao giờ quên: Đức Kitô và Hội Thánh của Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta:

Chúng ta cùng đọc với nhau những lời đầu tiên của tông huấn:

1. Đức Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và bằng một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến cho thế giới của chúng ta, và mọi sự Người chạm đến đều trở nên trẻ trung, mới mẻ và tràn đầy sức sống. Vậy, những lời đầu tiên mà Cha muốn nói với mọi Kitô hữu trẻ là: Đức Kitô đang sống và Người muốn các con được sống!

2, Người ở trong các con, Người ở với các con và Người không bao giờ bỏ rơi các con. Dù các con có lạc xa đến đâu đi nữa, Người, Đấng Phục Sinh, vẫn luôn ở đó. Người gọi các con và Người chờ đợi các con quay về với Người và làm lại từ đầu. Khi các con cảm thấy mình già đi vì đau khổ, giận hờn hay sợ hãi, nghi ngờ hay thất bại, Người sẽ luôn ở đó để phục hồi sức mạnh và niềm hy vọng của các con.

3. Với lòng ưu ái, Cha viết Tông Huấn này cho tất cả các Kitô hữu trẻ. Nó có ý nhắc nhở các con về những xác tín chắc chắn được phát sinh từ đức tin của chúng ta, đồng thời để khuyến khích các con lớn lên trong sự thánh thiện và cam kết dấn thân với ơn gọi cá nhân của các con. Nhưng vì nó cũng là một phần của tiến trình Thượng Hội Đồng Giám Mục, tôi cũng gửi sứ điệp này đến toàn thể dân Chúa, các mục tử và cũng như các tín hữu, vì tất cả chúng ta đều được thách đố và thúc giục suy tư cả về những người trẻ lẫn cho những người trẻ. Do đó, tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với những người trẻ ở một số nơi, trong khi ở những nơi khác, tôi sẽ đề ra một số suy nghĩ tổng quát hơn về việc phân định của Hội Thánh.

2. Giới trẻ trong tầm nhìn muôn thuở:

– Đừng đánh mất vẻ đẹp anh hùng của tuổi trẻ:

“Người trẻ không được định để trở nên mất can đảm; các em được định để mơ ước những điều cả thể, để tìm kiếm những chân trời rộng lớn, để nhắm đến điều cao hơn, để gánh vác thế giới, để chấp nhận thử thách và cống hiến những gì tốt nhất của chính mình hầu xây dựng một điều gì đó tốt hơn. Đó là lý do tại sao tôi không ngừng thúc giục các người trẻ đừng để mình bị cướp mất hy vọng; với mỗi em, tôi nhắc lại: “Đừng để ai coi thường tuổi trẻ của con” (1 Tim 4,12).(ĐKS 15)

– Can đảm trở thành “những vị thánh của thời đại”:

“Vì thế, tối hôm nay, tôi nói với các bạn: hãy để cho ánh sáng Chúa Kitô chiếu sáng trong cuộc sống các bạn! Ðừng đợi đến lúc già hơn mới dấn thân tiến bước trên con đường thánh thiện! Sự thánh thiện luôn trẻ trung, cũng như sự trẻ trung trường cửu của Thiên Chúa”.

“Hãy làm cho mọi người được biết sự tươi đẹp của sự gặp gỡ Thiên Chúa, Ðấng mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của các bạn. Các bạn đừng đứng hạng chót trong sự tìm kiếm công lý, thăng tiến hòa bình, dấn thân thực thi tình huynh đệ và liên đới!” (Bài giảng của Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II trong đêm bế mạc Đại Hội giới trẻ thế giới lần thứ 17 năm 2002 tại Toronto)

– Chấp nhận “Con đường Giêsu”, giải pháp Tin Mừng:

“Còn các con, những người trẻ, Chúa Giêsu không dạy các con từ xa hay từ bên ngoài, nhưng từ trong chính tuổi trẻ của các con, một tuổi trẻ mà Người chia sẻ với các con. Điều rất quan trọng đối với các con là chiêm ngưỡng Chúa Giêsu trẻ như được trình bày trong các sách Tin Mừng, vì Người thật sự là một người trong các con, và chia sẻ nhiều đặc điểm của những quả tim trẻ của các con. Chúng ta thấy điều này chẳng hạn như qua những đặc tính sau: “Chúa Giêsu đã có niềm tin tưởng vô điều kiện vào Chúa Cha; Người đã duy trì tình bằng hữu với các môn đệ, và ngay cả trong những lúc khủng hoảng, Người vẫn trung thành với các ông. Người đã tỏ lòng trắc ẩn sâu xa với những người yếu đuối nhất, đặc biệt là những người nghèo khổ, bệnh tật, tội lỗi và những người bị xã hội khai trừ. Người đã can đảm đối đầu với những người có quyền về tôn giáo và chính trị thời ấy; Người đã biết cảm giác bị hiểu lầm và bị chối từ là gì; Người đã trải qua cảm giác sợ đau khổ và Người đã nhận thức được sự yếu đuối của Cuộc Khổ Nạn. Người đã hướng cái nhìn về tương lai, phó mình trong bàn tay an toàn của Chúa Cha trong sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Trong Chúa Giêsu, tất cả những người trẻ có thể nhìn thấy chính mình.” (ĐKHS số 31)

– Lấp đầy giây phút hiện tại với tình yêu:

Theo “linh đạo” của một chứng nhân khác đến từ Việt Nam, Đức Hồng Y, Vị Tôi Tớ Chúa, F.X. Nguyễn Văn Thuận:

“Về vấn đề này, Cha muốn nhắc lại rằng Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, khi bị giam cầm trong một trại tập trung, đã không muốn những ngày của ngài chỉ bao gồm chờ đợi và hy vọng vào tương lai. Ngài đã chọn “sống giây phút hiện tại bằng cách lấp đầy nó với tình yêu”; và cách mà Ngài nhận ra đó là: “Tôi nắm bắt những cơ hội phát sinh mỗi ngày, để thực hiện những hành động bình thường một cách phi thường”. Khi các con đấu tranh để biến ước mơ của mình thành hiện thực, hãy sống trọn vẹn ngày hôm nay, cho đi tất cả và từng giây phút lấp đầy nó bằng tình yêu. Bởi vì thật sự là ngày hôm nay của tuổi trẻ của các con có thể là ngày cuối cùng, và như thế thật đáng giá để sống nó với tất cả ước muốn và tất cả chiều sâu có thể.” (ĐKHS số 148).

– Người trẻ gìn gữ căn nhà Hội Thánh luôn tươi đẹp, trẻ trung:

Trong những ngày qua, chắc các bạn đã nghe vô số những thông tin tiêu cực trong Giáo Hội (Các hồ sơ lạm dụng tình dục của hàng giáo phẩm, giáo sĩ, các bản án dành cho những chủ chăn cao cấp của Vatican…). Phải chăng, đó là những chỉ dấu của một Hội Thánh đang bị “lão hoá”, đang đánh mất vẽ đẹp thuần khiết trẻ trung của Tin Mừng ?

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã không tránh né, nhưng muốn hướng tới chính vai trò và khả năng của giới trẻ trong việc canh tân, gìn giữ vẽ đẹp của căn nhà Hội Thánh:

“Hội Thánh của Đức Kitô luôn luôn có thể đầu hàng cám dỗ để mất nhiệt tình vì không còn nghe thấy tiếng Chúa mời gọi mình vào cuộc mạo hiểm của đức tin, cho đi tất cả mà không kể đến những hiểm nguy; và có thể bị cám dỗ trở lại tìm kiếm một hình thức an toàn giả tạo và thế tục. Những người trẻ có thể giúp giữ cho Hội Thánh trẻ trung. Các em có thể ngăn ngừa Hội Thánh khỏi rơi vào thối nát; các em có thể giữ cho Hội Thánh tiến về phía trước, ngăn cản Hội Thánh khỏi kiêu căng và bè phái, giúp cho Hội Thánh nghèo hơn và làm chứng tốt hơn, đứng về phía những người nghèo và những người bị ruồng bỏ, đấu tranh cho công lý và khiêm tốn để cho mình được thử thách. Những người trẻ có thể mang đến cho Hội Thánh vẻ đẹp của tuổi trẻ khi các em kích thích khả năng của Hội Thánh để “vui mừng với những khởi đầu mới, để hiến thân mà không quay đầu trở lại, để canh tân và bắt đầu những cuộc chinh phục mới”.(ĐKHS Số 37)

Đó không là một “tiên liệu”, dự đoán, nhưng là những “bằng chứng đích thực” qua những chứng nhân trẻ suốt dòng lịch sử của Giáo Hội:

“Nhờ sự thánh thiện của những người trẻ, Hội Thánh có thể đổi mới tinh thần hăng say và sức sống tông đồ của mình. Hương thơm thánh thiện được tạo ra bởi cuộc sống tốt đẹp của rất nhiều người trẻ có thể chữa lành vết thương của Hội Thánh và thế giới, bằng cách đưa chúng ta trở lại với tình yêu trọn vẹn mà chúng ta luôn được mời gọi đến: những vị thánh trẻ gợi hứng cho chúng ta để trở lại với tình yêu ban đầu (x. Kh 2:4). (ĐKHS số 50)

Đặc biệt, trong số đó, Đức Thánh Cha nhắc đến một nhân chứng Việt Nam: Á Thánh Anrê Phú Yên:

