Phụng Vụ - Mục Vụ
Thánh Lễ Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay 10/3/2019 dành cho những người không thể đến nhà thờ
VietCatholic Network
00:45 09/03/2019
Bài Ðọc I: Ðnl 26, 4-10
“Dân được chọn tuyên xưng đức tin”.
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Thầy tư tế nhận của đầu mùa từ tay ngươi và đem đặt trước bàn thờ của Chúa là Thiên Chúa ngươi, và ngươi sẽ nói trước mặt Chúa là Thiên Chúa rằng: “Tổ phụ con là Aramêô du mục đã đi xuống Ai-cập và sống ở đó như ngoại kiều với một ít người; và đã phát triển thành một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Các người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạvà bắt chúng con làm việc nặng nhọc. Chúng con đã kêu cầu Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, và Chúa đã nghe lời chúng con, đã nhìn thấy cảnh thống khổ, cực nhọc và khốn cùng của chúng con. Chúa đã dùng bàn tay mạnh, cánh tay hùng, dùng những biến cố khủng khiếp và những dấu lạ phi thường mà dẫn chúng con ra khỏi Ai-cập. Chúa đưa chúng con đến đây, ban cho chúng con xứ này, một xứ chảy sữa và mật. Và vì thế, lạy Chúa, giờ đây con dâng tiến Chúa những của đầu mùa, hoa màu ruộng đất mà Chúa đã ban cho con”. Ngươi sẽ đem đặt nó trước mặt Chúa là Thiên Chúa ngươi và sấp mình trước tôn nhan Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 90, 1-2. 10-11. 12-13. 14-15
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân (x. c. 15b).
Xướng: Bạn sống trong sự che chở của Ðấng Tối Cao, bạn cư ngụ dưới bóng của Ðấng Toàn Năng. Hãy thưa cùng Chúa: Chúa là chiến luỹ, nơi con nương náu, lạy Chúa con, con tin cậy ởNgài.
Xướng: Tai nạn không đến gần được bạn, và oan ương không bén mảng tới nhà bạn ở. Vì Chúa ra lệnh cho các Thiên Thần Ngài săn sóc bạn, để chư vị đó gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường.
Xướng: Chư vị đó bồng bế bạn trên tay, để bạn khỏi vấp chân vào đá. Trên mình hổ mang, rắn lục bạn bước đi, bạn đạp chân trên sư tử và giao long. - Ðáp.
Xướng: Vì người quý mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời, Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân, Ta sẽ cứu gỡ và làm vinh dự cho người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 10, 8-13
“Kẻ tin tưởng tuyên xưng đức tin trong Chúa Kitô”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, Thánh Kinh nói gi? Lời ở kề trong miệng và trong lòng người. Ðó là lời đức tin mà chúng tôi rao giảng. Vì nếu miệng ngươi tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa, và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: “Hễ ai tin vào Người sẽ không phải hổ thẹn”. Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đói với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Phúc Âm: Lc 4, 1-13
“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”.
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”.
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Ðó là lời Chúa.
“Dân được chọn tuyên xưng đức tin”.
Trích sách Ðệ Nhị Luật.
Ông Môsê nói cùng dân chúng rằng: “Thầy tư tế nhận của đầu mùa từ tay ngươi và đem đặt trước bàn thờ của Chúa là Thiên Chúa ngươi, và ngươi sẽ nói trước mặt Chúa là Thiên Chúa rằng: “Tổ phụ con là Aramêô du mục đã đi xuống Ai-cập và sống ở đó như ngoại kiều với một ít người; và đã phát triển thành một dân tộc vĩ đại, hùng mạnh và đông đúc. Các người Ai-cập đã ngược đãi, hành hạvà bắt chúng con làm việc nặng nhọc. Chúng con đã kêu cầu Chúa là Thiên Chúa cha ông chúng con, và Chúa đã nghe lời chúng con, đã nhìn thấy cảnh thống khổ, cực nhọc và khốn cùng của chúng con. Chúa đã dùng bàn tay mạnh, cánh tay hùng, dùng những biến cố khủng khiếp và những dấu lạ phi thường mà dẫn chúng con ra khỏi Ai-cập. Chúa đưa chúng con đến đây, ban cho chúng con xứ này, một xứ chảy sữa và mật. Và vì thế, lạy Chúa, giờ đây con dâng tiến Chúa những của đầu mùa, hoa màu ruộng đất mà Chúa đã ban cho con”. Ngươi sẽ đem đặt nó trước mặt Chúa là Thiên Chúa ngươi và sấp mình trước tôn nhan Người.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 90, 1-2. 10-11. 12-13. 14-15
Ðáp: Lạy Chúa, xin hãy ở cùng con trong lúc gian truân (x. c. 15b).
Xướng: Bạn sống trong sự che chở của Ðấng Tối Cao, bạn cư ngụ dưới bóng của Ðấng Toàn Năng. Hãy thưa cùng Chúa: Chúa là chiến luỹ, nơi con nương náu, lạy Chúa con, con tin cậy ởNgài.
Xướng: Tai nạn không đến gần được bạn, và oan ương không bén mảng tới nhà bạn ở. Vì Chúa ra lệnh cho các Thiên Thần Ngài săn sóc bạn, để chư vị đó gìn giữ bạn trên khắp nẻo đường.
Xướng: Chư vị đó bồng bế bạn trên tay, để bạn khỏi vấp chân vào đá. Trên mình hổ mang, rắn lục bạn bước đi, bạn đạp chân trên sư tử và giao long. - Ðáp.
Xướng: Vì người quý mến Ta, Ta sẽ giải thoát cho, Ta sẽ che chở người bởi lẽ người nhìn biết danh Ta. Người sẽ kêu cầu Ta và Ta sẽ nhậm lời, Ta sẽ ở cùng người trong lúc gian truân, Ta sẽ cứu gỡ và làm vinh dự cho người. - Ðáp.
Bài Ðọc II: Rm 10, 8-13
“Kẻ tin tưởng tuyên xưng đức tin trong Chúa Kitô”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, Thánh Kinh nói gi? Lời ở kề trong miệng và trong lòng người. Ðó là lời đức tin mà chúng tôi rao giảng. Vì nếu miệng ngươi tuyên xưng Ðức Giêsu là Chúa, và lòng ngươi tin rằng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, thì ngươi sẽ được rỗi. Quả thế, tin trong lòng thì sẽ được công chính, tuyên xưng ngoài miệng sẽ được cứu rỗi. Vì Thánh Kinh đã có nói: “Hễ ai tin vào Người sẽ không phải hổ thẹn”. Bởi lẽ không có sự phân biệt người Do-thái và Hy-lạp: Vì là cùng một Chúa của mọi người, Ngài rộng rãi đói với tất cả mọi người khẩn xin cùng Ngài. Vì mọi kẻ cầu khẩn Danh Ngài, đều được cứu độ.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 4,4b
Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Phúc Âm: Lc 4, 1-13
“Thánh Thần thúc đẩy Chúa vào hoang địa, và chịu cám dỗ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu được đầy Thánh Thần, liền rời vùng sông Giođan và được Thánh Thần đưa vào hoang địa ở đó suốt bốn mươi ngày, và chịu ma quỷ cám dỗ. Trong những ngày ấy, Người không ăn gì và sau thời gian đó, Người đói. Vì thế, ma quỷ đến thưa Người: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy truyền cho đá này biến thành bánh đi”. Chúa Giêsu đáp: “Có lời chép rằng: Người ta không phải chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng lời Chúa nữa”.
Rồi ma quỷ lại đem Người lên cao hơn cho xem ngay một lúc tất cả các nước thiên hạ và nói với Người rằng: “Tôi sẽ cho ông hết thảy quyền hành và vinh quang của các nước này, vì tất cả đó là của tôi và tôi muốn cho ai tuỳ ý. Vậy nếu ông sấp mình thờ lạy tôi, thì mọi sự ấy sẽ thuộc về ông!” Nhưng Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi phải thờ lạy Chúa là Thiên Chúa ngươi và chỉ phụng thờ một mình Người thôi”.
Rồi ma quỷ lại đưa Người lên Giêrusalem, để Người trên góc tường cao đền thờ và bảo rằng: “Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì hãy gieo mình xuống, vì có lời chép rằng: “Chúa sẽ truyền cho Thiên Thần gìn giữ ông!” Và còn thêm rằng: “Các vị đó sẽ giơ tay nâng đỡ ông khỏi vấp phải đá”. Chúa Giêsu đáp lại: “Có lời chép rằng: Ngươi đừng thử thách Chúa là Thiên Chúa ngươi!” Sau khi làm đủ cách cám dỗ, ma quỷ rút lui để chờ dịp khác.
Ðó là lời Chúa.
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:01 09/03/2019
54. ĂN CÁ NÓC
Nghe người ta nói ăn cá nóc có mùi vị thơm ngon béo ngậy, hai vợ chồng nhà nọ đặc biệt đi mua về vài con, sau khi xào nấu thì chuẩn bị nếm thử, nhưng đột nhiên nhớ lại ăn cá nóc sẽ bị ngộ độc mà chết, thế là chồng kêu vợ ăn trước, bà vợ cũng yêu cầu chồng ăn trước.
Nhưng vợ không cưỡng lại được chồng đành phải ăn trước, lúc cầm đũa gắp cá, thì chảy nước mắt nói:
- “Ăn thì tôi ăn trước, chỉ xin ông gắng mà lo cho hai đứa con, sau khi chúng nó lớn lên, thì tiên vàn đừng mua cá nóc mà ăn.” (Tiếu phủ)
Suy tư 54:
Đã biết trước ăn cá nóc là phải chết vậy mà không chịu đem đổ đi, cố ép nhau ăn làm chi để rồi khóc lóc trối trăn.
Làm người Ki-tô hữu thì ai cũng biết nếu làm những điều trái với lương tâm là có tội, lỗi luật Chúa là có tội, nhưng vẫn cứ phạm tội thì đó là người mê.
Cá nóc chắc chắn là có mùi vị thơm béo nhưng ăn là chết vì nọc độc ở trong nó nếu không cẩn thận chế biến, cũng vậy, trước khi phạm tội thì phải có cám dỗ, mà cám dỗ nào cũng hấp dẫn tâm hồn lòng dạ thị hiếu của con người, nhưng nó là nọc độc của ma quỷ, do đó mà Chúa muốn chúng ta phải thức tỉnh để thấy và phân biệt đâu là cám dỗ của ma quỷ và đâu là sự thử thách của Thiên Chúa.
Có nhiều người Ki-tô hữu biết là tội nhưng vẫn cứ phạm vì không dứt khoác với cơn cám dỗ, cũng như hai vợ chồng biết ăn cá nóc là chết mà vẫn cứ ăn...
Thiên Chúa ban cho chúng ta một trí khôn là để chúng ta biết lựa chọn điều tốt để thực hành và loại bỏ các điều xấu, nếu vẫn cứ sa đà trong tội khi trí khôn đã biết là tội, thì chúng ta đã không dùng trí khôn cho đúng như ý muốn của Thiên Chúa.
Biết ăn cá nóc là chết mà vẫn cứ ăn thì sẽ bị coi là ngu, nhưng sẽ bị coi là ngu vô cùng nếu chúng ta -người Ki-tô hữu- biết phạm tội trọng là sa hoả ngục chết mất linh hồn mà vẫn cứ phạm....
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Nghe người ta nói ăn cá nóc có mùi vị thơm ngon béo ngậy, hai vợ chồng nhà nọ đặc biệt đi mua về vài con, sau khi xào nấu thì chuẩn bị nếm thử, nhưng đột nhiên nhớ lại ăn cá nóc sẽ bị ngộ độc mà chết, thế là chồng kêu vợ ăn trước, bà vợ cũng yêu cầu chồng ăn trước.
Nhưng vợ không cưỡng lại được chồng đành phải ăn trước, lúc cầm đũa gắp cá, thì chảy nước mắt nói:
- “Ăn thì tôi ăn trước, chỉ xin ông gắng mà lo cho hai đứa con, sau khi chúng nó lớn lên, thì tiên vàn đừng mua cá nóc mà ăn.” (Tiếu phủ)
Suy tư 54:
Đã biết trước ăn cá nóc là phải chết vậy mà không chịu đem đổ đi, cố ép nhau ăn làm chi để rồi khóc lóc trối trăn.
Làm người Ki-tô hữu thì ai cũng biết nếu làm những điều trái với lương tâm là có tội, lỗi luật Chúa là có tội, nhưng vẫn cứ phạm tội thì đó là người mê.
Cá nóc chắc chắn là có mùi vị thơm béo nhưng ăn là chết vì nọc độc ở trong nó nếu không cẩn thận chế biến, cũng vậy, trước khi phạm tội thì phải có cám dỗ, mà cám dỗ nào cũng hấp dẫn tâm hồn lòng dạ thị hiếu của con người, nhưng nó là nọc độc của ma quỷ, do đó mà Chúa muốn chúng ta phải thức tỉnh để thấy và phân biệt đâu là cám dỗ của ma quỷ và đâu là sự thử thách của Thiên Chúa.
Có nhiều người Ki-tô hữu biết là tội nhưng vẫn cứ phạm vì không dứt khoác với cơn cám dỗ, cũng như hai vợ chồng biết ăn cá nóc là chết mà vẫn cứ ăn...
Thiên Chúa ban cho chúng ta một trí khôn là để chúng ta biết lựa chọn điều tốt để thực hành và loại bỏ các điều xấu, nếu vẫn cứ sa đà trong tội khi trí khôn đã biết là tội, thì chúng ta đã không dùng trí khôn cho đúng như ý muốn của Thiên Chúa.
Biết ăn cá nóc là chết mà vẫn cứ ăn thì sẽ bị coi là ngu, nhưng sẽ bị coi là ngu vô cùng nếu chúng ta -người Ki-tô hữu- biết phạm tội trọng là sa hoả ngục chết mất linh hồn mà vẫn cứ phạm....
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 1 MC)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:03 09/03/2019
Chúa Nhật I MÙA CHAY
( Năm C )
Tin mừng: Lc 4, 1-13
“Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ.”
Bạn thân mến,
Mở đầu tuần thứ nhất của mùa chay năm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về việc Đức Chúa Giê-su bị ma quỷ cám dỗ ba lần, và mời gọi chúng ta cùng nhau học hỏi Đức Chúa Giê-su biết bình tỉnh cậy vào ơn Chúa để đối phó với cám dỗ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
1. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Cám dỗ thứ nhất của ma quỷ đó là hưởng thụ xác thịt qua việc ăn uống.
Ăn uống là chuyện bình thường của con người, nhưng ăn uống để có sức khoẻ và ăn uống để hưởng thụ thoả mãn xác thịt thì không giống nhau, con người ta càng được no nê thân xác thì càng sinh ra nhiều điều bất lợi cho phần linh hồn vì những đòi hỏi của xác thịt, do đó tiết chế trong ăn uống là điều cần thiết không những cho hợp vệ sinh mà còn là phù hợp với tinh thần Phúc Âm...
