Phụng Vụ - Mục Vụ
Thứ Bẩy 27/2: Đòi hỏi hầu như vô lý của Chúa Giêsu. Lm. Phêrô Nguyễn Văn Cao, SJ
Giáo Hội Năm Châu
01:56 26/02/2021
PHÚC ÂM: Mt 5, 43-48
“Các ngươi hãy nên trọn lành như Cha các ngươi trên trời”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa phán cùng các môn đệ rằng: “Các con đã nghe dạy: Ngươi hãy yêu thân nhân, và hãy thù ghét địch thù. Còn Ta, Ta bảo các con: Hãy yêu thương thù địch và làm ơn cho những kẻ ghét các con; hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và nguyền rủa các con, để như vậy các con nên con cái của Cha các con, Đấng ngự trên trời: Người khiến mặt trời mọc lên cho người lành kẻ dữ, và cho mưa xuống trên người liêm khiết và kẻ bất lương. Vì nếu các con yêu thương những ai mến trọng các con, thì các con được công phúc gì? Các người thu thuế không làm như thế ư? Nếu các con chỉ chào hỏi anh em mình thôi, thì các con đâu có làm chi hơn? Những người ngoại giáo không làm thế ư? Vậy các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Đó là lời Chúa.
Hãy vâng nghe lời Người
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
05:12 26/02/2021
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY
St 22,1-2.9a. 10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,1-9
Hãy vâng nghe lời Người
“Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Với những lời này, Thiên Chúa Cha đã ban cho nhân loại Chúa Giêsu Kitô như là người Thầy, Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát, vượt trên cả lề luật và các tiên tri. Ngày nay chúng ta có thể lắng nghe Chúa Giêsu nói ở nơi nào?
Câu trả lời trước hết là: Người nói với chúng ta qua tiếng nói lương tâm. Lương tâm là một dạng “máy cảnh báo,” được cài đặt trong sâu thẳm lòng người, nơi đó tiếng của Thiên Chúa vang lên. Nhưng lương tâm có thể bị sai lạc và có những tiếng nói khác lấn át tiếng Thiên Chúa. Nên lương tâm cần được soi sáng và trợ giúp bởi Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội.
Thứ đến, Chúa Giêsu tiếp tục nói với chúng ta qua Lời Chúa. Nhưng như chúng ta biết rõ rằng: Lời Chúa cũng có thể được giải thích theo những cách khác nhau hoặc bị hiểu sai. Bởi thế, Chúa Kitô đã ủy thác cho Giáo Hội nhiệm vụ gìn giữ và giải thích Lời Chúa một cách chân thật nhất. Chúa Giêsu nói: “Ai nghe các con là nghe Thầy.” Vì thế, thật là quan trọng đối với chúng ta trong việc cố gắng hiểu giáo huấn của Giáo Hội, nhờ đó giúp chúng ta hiểu đúng ý nghĩa của Lời Chúa, như Giáo Hội hiểu và giải thích Lời Chúa, để chúng ta không rơi vào những chú giải sai lạc hoặc phiến diện theo truyền thông hôm nay.
Thực sự cũng quan trọng để biết nơi mà ngày hôm nay Chúa Giêsu đang nói và nơi mà Người không nói. Rõ ràng là Chúa Giêsu không nói qua những thầy phù thủy, những thầy bói toán, những thầy gọi hồn, những thầy coi tướng số. Họ vịn vào những thông điệp bên kia thế giới; Chúa Giêsu cũng không nói qua những khóa hội thảo duy linh, nơi những thuyết huyền bí.
Trong Kinh Thánh, chúng ta đọc thấy những lời cảnh báo liên quan đến điều này:
“Giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em)” (Đnl 18,10-12).
Đây là những cách thức kiểu mẫu của dân ngoại để liên lạc với thần linh, họ đọc tương lai nhờ những ngôi sao, hoặc những bộ lòng của loài vật, hoặc cánh chim.
Với câu này của Thiên Chúa “các ngươi hãy vâng nghe lời Người,” tất cả điều này muốn nói rằng: Chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta không còn phải mò mẫm để nhận biết ý định Thiên Chúa, hoặc phải đi tư vấn nơi này hay nơi kia nữa. Trong Chúa Kitô, chúng ta có tất cả mọi câu trả lời cho những vấn nạn căn bản nhất của con người.
Nhưng đáng tiếc thay, ngày hôm nay, những phong tục mê tín này lại phổ biến khắp nơi. Bao giờ cũng thế, khi đức tin chân thật bị giảm sút, thì sự mê tín dị đoan lại gia tăng. Chúng ta thấy một trong những hiện tượng này là việc coi tướng số tử vi, bói toán.
Có thể nói rằng trên các trang báo chí và các trung tâm đài radio, hằng ngày người ta thường nói cho người đọc và người nghe về việc bói toán số tử vi. Đối với những người trưởng thành có một chút khả năng để phê bình, họ cho rằng coi tử vi không gì hơn là trò đùa vô thưởng vô phạt, một dạng trò chơi hay trò tiêu khiển.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nghĩ đến những hậu quả lâu dài. Não trạng nào được hình thành, đặc biệt nơi trẻ em hoặc người lớn? Đó là một não trạng cho rằng sự thành công trong đời sống không còn phụ thuộc vào những cố gắng, sự cần mẫn trong học tập và siêng năng trong công việc, nhưng là phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài không thể xác định, nhờ sự may mắn.
Tệ hơn nữa: tất cả những điều này dẫn một người tới suy nghĩ rằng, chúng ta không còn có trách nhiệm về những điều tốt và điều xấu trong chúng ta, nhưng thuộc về “các ngôi sao.”
Chúng ta cũng cần nói đến một nơi khác mà Chúa Giêsu không nói, nhưng người ta cho rằng Người đã nói qua mọi thời đại: đó là những mạc khải riêng tư, những sứ điệp từ trời, những cuộc hiện ra và những tiếng nói của nhiều loại khác nhau.
Tôi không muốn nói rằng Chúa Kitô hoặc Đức Trinh Nữ không thể nói qua những hình thức này. Các Ngài đã nói qua những hình thức này trong quá khứ và dĩ nhiên, các Ngài cũng sẽ nói như thế cả ngày hôm nay nữa. Nhưng chỉ xin lưu ý rằng trước khi nói rằng đây là những lời nói của Chúa Giêsu và Đức Maria, chúng ta cần phải phân định và xem xét đây có phải là sự tưởng tượng bệnh hoạn của một ai đó, hay tồi tệ hơn, có phải đó là một sự mạo danh, khi người đó lợi dụng đức tin tốt lành của dân chúng để lừa bịp họ. Thật cần thiết phải có sự bảo đảm chắc chắn để tin họ.
Trong phạm vi này, chúng ta cần phải đợi chờ phán quyết của Giáo Hội. Chúng ta không được phán quyết trước Giáo Hội. Những lời của Dante vẫn còn hợp thời hôm nay: “Hỡi các Kitô hữu, hãy trở thành vững vàng hơn khi chúng ta tiến bước: đừng như những chim muông trước gió.”
Chúng ta kết thúc với lời của thánh Gioan Thánh Giá:
“Khi Chúa Cha nói về Chúa Giêsu trên núi Tabor: ‘Hãy lắng nghe lời Người,’ Thiên Chúa đã trở thành người câm lặng theo một nghĩa nào đó. Người đã nói tất cả; Người không còn gì mới để mạc khải nữa. Ai muốn hỏi về những mạc khải mới hoặc những câu trả lời mới, là xúc phạm đến Người, bởi vì Người đã bày tỏ chính mình một cách rõ ràng rồi. Thiên Chúa tiếp tục nói với mọi người cũng chính lời này: Hãy lắng nghe Người, hãy đọc Tin Mừng: Bạn sẽ tìm thấy ở đó, không hơn không kém, tất cả điều bạn tìm kiếm.” Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
St 22,1-2.9a. 10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,1-9
Hãy vâng nghe lời Người
“Đây là con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Với những lời này, Thiên Chúa Cha đã ban cho nhân loại Chúa Giêsu Kitô như là người Thầy, Đấng Cứu Độ duy nhất và phổ quát, vượt trên cả lề luật và các tiên tri. Ngày nay chúng ta có thể lắng nghe Chúa Giêsu nói ở nơi nào?
Câu trả lời trước hết là: Người nói với chúng ta qua tiếng nói lương tâm. Lương tâm là một dạng “máy cảnh báo,” được cài đặt trong sâu thẳm lòng người, nơi đó tiếng của Thiên Chúa vang lên. Nhưng lương tâm có thể bị sai lạc và có những tiếng nói khác lấn át tiếng Thiên Chúa. Nên lương tâm cần được soi sáng và trợ giúp bởi Tin Mừng và giáo huấn của Giáo Hội.
Thứ đến, Chúa Giêsu tiếp tục nói với chúng ta qua Lời Chúa. Nhưng như chúng ta biết rõ rằng: Lời Chúa cũng có thể được giải thích theo những cách khác nhau hoặc bị hiểu sai. Bởi thế, Chúa Kitô đã ủy thác cho Giáo Hội nhiệm vụ gìn giữ và giải thích Lời Chúa một cách chân thật nhất. Chúa Giêsu nói: “Ai nghe các con là nghe Thầy.” Vì thế, thật là quan trọng đối với chúng ta trong việc cố gắng hiểu giáo huấn của Giáo Hội, nhờ đó giúp chúng ta hiểu đúng ý nghĩa của Lời Chúa, như Giáo Hội hiểu và giải thích Lời Chúa, để chúng ta không rơi vào những chú giải sai lạc hoặc phiến diện theo truyền thông hôm nay.
Thực sự cũng quan trọng để biết nơi mà ngày hôm nay Chúa Giêsu đang nói và nơi mà Người không nói. Rõ ràng là Chúa Giêsu không nói qua những thầy phù thủy, những thầy bói toán, những thầy gọi hồn, những thầy coi tướng số. Họ vịn vào những thông điệp bên kia thế giới; Chúa Giêsu cũng không nói qua những khóa hội thảo duy linh, nơi những thuyết huyền bí.
Trong Kinh Thánh, chúng ta đọc thấy những lời cảnh báo liên quan đến điều này:
“Giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em)” (Đnl 18,10-12).
Đây là những cách thức kiểu mẫu của dân ngoại để liên lạc với thần linh, họ đọc tương lai nhờ những ngôi sao, hoặc những bộ lòng của loài vật, hoặc cánh chim.