“Chân phước Anrê Phú Yên là một chàng thanh niên người Việt Nam ở thế kỷ XVII. Anh là một giáo lý viên và hỗ trợ các nhà truyền giáo. Anh bị cầm tù vì đức tin, và vì đã không chịu chối bỏ đức tin, nên anh đã bị giết. Anrê đã chết trong khi kêu tên Chúa Giêsu.” (ĐKHS số 54)

KẾT LUẬN

Nếu các bạn không muôn ai khinh thường tuổi trẻ của mình thì trước hết xin bạn:

– Làm ơn đừng về hưu non:

“Hỡi những người trẻ, đừng bỏ mất những năm tốt nhất của tuổi trẻ, đừng ngắm nhìn cuộc sống từ ban công. Đừng lầm lẫn hạnh phúc với một chiếc ghế bành và đừng sống cả cuộc đời trước màn ảnh. Đừng trở nên cảnh tượng đau lòng của một chiếc xe phế thải. Đừng trở thành những chiếc xe đang đậu, thay vào đó hãy để cho những giấc mơ nở hoa và hãy có những quyết định tốt. Hãy mạo hiểm, ngay cả khi các con thất bại. Đừng sống sót với tâm hồn tê mê và đừng nhìn thế giới như thể các con là du khách. Hãy gây tiếng ồn ào! Hãy xua tan những nỗi lo sợ làm tê liệt các con, để các con không trở thành những xác ướp trẻ. Hãy sống! Hãy cho mình những gì tốt nhất trong cuộc sống! Hãy mở cửa lồng và hãy bay đi! Làm ơn đừng về hưu non.” (ĐKHS số 143)

Nhưng nhất quyết,

– Hãy bắt tay hành động ngay bây giờ:

“Rõ ràng là Lời Chúa mời các con sống phút hiện tại, chứ không chỉ chuẩn bị cho ngày mai: “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34). Nhưng điều này không có nghĩa là lao mình vào một nếp sống đồi trụy, vô trách nhiệm, là nếp sống biến chúng ta thành trống rỗng và luôn bất mãn; nhưng thay vào đó, là sống trọn vẹn hiện tại, sử dụng năng lực của mình cho những điều tốt đẹp, nuôi dưỡng tình huynh đệ, theo Chúa Giêsu và trân quý mỗi niềm vui nho nhỏ của cuộc đời như một món quà của tình yêu Thiên Chúa.” (ĐKHS số 147).

Vì thế, xin bạn:

– Hãy mau mắn lắng nghe lời réo gọi: ĐỪNG ĐỂ AI KHINH THƯỜNG TUỐI TRẺ. (Ca khúc của Sơn Ca Linh).

– Mau mắn chạy tới “cuộc hẹn” với Đức Kitô Phục Sinh: VỀ NƠI HẸN ƯỚC (Ca khúc của Sơn Ca Linh)

– Và một lần nữa cam kết với Đức Kitô: CON XIN NHẬN NGÀI VÀO ĐỜI CON HÔM NAY (Ca khúc của Sơn Ca Linh).

Đức Kitô đang sống! Người là niềm hy vọng của chúng ta, và bằng một cách tuyệt vời, Người mang tuổi trẻ đến cho thế giới của chúng ta, và mọi sự Người chạm đến đều trở nên trẻ trung, mới mẻ và tràn đầy sức sống. Vậy, những lời đầu tiên mà Cha muốn nói với mọi Kitô hữu trẻ là: Đức Kitô đang sống và Người muốn các con được sống!

---000---

LÀM SAO ĐỂ NHẬN RA “CHÚA ĐÓ”

(Chúa Nhật III Phục Sinh – C – 2019)

Dẫn nhập đầu lễ: Kính thưa cộng đoàn Phụng Vụ,

Đặc biệt, anh chị em Di dân và Đồng hương giáo phận Qui Nhơn rất thân mến,

Nếu Ngày Chúa Nhật “là ngày Chúa đã dựng nên”, là ngày của qui tụ và gặp gỡ Đấng sống lại từ cõi chết, ngày Hội Thánh diễn tả tròn đầy căn tính của chính mình để từ đó động viên mọi con cái Chúa hăng say lên đường làm chứng tá, thì quả thật, Chúa Nhật hôm nay, với cuộc Đại Hội Di Dân-Đồng hương lần thứ V nầy, anh chị em chúng ta đã sống trọn vẹn những chiều kích thánh thiện đó.

Bàn tiệc Lời Chúa hôm nay với những gợi ý sống động qua hình tượng các Tông đồ can đảm và vui mừng vì được “chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (BĐ1), nhất là bầu khí thân thương, huynh đệ xúm xít quanh Đức Kitô phục sinh trong bữa điểm tâm trên bờ hồ Tibêriát (TM), tất cả những sự kiện đó đã làm nên những “Lời chứng” đầy thuyết phục và sự bảo đảm tuyệt vời để con thuyền Giáo Hội tiếp tục hiên ngang tiến về phía trước.

Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, cho giáo phận Qui Nhơn được đầy tràn ân sủng Chúa Kitô Phục Sinh.

Giờ chúng ta sốt sắng thành tâm sám hối tội lỗi để xứng dáng cử hành Mầu nhiệm Thánh.

Giảng Lời Chúa:

Sau những đổ vỡ tang thương mất mát, con người thường hay trở về “lối cũ đường xưa” để tìm lại những hình bóng cũ, những gương mặt xưa, những kỷ niệm đã một thời ghi dấu ấn:

Đập cổ kính ra tìm lấy bóng

Xếp tàn y lại để dành hơi[5]

Đó cũng chính là “những bước chân mệt mỏi chán chường đầy thất vọng buồn tênh” của những chàng trai dân chài Galilê trở về “quê cũ nghề xưa” nơi biển hồ Tibêriát, hay trên con đường về Emmau để tìm lại những dấu chân, những kỷ niệm thân thương của Thầy. Bởi chưng, với họ, khi mọi hy vọng về một “ngày mai tươi sáng” đã khép lại sau bức màn tăm tối của buổi “chiều Thứ Sáu” nghiệt ngã trên đồi Canvê, thì việc trở về tìm lại những nơi ghi đậm hình bóng cũ của Thầy, họ hy vọng sẽ gặp được một thoáng ủi an cho vơi đi phần nào những đau thương mất mát.

1. Từ những bước chân tìm về “dấu cũ”:

Thế nhưng, cũng từ những “bước chân tìm về” những địa chỉ còn vương vấn dấu vết của Thầy như thế, họ đã gặp được Đấng Phục Sinh, họ đã được Thầy “khai thông trí hóa” và dẫn đưa vào chính điều cốt lỏi của niềm tin Kitô giáo: Đức Kitô đã chết và đã sống lại.

Và suốt 2000 năm nay, kể từ những buổi sáng tinh mơ của Ngày Thứ Nhất trong tuần trước ngôi mộ trống, hay từ buổi chiều Ngày thứ nhất trong tuần trên đường Emmau, hoặc một buổi sáng khác cũng Ngày thứ nhất trong tuần trên biển hồ Tiberiát, những cuộc “hẹn hò và gặp gỡ với Đấng Phục Sinh” vẫn không ngừng tái diễn, những cuộc qui tụ để cùng “đánh chén với Đấng Phục Sinh” vẫn tiếp tục dài dài, những cuộc “tọa đàm với Đấng Phục Sinh chung quanh chủ đề Thánh kinh về cái chết và sự sống lại của Đấng Cứu Thế” vẫn không ngừng được tổ chức thực hiện. Chẳng hạn như cuộc họp của chúng ta hôm nay, giờ phút nầy cũng với nguyên nội dung và ý nghĩa đó !

Bởi chưng, tất cả những điều đó, những sinh hoạt cộng đoàn đó, những cuộc qui tụ chúng quanh Đấng sống lại từ cõi chết đó…đã làm nên Chúa Nhật, đã làm nên Kitô giáo, đã làm nên Hội Thánh muôn nơi và muôn thuở, một Hội Thánh luôn can đảm “vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” để tiếp tục “xin làm chứng, cùng với Thánh Thần” về một con người mang tên “Giêsu, Đấng đã bị giết chết trên thập giá nhưng đã được Thiên Chúa phục sinh”, đó là những gì chúng ta vừa nghe sách CVTĐ tường thuật trong Bài đọc 1.

Vâng, cuộc họp mừng Lễ Tạ Ơn hôm nay, hay ở khắp nơi, mọi thời, chính là cuộc gặp gỡ thân mật và đích thật giữa chúng ta và Chúa chúng ta, Đức Kitô phục sinh; giữa cộng đoàn chúng ta với Đấng Phục sinh đang trở về, đang có mặt, đang ban bình an, ban Lời chân lý và Bánh Trường Sinh, đang ủi an và chia sẻ tình yêu thân mật và hồn nhiên như Ngài đã hiện diện và sẻ chia cùng các môn sinh với “bữa điểm tâm đơn giản nhưng ấm áp tình thân trên bờ hồ Tibêriát” (TM). Đó chính là niềm tin muôn nơi và muôn thuở của chúng ta, của mỗi người Kitô hữu, là ý nghĩa đích thực của cuộc họp mừng phục sinh, là nội dung cốt yếu của Tin Mừng phải được sẻ chia và làm chứng, như lời “lời chứng và chia sẻ của Thánh Phêrô” từ thuở khai sinh Giáo Hội:

“Đức Giêsu bị các ông treo lên cây gỗ mà giết đi; nhưng Thiên Chúa đã ra tay uy quyền nâng Người lên, đặt làm thủ lãnh và Đấng Cứu Độ, hầu đem lại cho Ít-ra-en ơn sám hối và ơn tha tội. Về những sự kiện đó, chúng tôi xin làm chứng, cùng với Thánh Thần”.