2. “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Cám dỗ thứ hai của ma quỷ là tìm cách đưa con người vào tham mê quyền lực và vật chất.
Con người ta thường hay bị cám dỗ về quyền lực và sùng bái, một phần vì để chứng tỏ mình không thua ai, phần khác là vì để thỏa lòng tham vọng của mình với mọi người cho nên không quản ngại gì mà không tìm cách đoạt lấy quyền lực khi cơ hội đến. Có quyền lực thì sẽ có tiền và có vật chất, cho nên ma quỷ thường hay lợi dụng những ngừơi có chức quyền để làm nên công cụ cho sự dữ, nếu những người ấy không có tâm hồn khiêm tốn và yêu thương...
3. “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Cám dỗ thứ ba của ma quỷ là thử thách lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Con người ta khi đã có đầy đũ mọi thứ để hưởng thụ thì lại quay về với bản tính kiêu ngạo của mình và nghi ngờ vào Đấng Thiên Chúa toàn năng, họ đem cái giàu có chức quyền của mình ra thách thức Thiên Chúa, họ phủ nhận cái mà họ có không phải tự Thiên Chúa mà đến nhưng là bởi họ làm ra...
Bạn thân mến,
Ma quỷ đã đánh gục thế gian với những cám dỗ trên, nhưng nó lại bị ngã gục trước sự khôn ngoan và can đảm của Đức Chúa Giê-su, chính nó đã lôi kéo rất nhiều người theo nó nhưng lại cúi mặt chạy dài khi cám dỗ Ngài, điều đó cũng đã chứng minh cho tên cám dỗ biết rằng, con người ta ngoài việc ăn uống để sống thì còn có thứ lương thực quý báu hơn nhiều đó chính là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa.
Trong mùa chay này, cám dỗ của ma quỷ sẽ tăng thêm gấp bội trên chúng ta, do đó mà chúng ta cần phải tỉnh thức đề phòng, phải noi gương của Đức Chúa Giê-su: chay tịnh, cầu nguyện và luôn kết hợp với Cha trên trời, có như thế tên cám dỗ sẽ rút lui khi cám dỗ chúng ta, và mùa chay sẽ trở nên mùa hồng ân cho tất cả mọi người.
Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
( Năm C )
Tin mừng: Lc 4, 1-13
“Đức Giê-su được Thánh Thần dẫn vào hoang địa và chịu cám dỗ.”
Bạn thân mến,
Mở đầu tuần thứ nhất của mùa chay năm nay, Giáo Hội cho chúng ta nghe bài Tin Mừng về việc Đức Chúa Giê-su bị ma quỷ cám dỗ ba lần, và mời gọi chúng ta cùng nhau học hỏi Đức Chúa Giê-su biết bình tỉnh cậy vào ơn Chúa để đối phó với cám dỗ trong cuộc sống hàng ngày của mình.
1. “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh”.
Cám dỗ thứ nhất của ma quỷ đó là hưởng thụ xác thịt qua việc ăn uống.
Ăn uống là chuyện bình thường của con người, nhưng ăn uống để có sức khoẻ và ăn uống để hưởng thụ thoả mãn xác thịt thì không giống nhau, con người ta càng được no nê thân xác thì càng sinh ra nhiều điều bất lợi cho phần linh hồn vì những đòi hỏi của xác thịt, do đó tiết chế trong ăn uống là điều cần thiết không những cho hợp vệ sinh mà còn là phù hợp với tinh thần Phúc Âm...
2. “Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi”.
Cám dỗ thứ hai của ma quỷ là tìm cách đưa con người vào tham mê quyền lực và vật chất.
Con người ta thường hay bị cám dỗ về quyền lực và sùng bái, một phần vì để chứng tỏ mình không thua ai, phần khác là vì để thỏa lòng tham vọng của mình với mọi người cho nên không quản ngại gì mà không tìm cách đoạt lấy quyền lực khi cơ hội đến. Có quyền lực thì sẽ có tiền và có vật chất, cho nên ma quỷ thường hay lợi dụng những ngừơi có chức quyền để làm nên công cụ cho sự dữ, nếu những người ấy không có tâm hồn khiêm tốn và yêu thương...
3. “Ngươi chớ thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi”.
Cám dỗ thứ ba của ma quỷ là thử thách lòng tin của chúng ta vào Thiên Chúa.
Con người ta khi đã có đầy đũ mọi thứ để hưởng thụ thì lại quay về với bản tính kiêu ngạo của mình và nghi ngờ vào Đấng Thiên Chúa toàn năng, họ đem cái giàu có chức quyền của mình ra thách thức Thiên Chúa, họ phủ nhận cái mà họ có không phải tự Thiên Chúa mà đến nhưng là bởi họ làm ra...
Bạn thân mến,
Ma quỷ đã đánh gục thế gian với những cám dỗ trên, nhưng nó lại bị ngã gục trước sự khôn ngoan và can đảm của Đức Chúa Giê-su, chính nó đã lôi kéo rất nhiều người theo nó nhưng lại cúi mặt chạy dài khi cám dỗ Ngài, điều đó cũng đã chứng minh cho tên cám dỗ biết rằng, con người ta ngoài việc ăn uống để sống thì còn có thứ lương thực quý báu hơn nhiều đó chính là Lời Hằng Sống của Thiên Chúa.
Trong mùa chay này, cám dỗ của ma quỷ sẽ tăng thêm gấp bội trên chúng ta, do đó mà chúng ta cần phải tỉnh thức đề phòng, phải noi gương của Đức Chúa Giê-su: chay tịnh, cầu nguyện và luôn kết hợp với Cha trên trời, có như thế tên cám dỗ sẽ rút lui khi cám dỗ chúng ta, và mùa chay sẽ trở nên mùa hồng ân cho tất cả mọi người.
Xin Chúa chúc lành cho chúng ta.
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
08:05 09/03/2019
102. Tay của Giáo Hội thì ngọt như kẹo mạch nha, dù cho nhìn lúc nghiêm khắc.
(Thánh Pi-ô Năm Dấu)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
-----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
CN I Mùa Chay : Để Khỏi Bị Chuột Cắn Thôi Mà !
Giuse Trương Đình Hiền
21:01 09/03/2019
CN I Mùa Chay : Để Khỏi Bị Chuột Cắn Thôi Mà !
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Suy niệm :
Cuộc hành trình mùa Chay của người Kitô hữu đã bắt đầu. Chiến đấu để gữ cho được “chiếc áo rách”, biểu tượng của sự liêm khiết, thanh thoát, khó nghèo…của Phúc Âm, chẳng phải dễ dàng.
Nếu người tu sĩ trong câu chuyện ngụ ngôn trên đã xa rời cái lý tưởng siêu thoát với lý do ban đầu rất giản đơn : “Giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”, thì cũng có bao nhiêu người Kitô hữu đã xa rời lý tưởng Phúc Âm, đánh mất “chiếc áo trắng của ngày thanh tẩy”, cũng bắt đầu từ những “lý do rất giản đơn, rất hợp lý, rất nhân bản…!” : “Chỉ một trái cấm thôi mà”, “chỉ một chiếc bánh đơn cho khỏi đói thôi mà”, “chỉ một công việc, một phương tiện để ổn định cuộc sống thôi mà”, “chỉ một bờ vai, một điểm tựa để cuộc đời đỡ cô đơn, tẻ nhạt thôi mà”… !
Vâng. Chắc chắn Đức Kitô đã trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ cũng với những chiêu trò “đơn giản…thôi mà” nhưng rất tinh vi và nguy hiểm chết người đó ! Và dĩ nhiên, Ngài đã chiến đấu kịch liệt với thứ vũ khí mang tên “Lời Chúa” : “Đã có lời chép rằng…!”; và đã chiến thắng cách khó khăn, sau khi đã phải trả giá cho sự toàn thắng cuối cùng bằng cái chết thập giá : “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30); “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Trong cái “mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng” (Kinh Tổng nguyện Lễ Tro) nầy, người Kitô hữu được gọi mời “học biết Đức Kitô, và dõi theo gương Người” (Kinh Tổng nguyện CN I MC) để cùng chiến đấu và chiến thắng với Người và trong Người.
Giuse Trương Đình Hiền
CN 1 MC 2019
Chuyện nhà Phật kể: Có một tu sĩ theo thầy học đạo đã lâu năm. Thấy anh đã tiến bộ nhiều, Thầy cho anh sống tự lập. Anh dựng một túp lều đơn sơ giữa cánh đồng. Ngày ngày ngoài thời gian khất thực, anh chuyên tâm đọc kinh cầu nguyện. Anh chỉ có độc một manh áo. Cứ chiều tối, anh giặt áo, phơi khô, để sáng hôm sau có áo mặc. Cạnh lều anh ở, có con chuột đêm đêm bò ra cắn chiếc áo anh phơi. Buổi sáng, anh phải đi tìm kim chỉ vá áo. Buổi tối, chuột lại bò ra cắn. Sau nhiều lần vá, anh sợ manh áo sẽ nát, nên quyết định nuôi một con mèo. Con mèo ăn khoẻ nên thức ăn xin được không đủ. Anh phải cấy lúa để có thêm thức ăn nuôi mèo. Vì cấy lúa, anh phải nuôi bò để cày ruộng. Bận rộn với việc đồng áng, anh không còn giờ đọc kinh cầu nguyện. Một thiếu nữ trong làng tình nguyện giúp, anh vui vẻ nhận lời. Vì có thêm người, nên anh phải lo làm nhà cửa cho khang trang. Chẳng bao lâu anh trở thành chủ gia đình có vợ, có con, có nhà cao cửa rộng, có ruộng đất, có đàn bò. Ít lâu sau, Thầy anh trở lại, nhìn nhà cửa, ruộng nương, trâu bò, Thầy ngạc nhiên hỏi anh: “Tất cả những thứ này, tại sao thế?” Anh trả lời: “Tất cả chỉ vì con muốn giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”.
Suy niệm :
Cuộc hành trình mùa Chay của người Kitô hữu đã bắt đầu. Chiến đấu để gữ cho được “chiếc áo rách”, biểu tượng của sự liêm khiết, thanh thoát, khó nghèo…của Phúc Âm, chẳng phải dễ dàng.
Nếu người tu sĩ trong câu chuyện ngụ ngôn trên đã xa rời cái lý tưởng siêu thoát với lý do ban đầu rất giản đơn : “Giữ cho manh áo khỏi bị chuột cắn”, thì cũng có bao nhiêu người Kitô hữu đã xa rời lý tưởng Phúc Âm, đánh mất “chiếc áo trắng của ngày thanh tẩy”, cũng bắt đầu từ những “lý do rất giản đơn, rất hợp lý, rất nhân bản…!” : “Chỉ một trái cấm thôi mà”, “chỉ một chiếc bánh đơn cho khỏi đói thôi mà”, “chỉ một công việc, một phương tiện để ổn định cuộc sống thôi mà”, “chỉ một bờ vai, một điểm tựa để cuộc đời đỡ cô đơn, tẻ nhạt thôi mà”… !
Vâng. Chắc chắn Đức Kitô đã trải qua cơn cám dỗ của ma quỷ cũng với những chiêu trò “đơn giản…thôi mà” nhưng rất tinh vi và nguy hiểm chết người đó ! Và dĩ nhiên, Ngài đã chiến đấu kịch liệt với thứ vũ khí mang tên “Lời Chúa” : “Đã có lời chép rằng…!”; và đã chiến thắng cách khó khăn, sau khi đã phải trả giá cho sự toàn thắng cuối cùng bằng cái chết thập giá : “Mọi sự đã hoàn tất” (Ga 19,30); “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).
Trong cái “mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng” (Kinh Tổng nguyện Lễ Tro) nầy, người Kitô hữu được gọi mời “học biết Đức Kitô, và dõi theo gương Người” (Kinh Tổng nguyện CN I MC) để cùng chiến đấu và chiến thắng với Người và trong Người.
Giuse Trương Đình Hiền
CN 1 MC 2019
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Một trăm năm Công Giáo chống chủ nghĩa Cộng Sản
Vũ Văn An
19:57 09/03/2019
Khoảng thời gian 100 năm qua kể từ năm 1917 tới năm 2017 được kể là thời kỳ tóm lược bản tin mừng đầu hết (protoevangelium), lúc Thiên Chúa nói với con rắn rằng “Ta sẽ đặt mối thù giữa ngươi và người đàn bà”. Cuộc chiến 100 năm qua nói lên giai đoạn rõ nét nhất của mối thù này. Nó bắt đầu năm 1917 với cả việc mạc khải của Đức Mẹ Fatima lẫn cuộc Cách Mạng Cộng Sản Nga vô thần. Trong 100 năm qua, cái cơ thể kitô giả vô hình kia đã mặc lấy hình thức kệch cỡm nhất của nó trong chủ nghĩa duy vật vô thần, hiện thân nơi các chính phủ theo chủ nghĩa xã hội và cộng sản khắp nơi trên thế giới. Con rắn đã trở thành Con Thủy Quái Leviathan. Trước “Cách Mạng Tháng Mười”, tại Fatima, Đức Mẹ đã cảnh cáo về Nước Nga rồi, hồi tháng 7 năm 1917; ngài nói rằng “Nước này sẽ gieo rắc các sai lầm của nó ra khắp thế giới, gây ra nhiều cuộc chiến tranh và bách hại Giáo Hội”. Những điều khác, như ta biết, nay đã thành lịch sử.
Trong tháng và năm kỷ niệm lần thứ 100 Cách Mạng Tháng Mười này, thiển nghĩ nên nhớ lại “đại họa Satan” như lời Đức Piô XII từng mô tả, từng giáng xuống thế giới qua các mưu chuớc thâm độc của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Điều này đặc biệt quan trọng khi giai cấp ưu tú và cảm tình viên văn hóa Tây Phương, đã từ lâu, vốn đang tìm cách tối thiểu hóa các tội ác của chủ nghĩa Mácxít, điều mà tờ The New York Times làm gần đây qua “hàng loạt những hồi ức thân thương và nuối tiếc về những ngày xưa thân ái của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ 20” như nhận định của tờ The Federalist. Có lẽ nay là lúc duyệt lại những trò tồi bại của “thế kỷ đỏ” bằng cách đọc những tác phẩm như The Black Book of Communism (Sách Đen về Chủ Nghĩa Cộng Sản) hay Quần Đảo Gulag của Solzhenitsyn, xem những cuốn phim như The Killing Fields.