Với câu này của Thiên Chúa “các ngươi hãy vâng nghe lời Người,” tất cả điều này muốn nói rằng: Chỉ có một Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người là Đức Giêsu Kitô. Chúng ta không còn phải mò mẫm để nhận biết ý định Thiên Chúa, hoặc phải đi tư vấn nơi này hay nơi kia nữa. Trong Chúa Kitô, chúng ta có tất cả mọi câu trả lời cho những vấn nạn căn bản nhất của con người.
Nhưng đáng tiếc thay, ngày hôm nay, những phong tục mê tín này lại phổ biến khắp nơi. Bao giờ cũng thế, khi đức tin chân thật bị giảm sút, thì sự mê tín dị đoan lại gia tăng. Chúng ta thấy một trong những hiện tượng này là việc coi tướng số tử vi, bói toán.
Có thể nói rằng trên các trang báo chí và các trung tâm đài radio, hằng ngày người ta thường nói cho người đọc và người nghe về việc bói toán số tử vi. Đối với những người trưởng thành có một chút khả năng để phê bình, họ cho rằng coi tử vi không gì hơn là trò đùa vô thưởng vô phạt, một dạng trò chơi hay trò tiêu khiển.
Tuy nhiên, chúng ta hãy nghĩ đến những hậu quả lâu dài. Não trạng nào được hình thành, đặc biệt nơi trẻ em hoặc người lớn? Đó là một não trạng cho rằng sự thành công trong đời sống không còn phụ thuộc vào những cố gắng, sự cần mẫn trong học tập và siêng năng trong công việc, nhưng là phụ thuộc vào yếu tố bên ngoài không thể xác định, nhờ sự may mắn.
Tệ hơn nữa: tất cả những điều này dẫn một người tới suy nghĩ rằng, chúng ta không còn có trách nhiệm về những điều tốt và điều xấu trong chúng ta, nhưng thuộc về “các ngôi sao.”
Chúng ta cũng cần nói đến một nơi khác mà Chúa Giêsu không nói, nhưng người ta cho rằng Người đã nói qua mọi thời đại: đó là những mạc khải riêng tư, những sứ điệp từ trời, những cuộc hiện ra và những tiếng nói của nhiều loại khác nhau.
Tôi không muốn nói rằng Chúa Kitô hoặc Đức Trinh Nữ không thể nói qua những hình thức này. Các Ngài đã nói qua những hình thức này trong quá khứ và dĩ nhiên, các Ngài cũng sẽ nói như thế cả ngày hôm nay nữa. Nhưng chỉ xin lưu ý rằng trước khi nói rằng đây là những lời nói của Chúa Giêsu và Đức Maria, chúng ta cần phải phân định và xem xét đây có phải là sự tưởng tượng bệnh hoạn của một ai đó, hay tồi tệ hơn, có phải đó là một sự mạo danh, khi người đó lợi dụng đức tin tốt lành của dân chúng để lừa bịp họ. Thật cần thiết phải có sự bảo đảm chắc chắn để tin họ.
Trong phạm vi này, chúng ta cần phải đợi chờ phán quyết của Giáo Hội. Chúng ta không được phán quyết trước Giáo Hội. Những lời của Dante vẫn còn hợp thời hôm nay: “Hỡi các Kitô hữu, hãy trở thành vững vàng hơn khi chúng ta tiến bước: đừng như những chim muông trước gió.”
Chúng ta kết thúc với lời của thánh Gioan Thánh Giá:
“Khi Chúa Cha nói về Chúa Giêsu trên núi Tabor: ‘Hãy lắng nghe lời Người,’ Thiên Chúa đã trở thành người câm lặng theo một nghĩa nào đó. Người đã nói tất cả; Người không còn gì mới để mạc khải nữa. Ai muốn hỏi về những mạc khải mới hoặc những câu trả lời mới, là xúc phạm đến Người, bởi vì Người đã bày tỏ chính mình một cách rõ ràng rồi. Thiên Chúa tiếp tục nói với mọi người cũng chính lời này: Hãy lắng nghe Người, hãy đọc Tin Mừng: Bạn sẽ tìm thấy ở đó, không hơn không kém, tất cả điều bạn tìm kiếm.” Amen!
ĐCV Vinh Thanh - Nghệ An
http://nguoinguphu.blogspot.com/
Mỗi Ngày Một Câu Danh Ngôn Của Các Thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:44 26/02/2021
16. Nguyên do có những thương tâm khổ não chính là tội lỗi của chúng ta và những thói xấu của chúng ta.
(sách Gương Chúa Giê-su)Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Trích dịch từ tiếng Hoa trong "Cách ngôn thần học tu đức")
----------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Ngày Một Câu Chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:48 26/02/2021
74. CŨNG ĐẾN ĐỂ CHẾT
Chung Quỳ (1) rất thích ăn quỷ.
Đứa em gái chúc mừng sinh nhật của anh, nên gọi một tên quỷ lớn gánh đến mấy gánh lễ phẩm, tên các lễ vật được viết như sau:
- “Rượu cũ một bình, hai đứa tiểu quỷ tặng cho anh để anh có thể băm ra mà ăn. Nếu anh thấy lễ vật ít, thì ngay cả thằng quỷ gánh lễ phẩm đến nữa là ba đứa đều dâng cho anh”.
Quả nhiên Chung Quỳ ra lệnh cho đầy tớ đem cả ba thằng quỷ vào trong nhà bếp để nấu nướng.
Hai thằng quỷ nhỏ nói với thằng quỷ lớn gánh lễ vật:
- “Chúng tôi bị bắt đến đễ làm lễ vật, chết thì không còn gì phải nói, còn anh thì biết rất rõ Chung Quỳ là tên thích ăn quỷ, tội gì phải đến để mà chịu chết chứ?”
(Tiếu Tán)
Suy tư 74:
Thời xưa cũng như thời nay, đều có những người dám dấn thân đi vào chỗ nguy hiểm có thể hy sinh tính mạng, đó là những nhà truyền giáo đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, họ biết là sẽ nguy hiểm tính mạng, họ biết là sẽ rất cơ cực nhưng vẫn cứ đi, vì Lời Chúa cần được mọi người biết đến, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa phải được mọi người nghe biết…
Người bị ép buộc để làm điều xấu và người tự nguyện làm điều xấu thì không giống nhau ở ý tưởng, nhưng giống nhau ở việc làm và hậu quả là gây tang tóc tai họa và khổ đau cho người khác.
Cho nên, người tự nguyện làm sáng danh Thiên Chúa thì đem hết lòng hết sức ra để làm cho bằng được; còn những ai bị bắt buộc đi làm sáng danh Thiên Chúa thì chẳng khác chi đem linh hồn họ làm quà tặng cho ma quỷ, bởi vì họ sẽ trở nên xấu hơn khi bị bắt buộc làm điều họ không muốn, dù đó là làm điều tốt …
Đó là một trong những kinh nghiệm của người truyền giáo: thà họ chịu hy sinh và đau khổ hơn là nhờ những người không thiết tha với công việc truyền giáo làm thế cho họ…
(1) Tên của vị thần trừ ma quỷ của ngưởi Trung Quốc xưa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Chung Quỳ (1) rất thích ăn quỷ.
Đứa em gái chúc mừng sinh nhật của anh, nên gọi một tên quỷ lớn gánh đến mấy gánh lễ phẩm, tên các lễ vật được viết như sau:
- “Rượu cũ một bình, hai đứa tiểu quỷ tặng cho anh để anh có thể băm ra mà ăn. Nếu anh thấy lễ vật ít, thì ngay cả thằng quỷ gánh lễ phẩm đến nữa là ba đứa đều dâng cho anh”.
Quả nhiên Chung Quỳ ra lệnh cho đầy tớ đem cả ba thằng quỷ vào trong nhà bếp để nấu nướng.
Hai thằng quỷ nhỏ nói với thằng quỷ lớn gánh lễ vật:
- “Chúng tôi bị bắt đến đễ làm lễ vật, chết thì không còn gì phải nói, còn anh thì biết rất rõ Chung Quỳ là tên thích ăn quỷ, tội gì phải đến để mà chịu chết chứ?”
(Tiếu Tán)
Suy tư 74:
Thời xưa cũng như thời nay, đều có những người dám dấn thân đi vào chỗ nguy hiểm có thể hy sinh tính mạng, đó là những nhà truyền giáo đi rao giảng Tin Mừng cho mọi người, họ biết là sẽ nguy hiểm tính mạng, họ biết là sẽ rất cơ cực nhưng vẫn cứ đi, vì Lời Chúa cần được mọi người biết đến, vì ơn cứu độ của Thiên Chúa phải được mọi người nghe biết…
Người bị ép buộc để làm điều xấu và người tự nguyện làm điều xấu thì không giống nhau ở ý tưởng, nhưng giống nhau ở việc làm và hậu quả là gây tang tóc tai họa và khổ đau cho người khác.
Cho nên, người tự nguyện làm sáng danh Thiên Chúa thì đem hết lòng hết sức ra để làm cho bằng được; còn những ai bị bắt buộc đi làm sáng danh Thiên Chúa thì chẳng khác chi đem linh hồn họ làm quà tặng cho ma quỷ, bởi vì họ sẽ trở nên xấu hơn khi bị bắt buộc làm điều họ không muốn, dù đó là làm điều tốt …
Đó là một trong những kinh nghiệm của người truyền giáo: thà họ chịu hy sinh và đau khổ hơn là nhờ những người không thiết tha với công việc truyền giáo làm thế cho họ…
(1) Tên của vị thần trừ ma quỷ của ngưởi Trung Quốc xưa.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
(Dịch từ tiếng Hoa và viết suy tư)
--------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Mỗi Tuần SỐNG Một Câu Lời Chúa (CN 2 MC)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
17:49 26/02/2021
CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY
Tin mừng: Mc 9, 2-10.
“Đây là Con Ta yêu dấu.”
Bạn thân mến,
Để củng cố đức tin cho các môn đệ của mình, Đức Chúa Giê-su đã biến mình sáng chói trước mặt các ông, không phải để khoe khoang, nhưng là để chứng minh cho các ông một sự thật được giấu từ tạo thiên lập địa, đó là: Ngài chính là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để chuộc tội cho thiên hạ. Với biến cố biến hình này, Đức Chúa Giê-su đã hé mở cho chúng ta thấy vinh quang của Thiên Chúa và hạnh phúc Nước Trời.
Mục đích của bạn và tôi sống ở đời này là gì, nếu không phải là tìm hạnh phúc trên thiên đàng mai sau hay sao? Hạnh phúc đó chính là điều mà hôm nay thánh Mác-cô đã tường thuật cho chúng ta nghe, qua tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” Vâng, chỉ cần tin tưởng vâng nghe và thực hành lời của Đức Chúa Giê-su là chúng ta sẽ được vinh quang và hạnh phúc Nước Trời, không những ngày sau mà còn ngay khi ở nơi trần gian này.
Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu ấy được bày tỏ rất rõ ràng của Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Giê-su, tình yêu đó đang hiện diện và hành động ở giữa thế gian, tình yêu ấy đang hằng ngày ở với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, và tình yêu ấy cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống của mỗi người.
Bạn thân mến,
Ngoài Đức Chúa Giê-su ra, thì Chúa Cha chưa từng gọi ai là con yêu dấu của mình, nhưng vì yêu thương, vì Con yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Giê-su đã xuống thế làm người, hy sinh mạng sống của mình, để giao hòa thế gian với Ngài, nên tất cả chúng ta đều được trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa, đó chính là hạnh phúc vô cùng của bạn và tôi và của những ai tin và nghe lời của Đức Chúa Giê-su mà sống với thân phận làm con Thiên Chúa của mình.
Đức Chúa Giê-su là trưởng tử của Chúa Cha là Anh Cả của bạn và tôi, do đó, bạn và tôi và tất cả mọi người đều là anh em với nhau trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, và là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài và Hội Thánh công giáo. Cho nên, bạn và tôi không những có bổn phận nghe và thực hành lời của Đức Chúa Giê-su, mà còn có bổn phận giới thiệu Ngài cho mọi người nữa, bằng chính cuộc sống yêu thương, hiền lành, đơn sơ, phục vụ của chính bản thân mình.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Tin mừng: Mc 9, 2-10.
“Đây là Con Ta yêu dấu.”
Bạn thân mến,
Để củng cố đức tin cho các môn đệ của mình, Đức Chúa Giê-su đã biến mình sáng chói trước mặt các ông, không phải để khoe khoang, nhưng là để chứng minh cho các ông một sự thật được giấu từ tạo thiên lập địa, đó là: Ngài chính là Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người để chuộc tội cho thiên hạ. Với biến cố biến hình này, Đức Chúa Giê-su đã hé mở cho chúng ta thấy vinh quang của Thiên Chúa và hạnh phúc Nước Trời.
Mục đích của bạn và tôi sống ở đời này là gì, nếu không phải là tìm hạnh phúc trên thiên đàng mai sau hay sao? Hạnh phúc đó chính là điều mà hôm nay thánh Mác-cô đã tường thuật cho chúng ta nghe, qua tiếng Chúa Cha phán ra từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” Vâng, chỉ cần tin tưởng vâng nghe và thực hành lời của Đức Chúa Giê-su là chúng ta sẽ được vinh quang và hạnh phúc Nước Trời, không những ngày sau mà còn ngay khi ở nơi trần gian này.
Thiên Chúa là tình yêu, tình yêu ấy được bày tỏ rất rõ ràng của Con Một yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Giê-su, tình yêu đó đang hiện diện và hành động ở giữa thế gian, tình yêu ấy đang hằng ngày ở với chúng ta nơi bí tích Thánh Thể, và tình yêu ấy cùng đồng hành với chúng ta trong cuộc sống của mỗi người.
Bạn thân mến,
Ngoài Đức Chúa Giê-su ra, thì Chúa Cha chưa từng gọi ai là con yêu dấu của mình, nhưng vì yêu thương, vì Con yêu dấu của Ngài là Đức Chúa Giê-su đã xuống thế làm người, hy sinh mạng sống của mình, để giao hòa thế gian với Ngài, nên tất cả chúng ta đều được trở thành con yêu dấu của Thiên Chúa, đó chính là hạnh phúc vô cùng của bạn và tôi và của những ai tin và nghe lời của Đức Chúa Giê-su mà sống với thân phận làm con Thiên Chúa của mình.
Đức Chúa Giê-su là trưởng tử của Chúa Cha là Anh Cả của bạn và tôi, do đó, bạn và tôi và tất cả mọi người đều là anh em với nhau trong Đức Chúa Giê-su Ki-tô, và là những chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Ngài và Hội Thánh công giáo. Cho nên, bạn và tôi không những có bổn phận nghe và thực hành lời của Đức Chúa Giê-su, mà còn có bổn phận giới thiệu Ngài cho mọi người nữa, bằng chính cuộc sống yêu thương, hiền lành, đơn sơ, phục vụ của chính bản thân mình.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta.
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------
http://www.vietcatholic.org
https://www.facebook.com/jmtaiby
http://nhantai.info
Một Lần Nữa Con Lại Đến Đây
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
21:13 26/02/2021
Một Lần Nữa Con Lại Đến Đây
(Gợi ý hồi tâm theo sách KIM CHỈ NAM về Tác Vụ và Đời Sống linh mục)
(Tĩnh tâm linh mục giáo phận Qui Nhơn năm 2021)
DẪN NHẬP TỔNG QUÁT
Để mở đầu cho Chương Hai của tông huấn “Pastores Dabo Vobis”, bàn về “BẢN CHẤT VÀ SỨ VỤ CỦA CHỨC LINH MỤC THỪA TÁC”, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trích dẫn đoạn Tin Mừng Luca về sự kiện “xuất hiện công khai của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét: “Mọi người trong hội đường đều đưa mắt hướng nhìn Ngài” (Lc 4,20).
Từ ý nghĩa “hướng nhìn Ngài” đầy biểu tượng của câu Tin Mừng ngắn ngủi nầy, Vị Thánh Giáo Hoàng muốn nhấn mạnh điều nầy: Nếu Đức Kitô “đích ngắm” của muôn người thì những kẻ được mệnh danh là “Alter Christus” cũng chính là “đích ngắm” của dân Chúa muôn nơi muôn thuở; để từ “hướng nhìn căn bản” nầy mà toàn bộ công việc mục vụ của Hội Thánh sẽ được soi sáng, định hướng và thực hiện.
Nếu tĩnh tâm năm là một cuộc “dừng chân đặc biệt” để các linh mục trong giáo phận cùng chiêm ngắm, lắng nghe, gặp gỡ… chính Đấng mà “linh mục Tông đồ Phêrô” đã từng cảm nhận “Bỏ Thầy chúng con biết đến cùng ai” (Ga 6,68), và định hướng lại “sự chọn lựa và con đường theo Đức Kitô” của mình, thì cần thiết biết bao, việc hồi tâm để xét xem dân Chúa, Hội Thánh đã “nhìn linh mục” làm sao và các linh mục chúng ta đã “đáp ứng” được bao nhiêu trước cái nhìn và niềm ước mong cao cả đó. Hơn nữa, “khi để mình “được soi” trước cái nhìn của dân Chúa, của Giáo Hội”, chúng ta dễ có cơ hội để hoán cải và điều chỉnh lại cuộc sống và việc thi hành thừa tác vụ của mình; một “cuộc sống có thể đã trở nên mệt mỏi, nghèo nàn” và “việc thi hành sứ vụ có thể đang trên đà biến chất lệch lạc”.
Và sau đây xin đề nghị một “gợi ý cho cuộc hồi tâm”: Giáo Hội (dân Chúa) nhìn linh mục thế nào và cách đáp ứng của mỗi người chúng ta qua những “định hướng” của tài liệu “KIM CHỈ NAM VỀ TÁC VỤ VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC” (Ấn bản mới 2013 của Bộ Giáo Sĩ).
NGÀY THỨ NHẤT (Tối thứ Ba 23/02/2021)
HỒI TÂM VỀ CĂN TÍNH LINH MỤC
1. Chức linh mục là một hồng ân:
1.1. Hồng ân được tham dự vào “chức tư tế phổ quát” của Chúa Kitô với tư cách là một Kitô hữu: “Toàn thể Giáo Hội dự phần vào việc xức dầu tư tế của Chúa Ki-tô trong Chúa Thánh Thần. Thật vậy, trong Giáo Hội, “mọi Ki-tô hữu đều trở nên hàng tư tế thánh thiện và vương giả, dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng nhờ Đức Giêsu Kitô, và loan truyền những kỳ công của Đấng đã gọi họ ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền của Người” (x. 1Pr 2,5.9) (KCM số 1).
- Hằng ngày, có khi nào tôi nhớ tới hồng ân “được làm con Chúa”, được “trở nên một Kitô hữu” của chính tôi và của anh chị em giáo dân của tôi để tôi luôn “trân trọng phẩm giá Kitô hữu của chính mình và của mọi anh chị em tín hữu mà tôi được sai đến phục vụ”; nhất là những kẻ nghèo nàn, đơn hạ, yếu đau bệnh hoạn thể chất cũng như tinh thần…?
1.2. Hồng ân được tham dự vào “chức tư tế thừa tác” để Đức Kitô tiếp tục hoạt động trong Giáo Hội với tư cách là “Đầu của Thân thể”: “Lý do hiện hữu của chức linh mục thừa tác nằm trong viễn ảnh về mối liên kết thiết yếu và mang tính hoạt động giữa Giáo Hội với Chúa Kitô. Thật vậy, nhờ tác vụ nầy, Chúa Kitô tiếp tục thi hành giữa dân Ngài các chức năng chỉ thuộc về một mình Ngài trong tư cách là Đầu của Thân thể. Do đó, chức linh mục thừa tác làm cho hành động đặc thù của Chúa Kitô là Đầu trở nên hữu hình, và chứng tỏ rằng Chúa Kitô không bỏ rơi Giáo Hội của Ngài, nhưng tiếp tục ban sự sống cho Giáo Hội nhờ vào chức tư tế đời đời của mình. Vì lý do đó, Giáo Hội xem chức linh mục thừa tác là một hồng ân được ban cho mình thông qua tác vụ của một số tín hữu được chọn” (KCN số 1).
- Hằng ngày, tôi có luôn ý thức “chức linh mục thừa tác” mà tôi được nhận lãnh hoàn toàn là một hồng ân Chúa ban qua Giáo Hội và vì Giáo Hội; và đó là “hồng ân để Chúa Kitô tiếp tục hoạt động qua tôi” để mang ơn cứu độ cho con người, chứ không bao giờ là “mục đích để thăng tiến bản thân trong tương quan xã hội”, hay là “cơ hội để vinh thân phì gia”?
1.3. Hồng ân được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” trong mầu nhiệm hiệp thông của Hội Thánh: “Ơn gọi của linh mục vì vậy rất cao cả, và vẫn luôn là một mầu nhiệm lớn lao, kể cả với những người lãnh nhận ơn gọi như một hồng ân. Những giới hạn và yếu đuối của chúng ta phải thúc đẩy chúng ta sống và gìn giữ hồng ân quý giá nầy với một lòng tin sâu xa, nhờ hồng ân đó, Chúa Kitô đã làm cho ta nên đồng hình đồng dạng với Ngài bằng cách cho chúng ta tham dự vào sứ vụ cứu độ của Ngài” (KCN số 1).