Và Đức Kitô phục sinh đã đến, đã thỏ thẻ chuyện trò, đã khai lòng mở dạ, đã hong lại niềm tin, đã đốt lên sức sống cho họ cũng như cho bao nhiêu thế hệ con người.

Biết bao nhiêu người đã cảm nhận được điều đó như cách cảm nhận của thánh Gioan Tông Đồ với hai từ “Chúa đó !”, khi tường thuật biến cố Chúa Phục Sinh hiện ra gặp gỡ các môn sinh vào một buổi sáng tinh mơ trên bờ hồ Tibêriát.

Sự gặp gỡ thân tình, tế nhị với một bữa điểm tâm dọn sẵn với mấy tấm bánh thơm và vài ba con cá nướng; nhưng đồng thời, cũng là cuộc gặp gỡ đem lại niềm tin và hy vọng ngút ngàn khi một mẽ lưới nặng đầy cá thay cho một đêm trắng tay của những tay chài thiện nghệ.

2. Làm sao để nhận ra “Chúa đó” !

Không phải chỉ có tại vùng đất Palestine mới có một buổi chiều tang tóc của đồi Sọ, một buổi tối Thứ Sáu đau thương khi “Con người phó dâng thần khí”, hoặc một buổi sáng đói meo khi “suốt đêm tất bật mà chẳng bắt được con cá nào”…

Không, trong thế giới nầy, bất cứ ở đâu, thời nào cũng đều có hàng hàng lớp lớp người đói khổ, vất vả lầm than, vật lộn từng ngày với miếng cơm manh áo, mà suốt cuộc đời vẫn hoài tay trắng, vẫn rách rưới thảm thương ! Cũng vậy, mọi nơi, mọi thời, không thiếu những tâm hồn đau thương thất vọng, chán chường, dập nát, đau thương vì nát tan trong hiện tại, thất vọng với tương lai, không còn gì để bảo đảm, không có gì để định hướng…như các anh tông đồ xứ Galilê đêm nào sau cái chết của Thầy: vất vả với chiếc thuyền câu, với tấm lưới trống, thâu đêm mà chẳng bắt được chú cá nào, trong khi phải trực diện với một hiện tại trống vắng và hụt hẫng với tương lai sau cái chết thảm của Thầy trên đồi Sọ mấy ngày trước đó.

Quả thật, nếu cuộc đời cứ trôi đều như vậy, nếu qua một đêm thất bại với đói khát, các tông đồ lại phải đối diện với một “buổi sáng” nữa vắng bóng Thầy, một buổi sáng nữa với những lo âu và đầy thất vọng…thì thử hỏi, cuộc sống còn chi hạnh phúc, cuộc đời còn đâu vẽ đẹp và hy vọng để ươm mơ và tiến lên phía trước ?.

Cũng thế, nếu Chúa cứ im lặng “làm ngơ giả điếc” mặc cho cuộc đời của bao thân phận trải dài với những tháng năm đau thương và bi đát, mặc cho bao tâm hồn loay hoay với bất lực trong vũng lầy của tội lỗi, lầm lạc, khốn cùng…thì còn đâu là một “Thiên Chúa tình yêu”, còn đâu một Thượng Đế toàn năng, toàn chân, thiện, mỹ” !

Chúa phải đến và Chúa đã đến: “Vừa tảng sáng Chúa đã đứng trên bãi biển”.

Thật ra, Chúa đã đứng đó từ lâu, Chúa đã thấy rõ bao nhiêu giọt mồ hôi và nước mắt, bao nhiêu lắng lo mệt nhọc của những người môn sinh nghèo hèn bé nhỏ, của những học trò vụng dại ngu ngơ.

Chúa đã đứng đó, đã chứng kiến bao vất vả nhọc nhằn, bao xót xa day dứt, bao tăm tối khổ sầu…của bao thân phận con người, bao gia đình nhân thế. Và thấy rồi, không phải Chúa cứ ngoãnh mặt quay đi và bỏ lại chúng ta bên bờ tuyệt vọng, như bao vị hiền nhân, như bao nhà chính khách, như bao lãnh tụ xưa nay. Không, Chúa đã đến, Chúa đã hiện diện, đã dọn sẵn cho chúng ta, cho nhân loại, “bữa điểm tâm tuyệt vời, đúng lúc và đầy thân thương tế nhị”. Những tấm bánh thơm, những con cá nhỏ trên ngọn lửa hồng bên bờ hồ Tibêriát ngày xưa, hay Bánh Thánh Thể hôm nay, các Nhiệm tích hôm nay ở giữa con thuyền Giáo Hội nào có khác chi đâu !

Bởi vì, tất cả đều đong đầy một ý nghĩa nhiệm mầu duy nhất: Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh. Vâng, chính sự hiện diện của Chúa đã đem lại nguồn hy vọng, niềm vui, lẽ sống, sự bình an, như cách diễn tả của thánh vịnh 29 mà cộng đoàn chúng ta vừa hát lên trong phần đáp vịnh ca: “Khúc ai ca, Chúa đổi thành vũ điệu. Lạy chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (ĐC).

Và như thế, thế giới không còn phải lo “Chúa có đến không ?”, con người khỏi phải ưu tư lo lắng “Chúa có trở về không ? Có ở đó không ?”. Điều còn lại làm sao chúng ta có được “đôi mắt sáng” của Thánh Gioan để mau mắn nhận ra “Chúa đó”, có thái độ nhiệt thành, cương quyết nhưng cũng đầy kính trọng thân thương của Phêrô “vội khoác áo vào vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển…” bơi thẳng về phía Đấng Phục Sinh…

Phải chăng ngày hôm nay ở giữa biển đời cuộc sống, hay ở giữa con thuyền Giáo Hội, hai tiếng “Chúa Đó“ cũng đang vọng về, vang lên qua Phụng Vụ, qua các Bí tích, qua những cuộc họp mừng của cộng đoàn Giáo Hội, qua những anh chị em bé nhỏ khó nghèo, qua những lời réo gọi của yêu cầu chứng nhân và truyền giáo nơi những vùng sâu vùng xa hay nơi những môi trường đang quay mặt với Thiên Chúa và những giá trị của Phúc Âm để quay cuồng trong cơn lốc của nền “văn hưởng thụ, văn minh sự chết…”

Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, xin hãy đến, hãy hiện diện và ban bình an cho chúng con. Chúng con đang cần sự hiện diện của Chúa biết bao. Alleluia, Alleluia.

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

[1] ĐGH Phanxicô, Tông huấn ĐỨC KITÔ HẰNG SỐNG (Viết tắt: ĐKHS), chuyển ngữ: Phạm Xuân Khôi. Các số 72,73,74:

72. Các Nghị Phụ của Thượng Hội Đồng đã đau lòng nhấn mạnh rằng “Nhiều người trẻ sống trong hoàn cảnh chiến tranh và chịu đựng bạo lực dưới vô số hình thức: bắt cóc, tống tiền, các nhóm tội phạm có tổ chức, buôn người, nô lệ và bóc lột tình dục, hãm hiếp trong chiến tranh, vv. Những người trẻ khác, vì đức tin của các em, rất khó tìm được công ăn việc làm trong xã hội của mình và chịu đựng nhiều kiểu ngược đãi khác nhau, thậm chí cả cái chết. Nhiều người trẻ, vì bị ép buộc hoặc thiếu các lựa chọn khác, đang sống trong tình trạng gây ra các tội ác và bạo lực: các binh lính trẻ em, các băng đảng vũ trang và tội phạm, buôn bán ma túy, khủng bố, vv. Bạo lực này làm tan vỡ nhiều đời sống của người trẻ. Những sự lạm dụng và nghiện ngập, cùng với bạo lực và những sự lầm đường lạc lối, là nhiều lý do trong các lý do khiến những người trẻ phải vào tù, với ảnh hưởng đặc biệt trong một số nhóm chủng tộc và xã hội nào đó”.

73. Nhiều người trẻ bị đầu độc tư tưởng, bị khai thác và bị dùng làm bia đỡ đạn hoặc như một lực lượng tấn công để tiêu diệt, đe dọa hoặc chế giễu người khác. Và tồi tệ nhất là nhiều em cuối cùng trở thành những kẻ theo cá nhân chủ nghĩa, thù nghịch và không còn tin tưởng người khác; như thế, các em dễ dàng trở thành mồi ngon của các đề nghị phi nhân và những kế hoạch phá hoại được dựng nên bởi các nhóm chính trị hoặc các quyền lực kinh tế.