Thế còn chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 thì sao? Chỉ cần đọc các hàng tít lớn của báo chí về Venezuela. Trước đây không lâu, Venezuela vốn là một nước thịnh vượng, giầu nhờ dầu hỏa, một phép lạ của chủ nghĩa xã hội! Nay, sau 18 năm của chủ nghĩa Mácxít Chavez-Maduro, nó là đáy hỏa ngục xã hội chủ nghĩa. Nhiều người trong nước có nguy cơ chết đói, buộc phải ăn trộm ăn cắp, ăn cả các con thú trong sở thú… Điều đáng buồn, đấy không phải là những khác thường của trải nghiệm xã hội chủ nghĩa mà là chuyện thường tình của trải nghiệm này. Tuy nhiên, các món đó có thể hợp khẩu vị hơn là cỏ và vỏ cây ở quốc gia nhà tù Bắc Hàn. Các sự kiện của lịch sử cho thấy những tên mị dân Cộng Sản từng sát hại tới 140 triệu người (như Tiến Sĩ Paul Kengor trích trong The Politically Incorrect Guide to Communism) từ Lenin tới Stalin tới Mao tới Pol Pot tới Kim Jong-un tới Chavez tới Che và Fidel. Danh sách còn dài. Dù sao, Lenin có lần nói rằng bạn phải đập vài chiếc trứng mới làm được món trứng chiên; 140 triệu chiếc trứng đã bị đập, để làm một món trứng chiên!
Ngược lại, Giáo Hội chưa bao giờ bị lừa bởi những trò bịp bợm của chủ nghĩa xã hội và cộng sản. Ngay từ đầu, hết thông điệp này đến thông điệp nọ đã phê phán ý thức hệ sai lầm của Marx và Hegel. Thực vậy, Sách Giáo Lý của Giáo Hội Công Giáo nói rõ: “Giáo Hội vốn bác bỏ các ý thức hệ toàn trị và vô thần có liên hệ với ‘chủ nghĩa cộng sản’ hay ‘chủ nghĩa xã hội’ thời nay” (số 2425).
Sách Giáo Lý vắn tắt chỉ có thế, nhưng các thông điệp của các vị giáo hoàng thì nhiều chi tiết hơn và thẳng thừng lên án.
Năm 1846, Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố Qui Pluibus (Về Đức Tin và Tôn Giáo), đánh thẳng vào Marx, người sẽ cho công bố Tuyên Ngôn Cộng Sản vào năm 1848. Đức Piô IX viết về “lý thuyết Cộng Sản không thể nói được”, một lý thuyết : “hết sức trái nghịch với chính luật tự nhiên. Vì nếu lý thuyết này được chấp nhận, thì đây là ngày tàn hoàn toàn của luật lệ, chính phủ, tư hữu của mọi người và thậm chí chính xã hội con người cũng sẽ sụp đổ theo”. Ngài cảnh cáo chống lại “các kế sách đen tối nhất của những con người đội lốt chiên mà thực ra bên trong là những con chó sói săn mồi”.
Năm 1878, Đức Giáo Hoàng Leo XIII viết về các sự ác của chủ nghĩa xã hội trong Quod Apostolici Muneris (Về Chủ Nghĩa Xã Hội). Ngài bắt đầu thông điệp bằng cách nói tới “nạn đại dịch chết người đang lan vào chính kết cấu xã hội con người và dẫn nó tới bờ tiêu diệt”.Sau đó, Đức Leo XIII đơn cử “nhóm người, dưới nhiều danh xưng khác nhau và gần như man rợ, gọi là người xã hội chủ nghĩa, cộng sản chủ nghĩa, hay hư vô chủ nghĩa, và là những người, rải rác khắp thế giới, và liên kết với nhau bằng những mối dây găn bó chặt chẽ trong một liên minh xấu xa, không còn cách dấu diếm trong các cuộc họp bí mật nữa, nhưng, một cách công khai và dạn dĩ đã tiến thẳng ra ánh sáng ban ngày, và mưu toan đem lên hàng đầu điều chúng đã đặt kế hoạch từ lâu, tức việc lật đổ mọi xã hội dân sự bất kể thuộc loại nào”.
Thông điệp cũng cảnh giác rằng các người xã hội chủ nghĩa tìm cách tiêu diệt hôn nhân và gia đình. Đối với các người xã hội chủ nghĩa, không thể có bất cứ lòng trung thành gắn bó nào đối với Thiên Chúa và gia đình, mà chỉ trung thành gắn bó với Nhà Nước đầy quyền năng mà thôi. Đức Giáo Hoàng Leo quả quyết rằng “Nền tảng của xã hội này trước hết hệ ở cuộc kết hợp bất khả tiêu của chồng và vợ phù hợp với sự cần thiết của luật tự nhiên”. Ấy thế nhưng, “các lý thuyết xã hội chủ nghĩa mưu toan gần như hoàn toàn tiêu hủy cuộc kết hợp này”.
Mười ba năm sau, tức năm 1891, Đức Giáo Hoàng Leo XIII lại công bố một thông điệp nữa về lao động và tư bản và giai cấp lao động trong Rerum Novarum, văn kiện nền tảng của giáo huấn xã hội Công Giáo thời hiện đại. Ngài viết: “Để sửa chữa các sai lầm này, các người xã hội chủ nghĩa, dựa trên lòng ghen ghét người giầu của người nghèo, mưu toan dẹp bỏ quyền tư hữu…” Giáo Hội tuyên bố điều này “hoàn toàn không công chính”, và “phương thuốc họ đề nghị rõ ràng chống lại công lý. Vì, mọi người, do bản chất của họ, đều có quyền sở hữu tư làm của riêng”.
Chủ nghĩa xã hội xây dựng trên ý niệm tham của người (coveting), vi phạm các điều răn thứ chín và thứ mười. Rerum Novarum chỉ rõ điều đó: “Thẩm quyền thiên luật qui định thêm bằng cách ngăn cấm ta, bằng những từ ngữ nghiêm khắc nhất, không được tham muốn những của vốn thuộc về người khác”. Chủ nghĩa xã hội cũng được xây dựng trên ý niệm sai lầm là đấu tranh giai cấp. Ở đây nữa, Đức Giáo Hoàng Leo XIII bác bỏ sai lầm của nó: “ý niệm cho rằng giai cấp này tự nhiên thù nghịch giai cấp kia, và người giầu và người lao động, từ bản chất, vốn đã được định phải sống trong cảnh tranh chấp lẫn nhau. Quan điểm này phi lý và sai lầm đến chỗ trực tiếp mâu thuẫn với sự thật”.
Cũng như trong các thông điệp trước đó, Đức Leo XIII, một lần nữa, đã bênh vực các định chế gia đình và hôn nhân chống lại các cuộc tấn công của chủ nghĩa xã hội: “gia đình… có các quyền lợi và nghĩa vụ đặc thù đối với chính nó, hoàn toàn độc lập đối với Nhà Nước. Do đó, ý kiến tranh cãi cho rằng chính phủ dân sự nên có quyền can thiệp vào và thi hành quyền kiểm soát chặt chẽ đối với gia đình và gia hộ là một sai lầm lớn lao và nguy hại”.
Năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô XI ban hành thông điệp Quadragesimo Anno nhân dịp kỷ niệm 40 năm thông điệp Rerum Novarum, thông điệp mà nó gọi là “Đại Hiến Chương” của giáo huấn xã hội Công Giáo. Đức Giáo Hoàng Piô thẳng thừng quả quyết rằng “Ta đưa ra lời tuyên bố sau đây: bất kể được coi như một lý thuyết, hay một sự kiện lịch sử, hoặc một phong trào, chủ nghĩa xã hội… hoàn toàn xa lạ đối với sự thật của Kitô Giáo”. Ngài còn đi xa hơn bằng cách quả quyết rằng “Giống mọi sai lầm khác, nếu chủ nghĩa xã hội chứa đựng một sự thật nào đó, thì nó vẫn dựa vào một lý thuyết về xã hội con người của riêng nó mà thôi và không thể hòa giải với Kitô Giáo chân chính. Chủ nghĩa xã hội tôn giáo, chủ nghĩa xã hội Kitô Giáo, là những hạn từ mâu thuẫn; không ai một lúc vừa là người Công Giáo tốt vừa là người xã hội chủ nghĩa đích thực”.
Nhưng còn chủ nghĩa xã hội nhẹ nhàng (socialism-lite) thì sao? Đức Piô cũng bác bỏ cả hình thức này nữa một các khá sức tích: “Ta cũng tập trung chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội một lần nữa để phê phán và thấy mọi hình thức của chúng, cả hình thức được biến cải hơn cả, đều sa lạc khỏi các giới điều của Tin Mừng”. Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII sau đó cũng đã lặp lại điểm vừa nói trong thông điệp Mater et Magistra năm 1961; ngài nói: “Đức Giáo Hoàng Piô XI đã nhấn mạnh hơn nữa việc chống chọi hết sức nền tảng giữa chủ nghĩa cộng sản và Kitô Giáo, và làm mọi người hiểu rõ rằng không một người Công Giáo nào có thể ủng hộ ngay cả hình thức xã hội chủ nghĩa ôn hòa”.
Nói cho ngay, Đức Piô cũng đòi chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tư bản cực đoan phải tôn trọng nhân phẩm của người lao động, tức những người “không thể bị mua bán như một món hàng”. Ngài chỉ rõ: điều cần không phải là một phản ứng quá đáng, như các người xã hội chủ nghĩa đề nghị, nhằm tiêu diệt toàn bộ hệ thống thị trường tự do, nhưng đúng hơn, “phương thuốc thứ nhất và cần thiết nhất là cải tổ nền luân lý”. Lập trường của Giáo Hội luôn luôn là một phương thức quân bình, bảo vệ quyền lợi của cả chủ nhân lẫn công nhân qua việc quay về với đức ái Kitô Giáo và quan tâm đến người lân cận của mình.
Đức Giáo Hoàng Piô để lại lời phê phán nghiêm khắc nhất của ngài đối với “đại dịch Cộng Sản”. Ngài mô tả nó bằng những dòng và những đoạn như: “cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng nghỉ và cuộc tận diệt tuyệt đối quyền tư hữu”; “sử dụng mỗi một và mọi phương tiện, cả các phương tiện bạo động nhất”; “sự độc ác và bất nhân của nó”; “cuộc sát hại và tiêu diệt kinh hoàng”; “nó công khai thù nghịch đối với Giáo Hội Thánh Thiện và với chính Thiên Chúa”; “đặc điểm vô đạo đức và vô đạo lý của chủ nghĩa cộng sản”; “dùng bạo lực và sát hại, nó tìm cách tiêu diệt cả xã hội”; “dọn đường cho việc lật đổ và tiêu diệt xã hội”.
Đức Giáo Hoàng Piô XI chưa lấy làm đủ. Năm 1937, ngài ban hành một thông điệp khác, Divini Redemptoris, về chủ nghĩa cộng sản vô thần. Ngài không cần gìn giữ ý tứ chi nữa. Ngài khuyên “các tín hữu đừng để mình bị đánh lừa! Chủ nghĩa cộng sản sai lầm từ nội tại, và không ai sẵn sàng muốn cứu nền văn minh Kitô Giáo lại có thể hợp tác với nó trong bất cứ việc gì”. “Nó là một hệ thống đầy sai lầm và ngụy biện”. Thông điệp này nhằm trực tiếp vào “mối nguy hiểm cận kề” đặt ra bởi “chủ nghĩa cộng sản Bônxêvích và vô thần, nhằm lật nhào trật tự xã hội và phá hoại chính các nền tảng của nền văn minh Kitô Giáo”.
Chủ nghĩa cộng sản đặc biệt xảo quyệt khi nó “cướp mất mọi phẩm giá của con người nhân bản”. “Không hề có sự thừa nhận bất cứ quyền lợi nào của cá nhân trong mối tương quan của họ với tập thể”. Trong tập thể, “mọi hình thức tư hữu đều bị nhổ rễ”. Tập thể cai trị cả hôn nhân lẫn gia đình. “Không hề có sợi dây hôn phối nào … mà lại không lệ thuộc ý muốn võ đoán của cá nhân hay tập thể”. Hãy nghĩ tới các “cuộc ly dị bằng postcard”. Việc truyền bá chủ nghĩa cộng sản vốn được nâng đỡ bởi việc “tuyên truyền ma quái của con cái bóng tối” và “âm mưu giữ im lặng” của báo chí không Công Giáo, một phần “do các lực lượng trong bóng tối, từ lâu, vốn âm thầm làm việc để lật đổ trật tự xã hội Kitô Giáo”.
Năm 1991, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II ban hành thông điệp Centesimus Annus nhân kỷ niệm năm thứ 100 của thông điệp Rerum Novarum. Nó nhắc lại giáo lý Công Giáo dạy rằng vấn đề gốc rễ của chủ nghĩa toàn trị hiện đại là sự phủ nhận phẩm giá siêu việt của con người nhân bản. “Chủ nghĩa xã hội coi con người cá thể chỉ là một yếu tố, một phân tử trong cơ thể xã hội, đến nỗi lợi ích của cá nhân hoàn toàn phụ thuộc vào sự vận hành của bộ máy kinh tế xã hội”. Chủ nghĩa quân phiệt và cuộc đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác được dẫn khởi từ “cùng một gốc rễ, tức là chủ nghĩa vô thần và sự khinh miệt đối với con người nhân bản, những chủ nghĩa đặt nguyên tắc bạo lực lên trên nguyên tắc lý trí và luật pháp”. Như Đức Cha Fulton Sheen từng khôn ngoan nhận xét, “Chủ nghĩa cộng sản cố gắng thiết lập một điều bất khả: tình huynh đệ con người mà không có tình phụ tử Thiên Chúa”.