- Thái độ chủ quan và kiêu ngạo sẽ là con đường dẫn chúng ta tới một đời sống “linh mục biến chất” và hoàn toàn vắng bóng Chúa Kitô; giáo dân và cả những người ngoài đạo chỉ còn thấy chúng ta chỉ là một “thằng người” với tất cả những “thuộc tính” của một kẻ tầm thường !
1.4. Hồng ân do bí tích Truyền Chức để biến cuộc đời linh mục mang “tính bí tích” để thi hành “đức ái mục tử”: “Với bí tích truyền chức, qua việc đặt tay và lời nguyện thánh hiến của Giám mục, nơi linh mục xuất hiện “một mối dây hữu thể đặc biệt liên kết linh mục với Chúa Kitô, Linh mục thượng phẩm và Mục tử nhân lành”… Việc đồng hoá mang tính bí tích nầy với Linh mục thượng phẩm đời đời, đưa linh mục vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt, và qua mầu nhiệm Chúa Kitô, trong sự hiệp thông tác vụ của Giáo Hội để phục vụ Dân Thiên Chúa, không phải như một công chức đặc trách các vấn đề tôn giáo, nhưng như Chúa Kitô “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20,28) (KCN số 2).
- Biết bao lần tôi đã lãng quên hay “thờ ơ với đặc sủng” qua “dấu ấn đặt tay” (1Tm 4,14) nầy để ứng xử như một “quan chức” cửa quyền, hống hách, xa cách, khinh thường giáo dân…; và thay vì “để Chúa Kitô hoạt động” bằng “đức ái mục tử”, tôi đã hành động và ứng xử “ăn miếng trả miếng”, “mạnh được yếu thua”, “may nhờ rủi chịu”…, hoàn toàn như một con người thế tục, đôi khi còn tệ hơn một giáo dân bình thường… !
2. Vài gợi ý của Lời Chúa để xin ơn hoán cải trở về với “căn tính linh mục”
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19).
Tôi có thật sự nghiêm túc coi trọng sự thánh thiện của chức linh mục không? Tôi có tin chắc rằng sự thành công nơi thừa tác vụ linh mục của mình phát xuất từ Thiên Chúa, rằng với ơn Chúa Thánh Thần, tôi có đồng hóa chính mình với Đức Kitô và trao hiến cuộc sống tôi cho việc cứu rỗi thế giới không?
“Hãy đến và theo tôi” (Mt 19,21).
Chúa Giêsu Kitô có phải là tình yêu đích thực của đời tôi không? Tôi có vui vẻ tuân theo lời cam kết của mình với tình yêu trước Thiên Chúa trong đời sống độc thân khiết tịnh không? Tôi có để mình rơi vào những suy nghĩ, ước muốn hay hành động không trong sạch không? Tôi có nuông chiều những cuộc nói chuyện không phù hợp không? Tôi có cho phép mình gần dịp tội để lỗi đức khiết tịnh không? Tôi có biết giữ gìn đôi mắt mình không? Tôi có thận trọng trong những giao tiếp của tôi với nhiều hạng người khác nhau không? Đối với người tín hữu đời sống của tôi có tiêu biểu cho một chứng tá đích thực là sự tinh tuyền thánh thiện thì khả thi, sinh hoa kết trái và mang lại vui thích không?
“Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20).
Tôi có yêu mến sự nghèo khó Kitô giáo không? Tâm hồn tôi có thuộc về Thiên Chúa không? Tôi có siêu thoát khỏi mọi thứ khác không? Tôi có được chuẩn bị để hy sinh phục vụ Thiên Chúa tốt hơn không? Tôi có được chuẩn bị để từ bỏ những tiện nghi, những kế hoạch cá nhân và những liên hệ chính đáng của tôi vì Thiên Chúa không? Tôi có chiếm hữu những thứ không cần thiết không? Tôi có những chi tiêu không cần thiết hay tôi có bị chủ nghĩa tiêu thụ thao túng không? Tôi có biết sử dụng thời gian rảnh rỗi để đến gần Thiên Chúa, để nhớ rằng tôi luôn luôn là môt linh mục, ngay cả những lúc nghỉ ngơi hay trong kỳ nghỉ không?
Kết:
Để kết thúc giờ hồi tâm nầy, chúng ta có thể mượn chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) để thân thưa với Chúa: “Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (NVTM số 3)
NGÀY THỨ HAI (Tối thứ Tư 24/02/2021)
HỒI TÂM VỀ ĐỜI SỐNG NỘI TÂM CỦA LINH MỤC
1. Thấm nhuần và nỗ lực thực hành Linh đạo linh mục:
1.1. Củng cố đời sống nội tâm trên căn bản “tương giao bạn hữu sâu đậm với Đức Kitô”: “Linh đạo linh mục hệ tại chính yếu ở mối tương giao bạn hữu sâu đậm với Chúa Kitô, Đấng đã gọi linh mục đến với Ngài (x. Mc 3,13). Trong đời linh mục, Chúa Kitô phải luôn có địa vị ưu tiên vượt trên tất cả”. (KCM, II. Linh đạo linh mục).
- Đời sống hôn nhân sẽ thất bại, đổ vỡ khi “tình bạn đôi lứa” hết mặn nồng, gắn bó. Đời sống linh mục của tôi sẽ ra sao khi “ngọn lửa tình yêu dành cho Đức Kitô đã lịm tắt?”. Nếu không duy trì được tình bạn với Đức Kitô thì làm sao tôi có thể yêu mến Giáo Hội của Ngài? Đã không còn yêu mến Giáo Hội thì sẵn sàng “tung hê” mọi thứ; bất chấp kỷ luật, rào cản, phong hoá, cộng đoàn… để chỉ còn một “cái tôi thế tục”, sẵn sàng “đạp trên dư luận” và “phớt lờ mọi tiếng gọi mời từ lương tâm và sự thúc dục hoán cải của Tin Mừng…
1.2. Luôn dành ưu tiên một cho đời sống nội tâm: “Mỗi linh mục sống trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, với những thách đố và đòi hỏi riêng biệt. Vì thế, sự bảo đảm cho một tác vụ phong nhiêu có gố rễ ở đời sống nội tâm sâu xa. Nếu linh mục không trước hết dựa vào địa vị tối thượng của ân sủng, ngài sẽ không thể đứng vững trước những thách đố của thời đại, và mọi chương trình mục vụ, dù được chăm chút đến đâu, cũng sẽ thất bại” (KCM, II. Linh đạo linh mục)… “các linh mục phải làm sống động tác vụ của mình bằng một đời sống thiêng liêng chiếm địa vị ưu tiên tuyệt đối, và tránh mọi xao nhãng do các hoạt động khác lôi kéo” (KCN số 49).
- Sự giảm thiểu và xem thường đời sống nội tâm, mỗi ngày một ít, sẽ biến đời sống linh mục dần dà bị lôi kéo và phân mảnh mỏi mệt; biến những việc “chăm sóc mục vụ” tươi vui thánh thiêng thành những “mảng dịch vụ” đầy “toan tính thế tục” và “bực dọc lo âu”. Trong khi đó, nếu đời sống linh mục không ngừng được “củng cố nội tâm và lớn lên trong ân sủng”, thì cho dù “bị ăn” cách tàn nhẫn và “bị xoay” như trái vụ…, đó lại là dấu chỉ của một đời sống tiêu hao và cống hiến hết mình cho những “hoa trái mục vụ” tràn đầy “niềm vui của đức ái mục tử”.
2. Đời sống nội tâm và một số chiều kích canh tân và hoán cải:
2.1. Canh tân lòng tin, cậy, mến với Chúa để “có Chúa mà chia sẻ cho người ta”: “Trong bối cảnh nầy, linh mục trước hết phải canh tân đức tin, đức cậy và đức mến của mình đối với Chúa, để có thể trình bày đích thật về Ngài cho các tín hữu và mọi người chiêm ngắm: một Nhân Vị sống động, thu hút, Đấng yêu thương chúng ta hơn bất kỳ ai khác, bởi Ngài đã hiến mạng vì chúng ta” (KCN số 46).
- Ngày nay, trước các thông tin thừa mứa của truyền thông hiện đại, linh mục rất dễ dàng để “nhiều chuyện”; nhưng cũng rất dễ “lạc đề” và “không đúng trọng tâm” trong việc chia sẻ và loan truyền Chúa cho mọi người. Chúng ta không thể “cho” điều mà chúng ta “không có”, hoặc có nhưng rất hời hợt, méo mó. Lời cầu nguyện mỗi ngày không được lãng quên có lẽ là lời của các Tông Đồ ngày xưa: “Xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5) !
2.2. Chu toàn và nghiêm túc thực hiện các bổn phận thiêng liêng : điều kiện cốt yếu để hoạt động mục vụ sinh hoa kết quả: “Đời sống thiêng liêng này phải được thể hiện trong đời mỗi linh mục qua việc phụng vụ, cầu nguyện cá nhân, lối sống và thực hành các nhân đức Kitô giáo, những điều này khiến cho hoạt động mục vụ sinh hoa kết quả. Việc đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô đòi hỏi linh mục phải biết nuôi dưỡng một bầu khí bạn hữu và gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu, và đặt mình phục vụ Giáo Hội, Nhiệm Thể Ngài, với tất cả tình yêu qua việc chu toàn cách trung thành và bền bỉ các bổn phận của tác vụ mục tử” (KCN số 50).
- Thời bây giờ người ta hay nói: “Những gì không mua được bằng tiền thì bằng ‘nhiều tiền’”. Rất nhiều anh em linh mục chúng ta cũng bị ám ảnh bởi phương tiện “nhiều tiền” để đáp ứng và giải quyết các “nan đề mục vụ”. Tuy nhiên, như chính Chúa Giêsu dạy và kinh nghiệm ngàn đời của Giáo Hội, nếu không “chu toàn cách trung thành và bền bỉ các bổn phận của tác vụ mục tử” (KCN 50), thì “những chiến tích lừng danh sẽ trở thành mây khói” (Chiara Lubich) !