74. Vẫn còn “nhiều người trên thế giới là những người trẻ phải chịu các hình thức loại trừ và bị đẩy ra ngoài lề xã hội, vì lý do tôn giáo, dân tộc hoặc kinh tế. Chúng ta hãy nhớ lại hoàn cảnh của những trẻ vị thành niên và thiếu nữ có thai, tệ nạn phá thai, cũng như sự lan tràn của HIV, các dạng nghiện ngập khác nhau (ma túy, trò chơi may rủi, tranh ảnh khiêu dâm, vv.) và tình trạng trẻ em và thanh thiếu niên sống ngoài đường phố vô gia cư, vô gia đình, và không có nguồn lợi kinh tế”. Và trong trường hợp các phụ nữ, những hoàn cảnh bị loại ra ngoài lề này còn trở nên đau đớn và khó khăn gấp đôi.

[2] Giám Đốc (Bề Trên) Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn 1930-1952 (Trang wikipedia)

[3] Rosie Nguyễn, TUỔI TRẺ ĐÁNG GIÁ BAO NHIÊU, nxb. Hội Nhà Văn 2019. Một tiểu mục trong Phần 1 mang tựa đề “NẾU TÔI CON CÒN HAI MƯƠI”, đề nghị 10 cách thực hiện để người trẻ xây dựng con người. Tr. 11-20.

[4] Sách được dịch sang tiếng Việt: BÌNH TĨNH KHI Ế, MẠNH MẼ KHI YÊU.

[5] Trích từ bài thơ “Khóc Bằng Phi” của vua Tự Đức. Tuy nhiên, tác giả thực của bài thơ vẫn còn tồn nghi.
 
Khóa sa mạc huấn luyện Thiêu Nhi Thánh Thể tại Fresno
Magarita Nguyễn Phương Lan
08:44 06/05/2019
Đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Linh Fresno thuộc Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang khóa sa mạc huấn luyện tông đồ đội trưởng và đội phó Sinai XIII diễn ra từ chiều ngày 3-5/05/2019, qui tụ gần 40 em thiếu nhi trong Đoàn.

Khóa sa mạc huấn luyện được tổ chức, điều hành bởi thầy Phó tế sa mạc trưởng Giuse Nguyễn Phi Hùng, Anh Chị Em Huynh Trưởng các cấp, cùng quý trợ tá trong Đoàn. Trong gần ba ngày, Thầy Phó tế và anh chị em Huynh Trưởng đã hướng dẫn các em sa mạc sinh tìm hiểu về lịch sử, tôn chỉ, bản chất và mục đích của phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể (TNTT). Song song với mục tiêu trên, Ban huấn luyện cũng dành rất nhiều thời gian giúp các em sa mạc sinh thực hành các sinh hoạt trong phong trào TNTT như: phương pháp hàng đội, chào cờ, băng reo, các bài hát sinh hoạt, cách lên nhận tua. Với mục đích mà nhắm tới là làm sao cho tất cả các em sa mạc sinh có kiến thức căn bản về TNTT. Hy vọng trong tương lai, đây sẽ là đội ngũ huynh trưởng, dự trưởng, đội trưởng nòng cốt trong việc duy trì gìn giử Văn Hóa Việt nơi Xứ Người và làm lớn mạnh phong trào TNTT đặc biệt Đoàn Thánh Linh Fresno.

Xem Hình

Ngoài những bài học chuyên môn trong phong trào TNTT các em sa mạc sinh dưới sự hướng dẫn của Thầy Phó tế, trợ tá Khanh, các em đã vào nhà thờ chào Chúa, cầu nguyện, Chầu Thánh Thể và xin ơn Chúa Giêsu người Anh Cả của Phong Trào để những ngày trại của các em là những ngày tập bước theo Giêsu, học với Ngài, chơi với Ngài.

Đặc biệt chiều thứ bảy có sự hiện diện của Cha Xứ Giuse Victor Đinh Toàn trong phần Chầu Thánh Thể và Ngài ở lại dùng bửa cơm chiều với các em sa mạc sinh đã nói lên tắm lòng thương yêu, lo lắng của vị Cha chung trong Giáo xứ.

Sau khi kết thúc phần lửa thiêng Đoàn TNTT Thánh Linh cũng không quên tháng 5 là Tháng Hoa Kính Đức Mẹ. Các em sa mạc sinh cùng Thầy Phó tế Giuse và toàn thể anh chị em Huynh Trưởng cùng Trợ tá đã rước kiệu tôn vinh Mẹ. Chúng con sốt sắng xin dâng lên Mẹ tràng chuỗi mân côi, và những ánh nến lung linh, tượng trưng cho lòng sốt mến của chúng con muốn bày tỏ trước tôn nhan Mẹ.

Chúa Nhật lúc 13h45 đã diễn ra nghi thức hạ cờ, chính thức khép lại khóa sa mạc huấn luyện tông đồ đội trưởng và đội phó Sinai XIII. Thế là mới đó mà đã phải chia tay nhau, nhưng cuộc chia tay này là để mở ra một tương lai mới, bước tiến mới đặc biệt cho đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể Thánh Linh Fresno.

Magarita Nguyễn Phương Lan
 
Giáo phận Xuân Lộc: Đêm Tôn Vinh Lòng Thương Xót Chúa
Nữ tu Teresa Ngọc Lễ, O.P
09:07 06/05/2019
Với Giáo phận Xuân Lộc, những thời khắc sống Năm Thánh Lòng Thương Xót ( 2015-2016) đã không khép lại, nhưng vẫn được nối tiếp, trải dài trong những năm Mục vụ kế tiếp sau đó với ước muốn của Đức Giám Mục Giáo phận “ biến Giáo phận Xuân Lộc trở thành thánh địa của Lòng Thương Xót Chúa”. Nhưng để sống, thực thi lòng thương xót Chúa với tha nhân, trước hết, từng người trong Giáo Phận cần phải “kín múc và cảm nghiệm Lòng thương xót của Thiên Chúa”

Trong những ý nghĩa đó, Đêm Tôn Vinh Lòng Thương Xót Chúa của Giáo phận được tổ chức vào chiều tối Chúa Nhật III Phục Sinh, 5/5/2019, tại khuôn viên Tòa Giám Mục và Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc, chính là để chuyển tải các ước nguyện của Đức Giám Mục Giáo phận, như lời Đức Cha đã ngỏ với Gia đình Giáo phận trong lời khai mạc. “Tối hôm nay, tại tiền sảnh Tòa Giám Mục, tôi hân hoan mời gọi toàn thể Gia đình Giáo phận hãy đón nhận và tôn vinh lòng thương xót của Chúa để tin tưởng ra đi làm cho cả Giáo Hội này được đổi mới nhờ được thấm nhuần lòng thương xót của Thiên Chúa bằng cách: quan tâm và gần gũi những anh chị em đau khổ bằng lòng thương xót, tưới gội mảnh đất Xuân Lộc, nhất là các gia đình bằng những nghĩa cử cảm thông và tha thứ, mời gọi mọi người trong xã hội học biết tha thứ cho nhau, tập xin lỗi Chúa thường xuyên mỗi khi lỗi lầm và tìm đến Chúa trong tòa giải tội khi có thể. Xin anh chị em, con cái Giáo phận Xuân Lộc hãy làm cho mọi người biết và tin là Chúa thương xót nhân loại lầm than tội lỗi bằng chính cuộc sống của mỉnh. Xin anh chị em hãy làm cho mọi người tin là lòng thương xót của Chúa có sức đổi mới lòng người và canh tân xã hội. Sau cùng, xin anh chị em hãy làm cho giáo phận chúng ta trở thành thánh địa của lòng Chúa thương xót.”

Xem Hình

Quả là một Đêm Tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa mang nhiều cảm xúc, sâu lắng và sốt sắng không chỉ của hơn 15.000 trái tim đang hiện diện, nhưng còn của của biết bao tâm hồn của con cái Giáo phận- vì lý do nào đó không thể tham dự trực tiếp - đang theo dõi phần Diễn nguyện, Thánh Lễ trên các phương tiện truyền thông. Một đêm của biết bao cảnh đời đang đau khổ về bệnh tật hay tinh thần, đau khổ trong gia đình, của tội nhân… đang rất cần đến lòng thương xót của Thiên Chúa. Nên trong đêm nguyện này, nhiều người già, người đau bệnh cũng đã đến, vì mong được hạnh phúc hơn khi nhận ra mình đã được Chúa xót thương.

Cũng đêm nay, sự hiện diện của Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski - trong vai trò đại diện Đức Thánh Cha - ở giữa Gia đình Giáo phận quả là một điều rất đặc biệt, cho thấy sự yêu thương, quan tâm của Đức Thánh Cha Phanxicô với toàn thể mọi thành phần trong Giáo phận Xuân Lộc. Bên cạnh đó, sự long trọng của đêm nay còn được dánh dấu với sự hiện diện của Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo - Giám Mục Giáo Phận, Đức Cha Cố Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, Đức Cha Gioan Đỗ Văn Ngân- Giám Mục Phụ Tá, Đức Ông Vinh Sơn Đặng Văn Tú, các linh mục, chủng sinh, tu sĩ và đặc biệt đông đảo anh chị em giáo dân tham dự.