George Orwell biết rất rõ sự lừa dối của xã hội chủ nghĩa này, qua việc thích ứng câu thần chú trong Animal Farm (Trại súc vật), “Mọi động vật đều bình đẳng”. Mầu cờ đích thực của họ cuối cùng đã bị lật tẩy. Đây là một thứ doublethink (chấp nhận các ý kiến trái ngược nhau cùng một lúc, nhất là do nhồi sọ chính trị) của Đảng. Nó gợi nhớ một cách kỳ lạ thứ crimethink (thổ ngữ được ý thực hệ của đảng sàng lọc) và cảnh sát suy nghĩ của năm 1984 đối với môi trường duy chính xác chính trị (political correctness) hiện nay tại các khuôn viên đại học Mỹ và trong các chính phủ châu Âu. Bức tường Bálinh có thể đã sụp đổ và Liên Bang Xô Viết đã bị giải thể nhưng chủ nghĩa Mác văn hóa vẫn mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những tiên phong tiến bộ của cánh tả tiếp tục là những người thừa kế ý thức hệ của những người theo chủ nghĩa xã hội và cộng sản thế kỷ XX. Họ tiếp tục cuộc cách mạng bằng cách tiếp nhận “các lỗi lầm của Nga” và tấn công quyền tư hữu, thị trường tự do, tự do cá nhân và tự do ngôn luận, hôn nhân truyền thống và gia đình, tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Có thể tại thời điểm này không có một “Đế Quốc Ma Qủy” (Evil Empire), một nhà nước toàn trị duy nhất, nhưng có một trạng thái tâm thức toàn trị hiện diện; sự thúc đẩy độc đoán trong các phương tiện truyền thông và các hệ thống giáo dục, chính phủ và tư pháp của chúng ta. “Big Brother” (Tay Anh Chị) vẫn đang rình rập đâu đó.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn có hy vọng. Giáo hội đã chiến thắng chủ nghĩa cộng sản Xô viết. Và, Chúa Kitô đã ban cho chúng ta sự bảo đảm hồng phúc này: các cửa hỏa ngục sẽ không chiếm ưu thế đối với Giáo hội. Trong những ngày ảm đạm năm 1917, giữa Thế chiến I, và việc phóng ra đủ thứ tệ nạn của chủ nghĩa cộng sản vô thần, Đức Trinh Nữ Maria đã hứa, “cuối cùng, Trái tim Vô nhiễm của Mẹ sẽ chiến thắng”. Đúng thế, con Thủy Quái sẽ tiếp tục bất ngờ tấn công và hoành hành, nhưng các đầu của nó đã bị nghiền nát.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Đàng Thánh Giá trên Đồi Đức Mẹ Ta’ Pinu Melbourne
Trần Văn Minh hình Lê Hải
21:15 09/03/2019
Melbourne, Thứ Bảy Ngày 9/3/2019. Trong một ngày rất đẹp trời, đoàn con cái của Mẹ từ khắp các vùng trong Tiểu bang Victoria đã cùng nhau về Đồi Đức Mẹ All Nations Marian Centre, để cùng nhau đi leo đồi theo Đàng Thánh Giá để thông phần khổ nạn của Chúa, cùng hãm mình nhân đầu Mùa Chay Thánh Năm 2019. Do Ban Vận Động Đền Đức Mẹ tại Đồi Ta’ Pinu tổ chức.
Xem hình
Số người đến tham dự rất đông, Nhiều người từ những vùng xa xôi tại Miền Đông Melbourne đến đồi với khoảng cách cũng gần 100 km, còn trung bình cũng cỡ 40 km trở lên. Cũng có nhiều người từ Geelong về. Họ đến đây bằng xe nhà, hay đi chung trong những chiếc xe Bus lớn và nhỏ.
Trước khi đi Đàng Thánh Giá. Một Thánh lễ đồng tế do Linh mục Giuse Trần Ngọc Tân chủ tế cùng với Linh mục Trần Minh Hiếu và thầy Phó tế Đinh Văn Bổn đồng tế. Đặc biệt, Ca đoàn của Cộng đoàn Thánh Giuse (Luke) đã xuất sắc trong các bài Thánh ca chủ đề trong buổi lễ: Cùng Mẹ theo chân Chúa trong Đàng Thánh Giá Mùa Chay Năm 2019, trong nhà nguyện nằm trên đỉnh đồi.
Sau Thánh lễ, ông Nguyễn Văn Thi lên cám ơn và mời mọi người có ít phút giải lao nhanh gọn, để cùng đi bộ xuống Đền Đức Mẹ La Vang để chuẩn bị xuống trước tượng đài Đức Mẹ chung của mọi sắc tộc, cũng là nơi Thứ Nhất, trong cái nắng chang chang của buổi trưa. Ban tổ chức phát cho mỗi người một giải khăn tím mang biểu tượng của Mùa Chay Thánh.
Linh mục chủ tế đã vác Thánh giá từ Đền Đức Mẹ La Vang đi với thế đất rất dốc để xuống Đài Đức Mẹ, trong lời kinh, tiếng hát. Ngoài những người trẻ và trung niên, có cả những cụ già chống gậy cũng muốn được thông dự phần mình vào con đường khổ nạn của Chúa năm xưa.
Đường dốc cao, đất sỏi đá trong cái nắng, nóng. Mọi người theo sự hướng dẫn của Ông Phạm Hiếu đại diện Ban Tổ chức để cất cao lời kinh, tiếng hát và các bài lời Chúa cùng suy niệm, đã làm cho cuộc đi Đàng Thánh Giá thêm ý nghĩa và đi sâu vào lòng những người tham dự. Đây cũng là ý nghĩa sâu sa về con đường gian khó Chúa đi để hoàn thành sứ vụ cứu chuộc nhân loại. Khi đoàn Thánh Giá về đến đỉnh đồi và kết thúc buổi đi Đàng Thánh Giá lúc 2 giờ chiều.
Xem hình
Số người đến tham dự rất đông, Nhiều người từ những vùng xa xôi tại Miền Đông Melbourne đến đồi với khoảng cách cũng gần 100 km, còn trung bình cũng cỡ 40 km trở lên. Cũng có nhiều người từ Geelong về. Họ đến đây bằng xe nhà, hay đi chung trong những chiếc xe Bus lớn và nhỏ.
Trước khi đi Đàng Thánh Giá. Một Thánh lễ đồng tế do Linh mục Giuse Trần Ngọc Tân chủ tế cùng với Linh mục Trần Minh Hiếu và thầy Phó tế Đinh Văn Bổn đồng tế. Đặc biệt, Ca đoàn của Cộng đoàn Thánh Giuse (Luke) đã xuất sắc trong các bài Thánh ca chủ đề trong buổi lễ: Cùng Mẹ theo chân Chúa trong Đàng Thánh Giá Mùa Chay Năm 2019, trong nhà nguyện nằm trên đỉnh đồi.
Sau Thánh lễ, ông Nguyễn Văn Thi lên cám ơn và mời mọi người có ít phút giải lao nhanh gọn, để cùng đi bộ xuống Đền Đức Mẹ La Vang để chuẩn bị xuống trước tượng đài Đức Mẹ chung của mọi sắc tộc, cũng là nơi Thứ Nhất, trong cái nắng chang chang của buổi trưa. Ban tổ chức phát cho mỗi người một giải khăn tím mang biểu tượng của Mùa Chay Thánh.
Linh mục chủ tế đã vác Thánh giá từ Đền Đức Mẹ La Vang đi với thế đất rất dốc để xuống Đài Đức Mẹ, trong lời kinh, tiếng hát. Ngoài những người trẻ và trung niên, có cả những cụ già chống gậy cũng muốn được thông dự phần mình vào con đường khổ nạn của Chúa năm xưa.
Đường dốc cao, đất sỏi đá trong cái nắng, nóng. Mọi người theo sự hướng dẫn của Ông Phạm Hiếu đại diện Ban Tổ chức để cất cao lời kinh, tiếng hát và các bài lời Chúa cùng suy niệm, đã làm cho cuộc đi Đàng Thánh Giá thêm ý nghĩa và đi sâu vào lòng những người tham dự. Đây cũng là ý nghĩa sâu sa về con đường gian khó Chúa đi để hoàn thành sứ vụ cứu chuộc nhân loại. Khi đoàn Thánh Giá về đến đỉnh đồi và kết thúc buổi đi Đàng Thánh Giá lúc 2 giờ chiều.
Tài Liệu - Sưu Khảo
Ý niệm linh hứng trong Thánh Kinh: các trước tác về linh hứng
Vũ Văn An
01:31 09/03/2019
III. Mô hình tiên tri của linh hứng
Từ thời Tân Ước cho đến thời Cải Cách và Công đồng Trent, mô hình tiên tri của linh hứng đã trổi vượt và việc linh hứng Thánh Kinh được coi như giống với (và tùy thuộc vào) sự linh hứng các tiên tri. Các tiếp cận này tìm thấy nơi triết gia Do Thái Maimonides (1135-1204), nơi Thánh Tôma Aquinô (1225-1272) cũng như nơi các nhà Cải Cách thế kỷ 16. W. Whitaker (1548-1595), nhà thần học của phái Calvin tại Cambridge, viết “Chúng ta tuyên xưng rằng Thiên Chúa không nói về chính Người, nhưng qua nhiều người khác. Thế nhưng điều ấy không làm giảm quyền tác giả Thánh Kinh. Vì Thiên Chúa linh hứng cho các tiên tri những điều họ nói và dùng miệng lưỡi và tay họ: do đó, Thánh Kinh thậm chí tức khắc là tiếng nói của Thiên Chúa. Các tiên tri và tông đồ chỉ là các cơ quan của Thiên Chúa”.
(I) Tính dụng cụ nguyên nhân (causal instrumentality)
Thánh Tôma Aquinô coi linh hứng “như một điều bất toàn trong thứ loại nói tiên tri”. Các nhà kinh viện sử dụng các phạm trù của triết học Aristốt để cố gắng hiểu linh hứng, nhất là phạm trù nguyên nhân tính (causality) và bốn loại của nó là nguyên nhân tác thành (efficient), nguyên nhân chất thể (material), nguyên nhân mô thức (formal) và nguyên nhân cứu cánh (final). Trong nguyên nhân tính tác thành, ta có thể phân biệt nguyên nhân tác thành chính (Thiên Chúa hay Chúa Thánh Thần) và nguyên nhân tác thành khí cụ (tác giả phàm nhân). Trong việc soạn tác Thánh Kinh, vai trò khác biệt và kết hợp (conjoined) được gán cho Thiên Chúa và các người viết phàm nhân, giống như trong việc cưa một khúc gỗ, vai trò khác biệt và kết hợp có thể được gán cho người thợ mộc (nguyên nhân tác thành chính) và cái cưa (nguyên nhân tác thành khí cụ).
Mặc dù phần lớn các nhà kinh viện trước ngài coi việc nói tiên tri như một habitus (thói quen) nghĩa là một hồng ân gần như thường trực đem lại một bản chất mới nơi nhà tiên tri, Thánh Tôma Aquinô chủ trương rằng nói tiên tri là một motio (chuyển động), một hồng ân Thiên Chúa ban cho nhà tiên tri trên căn bản tạm thời cho một chức năng chuyên biệt. Hồng ân này thuộc các nhân tố tri thức nhân bản, không đặt nhà tiên tri vào thế tiếp xúc trực tiếp với thực tại Thiên Chúa (speculum arternitatis) nhưng cung cấp sự soi sáng của Thiên Chúa thông qua “những giống nhau” (likenesses) (Summa II 2 q.173, 1). Nói tiên tri không liên kết với một cách thâu đạt nhận thức chuyên biệt; đúng hơn, nó là cách phán đoán một nhận thức nào đó là lời của Thiên Chúa. Nó là gratia gratis data (ơn nhưng không) nghĩa là một hồng ân ban cho nhà tiên tri không phải vì sự nên thánh bản thân của ông nhưng vì cộng đồng.
Thuyết tiên tri về linh hứng, với ý niệm hay đi kèm theo là đọc viết chính tả, tiếp tục gây ảnh hưởng lên các Kitô hữu suốt thời Trung Cổ, thời Cải Cách và thời Phản Cải Cách và được nhiều Kitô hữu hiện nay tiếp nhận, nhất là những người bảo thủ hơn. Nó chấp nhận một số dị bản, tùy theo cách người ta hiểu mối tương quan giữa nhà tiên tri và Thiên Chúa. Alonso Schökel (Inspired Word 58-73) phân biêt 3 khả thể: người nói là (1) một dụng cụ nhờ đó Thiên Chúa nói, (2) một người được Thiên Chúa đọc chính tả cho viết, hay (3) một sứ giả của Thiên Chúa đóng vai trò nói lại sứ điệp. Khả thể thứ hai thắng vượt hơn cả và đã làm phát sinh điều được mệnh danh là linh hứng toàn thể (bằng lời) (plenary [verabl] inspiration).
(II) Linh hứng toàn thể bằng lời
Melchior Cano, nhà thần học hệ thống Dòng Đa Minh thế kỷ 16, giải thích “Mọi điều lớn hay nhỏ đã được các tác giả thánh biên tập nhờ được Chúa Thánh Thần đọc chính tả cho [Spiritu Sancto dictante esse edita]” (De locis theologicis 2.17). Không cách xa bao nhiêu là Formula Consensus Helvetica (1675) của Cải Cách là tác phẩm chủ trương rằng không những lời lẽ (words) mà cả các vần chữ (letters) của Thánh Kinh cũng được linh hứng. Chủ trương linh hứng toàn thể bằng lời có nhiều hậu quả quan trọng thuộc lãnh vực thực tế. (1) Mọi Sách Thánh đều là lời Thiên Chúa. (2) Vì Thiên Chúa không thể sai lầm, mọi lời lẽ trong Sách Thánh hẳn phải đúng sự thật. (3) Sự thật của Thánh Kinh có tính định đề tối hậu (ultimately propositional). (4) Tính thống nhất của Thánh Kinh ngăn chặn bất cứ mâu thuẫn thực sự nào giữa các bản văn Thánh Kinh. (5) Ít nhất đối với một số người Thệ Phản bảo thủ, Thánh Kinh không chỉ chứa đựng hay làm chứng cho mạc khải; đúng hơn, Thánh Kinh là mạc khải.
Phê bình: Việc cẩn trọng đọc Cựu và Tân Ước sẽ nêu lên nhiều luận bác khá gắn bó chống lại thứ chủ trương linh hứng toàn thể bằng lời ngây thơ và giản tiện thái quá: (1) Lý thuyết này đưa ra một giả định đáng hoài nghi cho rằng sứ điệp mà các tiên tri nhận được từ Thiên Chúa xuất hiện dưới hình thức một sứ điệp bằng lời. Điều này có thường đúng hay có bao giờ đúng như thế không? Chắc chắn các tiên tri đôi khi phụng chuyển sứ điệp của Thiên Chúa bằng các cử chỉ tiên tri không lời hơn là qua các sấm ngôn bằng lời. (2) Há các biến cố của lịch sử cứu rỗi chẳng có tính mặc khải đó sao? Há biến cố xuất hành và biến cố Chúa Giêsu không phải là các hình thức đệ nhất hạng để Thiên Chúa thông đạt với dân Người đó sao? Các bản văn Thánh Kinh rõ ràng gợi ý rằng diễn trình viết lách thông thường của con người hoạt động trong việc sản xuất ra Sách Thánh. Ezra trích dẫn các văn khố Batư (Er 7:11-26). Có những khoản tự sửa (1Cr 1:16; Ga 4:2). Luca thăm dò các trình thuật người ta đã viết về Chúa Giêsu và lấy thông tri từ các nhân chứng mục kích và các thừa tác viên lời Chúa (Lc 1:1-2). Các luận bác này đã dẫn nhiều học giả có óc phê phán hơn cả từ bỏ thuyết linh hứng toàn thể bằng lời.