3. Vài gợi ý của tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” để xét mình về đời sống nội tâm:
3.1. Tôi có giữ được niềm vui của đời linh mục hay đang trĩu nặng nỗi buồn?: “NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.” (NVTM số 1)…; “Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!” (Số 83)
3.2. Lẽ nào cuộc sống của tôi đã bị tục hoá?: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện bị phai mờ.” (NVTM số 2)
3.3. Trước gian nan thử thách tôi có đủ bản lĩnh để giữ trọn niềm vui Phục Sinh?: “Có những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc của chúng ta rằng, bất luận thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ.” (NVTM số 6)
3.4. Mỗi ngày tôi chọn niềm vui nào? Niềm vui hưởng thụ của kẻ giàu, sang chảnh, thừa mứa…; hay của người nghèo chỉ biết bám Chúa làm gia nghiệp?: “Đôi khi chúng ta bị cám dỗ kiếm cớ để than thở và hành động như thể chúng ta chỉ có thể hạnh phúc nếu có hàng ngàn các điều kiện. Phần nào đó là vì “xã hội kỹ thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui”. Tôi có thể nói rằng trong đời mình, tôi đã thấy những biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những người nghèo hầu như không có gì để bám víu vào.” (NVTM số 7)
Kết:
Để kết thúc giờ hồi tâm nầy, chúng ta có thể (tiếp tục) mượn chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) để thân thưa với Chúa:
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (NVTM số 3).
NGÀY THỨ BA (Tối thứ Năm 25/02/2021)
HỒI TÂM VỀ BA THỪA TÁC VỤ CỦA LINH MỤC: LỜI CHÚA – PHỤNG VỤ - QUẢN TRỊ
1. Linh mục trong “Thừa tác vụ Lời Chúa”:
1.1. Linh mục phải “ở lại” và bén rễ sâu trong Lời Chúa: “Trong lịch sử linh đạo linh mục, luôn có ý thức về sự cần thiết tuyệt đối phải trung thành “ở lại” và bén rễ sâu trong Lời Chúa và Thánh Truyền, để thật sự trở nên môn đệ và nhận biết chân lý (x. Ga 8,31-32)… Trong bối cảnh xã hội hiện nay tại nhiều nơi mang dấu ấn chủ nghĩa duy vật cả lý thuyết lẫn thực hành, chủ quan chủ nghĩa và thuyết tương đối văn hoá, điều hết sức cần thiết là Tin Mừng phải được giới thiệu như là “sức mạnh của Thiên Chúa để cứu những ai có lòng tin” (KCN số 62).
- Giáo dân (và cả người ngoại đạo) thường “soi” linh mục về “tư cách chứng nhân”, tức là “anh ta có sống Lời Chúa mà anh ta rao giảng, thuyết pháp?”. Đây không chỉ là tiếng gọi mời mà còn là một “mệnh lệnh” được trao trong ngày lãnh bí tích truyền chức: “Các con đã vui mừng lãnh nhận Lời Chúa, các con hãy đem ra phân phát cho mọi người. Khi suy gẫm Luật Chúa, các con hãy chú tâm tin điều các con đọc, dạy điều các con tin và thi hành điều các con dạy”. Điều này thì chỉ có việc “bắt đầu lại” chứ không thể vịn bất cứ lý do nào để bao biện !
1.2. Linh mục và việc “chuẩn bị bài giảng phụng vụ”: “… linh mục cảm thấy có bổn phận dành một sự chú ý đặc biệt vào việc chuẩn bị xa và gần cho các bài giảng phụng vụ, nội dung bài giảng phải làm vọng lại các bài đọc phụng vụ, đặc biệt bài Tin Mừng, có sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành, với cách trình bày có sư phạm và kỷ thuật, với một nghệ thuật trình bày xứng đáng với vị thế của bài giảng và của người nghe. Đặc biệt, cần tránh những bài giảng xa xôi và trừu tượng, vì nó che khuất tính đơn sơ của Lời Chúa, cũng như tránh những lời vớ vẩn vô ích, có nguy cơ khiến người nghe chú ý đến người giảng hơn là chú ý đến nội dung sứ điệp Tin Mừng. Phải làm sao để các tín hữu thấy rõ ràng là người giảng được thúc đẩy trình bày về Chúa Kitô, tâm điểm của mọi bài giảng” (KCN số 64).
- Có một “ma-xơ người Huế” đã từng nhắc khéo: “Linh mục mà không rao giảng thì mần chi cha”? Thật ra, ở đâu cũng có “bất cập”: Vốn bị chạm một lần vì lời phê bình “dài, dở, dai” nên thôi dẹp quách; hoặc qua loa, chiếu lệ, “đao đao” (download từ trên mạng). Nhưng cũng có nơi “thái quá”. Vấn đề nầy, thì anh em linh mục chúng ta cần nghe lại một trích đoạn trong Bài Giảng lễ Phong chức linh mục vừa qua của Đức Cha giáo phận: “Không được tục hóa bài giảng bằng những nội dung và lời lẽ không phù hợp với sự thánh thiêng của phụng vụ Lời Chúa. Càng không được dùng tòa giảng để làm nơi phê bình chỉ trích cá nhân. Để cho lời giảng dạy có sức đánh động lòng người, các con cần có gương sáng đời sống thánh thiện đi kèm, vì người ta thích nhìn thấy bài giảng hơn là chỉ nghe bài giảng”.
1.3. Linh mục: chứng nhân, sứ giả và người truyền bá đức tin: “Các linh mục, nhớ rằng “có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Chúa” (Rm 10,17), sẽ đem hết sức thi hành sứ vụ nầy, là sứ vụ hàng đầu trong tác vụ của mình. Thật vậy, họ không chỉ là chứng nhân mà còn là sứ giả và người truyền bá đức tin” (KCN số 62).
- Khuynh hướng chung đó là “ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai”. Loan báo Lời Chúa muôn nơi và muôn thuở không bao giờ là việc “nhẹ nhàng”, nhất là trong “thời đại 4.0” nầy, khi mà các phương tiện truyền thông chi phối mọi ngỏ ngách cuộc sống ! Chính trong bối cảnh đó, việc thi hành thừa tác vụ “Ngôn sứ” của linh mục luôn đòi hỏi vừa ngọn lửa nhiệt tình dấn thân, “đi ra”, vừa sự khôn ngoan tỉnh táo của một “chủ gia” biết chọn lựa đâu là “cái cũ cái mới trong kho tàng của mình” (Mt 13,52). Trong vấn đề nầy, chúng ta đừng quên câu tục ngữ của Việt Nam: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nếu không biết “lựa lời”, công việc truyền giáo, loan báo Lời Chúa sẽ phản tác dụng !
2. Linh mục trong thừa tác vụ phụng vụ:
2.1. Ý thức “vai trò đỉnh cao” của phụng vụ: “Phụng vụ là việc thi hành chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô, ‘đỉnh cao mà mọi hành động của Giáo Hội hướng đến, đồng thời là nguồn mạch phát sinh mọi hiệu lực’ (PV số 10). Phụng vụ là lãnh vực mà linh mục phải đặc biệt ý thức mình là thừa tác viên, nghĩa là người tôi tớ và phải trung thành vâng phục Giáo Hội…” (KCN số 59).
- Phụng vụ không chỉ tác động trên “đời sống nên thánh” của linh mục mà còn là “nguồn mạch phát sinh mọi hiệu lực” tông đồ. Phụng vụ “chuẩn”, “đẹp”, “sinh động” sẽ là dấu chỉ chắc chắn một cộng đoàn đức tin trưởng thành, vững mạnh. Phụng vụ chệch choạc, lượm thuộm, sai sót, buồn tẻ… là dấu hiệu của một cộng đoàn đức tin “đang có vấn đề” (đang rạn nứt, chia rẽ, hoặc thiếu chăm sóc, hướng dẫn…). Xây dựng một “cộng đoàn phụng vụ” tốt phải là ưu tiên một và thường xuyên của các mục tử.
2.2. Yêu mến và tôn trọng đầy xác tín đối với quy tắc phụng vụ: “Việc điều hành phụng vụ tuỳ thuộc hoàn toàn vào quyền bính Giáo Hội: thuộc quyền Toà Thánh và, theo quy tắc luật định, thuộc quyền Giám mục. Vì thế, linh mục không được theo sáng kiến cá nhân mà thêm bớt hay thay đổi điều gì trong phụng vụ. Quy tắc nầy đặc biệt đúng trong việc cử hành các bí tích, là những hành vi tuyệt hảo của Chúa Kitô và Giáo Hội, và linh mục trao ban vì lợi ích của các tín hữu in personna Christi Capitis et in nomine Ecclesiae (Thay mặt Chúa Kitô là Đầu và nhân danh Giáo Hội)” (KCN số 59).
- Trong môi trường phụng vụ của Hội Thánh không ai được phép “ngẫu hứng” hay “chơi trội”. Việc “cố ý” không thực hiện, xem thường “Luật Chữ Đỏ” đương nhiên là có tội. Cũng cần lưu ý, ngay từ đầu sai mà “chủ quan” tưởng đúng, hoặc lười biếng không sửa… chắc chắn sẽ thành thói quen và thường xuyên “lỗi luật” ! Điều nầy, xin các anh em linh mục trẻ, mới chịu chức, lưu ý cách đặc biệt hơn !
2.3. Lưu ý đặc biệt về cử hành Thánh Thể: “Linh mục được mời gọi cử hành hy tế tạ ơn và suy niệm liên lỉ về ý nghĩa của hy tế này rồi biến đổi đời mình thành một cuộc tạ ơn được biểu lộ trong tình yêu của mình với hy tế hằng ngày, nhất là trong việc chu toàn những bổn phận của bậc sống minh… Về vấn đề nầy, Đức Biển Đức XVI dạy: ‘với các nghị phụ của Công Đồng, tôi khuyên các linh mục cử hành Thánh Lễ hằng ngày, ngay cả khi không có sự tham dự của tín hữu’. Trên hết mọi sự, xét về mặt khách quan thì lời nhắn nhủ này phù hợp với giá trị vô biên của mỗi cử hành tạ ơn, lý do khác nữa được nêu ra sau đó nằm ở một hiệu quả thiêng liêng đặc biệt, …, xét như Thánh Lễ thăng tiến việc đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và làm cho linh mục được bền vững trong ơn gọi của mình” (KCN số 67).
- Chúng ta có thể lắng nghe gợi ý hồi tâm của ĐHY Mauro Piacenza: “Hy tế thánh lễ có phải là trung tâm cho đời sống thiêng liêng của tôi không? Tôi có chuẩn bị kỹ lưỡng để cử hành thánh lễ và có cử hành thánh lễ cách sốt sắng không? Tôi có tạ ơn Chúa sau thánh lễ không? Thánh lễ có phải là trung tâm cho ngày sống của tôi trong tâm tình tạ ơn và ngợi khen Chúa về những ơn lành của Người không? Tôi có trông cậy vào sự tốt lành của Chúa không? Tôi có làm việc đền tội cho những tội lỗi của mình và của tất cả nhân loại không?”.