Chương trình Diễn Nguyện được chia thành bốn phần gồm: Phần 1 “Ca mừng Chúa phục sinh- đỉnh cao của Lòng Chúa thương xót”, Phần 2 “Chiêm ngắm Lòng Chúa thương xót”, Phần 3 “Cảm nhận Lòng Chúa thương xót”, và “Thực thi Lòng Chúa thương xót”, phần 4. Dù là từng phần riêng biệt với những hình thức thể hiện khác nhau nhưng vẫn đảm bảo xuyên suốt nội dung đưa cộng đoàn đi vào từng phần thật trang trọng, tâm tình và cảm động.

Bằng hình thức nghệ thuật, phần 1 và 2 đã truyền thông sứ điệp về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa thật sâu lắng, giúp cộng đoàn từng bước chiêm ngắm và thấm sâu vào hồn vẻ đẹp tuyệt vời lòng Thiên Chúa thương xót nhân loại thật bao la, không sao tả xiết qua chính huyền nhiệm tình yêu trong Khổ Nạn và Phục Sinh. Xen kẽ trong những diễn nguyện là lời nguyện cầu, tiếng hát, lời kinh chung của cộng đoàn thật tha thiết, sốt mến ngợi ca và khẩn cầu Lòng Thương xót Chúa. Giữa một biển người bao la, giữa một không gian linh thánh, và giữa một thời khắc của đêm tối linh thiêng, thật quá tuyệt khi hàng ngàn, hàng ngàn môi miệng cất lên lời kinh ca vang, tôn vinh lòng thương xót Chúa.

Riêng với phần 3 và 4, cộng đoàn đã được nghe chứng từ của những cá nhân đã gặp được lòng thương xót của Chúa và được Chúa chữa lành. Đó là những lời chia sẻ trực tiếp từ một chàng trai trẻ bị khuyết tật thân xác do từ một tai nạn đến từ Giáo phận Hà Tĩnh, của một “Thảo Ma” – Hố Nai, Biên Hòa- đã từng lao vào ma túy đến hai thập niên chiều dài đời người, và mẹ của anh, người đã từng đau khổ, buồn chán và thất vọng khi có tới 4 người con vướng vào ma túy, nghiện ngập, tan cửa nát nhà. Cho đến những lời chứng của những chị em vì lỡ lầm– từ clip mà ban Tổ chức chương trình đã đi thực tế và phỏng vấn các chị tại Nhà Tạm lánh Mai Tiến - gặp được lòng thương xót Chúa nên họ đã giữ lại mạng sống của đứa trẻ con mình. Chính nhờ lòng Chúa thương xót, những bất hạnh, những bất hạnh hay đau khổ của con người đã vơi dần, được chữa lành, được biến đổi vì thấy mình được yêu thương, được tha thứ.

Đỉnh cao của Đêm Tôn Vinh Lòng Thương Xót Chúa là Thánh Lễ Đại Trào do Đức TGM Marek Zalewski chủ tế. Cùng đồng tế với Đức TGM là Đức Cha Chánh Giuse, Đức Cha Phụ Tá Gioan, quý Cha Hạt Trưởng, và quý Cha. Cùng hiệp thông tham dự Thánh Lễ sốt sắng phải kể đến rất đông bà con giáo dân, các tu sĩ, chủng sinh, và đặc biệt nhất là những bệnh nhân đang đau bịnh nhưng vẫn cố gắng luôn nâng tâm hồn lên Thiên Chúa trong suốt Thánh Lễ.

Lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống con người, là chủ đề ý tưởng suy niệm trong bài giảng của Đức TGM Marek Zalewski. “Lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người là một điều thật tuyệt vời”, được Đức Kitô thể hiện trong Mầu nhiệm Nhập Thể, Khổ nạn và Phục Sinh của Ngài. Chính vì lòng thương xót, Thiên Chúa đã chấp nhận chết cho chúng ta, cho cả kẻ phản bội và kẻ thù hận Ngài. Bí tích Thánh Thể là dấu tích của tình yêu mà Chúa Giêsu đã chấp nhận chết để trao ban cho con người. Lòng thương xót của Thiên Chúa trên lỗi tội con người khi Chúa Giêsu trao ban năng quyền giải tội của các tông đồ, các linh mục nhằm trao ban sự tha thứ mãi mãi của Thiên Chúa trên những hối nhân. “Lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là ân xá của một vị thẩm phán nhưng là vòng tay yêu thương, ôm ấp, vỗ về tội nhân mà chúng ta đang được hưởng nếm”. Đức TGM thêm rằng, qua lịch sử Giáo Hội, qua các thánh, nhất là các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhắc cho chúng ta “hãy tín thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa, cho dù tội lỗi của chúng ta có nặng nề biết mấy”, để rồi, chúng ta mở lòng mình ra để đón nhận sự tha thứ và tình yêu của Ngài. Để hiểu, cảm nếm và sống lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức TGM đưa ra ba ý tưởng: lòng thương xót của Thiên Chúa luôn luôn trung thành, có sức biến đổi và sinh hoa trái. Đây là những ý tưởng suy niệm được Đức TGM khai triển dựa trên Kinh Thánh, và nhất là các đoạn văn trong Tân Ước giúp cộng đoàn một lần nữa được chiêm ngắm, cầu nguyện và thôi thúc sự biến đổi, sinh hoa trái lòng thương xót của Thiên Chúa trên cuộc đời mình.

Trước khi kết thúc Thánh Lễ, mở đầu lời cám ơn đến quý Đức TGM, quý Đức Cha, quý Cha và cộng đoàn, Đức Cha Phụ Tá Gioan đã thốt lên rằng “Quả đúng là ‘Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này’” (Lc 19,9), bởi vì hôm nay, mọi người đã được lòng thương xót của Thiên Chúa chạm đến, cảm nhận được Chúa yêu thương. Và ngài thêm rằng, “một thời tiết thật đẹp, không mưa, không nắng nóng của chiều tối đêm nay so với những ngày trước đó” là một dấu chỉ bên ngoài có thể nhận thấy rõ về lòng thương xót của Thiên Chúa ban cho Gia đình Giáo phận.

Với những lời tri ân dâng lên Đức TGM Marek Zalewski, Đức Cha Gioan thưa rằng “Khi thực hiện nhiều cuộc thăm viếng trong những ngày gần đây tại Giáo phận Xuân lộc, Đức Tổng là hiện thân của Đức Thánh Cha, làm nên sự hiệp thông trong Giáo Hội, giáo huấn và giúp chúng con hiểu biết yêu mến Thiên Chúa và hiệp thông, trung thành với Giáo Hội” Từ đây, “khi cảm nghiệm lòng Chúa xót thương, chúng con hướng về Đức Thánh Cha Phanxicô, người Cha đã quan tâm yêu thương, mời gọi chúng con ra đi đến những vùng ngoại biên đem lòng thương xót của Chúa trải ra đến mọi anh em…chăm lo cho gia đình biểu lộ tình yêu Chúa Ba Ngôi.” Và, Đức Cha Phụ tá thay mặt cho toàn thể con cái Giáo phận Xuân Lộc, kính nhờ Đức TGM Marek Zalewski kính trình lên Đức Thánh Cha Phanxicô lời hứa “Toàn thể cộng đồng Giáo phận Xuân Lộc luôn yêu mến và trung thành với Đức Thánh Cha”.

Đồng thời, Đức Cha Gioan cũng thay mặt cộng đoàn dân Chúa Giáo phận để dâng lên Đức Cha Giuse và Đức Cha Cố Đa Minh lời tri ân sâu xa về tình hiền phụ với mọi con cái trong Giáo phận, làm cho “hương thơm của lòng thương xót Chúa được bay xa, và đậu lại trong sâu thẳm tâm hồn chúng con. Xin nhận nơi dây lòng biết ơn sâu xa của đoàn con.”

Với cộng đoàn, Đức Cha Gioan ngỏ lời “lúc này đây, là giáo sĩ, tu sĩ hay giáo dân…chúng ta đang muốn trao tay nhau trái tim của lòng thương xót với lời nguyện cầu của niềm vui ‘vì tên của anh em đã được ghi trên trời’. Ngài cũng không quên cám ơn toàn cộng đoàn, mọi thành phần, có mặt hay vắng mặt… vì đã bằng nhiều cách để cộng tác với Giáo phận làm cho Đêm Tôn Vinh Lòng Thương Xót được diễn ra trong lắng sâu, sốt sắng và cảm động.

Đêm Tôn vinh Lòng Thương Xót Chúa đã chỉ khép lại về mặt tổ chức, nhưng chắc chắn những cách sống tôn vinh lòng thương xót của Chúa sẽ ngày càng được con cái Giáo Phận nhân rộng, để mọi người, nhất là những người đau khổ, bất hạnh, lỗi tội sẽ cảm nếm và hát mãi khúc hoan ca “ Lạy Chúa, con tin tưởng, con tín thác vào lòng Chúa xót thương” và “xin cho con biết sống lòng thương xót của Chúa trên cuộc sống của con”.

Tin: Nữ tu Têrêsa Ngọc Lễ, O.P

Hình ảnh: TT Xuân Lộc
 
Giáo xứ Lam Điền TGP Hà Nội, ngày Chầu Mình Thánh Chúa
BTT. Giáo xứ Lam Điền
09:40 06/05/2019
Chúa Nhật, ngày 05.5.2019, giáo xứ Lam Điền Tgp. Hà Nội hân hoan chầu Mình Thánh Chúa thay mặt Giáo phận. Thật là một vinh dự lớn lao, một ngày trọng đại, ngày mà mọi người hân hoan vui mừng đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, Suối Nguồn ơn phúc để kín múc lấy muôn phúc lành cho Giáo phận và giáo xứ.