IV. Các trước tác về linh hứng
(I) Trong Giáo Hội Công Giáo
Thời các giáo phụ đã phổ biến một số công thức để nói rõ về việc linh ứng của Sách Thánh (xem trên); thời kinh viện đã khai triển các mô hình linh hứng qua các ý niệm triết học của tính dụng cụ nguyên nhân (xem trên); thời Cải Cách và Phản Cải Cách chia sẻ phần lớn gia tài vừa kể, và các người sau họ đã cố gắng một cách độc lập rút ra các hệ luận theo lối linh hứng toàn thể đối với mọi chi tiết Sách Thánh (xem trên). Cuối cùng, trong nền thần học của Công Giáo Rôma thế kỷ 19, một trước tác có hệ thống về sự linh hứng của Thánh Kinh đã ra đời dưới sự thúc đẩy của các vấn đề được nêu lên từ khoa phê bình văn bản và từ phương pháp phê bình lịch sử, vốn là phó sản của các tiến bộ trong các khoa lịch sử và vật lý.
(A) Ảnh hưởng của khoa phê bình bản văn
Thế kỷ 18 và 19 có sự gia tăng đáng kể con số các bản văn và phiên bản Sách Thánh sẵn có cho việc học hỏi nghiên cứu cũng như các kỹ năng chín mùi trong việc so sánh thế giá của các cách giải thích khác xa nhau. Điều này gây tai họa cho lối hiểu đơn sơ của thuyết linh hứng toàn thể bằng lời. Trong cảnh thiếu các bút tích (autograph) của bất cứ bản văn Thánh Kinh nào, và với sự hiện diện của hàng ngàn các dị biệt văn bản, thì đâu là bản văn được linh hứng? Phần lớn đã bác bỏ ý tưởng cho rằng Bản Bẩy Mươi là bản linh hứng (ý tưởng này được Kitô giáo tiên khởi tin theo, và thình thoảng sau đó [cho đến nay, trong một số Giáo Hội Đông Phương]). Các đoạn dịch sai và các dị bản khác trong Bản Bẩy Mươi so sánh với Bản Masoretic (MT, tức nguyên bản Thánh Kinh Do Thái) làm ta không thể quả quyết được rằng nó luôn luôn đại diện cho bản văn linh hứng của Cựu Ước. May mắn một điều, giả thuyết linh hứng của Bản Phổ Thông cũng không được phổ thông bao nhiêu mặc dầu nó rất thân thiết với một số thần học gia Công Giáo sau Công đồng Trent. Bản văn Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp, bản vẫn được coi là Textus receptus (bản văn được tiếp nhận) cũng không còn được coi như hướng dẫn chắc chắn nhất đưa ta tới bản văn nguyên thủy được linh hứng.
(B) Ảnh hưởng của khoa phê bình lịch sử
Việc ra đời của khoa phê bình cao hơn khiến các học giả ý thức rằng không những Ngũ Kinh mà cả các Sách Tin Mừng cũng được soạn thảo bằng cách dựa vào các tài liệu hay nguồn trước đó, chứ không đơn giản nhờ đọc chính tả. Tác dụng của điều này khá đa dạng: chủ trương linh hứng bằng lời thêm cứng cỏi hơn nơi phái chính thống Thệ Phản; nhưng các nhà Thệ Phản cấp tiến thì thực tế đã rời bỏ chủ trương linh hứng vừa kể; còn nhiều người Công Giáo thì thay đổi các công thức truyền thống về linh hứng. Phương pháp phê bình lịch sử trong việc trình bầy Thánh Kinh là con đẻ của Phong Trào Ánh Sáng, trong đó, chủ nghĩa hoài nghi có phương pháp, nói chung, là đặc tính của của cuộc cách mạng khoa học. “Vụ Galileo” của thế kỷ 17 là dấu ấn tiên khởi trong cuộc chạm trán giữa sự thật khoa học và “sự thật” biểu kiến của Sách Thánh, một sự thật hàm ý nói rằng mặt trời di chuyển quanh trái đất. Các dữ kiện gia tăng về nguồn gốc trái đất và nhân loại dẫn đến việc bất tương hợp giữa nhận thức khoa học và cách giải thích ngây thơ chiểu tự về các trình thuật sáng thế (St 1:2-2:25).
Để bênh vực truyền thống, thẩm quyền Giáo Hội Công Giáo Rôma đã đáp ứng một cách khá tiêu cực. Ngay cả thông điệp khá tiến bộ là Providentissimus Deus năm 1893 của Đức Lêô XIII cũng phản ứng một cách mạnh mẽ trước các khó khăn do các khoa học tự nhiên và lịch sử nêu ra:
“Chúng ta phải tranh đấu chống lại những người, khi lạm dụng khoa học vật lý, đã lục lọi tỉ mỉ sách thánh để khám phá các người viết mắc lầm lỗi và mượn dịp lăng mạ nội dung của nó... Đối với giáo sư Sách Thánh, kiến thức khoa học tự nhiên giúp ích rất nhiều trong việc khám phá ra các cuộc tấn công như thế vào Sách Thánh, và bác bỏ chúng. Thực vậy, không bao giờ có thể có bất cứ cách biệt nào giữa nhà thần học và nhà vật lý học, bao lâu mỗi người tự giới hạn vào phạm vi của mình, và cả hai đều thận trọng, như Thánh Augustinô đã cảnh cáo chúng ta ‘đừng đưa ra các xác quyết vội vàng...’ Nhà giải thích Công Giáo... nên chứng minh rằng các sự kiện của khoa học tự nhiên được các nhà nghiên cứu ngày nay quả quyết là chắc chắn không có gì trái với Thánh Kinh nếu được giải thích đúng đắn...Các nguyên tắc đã đưa ra sẽ áp dụng vào các khoa học cùng thuộc một gốc... nhất là khoa sử... Thành thử những ai chủ trương rằng sai lầm là điều khả hữu trong bất cứ đoạn chân chính nào của Sách Thánh đã hủ hóa ý niệm của Công Giáo về linh hứng và biến Thiên Chúa thành tác giả của sai lầm này... Họ hãy trung thành chủ trương rằng Thiên Chúa, Đấng Dựng Nên và Thống Trị mọi sự, cũng là tác giả của Sách Thánh, và, do đó, không điều gì có thể được chứng minh bằng khoa vật lý hay khảo cổ mà lại mâu thuẫn thực sự với Sách Thánh”.
(II) Linh ứng toàn thể và giới hạn
Trước các nhận định của ngài về việc sử dụng cách hủ hóa các khám phá khoa học để tấn công tính đáng tin cậy của Sách Thánh, Đức Lêô XIII đã trưng dẫn các vấn đề do một số người chủ trương “khoa phê bình cao hơn” gây ra. Ngài cũng quả quyết sự linh hứng của toàn bộ Sách Thánh. “Tuyệt đối sai lầm và bị ngăn cấm là việc thu gọn linh hứng vào một số phần nào đó của Sách Thánh mà thôi hay thừa nhận rằng người viết Sách Thánh sai lạc”. Lời quả quyết này về sự linh hứng toàn thể Sách Thánh là để chống lại một số mưu toan Công Giáo muốn chủ trương cả lý thuyết linh hứng Thánh Kinh (vì nó hợp truyền thống) lẫn nguyên tắc kiến thức khoa học (vì làm như thế là hợp lý) bằng cách giới hạn linh hứng Thánh Kinh cách này hay cách nọ.
(A) Lessius: Phản ứng của Công Giáo Rôma chống lại việc ngây thơ coi linh hứng Thánh Kinh như việc đọc chính tả từng chữ đã diễn ra trước đó. Phân khoa thần học ở Louvain đã lên án các đề xuất cấp tiến của linh mục Dòng Tên L. Lessius (1554-1623) như (1) để điều gì đó là Thánh Kinh, các chữ cá thể của nó phải được Chúa Thánh Thần linh hứng. (2) Các sự thật và tuyên bố cá thể không nhất thiết được linh hứng trực tiếp bởi Chúa Thánh Thần. (3) Nếu một cuốn sách (tỷ dụ 2Mcb) được viết qua cố gắng của con người mà thôi mà không cần sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng sau đó chứng thực không có điều gì sai lầm ở đó, thì nó trở thành Sách Thánh. Liên quan tới điều (2), Lessius viết cho Đức Tổng Giám Mục của Malines rằng:
“Chỉ cần tác giả thánh được Thiên Chúa lôi kéo viết xuống những gì ngài thấy, nghe hay biết là ngài đã được hưởng sự trợ giúp không thể sai lầm của Chúa Thánh Thần ngăn cản ngài khỏi các sai lầm cả trong các vấn đề ngài biết từ người khác, hoặc từ chính kinh nghiệm của ngài hoặc từ việc lý luận tự nhiên của ngài. Chính sự trợ giúp này đem lại cho Sách Thánh sự thật vô ngộ của nó”.
Trong thế kỷ 19, thuyết trợ giúp tiêu cực (negative inspiration) này về linh hứng sẽ tái xuất hiện: Chúa Thánh Thần hành động trên tác giả phàm nhân một cách khiến vị này khỏi sai lầm. Thân thiết với điều (3) là một số tác giả thế kỷ 19 với thuyết chấp thuận linh hứng sau đó (subsequent approval). Còn điều (1) thì tương tự với thuyết linh hứng nội dung (content inspiration) (khác biệt với linh hứng lời lẽ), một thuyết cũng xuất hiện trong các trình bầy thế kỷ 19 về linh hứng.
(B) Jahn và Haneberg: J. Jahn, một người Áo thuộc Dòng Thánh Norbert, cho xuất bản 2 bộ sách (1802, 1804) trong đó, ngài chủ trương rằng linh hứng đơn giản chỉ là “ơn trợ giúp của Thiên Chúa để tránh sai lầm”, một thuyết trợ giúp tiêu cực. Giữa thập niên 1800, vị Giám Mục dòng Biển Đức của Speyer, D.B. Haneberg, đề xuất rằng dù đôi khi linh hứng đi trước việc soạn thảo một công trình Thánh Kinh và đôi khi linh hứng hệ ở một ảnh hưởng đi kèm trên tác giả phàm nhân để giữ vị này khỏi sai lầm, nhưng đôi khi cũng xẩy ra việc linh hứng mang hình thức Giáo Hội chấp thuận 1 công trình lúc lên qui điển cho nó, tức thuyết chấp thuận sau đó.
(C) Vatican I; Đức Giáo Hoàng Lêô XIII: Tất cả các phương thức trên đều bị Vatican I minh nhiên bác bỏ: “Các sánh này [Cựu và Tân Ước] Giáo Hội coi là thánh thiêng và qui điển, không phải vì, sau khi được cẩn thận soạn thảo bởi bàn tay thuần túy phàm nhân, sau đó, chúng được chấp thuận bởi thẩm quyền của Giáo Hội, cũng không phải chỉ vì chúng chứa đựng mạc khải không sai lầm, nhưng bởi vì, sau khi được viết bởi linh hứng Chúa Thánh Thần, chúng có Thiên Chúa là tác giả và được thông truyền như thế cho Giáo Hội” (DS 3006). Giáo huấn của Giáo Hội dẫn Haneberg tới việc duyệt lại hoàn toàn lần xuất bản thứ tư (1876) cuốn sách của ngài tựa là Versucheiner Geschichte der biblischen Offenbarung. Giáo huấn này đã được tiếp nhận từng lời trong Providentissimus Deus (EB 125; RSS tr.24). Đức Lêô XIII cũng nêu vấn đề với “những ai, vì muốn thoát ra ngoài các khó khăn này đã không ngần ngại công nhận rằng linh hứng chỉ liên quan tới các điều về đức tin và luân lý chứ không có gì khác hơn” (EB 124; RSS tr.24). Hai cuốn sách chấp nhận quan điểm này xuất hiện trong thời gian giữa Vatican I (1870) và thông điệp của Đức Lêô XIII (1893). Năm 1872, A. Rohling xuất bản cuốn Natur und Offenbarung, giới hạn linh hứng vào các vấn đề đức tin và luân lý. Năm 1880, F. Lenormant xuất bản cuốn Les Origines de l’histoire d’après la Bible, giới hạn linh hứng vào những giáo huấn siêu nhiên.
(D) Newman: Các trước tác của J.H. Newman (1801-1890, sắp được phong hiển thánh trong Giáo Hội Công Giáo) từng bị nghĩ là đã giới hạn linh hứng tùy theo nội dung vì ngài hay nhắc đến “các nhận xét thoáng qua” (obiter dicta) tìm thấy trong Sách Thánh. Trong thời còn ở trong Hiệp Thông Anh Giáo, ngài từng viết:
“Chúng ta không biết bằng cách nào linh hứng có thể tương hợp với tác lực bản thân về phía dụng cụ của nó, điều mà việc soạn thảo Thánh Kinh đã minh chứng; nhưng nếu có điều gì chắc chắn thì điều đó là: dù Thánh Kinh được linh hứng, và do đó, theo một nghĩa, được viết bởi chính Thiên Chúa, thế nhưng rất nhiều phần của nó, nếu không muốn nói là phần lớn của nó, được viết một cách tự do và không hề bị hạn chế, và (dường như) với thật ít ý thức được đọc chính tả hay giới hạn siêu nhiên, về phiá dụng cụ trần gian của Người, như thể Người không can dự gì vào việc này” (Tract 85; Lectures on the Scripture Proofs of the Doctrine of the Church 30).
Đến tận năm 1884, gần 40 năm sau khi trở thành người Công Giáo Rôma và 5 năm sau khi đã được nâng lên hàng Hồng Y, Newman vẫn quả quyết rằng Lời Thiên Chúa không thể tách biệt về luân lý khỏi lời lẽ của các tác giả phàm nhân, bởi vì Lời Thiên Chúa hệ ở các phần Thánh Kinh bàn đến đức tin và luân lý.
Năm 1861, Newman nhận xét: “linh hứng toàn thể Sách Thánh là vấn đề đặc thù của Thệ Phản; chứ không phải của Công Giáo” (C.S. Dessain, ed., The Letters and Diaries of John Henry Newman [London, 1969]19.488). Ấy thế nhưng, linh hứng thánh kinh viết vẫn lôi cuốn Newman Công Giáo. Dù chủ trương sự linh hứng của lời được viết ra (Verbum Scriptum), ngài cho rằng:
“Công thức linh hứng là như sau: Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa đúng nghĩa, hiểu như được hoàn toàn viết, hay đọc chính tả, hay cưu mang (impregnated) hay điều khiển bởi Thánh Thần Chân Lý, hay ít nhất một phần được viết, một phần được đọc chính tả, một phần được cưu mang, một phần được điều khiển, và được giữ trọn khỏi sai lầm về mô thức, ít nhất trong bản thể, bởi Thánh Thần Chân Lý” (J.Holmes ed., The Theological Papers of John Henry Newman on Biblical Inspiration and on Infallibility [Oxford, 1979] 81).