3. Linh mục trong thừa tác vụ quản trị cộng đoàn:
3.1. Linh mục sống và hiện hữu cho cộng đoàn: “Là mục tử của cộng đoàn, theo hình ảnh của Chúa Kitô, Mục Tử nhân lành dâng hiến tất cả cuộc đời cho Giáo Hội, linh mục sống và hiện hữu cho cộng đoàn; chính vì cộng đoàn mà ngài cầu nguyện, học hỏi nghiên cứu, làm việc và tự hiến; chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn lòng để cho đi cuộc sống của mình, yêu thương cộng đoàn như Chúa Kitô, bằng tất cả tình yêu và lòng quý mến, tiêu huỷ cả sức lực và không tiếc thời gian để làm cho cộng đoàn trở thành hình ảnh của Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa Kitô, ngày càng mỹ miều và xứng đáng hơn với lòng nhân hậu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Thánh Thần” (KCN số 77).
- Nếu linh mục nào cũng sống “sát sao” định hướng tốt lành trên thì chắc chắn không bao giờ xảy ra chuyện “giáo dân khiêng cha sở trả về Toà Giám Mục”, hay kéo nhau hoặc đâm đơn kiện cáo… Dĩ nhiên, không thiếu những mục tử bị “ghét oan”; mà nếu “bị oan thiệt” thì có dịp nên thánh chứ có sao đâu ! Rất tiếc là phần đông, cộng đoàn, giáo dân luôn là “bên chịu thiệt thoà”, dễ bị bắt nạt, trù dập…, bởi họ thuộc thành phần “thấp cổ bé miệng” ! Trở thành một mục tử mà bị chính cộng đoàn mình phục vụ không chấp nhận phải chăng là một “thất bại đau đớn nhất” của cuộc đời linh mục !
3.2. Linh mục và “chiếc cầu hiệp thông”: “Toàn bộ những mối quan tâm này, và thêm vào đó là việc cung cấp một chứng từ bác ái luôn trong sáng và hiệu quả, cũng biểu lộ sự hiệp thông sâu xa là sự hiệp thông phảo được thể hiện giữa linh mục và cộng đoàn của mình, là sự nối dài và hiện thực hoá sự hiệp thông với Thiên Chúa, Đức Kitô và Giáo Hội. Theo gương Chúa Giêsu, linh mục không được kêu gọi để được phục vụ nhưng là để phục vụ (x. Mt 20,28). Ngài phải lưu tâm để đừng sa vào cám dỗ dùng sự tôn trọng và sự quý mến của các tín hữu đối với chức linh mục và Giáo Hội vào các mục đích riêng” (KCN số 77).
- Thời bây giờ, nhất là nơi giáo phận Qui Nhơn nầy, “địa vị linh mục” cũng không còn được trân trọng cách thái quá đâu ! Nhưng có ăn nhằm gì ! Điều quan trọng là “cọp chết để da người ta chết để tiếng”. Dĩ nhiên không phải là “tiếng xấu”; mà là mẫu gương của tình phụ tử, huynh đệ cộng đoàn; là dư âm của một “chiếc cầu hiệp thông” được tận tình xây đắp bằng mồ hôi nước mắt của khiêm nhường phục vụ. Giáo phận Qui Nhơn với 400 năm đón nhận Tin Mừng không thiếu những linh mục cha ông sống hết mình vì đoàn chiên đến độ sẵn sàng hy sinh mạng sống. Chúng ta nguyện viết tiếp “trang sử hào hùng” của các ngài.
Kết:
Để kết thúc giờ hồi tâm nầy, chúng ta có thể (tiếp tục) mượn chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) để thân thưa với Chúa:
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (NVTM số 3).
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Tổng Đại Diện giáo phận Qui Nhơn
(Gợi ý hồi tâm theo sách KIM CHỈ NAM về Tác Vụ và Đời Sống linh mục)
(Tĩnh tâm linh mục giáo phận Qui Nhơn năm 2021)
DẪN NHẬP TỔNG QUÁT
Để mở đầu cho Chương Hai của tông huấn “Pastores Dabo Vobis”, bàn về “BẢN CHẤT VÀ SỨ VỤ CỦA CHỨC LINH MỤC THỪA TÁC”, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã trích dẫn đoạn Tin Mừng Luca về sự kiện “xuất hiện công khai của Chúa Giêsu tại hội đường Nadarét: “Mọi người trong hội đường đều đưa mắt hướng nhìn Ngài” (Lc 4,20).
Từ ý nghĩa “hướng nhìn Ngài” đầy biểu tượng của câu Tin Mừng ngắn ngủi nầy, Vị Thánh Giáo Hoàng muốn nhấn mạnh điều nầy: Nếu Đức Kitô “đích ngắm” của muôn người thì những kẻ được mệnh danh là “Alter Christus” cũng chính là “đích ngắm” của dân Chúa muôn nơi muôn thuở; để từ “hướng nhìn căn bản” nầy mà toàn bộ công việc mục vụ của Hội Thánh sẽ được soi sáng, định hướng và thực hiện.
Nếu tĩnh tâm năm là một cuộc “dừng chân đặc biệt” để các linh mục trong giáo phận cùng chiêm ngắm, lắng nghe, gặp gỡ… chính Đấng mà “linh mục Tông đồ Phêrô” đã từng cảm nhận “Bỏ Thầy chúng con biết đến cùng ai” (Ga 6,68), và định hướng lại “sự chọn lựa và con đường theo Đức Kitô” của mình, thì cần thiết biết bao, việc hồi tâm để xét xem dân Chúa, Hội Thánh đã “nhìn linh mục” làm sao và các linh mục chúng ta đã “đáp ứng” được bao nhiêu trước cái nhìn và niềm ước mong cao cả đó. Hơn nữa, “khi để mình “được soi” trước cái nhìn của dân Chúa, của Giáo Hội”, chúng ta dễ có cơ hội để hoán cải và điều chỉnh lại cuộc sống và việc thi hành thừa tác vụ của mình; một “cuộc sống có thể đã trở nên mệt mỏi, nghèo nàn” và “việc thi hành sứ vụ có thể đang trên đà biến chất lệch lạc”.
Và sau đây xin đề nghị một “gợi ý cho cuộc hồi tâm”: Giáo Hội (dân Chúa) nhìn linh mục thế nào và cách đáp ứng của mỗi người chúng ta qua những “định hướng” của tài liệu “KIM CHỈ NAM VỀ TÁC VỤ VÀ ĐỜI SỐNG LINH MỤC” (Ấn bản mới 2013 của Bộ Giáo Sĩ).
NGÀY THỨ NHẤT (Tối thứ Ba 23/02/2021)
HỒI TÂM VỀ CĂN TÍNH LINH MỤC
1. Chức linh mục là một hồng ân:
1.1. Hồng ân được tham dự vào “chức tư tế phổ quát” của Chúa Kitô với tư cách là một Kitô hữu: “Toàn thể Giáo Hội dự phần vào việc xức dầu tư tế của Chúa Ki-tô trong Chúa Thánh Thần. Thật vậy, trong Giáo Hội, “mọi Ki-tô hữu đều trở nên hàng tư tế thánh thiện và vương giả, dâng lên Thiên Chúa những của lễ thiêng liêng nhờ Đức Giêsu Kitô, và loan truyền những kỳ công của Đấng đã gọi họ ra khỏi miền u tối vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền của Người” (x. 1Pr 2,5.9) (KCM số 1).
- Hằng ngày, có khi nào tôi nhớ tới hồng ân “được làm con Chúa”, được “trở nên một Kitô hữu” của chính tôi và của anh chị em giáo dân của tôi để tôi luôn “trân trọng phẩm giá Kitô hữu của chính mình và của mọi anh chị em tín hữu mà tôi được sai đến phục vụ”; nhất là những kẻ nghèo nàn, đơn hạ, yếu đau bệnh hoạn thể chất cũng như tinh thần…?
1.2. Hồng ân được tham dự vào “chức tư tế thừa tác” để Đức Kitô tiếp tục hoạt động trong Giáo Hội với tư cách là “Đầu của Thân thể”: “Lý do hiện hữu của chức linh mục thừa tác nằm trong viễn ảnh về mối liên kết thiết yếu và mang tính hoạt động giữa Giáo Hội với Chúa Kitô. Thật vậy, nhờ tác vụ nầy, Chúa Kitô tiếp tục thi hành giữa dân Ngài các chức năng chỉ thuộc về một mình Ngài trong tư cách là Đầu của Thân thể. Do đó, chức linh mục thừa tác làm cho hành động đặc thù của Chúa Kitô là Đầu trở nên hữu hình, và chứng tỏ rằng Chúa Kitô không bỏ rơi Giáo Hội của Ngài, nhưng tiếp tục ban sự sống cho Giáo Hội nhờ vào chức tư tế đời đời của mình. Vì lý do đó, Giáo Hội xem chức linh mục thừa tác là một hồng ân được ban cho mình thông qua tác vụ của một số tín hữu được chọn” (KCN số 1).
- Hằng ngày, tôi có luôn ý thức “chức linh mục thừa tác” mà tôi được nhận lãnh hoàn toàn là một hồng ân Chúa ban qua Giáo Hội và vì Giáo Hội; và đó là “hồng ân để Chúa Kitô tiếp tục hoạt động qua tôi” để mang ơn cứu độ cho con người, chứ không bao giờ là “mục đích để thăng tiến bản thân trong tương quan xã hội”, hay là “cơ hội để vinh thân phì gia”?
1.3. Hồng ân được trở nên “đồng hình đồng dạng với Đức Kitô” trong mầu nhiệm hiệp thông của Hội Thánh: “Ơn gọi của linh mục vì vậy rất cao cả, và vẫn luôn là một mầu nhiệm lớn lao, kể cả với những người lãnh nhận ơn gọi như một hồng ân. Những giới hạn và yếu đuối của chúng ta phải thúc đẩy chúng ta sống và gìn giữ hồng ân quý giá nầy với một lòng tin sâu xa, nhờ hồng ân đó, Chúa Kitô đã làm cho ta nên đồng hình đồng dạng với Ngài bằng cách cho chúng ta tham dự vào sứ vụ cứu độ của Ngài” (KCN số 1).
- Thái độ chủ quan và kiêu ngạo sẽ là con đường dẫn chúng ta tới một đời sống “linh mục biến chất” và hoàn toàn vắng bóng Chúa Kitô; giáo dân và cả những người ngoài đạo chỉ còn thấy chúng ta chỉ là một “thằng người” với tất cả những “thuộc tính” của một kẻ tầm thường !