Xem Hình

Đúng giờ đã định, tiếng chuông nhà thờ vang lên, lời hát Cầu xin Chúa Thánh Thần được cất lên lôi kéo mọi người đến thờ lạy Chúa. Thánh Thể Chúa được trưng ra trong mặt nhật, mọi người cúi đầu và tiếng hát: Thờ lạy Chúa, thờ lạy Chúa uy quyền cao sáng… cứ thế vang lên … rồi lại: Thờ lạy Chúa Giêsu Kitô đang ngự trên bàn thờ…. Các xứ họ, hội đoàn đến hiệp thông thay phiên nhau tôn thờ Thánh Thể Chúa.

10 giờ 30, Thánh lễ đồng tế được cử hành do Cha Giuse Vũ Thanh Cảnh chủ tế, Cha Antôn Trịnh Duy Công giảng lễ. Với khiếu hài hước, ngài đã đã làm cho cộng đoàn phụng vụ sốt sáng thêm sinh động.

Sau Thánh lễ, Thánh Thể lại được trưng ra cho mọi người thờ lạy. Đến 16 giờ 00, cuộc cung nghinh Thánh Thể chung quanh làng và nhà thờ bắt đầu giúp các tín hữu tin thật Chúa Giêsu đang ngự trong Phép Mình Thánh, mọi người thờ lạy, tạ ơn và xin ơn Chúa.

BTT. Giáo xứ Lam Điền
 
Nhà thờ chính tòa Bùi Chu: tương lai sẽ ra sao?
Lm. John Trần Công Nghị
18:12 06/05/2019
Hôm 30/4/2019, đài BBC Tiếng Việt ở London có liên lạc với tôi và muốn phỏng vấn về việc phá dỡ Nhà thờ chính tòa Bùi Chu. Phóng viên muốn tôi trả lời giúp một số vấn nạn như sau: Giáo phận Bùi Chu diễn giải là “hạ giải, đại tu”, nhưng các kiến trúc sư cho rằng thực chất là đập đi xây mới; và cần muốn biết ý kiến của tôi như thế nào về việc trên: Có phải phá đi rồi làm mới lại? Thứ đến đài muốn biết ý kiến và thái độ của tôi thế nào đối với những công trình tôn giáo lâu đời như Nhà thờ chính tòa Bùi Chu?...

Tôi đã trả ngay là vì tôi ở xa cũng chỉ nghe biết vậy chứ không nắm vững vấn đề nên không thể có nhận định chính xác được.

Tiếp đến tôi cho họ số phone và địa chỉ email của Tòa Giám Mục để họ tiếp xức trực tiếp với Giám mục thẩm quyền hay là vị đại diện chính thức thì sẽ có thể có câu trả lời xác đáng.

Sau khi BBC liên lạc được với Tòa Giám Mục Bùi Chu, phóng viên của BBC là ông Bebjamin Ngo lại liên lạc lại với tôi và muốn biết ý kiến và nhận định riêng của tôi. Tôi cũng trả lời là không đủ thẩm quyền và nắm vững vấn đề nên vẫn không thể trả lời được.

Tiếp đến tôi có tìm hiểu và đọc qua một số bài báo, các kiến nghị, các nhận định của một số kiến trúc sư, và nhất là quan điểm của một số các linh mục và giáo dân Bùi Chu… tôi vẫn không biết thực chất của vấn đề như thế nào.

Mấy hôm trước đây tôi có cho đăng trên trang VietCatholic một lá thư của ông Anthony Minh Vũ với tựa đề: “Đừng Bức Xúc, Xin Hãy Bình Tâm! Nhân vụ giáo phận Bùi Chu chuẩn bị gỡ bỏ Nhà thờ Chính toà 134 tuổi để xây dựng nhà thờ Chính toà mới”, mà như ông diễn tả thì có vẻ là tiếng nói phần nào tiêu biểu cho linh mục và giáo dân Bùi Chu. Tuy nhiên thực hư thế nào: Đây có phải là tiếng nói đại diện cho toàn hàng linh mục và giáo dân Bùi Chu thì chưa rõ.

Do vậy tôi gọi telephone cho Linh mục Vũ Hân là người bạn lâu năm và ngài hiện đang là Linh mục Đại diện của Đức Cha Toma Vũ Đình Hiệu của Bùi Chu tại Hoa Kỳ để soi sáng vấn đề.

Qua cuộc nói chuyện tôi cho cha Hân biết vụ dỡ nhà thờ chính tòa Bùi Chu đang nóng lên và sôi động lắm đó, cha Hân có biết rõ vụ này như thế nào không, trùng tu? đại tu? Dỡ đi làm lại hay là phá đi làm lại…?

Cha Hân cho biết Ngài có được Đức Cha Hiệu cho biết đúng là sẽ dỡ đi và xây lại nhà thờ mới, đồng thời Đức Cha Hiệu cũng có một số các chuyên viên kỹ sư, chuyên viên nghệ thuật của Ngài đề đánh giá xem cần phải làm gì… Sau cả vài năm trời suy đi tính lại thì linh mục và giáo dân Bùi Chu cũng như chuyên viên của Đức Cha đống ý là cẫn dỡ đi làm lại.

Tôi cũng nói Cha Hân là tình hình có vẻ xôi động lắm đó, có cách nào liên lạc với Đức Cha Hiệu và xem xét nên chăng cần thêm chút thời gian hoãn lại việc dỡ bỏ nhà thờ trong lúc này không?

Cha Hân cho biết nếu có hoãn thì phải hoãn cả năm chứ không chỉ mấy tháng.

Tôi cũng nêu ra vấn đề khác tuy không có vẻ gì là liên quan trực tiếp nhưng có thể là một yếu tố để cân nhắc: Sở dĩ Nhà thờ Thủ Thiêm và Tu viện Mến Thánh Giá Thủ Thiêm mới đây được giữ lại không bị nhà cầm quyền quy hoạch là chính vì lý do lịch sử gần 200 năm của nơi này. Được chính Tòa Đại sứ Canada và quốc tế lên tiếng vì tính cách lâu đời lịch sử của Nhà thờ Thủ Thiêm và Dòng Mến Thánh Giá!

Thêm vào đó từ trước tới nay chưa bao giờ từng xẩy ra ở Việt Nam là một nhóm trí thức, chuyên gia, nghệ thuật gia, kiến trúc sư không phải là người Công Giáo lại lên tiếng “cứu nguy” một thánh đường Công Giáo!

Rồi tiếp đến Cục Di sản văn hóa (Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch) có văn bản do ông Trần Đình Thành, Cục phó Di sản văn hóa, ký ngày 2/5 nêu đã nhận được đơn kiến nghị của nhóm kiến trúc sư đề nghị bảo tồn nhà thờ Bùi Chu. Vì vậy, Cục đề nghị tỉnh Nam Định kiểm tra, đề xuất giải pháp về việc này, báo cáo trước 6/5.

Tiếp đến, ngày 3/5, nhóm Bảo vệ di sản Việt Nam (Save Heritage VietNam) gửi thư thỉnh nguyện đến Đức Giáo Hoàng Phanxicô, xin giải cứu nhà thờ Bùi Chu. Trong thư, nhóm cho rằng "không thể mô tả toàn diện vẻ đẹp với lối kiến trúc pha trộn Đông Dương bản địa và Ba Rốc (Tây Ban Nha) và trên hết là các giá trị phi vật thể trong lịch sử của ngôi thánh đường này". Kết cấu của nhà thờ Bùi Chu "có thể đứng vững nhiều thế kỷ".

Trước tình hình như vừa nêu trên, vậy có nên chăng cần thêm chút thì giờ và có cuộc lý giải và bàn luận công khai và minh bạch để sau này khỏi bị kết án là phá đi một công trình lịch sử, mà một khi đã dỡ bỏ đi rồi thì không thể thay thế lại được.

LM. John Trần Công Nghị
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Điêu Khắc Từ Trời
Nguyễn Đức Cung
08:37 06/05/2019
ĐIÊU KHẮC TỪ TRỜI
Ảnh của Nguyễn Đức Cung

Ngắm xem điêu khắc của Trời
Tạ ơn Chúa cả tuyệt vời thương ban.
(nđc)
 
VietCatholic TV
Ảnh Đức Mẹ tuyệt đẹp trong buổi đọc Kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng tại Nevsky, Sofia
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:08 06/05/2019
Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Trong ngày đầu tiên của chuyến tông du Bảo Gia Lợi, sau các cuộc gặp gỡ với tổng thống, thủ tướng, các đại diện xã hội dân sự và đoàn ngoại giao, Đức Thánh Cha đã đến thăm xã giao Ðức Thượng Phụ Neophyte, là Giáo chủ Chính Thống Bảo Gia Lợi, cùng với Thánh Hội Đồng của Giáo Hội này.

Lúc 13g, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng với các tín hữu tại Quảng trường Thánh Nevsky. Trong diễn từ trước khi đọc kinh, Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Chúa Kitô đã sống lại!