Ngài nhận định rằng linh hứng là “một hồng ân gắn liền với Verbum Scriptum (lời được biết ra)” (Ibid., 70) và “một sự đa dạng lớn lao về giáo huấn vừa có thể quan niệm vừa có thể chấp nhận được về chủ đề Thiên Chúa linh hứng Sách Thánh” (68) và một lần nữa “linh hứng đúng nghĩa... chấp nhận các mức độ” (74).
(E) Franzelin: Một số người cho rằng các ý tưởng của Newman về linh hứng bị Providentissimus Deus bác bỏ; thế nhưng chúng rất gần với các ý tưởng được Giáo Hội nhìn nhận của J.B. Franzelin (1816-1886), một chuyên viên tại Vatican I. Trong De Divina Traditione et Scriptura (1870), Farnzelin trình bầy ý tưởng chủ chốt của ngài về Thiên Chúa là tác giả bằng thuyết nguyên nhân dụng cụ, một lý thuyết phân biệt giữa nội dung sách thánh và sự thật (res et sententia, hay nội dung mô thức) và việc lên công thức sách thánh (res, hay lời Sách Thánh).
“Linh hứng Thánh Kinh dường như trong yếu tính hệ ở việc ban nhưng không đặc sủng soi sáng và kích thích, nhờ đó, tâm trí các phàm nhân được linh hứng đề xuất việc viết xuống các sự thật mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho Giáo Hội của Người qua Thánh Kinh, và ý chí của họ được lôi cuốn để ghi các sự thật này, và chỉ các sự thật này mà thôi trên giấy trắng mực đen; và những phàm nhân được nâng lên hàng nguyên nhân dụng cụ này trong tay Thiên Chúa, Đấng là nguyên nhân chính, sẽ chu toàn đề xuất của Thiên Chúa bằng một việc nói thật không thể nhầm lẫn. Như thế, ta phải phân biệt giữa linh hứng, liên quan tới các sự thật và “lời mô thức” (formal word) và sự trợ giúp, liên quan xa hơn tới các biểu thức và “lời chất thể” (material word)”.
(F) Lagrange: Dù các quan điểm của Franzelin được sự chấp thuận của cả Vatican I lẫn Providentissimus, nhưng tầm quan trọng của chúng trong giới học giả Công Giáo giảm đi trong thập niên 1890 với sự nổi tiếng ngày một gia tăng các quan điểm của M.-J. Lagrange (1855-1938). Lagrange tin rằng trình bầy của Franzelin về linh hứng thánh kinh viết thiếu sót cả về phương diện phương pháp luận lẫn phương diện lịch sử. Về phương pháp luận, nó tách biệt Thánh Kinh thành hai phần, một thuộc Thiên Chúa, một thuộc phàm nhân, tạo nên một khó khăn hầu như không thể tháo gỡ được trong việc phân biệt giữa nội dung cốt lõi và các chi tiết tương đối không quan trọng trong lối phát biểu. Về lịch sử, các nghiên cứu về các công đồng Florence, Trent và Vatican I dẫn Lagrange tới chỗ ủng hộ tính ưu tiên luận lý và thần học của linh hứng hơn ý niệm Thiên Chúa là tác giả. Lý thuyết riêng của Lagrange về linh hứng lời (verbal inspiration) tùy thuộc nặng vào mô hình linh hứng tiên tri của phái Thomist. Như một “sự soi sáng trí hiểu” (intellectual enlightenment=illuminatio judicii), linh hứng là hồng ân của Thiên Chúa giúp tác giả Thánh Kinh chọn một số ý tưởng nào đó (bất kể các nguồn tức khắc của chúng) để hiểu và phán quyết về chúng, và cấu hình nó thành một đơn vị văn viết. Như thế, Thánh Kinh hoàn toàn là công việc của Thiên Chúa và hoàn toàn là công việc của tác giả phàm nhân. Thiên Chúa là nguyên nhân tác thành chính; tác giả phàm nhân là nguyên nhân tác thành dụng cụ.
Phản ứng chính thức của Công Giáo Rôma đối với phong trào Duy Tân Đại (Modernism) đầu thập niên 1900 phủ một bóng mờ lên lý thuyết linh hứng của Lagrange. Các nhà duy tân đại vốn so sánh linh hứng Thánh Kinh với “thi hứng” của các thi sĩ hay diễn giả có thiên tài, và một số người còn tìm thấy sự tương đồng khá hoài nghi ở điểm đó với việc Lagrange nhấn mạnh tới yếu tố phàm nhân trong việc soạn thảo Thánh Kinh.Tuy nhiên, các ý tưởng căn bản của ngài sẽ được phục hoạt và minh xác trong công trình của P. Benoit thuộc Trường Kinh Thánh của Dòng Đa Minh tại Giêrusalem, trường do chính Cha Lagrange thành lập. Cha Lagrange vẫn có công đã nhấn mạnh rằng muốn hiểu linh hứng, phải bắt đầu với chính bản văn viết. Các ý niệm Thiên Chúa là tác giả, thẩm quyền thánh kinh, tính không sai lầm, và tính hợp qui điển đều chỉ là các hệ luận (corollaries) của dữ kiện đệ nhất hạng của mọi nghiên cứu về linh hướng này, một nghiên cứu phải tiến hành hậu thiên (a posteriori) hơn là tiên thiên (a priori).
(III) Các lý thuyết về tính không sai lầm. Tuy nhiên, có một số người vẫn tiếp tục làm việc với thuyết thánh kinh không sai lầm, coi nó như dữ kiện hay tập chú đệ nhất hạng.
(A) Nơi người Công Giáo: Tiểu luận thần học về linh hứng được đặt trong khảo luận về các thẩm quyền thần học (De locis theologicis), và do đó đã có việc nhấn mạnh tới các kết quả hơn là tới bản chất của linh hứng. “Sự thật” không sai lầm của Thánh Kinh được cho là vô cùng quan trọng bao lâu Thánh Kinh là nguồn chính và qui phạm cho công trình thần học. Cách tiếp cận này vẫn còn nổi bật trong Sơ Đồ chuẩn bị De Revelatione trình cho Vatican II thảo luận, nhưng mau chóng bị bác bỏ. Như đã thấy, Vatican II chỉ dành một câu cho “các sách Thánh Kinh... giảng dậy một cách cương quyết, trung thành, và không sai lầm, thứ chân lý mà Tiên Chúa muốn đặt vào các trước tác thánh vì phần rỗi chúng ta” như là kết quả của linh hứng. Từ lúc đó, “chân lý” không sai lầm của Thánh Kinh không nhận được sự nhấn mạnh hàng đầu trong các giới Công Giáo Rôma, một thay đổi phát sinh do cách hiểu thỏa đáng hơn về bản chất Sách Thánh (không chủ yếu là một nguồn cho học lý) cũng như do chỉ thị của công đồng.
(B) Nơi các nhà Thệ Phản bảo thủ
“Cả các người tin lành lẫn cực đoan [fundamentalists] đều nhấn mạnh đến ‘tính không sai lầm của Sách Thánh’, coi như điều nền tảng nhất trong mọi điều nền tảng của họ” (M. Marty, trong The Evangelicals [ed. D. and J. Woodbridge; Nash, 1975] 180). Vai trò của tác giả phàm nhân hoàn toàn bị phủ bóng bởi ý niệm quyền lực Thiên Chúa:
“Tính không sai lầm phát sinh từ thẩm quyền Thiên Chúa, chấm hết. Vì bất cứ điều gì Thiên Chúa buột miệng nói ra đều không sai lầm. Và Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa. Cho nên, Thánh Kinh không sai lầm. Nhưng nếu nó sai lầm, thì tính không sai lầm của Thánh Kinh không thể bị mất đi chỉ vì được thêm chiều kích phàm nhân. Bao lâu còn là Lời Thiên Chúa, thì nó không sai lầm, bất kể nó cũng là lời lẽ của phàm nhân nữa” (N.L. Geisler, “Inerrancy abd Free Will”, EvQ 57 [1985] 350-51).
“Lời Sách thánh không thể bị hủy bỏ” (Ga 10:35) đã được trích dẫn như bảo chứng viết cho học lý không sai lầm vì, nếu tìm thấy một sai lầm đơn độc trong Sách Thánh mà thôi thì thế giá của toàn bộ Sách Thánh sẽ tan tác.
Tuy nhiên, các nhà cực đoan (fundamentalists) thông sáng không trơ trơ trước khác khác biệt giữa các bản chép tay Thánh Kinh hay giữa các trình thuật song hành trong Cựu Ước và các Sách Tin Mừng như khoa phê bình lịch sử đã tìm thấy.Trong một bài báo thâm thúy (“Linh hứng”, Presbyterian Review 2 [1881] 225-60), A.A. Hodge và B.B. Warfield đã đưa 3 tiêu chuẩn phải thoả mãn trước khi một điều nào đó bị coi là sai lầm đến độ triệt hạ tính linh hứng không sai lầm của Thánh Kinh. Sai lầm này phải (1) xẩy ra trong “bút tích [autograph] nguyên thủy” của bản văn Thánh Kinh; (2) liên quan đến ý nghĩa và ý định thực sự của bản văn, “đã được xác định dứt khoát và chắc chắn”; và (3) làm cho ý nghĩa chân thực ấy “thành bất nhất một cách trực tiếp và nhất thiết” với một số sự kiện lịch sử hay khoa học “được biết một cách chắc chắn”. Nhưng các tiêu chuẩn này tước mất sự minh chứng thuận lý của tính không sai lầm, vì (1) về điều 1, bản văn hiện nay không còn nữa.
Năm 1978, Hội Đồng Quốc Tế về Tính Không Sai Lầm Của Thánh Kinh đã đưa ra Tuyên Bố Chicago, quả quyết sự thật toàn diện và tính đáng tin cậy của Sách Thánh, là sách luôn phải được giải thích như không thể sai lầm và không sai lạc. “Các người cầm bút” của Thiên Chúa không bị giới hạn vào kiến thức sẵn có ở thời họ. Mặc dù phải xử lý với các bất nhất (inconsistencies), bất thường, và khác biệt, Thánh Kinh vẫn không sai lầm “theo nghĩa đưa ra các chủ trương của nó và đạt được mức độ chân lý tập chú mà các tác giả của nó vốn nhắm”. Một chủ trương bảo thủ-cực đoan phổ thông hơn chủ trương rằng không sai lầm là một đặc tính của các bản văn Thánh Kinh như chúng hiện hữu dưới các hình thức biên tập và phiên dịch (chứ không phải chỉ trong các bản viết nguyên thủy). Một số bản phối hòa (harmonizations) và cách đọc phúng dụ cũng vẫn duy trì được tính không sai lạc của sách thánh.
Kỳ sau: V. Các cách tiếp cận hiện nay đối với linh hứng
Từ thời Tân Ước cho đến thời Cải Cách và Công đồng Trent, mô hình tiên tri của linh hứng đã trổi vượt và việc linh hứng Thánh Kinh được coi như giống với (và tùy thuộc vào) sự linh hứng các tiên tri. Các tiếp cận này tìm thấy nơi triết gia Do Thái Maimonides (1135-1204), nơi Thánh Tôma Aquinô (1225-1272) cũng như nơi các nhà Cải Cách thế kỷ 16. W. Whitaker (1548-1595), nhà thần học của phái Calvin tại Cambridge, viết “Chúng ta tuyên xưng rằng Thiên Chúa không nói về chính Người, nhưng qua nhiều người khác. Thế nhưng điều ấy không làm giảm quyền tác giả Thánh Kinh. Vì Thiên Chúa linh hứng cho các tiên tri những điều họ nói và dùng miệng lưỡi và tay họ: do đó, Thánh Kinh thậm chí tức khắc là tiếng nói của Thiên Chúa. Các tiên tri và tông đồ chỉ là các cơ quan của Thiên Chúa”.
(I) Tính dụng cụ nguyên nhân (causal instrumentality)
Thánh Tôma Aquinô coi linh hứng “như một điều bất toàn trong thứ loại nói tiên tri”. Các nhà kinh viện sử dụng các phạm trù của triết học Aristốt để cố gắng hiểu linh hứng, nhất là phạm trù nguyên nhân tính (causality) và bốn loại của nó là nguyên nhân tác thành (efficient), nguyên nhân chất thể (material), nguyên nhân mô thức (formal) và nguyên nhân cứu cánh (final). Trong nguyên nhân tính tác thành, ta có thể phân biệt nguyên nhân tác thành chính (Thiên Chúa hay Chúa Thánh Thần) và nguyên nhân tác thành khí cụ (tác giả phàm nhân). Trong việc soạn tác Thánh Kinh, vai trò khác biệt và kết hợp (conjoined) được gán cho Thiên Chúa và các người viết phàm nhân, giống như trong việc cưa một khúc gỗ, vai trò khác biệt và kết hợp có thể được gán cho người thợ mộc (nguyên nhân tác thành chính) và cái cưa (nguyên nhân tác thành khí cụ).
Mặc dù phần lớn các nhà kinh viện trước ngài coi việc nói tiên tri như một habitus (thói quen) nghĩa là một hồng ân gần như thường trực đem lại một bản chất mới nơi nhà tiên tri, Thánh Tôma Aquinô chủ trương rằng nói tiên tri là một motio (chuyển động), một hồng ân Thiên Chúa ban cho nhà tiên tri trên căn bản tạm thời cho một chức năng chuyên biệt. Hồng ân này thuộc các nhân tố tri thức nhân bản, không đặt nhà tiên tri vào thế tiếp xúc trực tiếp với thực tại Thiên Chúa (speculum arternitatis) nhưng cung cấp sự soi sáng của Thiên Chúa thông qua “những giống nhau” (likenesses) (Summa II 2 q.173, 1). Nói tiên tri không liên kết với một cách thâu đạt nhận thức chuyên biệt; đúng hơn, nó là cách phán đoán một nhận thức nào đó là lời của Thiên Chúa. Nó là gratia gratis data (ơn nhưng không) nghĩa là một hồng ân ban cho nhà tiên tri không phải vì sự nên thánh bản thân của ông nhưng vì cộng đồng.
Thuyết tiên tri về linh hứng, với ý niệm hay đi kèm theo là đọc viết chính tả, tiếp tục gây ảnh hưởng lên các Kitô hữu suốt thời Trung Cổ, thời Cải Cách và thời Phản Cải Cách và được nhiều Kitô hữu hiện nay tiếp nhận, nhất là những người bảo thủ hơn. Nó chấp nhận một số dị bản, tùy theo cách người ta hiểu mối tương quan giữa nhà tiên tri và Thiên Chúa. Alonso Schökel (Inspired Word 58-73) phân biêt 3 khả thể: người nói là (1) một dụng cụ nhờ đó Thiên Chúa nói, (2) một người được Thiên Chúa đọc chính tả cho viết, hay (3) một sứ giả của Thiên Chúa đóng vai trò nói lại sứ điệp. Khả thể thứ hai thắng vượt hơn cả và đã làm phát sinh điều được mệnh danh là linh hứng toàn thể (bằng lời) (plenary [verabl] inspiration).