1.4. Hồng ân do bí tích Truyền Chức để biến cuộc đời linh mục mang “tính bí tích” để thi hành “đức ái mục tử”: “Với bí tích truyền chức, qua việc đặt tay và lời nguyện thánh hiến của Giám mục, nơi linh mục xuất hiện “một mối dây hữu thể đặc biệt liên kết linh mục với Chúa Kitô, Linh mục thượng phẩm và Mục tử nhân lành”… Việc đồng hoá mang tính bí tích nầy với Linh mục thượng phẩm đời đời, đưa linh mục vào mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi cách đặc biệt, và qua mầu nhiệm Chúa Kitô, trong sự hiệp thông tác vụ của Giáo Hội để phục vụ Dân Thiên Chúa, không phải như một công chức đặc trách các vấn đề tôn giáo, nhưng như Chúa Kitô “đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc cho muôn người” (Mt 20,28) (KCN số 2).
- Biết bao lần tôi đã lãng quên hay “thờ ơ với đặc sủng” qua “dấu ấn đặt tay” (1Tm 4,14) nầy để ứng xử như một “quan chức” cửa quyền, hống hách, xa cách, khinh thường giáo dân…; và thay vì “để Chúa Kitô hoạt động” bằng “đức ái mục tử”, tôi đã hành động và ứng xử “ăn miếng trả miếng”, “mạnh được yếu thua”, “may nhờ rủi chịu”…, hoàn toàn như một con người thế tục, đôi khi còn tệ hơn một giáo dân bình thường… !
2. Vài gợi ý của Lời Chúa để xin ơn hoán cải trở về với “căn tính linh mục”
“Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến” (Ga 17,19).
Tôi có thật sự nghiêm túc coi trọng sự thánh thiện của chức linh mục không? Tôi có tin chắc rằng sự thành công nơi thừa tác vụ linh mục của mình phát xuất từ Thiên Chúa, rằng với ơn Chúa Thánh Thần, tôi có đồng hóa chính mình với Đức Kitô và trao hiến cuộc sống tôi cho việc cứu rỗi thế giới không?
“Hãy đến và theo tôi” (Mt 19,21).
Chúa Giêsu Kitô có phải là tình yêu đích thực của đời tôi không? Tôi có vui vẻ tuân theo lời cam kết của mình với tình yêu trước Thiên Chúa trong đời sống độc thân khiết tịnh không? Tôi có để mình rơi vào những suy nghĩ, ước muốn hay hành động không trong sạch không? Tôi có nuông chiều những cuộc nói chuyện không phù hợp không? Tôi có cho phép mình gần dịp tội để lỗi đức khiết tịnh không? Tôi có biết giữ gìn đôi mắt mình không? Tôi có thận trọng trong những giao tiếp của tôi với nhiều hạng người khác nhau không? Đối với người tín hữu đời sống của tôi có tiêu biểu cho một chứng tá đích thực là sự tinh tuyền thánh thiện thì khả thi, sinh hoa kết trái và mang lại vui thích không?
“Con Người không có chỗ tựa đầu” (Mt 8,20).
Tôi có yêu mến sự nghèo khó Kitô giáo không? Tâm hồn tôi có thuộc về Thiên Chúa không? Tôi có siêu thoát khỏi mọi thứ khác không? Tôi có được chuẩn bị để hy sinh phục vụ Thiên Chúa tốt hơn không? Tôi có được chuẩn bị để từ bỏ những tiện nghi, những kế hoạch cá nhân và những liên hệ chính đáng của tôi vì Thiên Chúa không? Tôi có chiếm hữu những thứ không cần thiết không? Tôi có những chi tiêu không cần thiết hay tôi có bị chủ nghĩa tiêu thụ thao túng không? Tôi có biết sử dụng thời gian rảnh rỗi để đến gần Thiên Chúa, để nhớ rằng tôi luôn luôn là môt linh mục, ngay cả những lúc nghỉ ngơi hay trong kỳ nghỉ không?
Kết:
Để kết thúc giờ hồi tâm nầy, chúng ta có thể mượn chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) để thân thưa với Chúa: “Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (NVTM số 3)
NGÀY THỨ HAI (Tối thứ Tư 24/02/2021)
HỒI TÂM VỀ ĐỜI SỐNG NỘI TÂM CỦA LINH MỤC
1. Thấm nhuần và nỗ lực thực hành Linh đạo linh mục:
1.1. Củng cố đời sống nội tâm trên căn bản “tương giao bạn hữu sâu đậm với Đức Kitô”: “Linh đạo linh mục hệ tại chính yếu ở mối tương giao bạn hữu sâu đậm với Chúa Kitô, Đấng đã gọi linh mục đến với Ngài (x. Mc 3,13). Trong đời linh mục, Chúa Kitô phải luôn có địa vị ưu tiên vượt trên tất cả”. (KCM, II. Linh đạo linh mục).
- Đời sống hôn nhân sẽ thất bại, đổ vỡ khi “tình bạn đôi lứa” hết mặn nồng, gắn bó. Đời sống linh mục của tôi sẽ ra sao khi “ngọn lửa tình yêu dành cho Đức Kitô đã lịm tắt?”. Nếu không duy trì được tình bạn với Đức Kitô thì làm sao tôi có thể yêu mến Giáo Hội của Ngài? Đã không còn yêu mến Giáo Hội thì sẵn sàng “tung hê” mọi thứ; bất chấp kỷ luật, rào cản, phong hoá, cộng đoàn… để chỉ còn một “cái tôi thế tục”, sẵn sàng “đạp trên dư luận” và “phớt lờ mọi tiếng gọi mời từ lương tâm và sự thúc dục hoán cải của Tin Mừng…
1.2. Luôn dành ưu tiên một cho đời sống nội tâm: “Mỗi linh mục sống trong một bối cảnh lịch sử cụ thể, với những thách đố và đòi hỏi riêng biệt. Vì thế, sự bảo đảm cho một tác vụ phong nhiêu có gố rễ ở đời sống nội tâm sâu xa. Nếu linh mục không trước hết dựa vào địa vị tối thượng của ân sủng, ngài sẽ không thể đứng vững trước những thách đố của thời đại, và mọi chương trình mục vụ, dù được chăm chút đến đâu, cũng sẽ thất bại” (KCM, II. Linh đạo linh mục)… “các linh mục phải làm sống động tác vụ của mình bằng một đời sống thiêng liêng chiếm địa vị ưu tiên tuyệt đối, và tránh mọi xao nhãng do các hoạt động khác lôi kéo” (KCN số 49).
- Sự giảm thiểu và xem thường đời sống nội tâm, mỗi ngày một ít, sẽ biến đời sống linh mục dần dà bị lôi kéo và phân mảnh mỏi mệt; biến những việc “chăm sóc mục vụ” tươi vui thánh thiêng thành những “mảng dịch vụ” đầy “toan tính thế tục” và “bực dọc lo âu”. Trong khi đó, nếu đời sống linh mục không ngừng được “củng cố nội tâm và lớn lên trong ân sủng”, thì cho dù “bị ăn” cách tàn nhẫn và “bị xoay” như trái vụ…, đó lại là dấu chỉ của một đời sống tiêu hao và cống hiến hết mình cho những “hoa trái mục vụ” tràn đầy “niềm vui của đức ái mục tử”.
2. Đời sống nội tâm và một số chiều kích canh tân và hoán cải:
2.1. Canh tân lòng tin, cậy, mến với Chúa để “có Chúa mà chia sẻ cho người ta”: “Trong bối cảnh nầy, linh mục trước hết phải canh tân đức tin, đức cậy và đức mến của mình đối với Chúa, để có thể trình bày đích thật về Ngài cho các tín hữu và mọi người chiêm ngắm: một Nhân Vị sống động, thu hút, Đấng yêu thương chúng ta hơn bất kỳ ai khác, bởi Ngài đã hiến mạng vì chúng ta” (KCN số 46).
- Ngày nay, trước các thông tin thừa mứa của truyền thông hiện đại, linh mục rất dễ dàng để “nhiều chuyện”; nhưng cũng rất dễ “lạc đề” và “không đúng trọng tâm” trong việc chia sẻ và loan truyền Chúa cho mọi người. Chúng ta không thể “cho” điều mà chúng ta “không có”, hoặc có nhưng rất hời hợt, méo mó. Lời cầu nguyện mỗi ngày không được lãng quên có lẽ là lời của các Tông Đồ ngày xưa: “Xin thêm lòng tin cho chúng con” (Lc 17,5) !
2.2. Chu toàn và nghiêm túc thực hiện các bổn phận thiêng liêng : điều kiện cốt yếu để hoạt động mục vụ sinh hoa kết quả: “Đời sống thiêng liêng này phải được thể hiện trong đời mỗi linh mục qua việc phụng vụ, cầu nguyện cá nhân, lối sống và thực hành các nhân đức Kitô giáo, những điều này khiến cho hoạt động mục vụ sinh hoa kết quả. Việc đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô đòi hỏi linh mục phải biết nuôi dưỡng một bầu khí bạn hữu và gặp gỡ cá nhân với Chúa Giêsu, và đặt mình phục vụ Giáo Hội, Nhiệm Thể Ngài, với tất cả tình yêu qua việc chu toàn cách trung thành và bền bỉ các bổn phận của tác vụ mục tử” (KCN số 50).
- Thời bây giờ người ta hay nói: “Những gì không mua được bằng tiền thì bằng ‘nhiều tiền’”. Rất nhiều anh em linh mục chúng ta cũng bị ám ảnh bởi phương tiện “nhiều tiền” để đáp ứng và giải quyết các “nan đề mục vụ”. Tuy nhiên, như chính Chúa Giêsu dạy và kinh nghiệm ngàn đời của Giáo Hội, nếu không “chu toàn cách trung thành và bền bỉ các bổn phận của tác vụ mục tử” (KCN 50), thì “những chiến tích lừng danh sẽ trở thành mây khói” (Chiara Lubich) !