Với những lời này, các Kitô hữu - Chính thống và Công Giáo - ở đây, tại Bảo Gia Lợi này, từ thời cổ đại đã chào đón nhau trong mùa Phục sinh: Christos vozkrese! Những lời này nói lên niềm vui tuyệt vời đối với chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô trước cái ác, và cái chết. Những lời ấy là một lời khẳng định và là một bằng chứng cho chính cốt lõi của đức tin chúng ta: Chúa Kitô vẫn sống! Ngài là niềm hy vọng của chúng ta, và một cách tuyệt vời, Ngài mang sự trẻ trung đến với thế giới của chúng ta. Mọi thứ Ngài chạm vào đều trở nên trẻ trung, mới mẻ, tràn đầy sức sống. Thành thử, những từ đầu tiên mà tôi muốn ngỏ với mỗi anh chị em là: Chúa Kitô vẫn sống và Ngài muốn anh chị em được sống! Người ở trong anh chị em, Người ở bên anh chị em và Người không bao giờ bỏ rơi anh chị em. Người đồng hành cùng anh chị em. Dù anh chị em có lang thang xa đến đâu, Người, là Đấng Phục sinh, sẽ luôn ở đó. Người liên tục mời gọi anh chị em, Người chờ anh chị em quay lại với Người và làm lại từ đầu. Ngài không bao giờ sợ làm lại từ đầu: Ngài luôn đưa tay ra cho chúng ta để bắt đầu lại, để đứng dậy và bắt đầu lại từ đầu. Khi anh chị em cảm thấy mình già đi vì sầu buồn - nỗi buồn làm chúng ta già đi – hay vì oán giận hoặc sợ hãi, nghi ngờ hoặc thất bại, Ngài sẽ luôn ở đó để khôi phục sức mạnh và hy vọng của anh chị em (x. Christus Vivit, 1-2). Ngài đang sống, Ngài muốn anh chị em sống và Ngài sánh bước cùng anh chị em.

Đức tin nơi Chúa Kitô, Đấng sống lại từ trong kẻ chết, đã được loan báo trong hai ngàn năm qua ở mọi nơi trên thế giới, nhờ vào nỗ lực truyền giáo quảng đại của rất nhiều tín hữu, được kêu gọi hiến dâng hoàn toàn và vị tha cho Tin Mừng. Trong lịch sử của Giáo hội, cũng tại Bảo Gia Lợi này, đã có nhiều mục tử nổi bật vì sự thánh thiện trong cuộc đời họ. Trong số đó, tôi nhớ ngay đến người tiền nhiệm của mình, là người mà anh chị em gọi là “vị Thánh của Bảo Gia Lợi”, đó là Thánh Giáo Hoàng XXIII, một mục tử thánh thiện có trí nhớ đặc biệt được tôn vinh ở vùng đất này, nơi ngài từng sống từ năm 1925 đến 1934. Ở đây, ngài học được cách quý trọng các truyền thống của Giáo hội Đông phương và xây dựng mối quan hệ thân thiện với những niềm tin tôn giáo khác. Kinh nghiệm ngoại giao và mục vụ của ngài ở Bảo Gia Lợi đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim mục tử của ngài đến mức đã dẫn dắt ngài đến việc thúc đẩy trong Giáo hội triển vọng đối thoại đại kết, là điều đã nhận được một sự cổ vũ đáng kể trong Công đồng Vatican II, mà ngài mong muốn triệu tập. Theo một nghĩa nào đó, chúng ta có thể cảm ơn vùng đất này vì sự khôn ngoan và trực giác linh hứng của “vị Giáo hoàng Gioan tốt lành”.

Theo đuổi hành trình đại kết này, tôi sẽ sớm có được niềm vui chào đón các đại diện của nhiều tôn giáo khác nhau của Bảo Gia Lợi, trong một quốc gia Chính thống, là một ngã tư, nơi các biểu hiện tôn giáo đa dạng gặp gỡ nhau và tham gia đối thoại. Sự hiện diện rất đáng hoan nghênh trong cuộc họp này của đại diện các cộng đồng khác nhau là một dấu chỉ cho thấy mong muốn của tất cả mọi người theo đuổi hành trình ngày càng cần thiết đối với văn hóa đối thoại như một con đường; sự hợp tác với nhau như nguyên tắc ứng xử; sự hiểu biết hỗ tương như là phương pháp và tiêu chuẩn (Tài liệu về tình huynh đệ của con người, Abu Dhabi, ngày 4 tháng 2 năm 2019).

Chúng ta thấy mình ở gần nhà thờ cổ kính thánh Sofia, và bên cạnh đó là Nhà thờ Thánh Aleksander Nevsky, nơi tôi vừa cầu nguyện để kính nhớ hai thánh Cyrilô và Methôđiô, những nhà truyền giáo của các dân tộc Slav. Như một bằng chứng cho lòng kính trọng và tình cảm của tôi đối với Giáo Hội Chính thống giáo Bảo Gia Lợi đáng kính này, tôi đã có niềm vui được chào đón và ôm lấy anh mình là Đức Thượng Phụ Neofit và các vị Tổng Giám Mục của Thánh Hội đồng.

Bây giờ chúng ta hãy hướng về Đức Trinh Nữ Maria, Nữ vương của trời và đất, xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa Phục sinh, xin Người ban cho vùng đất yêu dấu này động lực cần thiết để luôn là một vùng đất của sự gặp gỡ. Một vùng đất trong đó, vượt qua mọi khác biệt về tôn giáo và văn hóa, anh chị em có thể tiếp tục thừa nhận và quý trọng lẫn nhau như con của cùng một Cha trên trời. Chúng ta cầu xin bằng bài hát của lời cầu nguyện cổ kính, là Kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng. Chúng ta đưa ra lời nguyện này ở đây, ở Sofia này, trước ảnh Đức Mẹ Nessebar. Danh xưng này có nghĩa là “Cửa Thiên đàng”, rất thân thiết với người tiền nhiệm của tôi là Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII. Ngài đã bắt đầu tôn kính Mẹ ở Bảo Gia Lợi này và mang Mẹ theo cùng ngài cho đến giờ lâm tử.

Lạy Nữ Vương Thiên đàng hãy vui mừng, alleluia!


Source:Libreria Editrice Vaticana
 
Niềm vui gặp gỡ Đức Thánh Cha trong thánh lễ tại tại Quảng trường Knyaz Alexandar I
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
21:31 06/05/2019
Trong ngày đầu tiên của chuyến tông du Bảo Gia Lợi, sau các cuộc gặp gỡ với tổng thống, thủ tướng, các đại diện xã hội dân sự và đoàn ngoại giao, Đức Thánh Cha đã đến thăm xã giao Ðức Thượng Phụ Neophyte, là Giáo chủ Chính Thống Bảo Gia Lợi, cùng với Thánh Hội Đồng của Giáo Hội này.

Lúc 13g, Đức Thánh Cha đã đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng với các tín hữu tại Quảng trường Thánh Nevsky.

Ban chiều, lúc 16g45, Ðức Thánh Cha đã cử hành thánh lễ cho các tín hữu Công Giáo tại Quảng trường Knyaz Alexandar I.

Trong bài giảng, Đức Thánh Cha nói:


Anh chị em thân mến,

Chúa Kitô đã sống lại! Christos vozkrese!

Thật tuyệt vời khi biết rằng các Kitô hữu ở đất nước anh chị em dùng những lời này để chào nhau trong niềm vui Chúa sống lại suốt mùa Phục sinh.

Toàn bộ trình thuật chúng ta vừa nghe, rút ra từ những trang cuối cùng của Tin mừng, giúp chúng ta đắm mình trong niềm vui này là điều mà Chúa yêu cầu chúng ta truyền bá, vì nó nhắc nhở chúng ta về ba điều tuyệt vời là một phần trong cuộc sống của chúng ta với tư cách là các môn đệ: đó là Chúa gọi, Chúa gây ngạc nhiên, và Chúa yêu.

Chúa gọi. Mọi thứ diễn ra trên bờ hồ Galilê, nơi đầu tiên Chúa Giêsu gọi Phêrô. Ngài đã kêu gọi ông bỏ lại công việc đánh cá của mình để trở thành một người chài lưới người (x. Lc 5: 4-11). Bây giờ, sau tất cả những gì đã xảy ra với ông, sau kinh nghiệm nhìn thấy Thầy mình chết và nghe tin tức về sự phục sinh của Ngài, Phêrô trở về với nghề cũ. Ông nói với các môn đệ khác, “Tôi đi đánh cá đây”. Và họ đáp: “Chúng tôi sẽ đi với anh” (Ga 21: 3). Họ dường như lùi lại một bước; Phêrô cầm lấy lưới mà ông đã bỏ lại để theo Chúa Giêsu. Sức nặng của sự đau khổ, thất vọng và sự phản bội đã trở thành như một hòn đá đè nặng lên những con tim của các môn đệ. Họ vẫn còn mang nặng trong lòng nỗi đau và cảm giác tội lỗi, và tin mừng phục sinh chưa bén rễ trong lòng họ.