(II) Linh hứng toàn thể bằng lời
Melchior Cano, nhà thần học hệ thống Dòng Đa Minh thế kỷ 16, giải thích “Mọi điều lớn hay nhỏ đã được các tác giả thánh biên tập nhờ được Chúa Thánh Thần đọc chính tả cho [Spiritu Sancto dictante esse edita]” (De locis theologicis 2.17). Không cách xa bao nhiêu là Formula Consensus Helvetica (1675) của Cải Cách là tác phẩm chủ trương rằng không những lời lẽ (words) mà cả các vần chữ (letters) của Thánh Kinh cũng được linh hứng. Chủ trương linh hứng toàn thể bằng lời có nhiều hậu quả quan trọng thuộc lãnh vực thực tế. (1) Mọi Sách Thánh đều là lời Thiên Chúa. (2) Vì Thiên Chúa không thể sai lầm, mọi lời lẽ trong Sách Thánh hẳn phải đúng sự thật. (3) Sự thật của Thánh Kinh có tính định đề tối hậu (ultimately propositional). (4) Tính thống nhất của Thánh Kinh ngăn chặn bất cứ mâu thuẫn thực sự nào giữa các bản văn Thánh Kinh. (5) Ít nhất đối với một số người Thệ Phản bảo thủ, Thánh Kinh không chỉ chứa đựng hay làm chứng cho mạc khải; đúng hơn, Thánh Kinh là mạc khải.
Phê bình: Việc cẩn trọng đọc Cựu và Tân Ước sẽ nêu lên nhiều luận bác khá gắn bó chống lại thứ chủ trương linh hứng toàn thể bằng lời ngây thơ và giản tiện thái quá: (1) Lý thuyết này đưa ra một giả định đáng hoài nghi cho rằng sứ điệp mà các tiên tri nhận được từ Thiên Chúa xuất hiện dưới hình thức một sứ điệp bằng lời. Điều này có thường đúng hay có bao giờ đúng như thế không? Chắc chắn các tiên tri đôi khi phụng chuyển sứ điệp của Thiên Chúa bằng các cử chỉ tiên tri không lời hơn là qua các sấm ngôn bằng lời. (2) Há các biến cố của lịch sử cứu rỗi chẳng có tính mặc khải đó sao? Há biến cố xuất hành và biến cố Chúa Giêsu không phải là các hình thức đệ nhất hạng để Thiên Chúa thông đạt với dân Người đó sao? Các bản văn Thánh Kinh rõ ràng gợi ý rằng diễn trình viết lách thông thường của con người hoạt động trong việc sản xuất ra Sách Thánh. Ezra trích dẫn các văn khố Batư (Er 7:11-26). Có những khoản tự sửa (1Cr 1:16; Ga 4:2). Luca thăm dò các trình thuật người ta đã viết về Chúa Giêsu và lấy thông tri từ các nhân chứng mục kích và các thừa tác viên lời Chúa (Lc 1:1-2). Các luận bác này đã dẫn nhiều học giả có óc phê phán hơn cả từ bỏ thuyết linh hứng toàn thể bằng lời.
IV. Các trước tác về linh hứng
(I) Trong Giáo Hội Công Giáo
Thời các giáo phụ đã phổ biến một số công thức để nói rõ về việc linh ứng của Sách Thánh (xem trên); thời kinh viện đã khai triển các mô hình linh hứng qua các ý niệm triết học của tính dụng cụ nguyên nhân (xem trên); thời Cải Cách và Phản Cải Cách chia sẻ phần lớn gia tài vừa kể, và các người sau họ đã cố gắng một cách độc lập rút ra các hệ luận theo lối linh hứng toàn thể đối với mọi chi tiết Sách Thánh (xem trên). Cuối cùng, trong nền thần học của Công Giáo Rôma thế kỷ 19, một trước tác có hệ thống về sự linh hứng của Thánh Kinh đã ra đời dưới sự thúc đẩy của các vấn đề được nêu lên từ khoa phê bình văn bản và từ phương pháp phê bình lịch sử, vốn là phó sản của các tiến bộ trong các khoa lịch sử và vật lý.
(A) Ảnh hưởng của khoa phê bình bản văn
Thế kỷ 18 và 19 có sự gia tăng đáng kể con số các bản văn và phiên bản Sách Thánh sẵn có cho việc học hỏi nghiên cứu cũng như các kỹ năng chín mùi trong việc so sánh thế giá của các cách giải thích khác xa nhau. Điều này gây tai họa cho lối hiểu đơn sơ của thuyết linh hứng toàn thể bằng lời. Trong cảnh thiếu các bút tích (autograph) của bất cứ bản văn Thánh Kinh nào, và với sự hiện diện của hàng ngàn các dị biệt văn bản, thì đâu là bản văn được linh hứng? Phần lớn đã bác bỏ ý tưởng cho rằng Bản Bẩy Mươi là bản linh hứng (ý tưởng này được Kitô giáo tiên khởi tin theo, và thình thoảng sau đó [cho đến nay, trong một số Giáo Hội Đông Phương]). Các đoạn dịch sai và các dị bản khác trong Bản Bẩy Mươi so sánh với Bản Masoretic (MT, tức nguyên bản Thánh Kinh Do Thái) làm ta không thể quả quyết được rằng nó luôn luôn đại diện cho bản văn linh hứng của Cựu Ước. May mắn một điều, giả thuyết linh hứng của Bản Phổ Thông cũng không được phổ thông bao nhiêu mặc dầu nó rất thân thiết với một số thần học gia Công Giáo sau Công đồng Trent. Bản văn Tân Ước bằng tiếng Hy Lạp, bản vẫn được coi là Textus receptus (bản văn được tiếp nhận) cũng không còn được coi như hướng dẫn chắc chắn nhất đưa ta tới bản văn nguyên thủy được linh hứng.
(B) Ảnh hưởng của khoa phê bình lịch sử
Việc ra đời của khoa phê bình cao hơn khiến các học giả ý thức rằng không những Ngũ Kinh mà cả các Sách Tin Mừng cũng được soạn thảo bằng cách dựa vào các tài liệu hay nguồn trước đó, chứ không đơn giản nhờ đọc chính tả. Tác dụng của điều này khá đa dạng: chủ trương linh hứng bằng lời thêm cứng cỏi hơn nơi phái chính thống Thệ Phản; nhưng các nhà Thệ Phản cấp tiến thì thực tế đã rời bỏ chủ trương linh hứng vừa kể; còn nhiều người Công Giáo thì thay đổi các công thức truyền thống về linh hứng. Phương pháp phê bình lịch sử trong việc trình bầy Thánh Kinh là con đẻ của Phong Trào Ánh Sáng, trong đó, chủ nghĩa hoài nghi có phương pháp, nói chung, là đặc tính của của cuộc cách mạng khoa học. “Vụ Galileo” của thế kỷ 17 là dấu ấn tiên khởi trong cuộc chạm trán giữa sự thật khoa học và “sự thật” biểu kiến của Sách Thánh, một sự thật hàm ý nói rằng mặt trời di chuyển quanh trái đất. Các dữ kiện gia tăng về nguồn gốc trái đất và nhân loại dẫn đến việc bất tương hợp giữa nhận thức khoa học và cách giải thích ngây thơ chiểu tự về các trình thuật sáng thế (St 1:2-2:25).
Để bênh vực truyền thống, thẩm quyền Giáo Hội Công Giáo Rôma đã đáp ứng một cách khá tiêu cực. Ngay cả thông điệp khá tiến bộ là Providentissimus Deus năm 1893 của Đức Lêô XIII cũng phản ứng một cách mạnh mẽ trước các khó khăn do các khoa học tự nhiên và lịch sử nêu ra:
“Chúng ta phải tranh đấu chống lại những người, khi lạm dụng khoa học vật lý, đã lục lọi tỉ mỉ sách thánh để khám phá các người viết mắc lầm lỗi và mượn dịp lăng mạ nội dung của nó... Đối với giáo sư Sách Thánh, kiến thức khoa học tự nhiên giúp ích rất nhiều trong việc khám phá ra các cuộc tấn công như thế vào Sách Thánh, và bác bỏ chúng. Thực vậy, không bao giờ có thể có bất cứ cách biệt nào giữa nhà thần học và nhà vật lý học, bao lâu mỗi người tự giới hạn vào phạm vi của mình, và cả hai đều thận trọng, như Thánh Augustinô đã cảnh cáo chúng ta ‘đừng đưa ra các xác quyết vội vàng...’ Nhà giải thích Công Giáo... nên chứng minh rằng các sự kiện của khoa học tự nhiên được các nhà nghiên cứu ngày nay quả quyết là chắc chắn không có gì trái với Thánh Kinh nếu được giải thích đúng đắn...Các nguyên tắc đã đưa ra sẽ áp dụng vào các khoa học cùng thuộc một gốc... nhất là khoa sử... Thành thử những ai chủ trương rằng sai lầm là điều khả hữu trong bất cứ đoạn chân chính nào của Sách Thánh đã hủ hóa ý niệm của Công Giáo về linh hứng và biến Thiên Chúa thành tác giả của sai lầm này... Họ hãy trung thành chủ trương rằng Thiên Chúa, Đấng Dựng Nên và Thống Trị mọi sự, cũng là tác giả của Sách Thánh, và, do đó, không điều gì có thể được chứng minh bằng khoa vật lý hay khảo cổ mà lại mâu thuẫn thực sự với Sách Thánh”.
(II) Linh ứng toàn thể và giới hạn
Trước các nhận định của ngài về việc sử dụng cách hủ hóa các khám phá khoa học để tấn công tính đáng tin cậy của Sách Thánh, Đức Lêô XIII đã trưng dẫn các vấn đề do một số người chủ trương “khoa phê bình cao hơn” gây ra. Ngài cũng quả quyết sự linh hứng của toàn bộ Sách Thánh. “Tuyệt đối sai lầm và bị ngăn cấm là việc thu gọn linh hứng vào một số phần nào đó của Sách Thánh mà thôi hay thừa nhận rằng người viết Sách Thánh sai lạc”. Lời quả quyết này về sự linh hứng toàn thể Sách Thánh là để chống lại một số mưu toan Công Giáo muốn chủ trương cả lý thuyết linh hứng Thánh Kinh (vì nó hợp truyền thống) lẫn nguyên tắc kiến thức khoa học (vì làm như thế là hợp lý) bằng cách giới hạn linh hứng Thánh Kinh cách này hay cách nọ.
(A) Lessius: Phản ứng của Công Giáo Rôma chống lại việc ngây thơ coi linh hứng Thánh Kinh như việc đọc chính tả từng chữ đã diễn ra trước đó. Phân khoa thần học ở Louvain đã lên án các đề xuất cấp tiến của linh mục Dòng Tên L. Lessius (1554-1623) như (1) để điều gì đó là Thánh Kinh, các chữ cá thể của nó phải được Chúa Thánh Thần linh hứng. (2) Các sự thật và tuyên bố cá thể không nhất thiết được linh hứng trực tiếp bởi Chúa Thánh Thần. (3) Nếu một cuốn sách (tỷ dụ 2Mcb) được viết qua cố gắng của con người mà thôi mà không cần sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Đấng sau đó chứng thực không có điều gì sai lầm ở đó, thì nó trở thành Sách Thánh. Liên quan tới điều (2), Lessius viết cho Đức Tổng Giám Mục của Malines rằng:
“Chỉ cần tác giả thánh được Thiên Chúa lôi kéo viết xuống những gì ngài thấy, nghe hay biết là ngài đã được hưởng sự trợ giúp không thể sai lầm của Chúa Thánh Thần ngăn cản ngài khỏi các sai lầm cả trong các vấn đề ngài biết từ người khác, hoặc từ chính kinh nghiệm của ngài hoặc từ việc lý luận tự nhiên của ngài. Chính sự trợ giúp này đem lại cho Sách Thánh sự thật vô ngộ của nó”.
Trong thế kỷ 19, thuyết trợ giúp tiêu cực (negative inspiration) này về linh hứng sẽ tái xuất hiện: Chúa Thánh Thần hành động trên tác giả phàm nhân một cách khiến vị này khỏi sai lầm. Thân thiết với điều (3) là một số tác giả thế kỷ 19 với thuyết chấp thuận linh hứng sau đó (subsequent approval). Còn điều (1) thì tương tự với thuyết linh hứng nội dung (content inspiration) (khác biệt với linh hứng lời lẽ), một thuyết cũng xuất hiện trong các trình bầy thế kỷ 19 về linh hứng.
(B) Jahn và Haneberg: J. Jahn, một người Áo thuộc Dòng Thánh Norbert, cho xuất bản 2 bộ sách (1802, 1804) trong đó, ngài chủ trương rằng linh hứng đơn giản chỉ là “ơn trợ giúp của Thiên Chúa để tránh sai lầm”, một thuyết trợ giúp tiêu cực. Giữa thập niên 1800, vị Giám Mục dòng Biển Đức của Speyer, D.B. Haneberg, đề xuất rằng dù đôi khi linh hứng đi trước việc soạn thảo một công trình Thánh Kinh và đôi khi linh hứng hệ ở một ảnh hưởng đi kèm trên tác giả phàm nhân để giữ vị này khỏi sai lầm, nhưng đôi khi cũng xẩy ra việc linh hứng mang hình thức Giáo Hội chấp thuận 1 công trình lúc lên qui điển cho nó, tức thuyết chấp thuận sau đó.
(C) Vatican I; Đức Giáo Hoàng Lêô XIII: Tất cả các phương thức trên đều bị Vatican I minh nhiên bác bỏ: “Các sánh này [Cựu và Tân Ước] Giáo Hội coi là thánh thiêng và qui điển, không phải vì, sau khi được cẩn thận soạn thảo bởi bàn tay thuần túy phàm nhân, sau đó, chúng được chấp thuận bởi thẩm quyền của Giáo Hội, cũng không phải chỉ vì chúng chứa đựng mạc khải không sai lầm, nhưng bởi vì, sau khi được viết bởi linh hứng Chúa Thánh Thần, chúng có Thiên Chúa là tác giả và được thông truyền như thế cho Giáo Hội” (DS 3006). Giáo huấn của Giáo Hội dẫn Haneberg tới việc duyệt lại hoàn toàn lần xuất bản thứ tư (1876) cuốn sách của ngài tựa là Versucheiner Geschichte der biblischen Offenbarung. Giáo huấn này đã được tiếp nhận từng lời trong Providentissimus Deus (EB 125; RSS tr.24). Đức Lêô XIII cũng nêu vấn đề với “những ai, vì muốn thoát ra ngoài các khó khăn này đã không ngần ngại công nhận rằng linh hứng chỉ liên quan tới các điều về đức tin và luân lý chứ không có gì khác hơn” (EB 124; RSS tr.24). Hai cuốn sách chấp nhận quan điểm này xuất hiện trong thời gian giữa Vatican I (1870) và thông điệp của Đức Lêô XIII (1893). Năm 1872, A. Rohling xuất bản cuốn Natur und Offenbarung, giới hạn linh hứng vào các vấn đề đức tin và luân lý. Năm 1880, F. Lenormant xuất bản cuốn Les Origines de l’histoire d’après la Bible, giới hạn linh hứng vào những giáo huấn siêu nhiên.
(D) Newman: Các trước tác của J.H. Newman (1801-1890, sắp được phong hiển thánh trong Giáo Hội Công Giáo) từng bị nghĩ là đã giới hạn linh hứng tùy theo nội dung vì ngài hay nhắc đến “các nhận xét thoáng qua” (obiter dicta) tìm thấy trong Sách Thánh. Trong thời còn ở trong Hiệp Thông Anh Giáo, ngài từng viết:
“Chúng ta không biết bằng cách nào linh hứng có thể tương hợp với tác lực bản thân về phía dụng cụ của nó, điều mà việc soạn thảo Thánh Kinh đã minh chứng; nhưng nếu có điều gì chắc chắn thì điều đó là: dù Thánh Kinh được linh hứng, và do đó, theo một nghĩa, được viết bởi chính Thiên Chúa, thế nhưng rất nhiều phần của nó, nếu không muốn nói là phần lớn của nó, được viết một cách tự do và không hề bị hạn chế, và (dường như) với thật ít ý thức được đọc chính tả hay giới hạn siêu nhiên, về phiá dụng cụ trần gian của Người, như thể Người không can dự gì vào việc này” (Tract 85; Lectures on the Scripture Proofs of the Doctrine of the Church 30).
Đến tận năm 1884, gần 40 năm sau khi trở thành người Công Giáo Rôma và 5 năm sau khi đã được nâng lên hàng Hồng Y, Newman vẫn quả quyết rằng Lời Thiên Chúa không thể tách biệt về luân lý khỏi lời lẽ của các tác giả phàm nhân, bởi vì Lời Thiên Chúa hệ ở các phần Thánh Kinh bàn đến đức tin và luân lý.
Năm 1861, Newman nhận xét: “linh hứng toàn thể Sách Thánh là vấn đề đặc thù của Thệ Phản; chứ không phải của Công Giáo” (C.S. Dessain, ed., The Letters and Diaries of John Henry Newman [London, 1969]19.488). Ấy thế nhưng, linh hứng thánh kinh viết vẫn lôi cuốn Newman Công Giáo. Dù chủ trương sự linh hứng của lời được viết ra (Verbum Scriptum), ngài cho rằng:
“Công thức linh hứng là như sau: Thánh Kinh là Lời của Thiên Chúa đúng nghĩa, hiểu như được hoàn toàn viết, hay đọc chính tả, hay cưu mang (impregnated) hay điều khiển bởi Thánh Thần Chân Lý, hay ít nhất một phần được viết, một phần được đọc chính tả, một phần được cưu mang, một phần được điều khiển, và được giữ trọn khỏi sai lầm về mô thức, ít nhất trong bản thể, bởi Thánh Thần Chân Lý” (J.Holmes ed., The Theological Papers of John Henry Newman on Biblical Inspiration and on Infallibility [Oxford, 1979] 81).
Ngài nhận định rằng linh hứng là “một hồng ân gắn liền với Verbum Scriptum (lời được biết ra)” (Ibid., 70) và “một sự đa dạng lớn lao về giáo huấn vừa có thể quan niệm vừa có thể chấp nhận được về chủ đề Thiên Chúa linh hứng Sách Thánh” (68) và một lần nữa “linh hứng đúng nghĩa... chấp nhận các mức độ” (74).
(E) Franzelin: Một số người cho rằng các ý tưởng của Newman về linh hứng bị Providentissimus Deus bác bỏ; thế nhưng chúng rất gần với các ý tưởng được Giáo Hội nhìn nhận của J.B. Franzelin (1816-1886), một chuyên viên tại Vatican I. Trong De Divina Traditione et Scriptura (1870), Farnzelin trình bầy ý tưởng chủ chốt của ngài về Thiên Chúa là tác giả bằng thuyết nguyên nhân dụng cụ, một lý thuyết phân biệt giữa nội dung sách thánh và sự thật (res et sententia, hay nội dung mô thức) và việc lên công thức sách thánh (res, hay lời Sách Thánh).
“Linh hứng Thánh Kinh dường như trong yếu tính hệ ở việc ban nhưng không đặc sủng soi sáng và kích thích, nhờ đó, tâm trí các phàm nhân được linh hứng đề xuất việc viết xuống các sự thật mà Thiên Chúa muốn thông truyền cho Giáo Hội của Người qua Thánh Kinh, và ý chí của họ được lôi cuốn để ghi các sự thật này, và chỉ các sự thật này mà thôi trên giấy trắng mực đen; và những phàm nhân được nâng lên hàng nguyên nhân dụng cụ này trong tay Thiên Chúa, Đấng là nguyên nhân chính, sẽ chu toàn đề xuất của Thiên Chúa bằng một việc nói thật không thể nhầm lẫn. Như thế, ta phải phân biệt giữa linh hứng, liên quan tới các sự thật và “lời mô thức” (formal word) và sự trợ giúp, liên quan xa hơn tới các biểu thức và “lời chất thể” (material word)”.
(F) Lagrange: Dù các quan điểm của Franzelin được sự chấp thuận của cả Vatican I lẫn Providentissimus, nhưng tầm quan trọng của chúng trong giới học giả Công Giáo giảm đi trong thập niên 1890 với sự nổi tiếng ngày một gia tăng các quan điểm của M.-J. Lagrange (1855-1938). Lagrange tin rằng trình bầy của Franzelin về linh hứng thánh kinh viết thiếu sót cả về phương diện phương pháp luận lẫn phương diện lịch sử. Về phương pháp luận, nó tách biệt Thánh Kinh thành hai phần, một thuộc Thiên Chúa, một thuộc phàm nhân, tạo nên một khó khăn hầu như không thể tháo gỡ được trong việc phân biệt giữa nội dung cốt lõi và các chi tiết tương đối không quan trọng trong lối phát biểu. Về lịch sử, các nghiên cứu về các công đồng Florence, Trent và Vatican I dẫn Lagrange tới chỗ ủng hộ tính ưu tiên luận lý và thần học của linh hứng hơn ý niệm Thiên Chúa là tác giả. Lý thuyết riêng của Lagrange về linh hứng lời (verbal inspiration) tùy thuộc nặng vào mô hình linh hứng tiên tri của phái Thomist. Như một “sự soi sáng trí hiểu” (intellectual enlightenment=illuminatio judicii), linh hứng là hồng ân của Thiên Chúa giúp tác giả Thánh Kinh chọn một số ý tưởng nào đó (bất kể các nguồn tức khắc của chúng) để hiểu và phán quyết về chúng, và cấu hình nó thành một đơn vị văn viết. Như thế, Thánh Kinh hoàn toàn là công việc của Thiên Chúa và hoàn toàn là công việc của tác giả phàm nhân. Thiên Chúa là nguyên nhân tác thành chính; tác giả phàm nhân là nguyên nhân tác thành dụng cụ.
Phản ứng chính thức của Công Giáo Rôma đối với phong trào Duy Tân Đại (Modernism) đầu thập niên 1900 phủ một bóng mờ lên lý thuyết linh hứng của Lagrange. Các nhà duy tân đại vốn so sánh linh hứng Thánh Kinh với “thi hứng” của các thi sĩ hay diễn giả có thiên tài, và một số người còn tìm thấy sự tương đồng khá hoài nghi ở điểm đó với việc Lagrange nhấn mạnh tới yếu tố phàm nhân trong việc soạn thảo Thánh Kinh.Tuy nhiên, các ý tưởng căn bản của ngài sẽ được phục hoạt và minh xác trong công trình của P. Benoit thuộc Trường Kinh Thánh của Dòng Đa Minh tại Giêrusalem, trường do chính Cha Lagrange thành lập. Cha Lagrange vẫn có công đã nhấn mạnh rằng muốn hiểu linh hứng, phải bắt đầu với chính bản văn viết. Các ý niệm Thiên Chúa là tác giả, thẩm quyền thánh kinh, tính không sai lầm, và tính hợp qui điển đều chỉ là các hệ luận (corollaries) của dữ kiện đệ nhất hạng của mọi nghiên cứu về linh hướng này, một nghiên cứu phải tiến hành hậu thiên (a posteriori) hơn là tiên thiên (a priori).
(III) Các lý thuyết về tính không sai lầm. Tuy nhiên, có một số người vẫn tiếp tục làm việc với thuyết thánh kinh không sai lầm, coi nó như dữ kiện hay tập chú đệ nhất hạng.
(A) Nơi người Công Giáo: Tiểu luận thần học về linh hứng được đặt trong khảo luận về các thẩm quyền thần học (De locis theologicis), và do đó đã có việc nhấn mạnh tới các kết quả hơn là tới bản chất của linh hứng. “Sự thật” không sai lầm của Thánh Kinh được cho là vô cùng quan trọng bao lâu Thánh Kinh là nguồn chính và qui phạm cho công trình thần học. Cách tiếp cận này vẫn còn nổi bật trong Sơ Đồ chuẩn bị De Revelatione trình cho Vatican II thảo luận, nhưng mau chóng bị bác bỏ. Như đã thấy, Vatican II chỉ dành một câu cho “các sách Thánh Kinh... giảng dậy một cách cương quyết, trung thành, và không sai lầm, thứ chân lý mà Tiên Chúa muốn đặt vào các trước tác thánh vì phần rỗi chúng ta” như là kết quả của linh hứng. Từ lúc đó, “chân lý” không sai lầm của Thánh Kinh không nhận được sự nhấn mạnh hàng đầu trong các giới Công Giáo Rôma, một thay đổi phát sinh do cách hiểu thỏa đáng hơn về bản chất Sách Thánh (không chủ yếu là một nguồn cho học lý) cũng như do chỉ thị của công đồng.
(B) Nơi các nhà Thệ Phản bảo thủ
“Cả các người tin lành lẫn cực đoan [fundamentalists] đều nhấn mạnh đến ‘tính không sai lầm của Sách Thánh’, coi như điều nền tảng nhất trong mọi điều nền tảng của họ” (M. Marty, trong The Evangelicals [ed. D. and J. Woodbridge; Nash, 1975] 180). Vai trò của tác giả phàm nhân hoàn toàn bị phủ bóng bởi ý niệm quyền lực Thiên Chúa:
“Tính không sai lầm phát sinh từ thẩm quyền Thiên Chúa, chấm hết. Vì bất cứ điều gì Thiên Chúa buột miệng nói ra đều không sai lầm. Và Thánh Kinh là Lời Thiên Chúa. Cho nên, Thánh Kinh không sai lầm. Nhưng nếu nó sai lầm, thì tính không sai lầm của Thánh Kinh không thể bị mất đi chỉ vì được thêm chiều kích phàm nhân. Bao lâu còn là Lời Thiên Chúa, thì nó không sai lầm, bất kể nó cũng là lời lẽ của phàm nhân nữa” (N.L. Geisler, “Inerrancy abd Free Will”, EvQ 57 [1985] 350-51).
“Lời Sách thánh không thể bị hủy bỏ” (Ga 10:35) đã được trích dẫn như bảo chứng viết cho học lý không sai lầm vì, nếu tìm thấy một sai lầm đơn độc trong Sách Thánh mà thôi thì thế giá của toàn bộ Sách Thánh sẽ tan tác.
Tuy nhiên, các nhà cực đoan (fundamentalists) thông sáng không trơ trơ trước khác khác biệt giữa các bản chép tay Thánh Kinh hay giữa các trình thuật song hành trong Cựu Ước và các Sách Tin Mừng như khoa phê bình lịch sử đã tìm thấy.Trong một bài báo thâm thúy (“Linh hứng”, Presbyterian Review 2 [1881] 225-60), A.A. Hodge và B.B. Warfield đã đưa 3 tiêu chuẩn phải thoả mãn trước khi một điều nào đó bị coi là sai lầm đến độ triệt hạ tính linh hứng không sai lầm của Thánh Kinh. Sai lầm này phải (1) xẩy ra trong “bút tích [autograph] nguyên thủy” của bản văn Thánh Kinh; (2) liên quan đến ý nghĩa và ý định thực sự của bản văn, “đã được xác định dứt khoát và chắc chắn”; và (3) làm cho ý nghĩa chân thực ấy “thành bất nhất một cách trực tiếp và nhất thiết” với một số sự kiện lịch sử hay khoa học “được biết một cách chắc chắn”. Nhưng các tiêu chuẩn này tước mất sự minh chứng thuận lý của tính không sai lầm, vì (1) về điều 1, bản văn hiện nay không còn nữa.
Năm 1978, Hội Đồng Quốc Tế về Tính Không Sai Lầm Của Thánh Kinh đã đưa ra Tuyên Bố Chicago, quả quyết sự thật toàn diện và tính đáng tin cậy của Sách Thánh, là sách luôn phải được giải thích như không thể sai lầm và không sai lạc. “Các người cầm bút” của Thiên Chúa không bị giới hạn vào kiến thức sẵn có ở thời họ. Mặc dù phải xử lý với các bất nhất (inconsistencies), bất thường, và khác biệt, Thánh Kinh vẫn không sai lầm “theo nghĩa đưa ra các chủ trương của nó và đạt được mức độ chân lý tập chú mà các tác giả của nó vốn nhắm”. Một chủ trương bảo thủ-cực đoan phổ thông hơn chủ trương rằng không sai lầm là một đặc tính của các bản văn Thánh Kinh như chúng hiện hữu dưới các hình thức biên tập và phiên dịch (chứ không phải chỉ trong các bản viết nguyên thủy). Một số bản phối hòa (harmonizations) và cách đọc phúng dụ cũng vẫn duy trì được tính không sai lạc của sách thánh.
Kỳ sau: V. Các cách tiếp cận hiện nay đối với linh hứng
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Sông Nhỏ Quê Xưa
Đặng Đức Cương
09:18 09/03/2019
SÔNG NHỎ QUÊ XƯA
Ảnh của Đặng Đức Cương
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng ấm xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?
(KD)
Ảnh của Đặng Đức Cương
Quê hương tôi có con sông xanh biếc
Nước gương trong soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè
Toả nắng ấm xuống lòng sông lấp loáng
Chẳng biết nước có giữ ngày, giữ tháng
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi?
(KD)