Chúa biết cám dỗ muốn quay lại mọi thứ như trước đây quyến rũ chúng ta mạnh mẽ biết chừng nào. Trong Kinh thánh, những chiếc lưới của Phêrô, giống như những nồi thịt trên đất Ai Cập, là biểu tượng của một nỗi nhớ đầy cám dỗ về quá khứ, của một ao ước lấy lại những gì chúng ta đã quyết định bỏ lại sau lưng. Khi đối mặt với thất bại, tổn thương, hoặc thậm chí với thực tế là đôi khi mọi thứ không diễn ra như chúng ta mong muốn, luôn có một cám dỗ tinh tế và nguy hiểm khiến chúng ta trở nên chán nản và bỏ cuộc. Đây là tâm lý ngôi mộ nhuộm màu mọi thứ với sự thất vọng và khiến chúng ta đắm chìm trong cảm giác dịu dàng tự thương hại, giống như một con sâu bướm, ăn mòn tất cả hy vọng của chúng ta. Sau đó, điều tồi tệ nhất có thể xảy ra với bất kỳ cộng đồng nào bắt đầu xuất hiện – đó là chủ nghĩa thực dụng nghiệt ngã của một cuộc sống trong đó mọi thứ dường như diễn ra bình thường, trong khi thực tế, đức tin đang suy sụp và suy thoái thành những tư tưởng vụn vặn (x. Tông huấn Niềm Vui Phúc Âm, 83).

Nhưng chính vào là lúc thất bại của Phêrô, Chúa Giêsu hiện ra, bắt đầu lại từ đầu, kiên nhẫn đến với ông và gọi ông là “Simon” (câu 15) – đó là tên Phêrô nhận được trong lần đầu tiên được Chúa gọi. Chúa không chờ đợi những tình huống hoàn hảo hay chờ cho tâm trí được định hình: Ngài tạo ra chúng. Ngài không trông đợi có thể gặp được những người không có vấn đề, không thất vọng, không vướng mắc tội lỗi hay những giới hạn. Chính Ngài đã đương đầu với tội lỗi và sự thất vọng để khuyến khích tất cả những người nam nữ hãy bền đỗ. Anh chị em ơi, Chúa không bao giờ mệt mỏi kêu gọi chúng ta. Sức mạnh của Ngài là sức mạnh của một Tình yêu đảo ngược mọi kỳ vọng và luôn sẵn sàng bắt đầu lại. Trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa luôn cho chúng ta một cơ hội khác. Ngài mời gọi chúng ta từng ngày để làm sâu sắc thêm tình yêu của chúng ta dành cho Ngài và được hồi sinh bởi sự mới mẻ vĩnh cửu của Người. Mỗi buổi sáng, Ngài đến tìm chúng ta. Ngài triệu tập chúng ta “đứng dậy theo lời của Ngài, tìm kiếm và nhận ra rằng chúng ta đã được tạo ra cho trời, chứ không phải cho đất, cho đỉnh cao của cuộc sống chứ không phải cho chiều sâu của cái chết”, và đừng tìm kiếm “người sống trong những kẻ chết”(Bài giảng Đêm Vọng Phục Sinh, ngày 20 tháng 4 năm 2019). Khi chúng ta chào đón Ngài, chúng ta vươn lên cao hơn và có thể nắm lấy một tương lai tươi sáng hơn, không phải như một khả năng mà là một thực tế. Khi tiếng gọi của Chúa Giêsu hướng dẫn cuộc sống của chúng ta, trái tim của chúng ta trẻ trung hơn lên.

Chúa gây bất ngờ. Ngài là Chúa của những điều bất ngờ. Ngài mời chúng ta không chỉ ngạc nhiên, mà còn tạo ra những điều đáng ngạc nhiên. Chúa gọi các môn đệ và, khi nhìn thấy họ với những tấm lưới trống rỗng, Ngài bảo họ làm một điều kỳ lạ: thả lưới vào ban ngày, một điều gì đó khá lạ thường nơi hồ nước đó. Ngài làm sống lại niềm tin của họ bằng cách thúc giục họ một lần nữa chấp nhận rủi ro, không từ bỏ bất cứ ai hay bất cứ điều gì. Ngài là Chúa của những bất ngờ, là Đấng phá vỡ những rào cản đang làm tê liệt chúng ta bằng cách đong đầy chúng ta với sự can đảm cần thiết để vượt qua sự hoài nghi, bất tín và nỗi sợ thường ẩn nấp đằng sau những suy nghĩ cho rằng “Chúng tôi đã luôn luôn làm những việc này như thế”. Chúa làm chúng ta ngạc nhiên mỗi khi Ngài gọi và yêu cầu chúng ta ra khơi lịch sử không chỉ bằng những chiếc lưới của chúng ta, mà bằng chính bản thân chúng ta. Ngài mời gọi chúng ta nhìn vào cuộc sống của chúng ta và của những người khác như Ngài, vì “đứng trước tội lỗi, Ngài thấy con trai và con gái Ngài được phục hồi; trước cái chết, anh chị em được tái sinh; trong hoang tàn, các con tim được hồi sinh. Vậy thì đừng sợ: Chúa yêu cuộc sống của anh chị em, ngay cả khi anh chị em sợ phải nhìn vào nó và giữ nó trong tay.” (thượng dẫn)

Bây giờ chúng ta có thể chuyển sang điều tuyệt vời thứ ba: Chúa mời gọi và Chúa gây ngạc nhiên, vì Chúa yêu. Tình yêu là ngôn ngữ của Người. Đó là lý do tại sao Ngài yêu cầu Phêrô và chúng ta học ngôn ngữ đó. Ngài hỏi Phêrô: “Anh có yêu mến Thầy không? “Và Phêrô nói có; sau khi dành quá nhiều thời gian với Chúa Giêsu, giờ đây ông hiểu rằng yêu thương đồng nghĩa với việc ngừng đặt mình vào vị trí trung tâm. Giờ đây ông đặt Chúa Giêsu, chứ không phải chính mình, là điểm khởi đầu: “Thầy biết tất cả mọi sự” (Ga 21:18), ông nói. Phêrô nhận ra yếu điểm của mình; ông nhận ra rằng ông không thể tự mình tạo ra tiến bộ. Và ông dựa vào Chúa và sức mạnh của tình yêu của Người, cho đến tận cùng.

Chúa yêu thương chúng ta: đây là nguồn sức mạnh của chúng ta và chúng ta được yêu cầu tái khẳng định điều đó mỗi ngày. Trở thành Kitô hữu là một lời hiệu triệu để nhận ra rằng tình yêu của Thiên Chúa lớn hơn tất cả những thiếu sót và tội lỗi của chúng ta. Một trong những thất vọng và khó khăn lớn của chúng ta ngày nay không bắt nguồn từ nhận thức rằng Thiên Chúa là tình yêu, mà là từ cách thế chúng ta tuyên xưng và làm chứng cho Người khiến cho nhiều người nghĩ rằng đó không phải là danh của Người. Thiên Chúa là tình yêu, một tình yêu ban tặng chính mình, mời gọi và gây ra những bất ngờ.

Ở đây chúng ta thấy phép lạ của Thiên Chúa, Đấng biến cuộc sống của chúng ta thành những tác phẩm nghệ thuật, nếu chúng ta để mình được dẫn dắt bởi tình yêu của Người. Nhiều nhân chứng của lễ Phục sinh ở vùng đất được chúc phúc này đã tạo ra những kiệt tác tuyệt vời, khi được linh hứng từ đức tin đơn sơ và tình yêu vĩ đại. Trao ban cuộc sống của mình, họ trở thành những dấu chỉ sống động của Chúa, vượt qua sự thờ ơ với lòng can đảm và đưa ra một đáp trả Kitô đối với những mối quan tâm mà họ gặp phải (x. Christus Vivit, 174). Hôm nay chúng ta được mời gọi để ngước mắt lên và thừa nhận những gì Chúa đã làm trong quá khứ, và cùng Người bước đi trong tương lai, biết rằng, dù chúng ta thành công hay thất bại, Ngài sẽ luôn ở đó tiếp tục bảo chúng ta hãy thả lưới.

Ở đây tôi muốn nhắc lại những gì tôi đã nói với những người trẻ trong Tông huấn gần đây của tôi. Một Giáo hội trẻ, không trẻ về mặt tuổi tác nhưng trẻ trung trong ân sủng của Thánh Linh, đang mời gọi chúng ta làm chứng cho tình yêu của Chúa Kitô, một tình yêu truyền cảm hứng và hướng dẫn chúng ta gắng sức vì thiện ích chung. Tình yêu này cho phép chúng ta phục vụ người nghèo và trở thành nhân vật chính của cuộc cách mạng bác ái và phục vụ, có khả năng chống lại các bệnh lý của chủ nghĩa tiêu dùng và chủ nghĩa cá nhân hời hợt. Tràn ngập tình yêu của Chúa Kitô, anh chị em hãy là những chứng nhân sống động của Tin Mừng ở mọi góc của thành phố này (x. Christus Vivit, 174-175). Đừng sợ trở thành những vị thánh mà vùng đất này đang rất cần. Đừng sợ sự thánh thiện. Nó sẽ không lấy đi năng lượng của anh chị em, nó sẽ không lấy đi sức sống hay niềm vui của anh chị em. Trái lại, anh chị em và tất cả con trai và con gái của vùng đất này sẽ trở thành những gì mà Chúa Cha có trong tâm trí khi Người tạo ra anh chị em (x. Tông huấn Mừng rỡ Hân hoan, 32).

Hãy là những người được mời gọi, bỡ ngỡ và được sai đi cho tình yêu!


Source:Libreria Editrice Vaticana