3. Vài gợi ý của tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” để xét mình về đời sống nội tâm:
3.1. Tôi có giữ được niềm vui của đời linh mục hay đang trĩu nặng nỗi buồn?: “NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.” (NVTM số 1)…; “Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!” (Số 83)
3.2. Lẽ nào cuộc sống của tôi đã bị tục hoá?: “Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và ước muốn làm điều thiện bị phai mờ.” (NVTM số 2)
3.3. Trước gian nan thử thách tôi có đủ bản lĩnh để giữ trọn niềm vui Phục Sinh?: “Có những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc của chúng ta rằng, bất luận thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ.” (NVTM số 6)
3.4. Mỗi ngày tôi chọn niềm vui nào? Niềm vui hưởng thụ của kẻ giàu, sang chảnh, thừa mứa…; hay của người nghèo chỉ biết bám Chúa làm gia nghiệp?: “Đôi khi chúng ta bị cám dỗ kiếm cớ để than thở và hành động như thể chúng ta chỉ có thể hạnh phúc nếu có hàng ngàn các điều kiện. Phần nào đó là vì “xã hội kỹ thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ, nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui”. Tôi có thể nói rằng trong đời mình, tôi đã thấy những biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những người nghèo hầu như không có gì để bám víu vào.” (NVTM số 7)
Kết:
Để kết thúc giờ hồi tâm nầy, chúng ta có thể (tiếp tục) mượn chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) để thân thưa với Chúa:
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (NVTM số 3).
NGÀY THỨ BA (Tối thứ Năm 25/02/2021)
HỒI TÂM VỀ BA THỪA TÁC VỤ CỦA LINH MỤC: LỜI CHÚA – PHỤNG VỤ - QUẢN TRỊ
1. Linh mục trong “Thừa tác vụ Lời Chúa”:
1.1. Linh mục phải “ở lại” và bén rễ sâu trong Lời Chúa: “Trong lịch sử linh đạo linh mục, luôn có ý thức về sự cần thiết tuyệt đối phải trung thành “ở lại” và bén rễ sâu trong Lời Chúa và Thánh Truyền, để thật sự trở nên môn đệ và nhận biết chân lý (x. Ga 8,31-32)… Trong bối cảnh xã hội hiện nay tại nhiều nơi mang dấu ấn chủ nghĩa duy vật cả lý thuyết lẫn thực hành, chủ quan chủ nghĩa và thuyết tương đối văn hoá, điều hết sức cần thiết là Tin Mừng phải được giới thiệu như là “sức mạnh của Thiên Chúa để cứu những ai có lòng tin” (KCN số 62).
- Giáo dân (và cả người ngoại đạo) thường “soi” linh mục về “tư cách chứng nhân”, tức là “anh ta có sống Lời Chúa mà anh ta rao giảng, thuyết pháp?”. Đây không chỉ là tiếng gọi mời mà còn là một “mệnh lệnh” được trao trong ngày lãnh bí tích truyền chức: “Các con đã vui mừng lãnh nhận Lời Chúa, các con hãy đem ra phân phát cho mọi người. Khi suy gẫm Luật Chúa, các con hãy chú tâm tin điều các con đọc, dạy điều các con tin và thi hành điều các con dạy”. Điều này thì chỉ có việc “bắt đầu lại” chứ không thể vịn bất cứ lý do nào để bao biện !
1.2. Linh mục và việc “chuẩn bị bài giảng phụng vụ”: “… linh mục cảm thấy có bổn phận dành một sự chú ý đặc biệt vào việc chuẩn bị xa và gần cho các bài giảng phụng vụ, nội dung bài giảng phải làm vọng lại các bài đọc phụng vụ, đặc biệt bài Tin Mừng, có sự cân bằng giữa lý thuyết và thực hành, với cách trình bày có sư phạm và kỷ thuật, với một nghệ thuật trình bày xứng đáng với vị thế của bài giảng và của người nghe. Đặc biệt, cần tránh những bài giảng xa xôi và trừu tượng, vì nó che khuất tính đơn sơ của Lời Chúa, cũng như tránh những lời vớ vẩn vô ích, có nguy cơ khiến người nghe chú ý đến người giảng hơn là chú ý đến nội dung sứ điệp Tin Mừng. Phải làm sao để các tín hữu thấy rõ ràng là người giảng được thúc đẩy trình bày về Chúa Kitô, tâm điểm của mọi bài giảng” (KCN số 64).
- Có một “ma-xơ người Huế” đã từng nhắc khéo: “Linh mục mà không rao giảng thì mần chi cha”? Thật ra, ở đâu cũng có “bất cập”: Vốn bị chạm một lần vì lời phê bình “dài, dở, dai” nên thôi dẹp quách; hoặc qua loa, chiếu lệ, “đao đao” (download từ trên mạng). Nhưng cũng có nơi “thái quá”. Vấn đề nầy, thì anh em linh mục chúng ta cần nghe lại một trích đoạn trong Bài Giảng lễ Phong chức linh mục vừa qua của Đức Cha giáo phận: “Không được tục hóa bài giảng bằng những nội dung và lời lẽ không phù hợp với sự thánh thiêng của phụng vụ Lời Chúa. Càng không được dùng tòa giảng để làm nơi phê bình chỉ trích cá nhân. Để cho lời giảng dạy có sức đánh động lòng người, các con cần có gương sáng đời sống thánh thiện đi kèm, vì người ta thích nhìn thấy bài giảng hơn là chỉ nghe bài giảng”.
1.3. Linh mục: chứng nhân, sứ giả và người truyền bá đức tin: “Các linh mục, nhớ rằng “có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố Lời Chúa” (Rm 10,17), sẽ đem hết sức thi hành sứ vụ nầy, là sứ vụ hàng đầu trong tác vụ của mình. Thật vậy, họ không chỉ là chứng nhân mà còn là sứ giả và người truyền bá đức tin” (KCN số 62).
- Khuynh hướng chung đó là “ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai”. Loan báo Lời Chúa muôn nơi và muôn thuở không bao giờ là việc “nhẹ nhàng”, nhất là trong “thời đại 4.0” nầy, khi mà các phương tiện truyền thông chi phối mọi ngỏ ngách cuộc sống ! Chính trong bối cảnh đó, việc thi hành thừa tác vụ “Ngôn sứ” của linh mục luôn đòi hỏi vừa ngọn lửa nhiệt tình dấn thân, “đi ra”, vừa sự khôn ngoan tỉnh táo của một “chủ gia” biết chọn lựa đâu là “cái cũ cái mới trong kho tàng của mình” (Mt 13,52). Trong vấn đề nầy, chúng ta đừng quên câu tục ngữ của Việt Nam: “Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Nếu không biết “lựa lời”, công việc truyền giáo, loan báo Lời Chúa sẽ phản tác dụng !
2. Linh mục trong thừa tác vụ phụng vụ:
2.1. Ý thức “vai trò đỉnh cao” của phụng vụ: “Phụng vụ là việc thi hành chức linh mục của Chúa Giêsu Kitô, ‘đỉnh cao mà mọi hành động của Giáo Hội hướng đến, đồng thời là nguồn mạch phát sinh mọi hiệu lực’ (PV số 10). Phụng vụ là lãnh vực mà linh mục phải đặc biệt ý thức mình là thừa tác viên, nghĩa là người tôi tớ và phải trung thành vâng phục Giáo Hội…” (KCN số 59).
- Phụng vụ không chỉ tác động trên “đời sống nên thánh” của linh mục mà còn là “nguồn mạch phát sinh mọi hiệu lực” tông đồ. Phụng vụ “chuẩn”, “đẹp”, “sinh động” sẽ là dấu chỉ chắc chắn một cộng đoàn đức tin trưởng thành, vững mạnh. Phụng vụ chệch choạc, lượm thuộm, sai sót, buồn tẻ… là dấu hiệu của một cộng đoàn đức tin “đang có vấn đề” (đang rạn nứt, chia rẽ, hoặc thiếu chăm sóc, hướng dẫn…). Xây dựng một “cộng đoàn phụng vụ” tốt phải là ưu tiên một và thường xuyên của các mục tử.
2.2. Yêu mến và tôn trọng đầy xác tín đối với quy tắc phụng vụ: “Việc điều hành phụng vụ tuỳ thuộc hoàn toàn vào quyền bính Giáo Hội: thuộc quyền Toà Thánh và, theo quy tắc luật định, thuộc quyền Giám mục. Vì thế, linh mục không được theo sáng kiến cá nhân mà thêm bớt hay thay đổi điều gì trong phụng vụ. Quy tắc nầy đặc biệt đúng trong việc cử hành các bí tích, là những hành vi tuyệt hảo của Chúa Kitô và Giáo Hội, và linh mục trao ban vì lợi ích của các tín hữu in personna Christi Capitis et in nomine Ecclesiae (Thay mặt Chúa Kitô là Đầu và nhân danh Giáo Hội)” (KCN số 59).
- Trong môi trường phụng vụ của Hội Thánh không ai được phép “ngẫu hứng” hay “chơi trội”. Việc “cố ý” không thực hiện, xem thường “Luật Chữ Đỏ” đương nhiên là có tội. Cũng cần lưu ý, ngay từ đầu sai mà “chủ quan” tưởng đúng, hoặc lười biếng không sửa… chắc chắn sẽ thành thói quen và thường xuyên “lỗi luật” ! Điều nầy, xin các anh em linh mục trẻ, mới chịu chức, lưu ý cách đặc biệt hơn !
2.3. Lưu ý đặc biệt về cử hành Thánh Thể: “Linh mục được mời gọi cử hành hy tế tạ ơn và suy niệm liên lỉ về ý nghĩa của hy tế này rồi biến đổi đời mình thành một cuộc tạ ơn được biểu lộ trong tình yêu của mình với hy tế hằng ngày, nhất là trong việc chu toàn những bổn phận của bậc sống minh… Về vấn đề nầy, Đức Biển Đức XVI dạy: ‘với các nghị phụ của Công Đồng, tôi khuyên các linh mục cử hành Thánh Lễ hằng ngày, ngay cả khi không có sự tham dự của tín hữu’. Trên hết mọi sự, xét về mặt khách quan thì lời nhắn nhủ này phù hợp với giá trị vô biên của mỗi cử hành tạ ơn, lý do khác nữa được nêu ra sau đó nằm ở một hiệu quả thiêng liêng đặc biệt, …, xét như Thánh Lễ thăng tiến việc đồng hình đồng dạng với Đức Kitô và làm cho linh mục được bền vững trong ơn gọi của mình” (KCN số 67).
- Chúng ta có thể lắng nghe gợi ý hồi tâm của ĐHY Mauro Piacenza: “Hy tế thánh lễ có phải là trung tâm cho đời sống thiêng liêng của tôi không? Tôi có chuẩn bị kỹ lưỡng để cử hành thánh lễ và có cử hành thánh lễ cách sốt sắng không? Tôi có tạ ơn Chúa sau thánh lễ không? Thánh lễ có phải là trung tâm cho ngày sống của tôi trong tâm tình tạ ơn và ngợi khen Chúa về những ơn lành của Người không? Tôi có trông cậy vào sự tốt lành của Chúa không? Tôi có làm việc đền tội cho những tội lỗi của mình và của tất cả nhân loại không?”.
3. Linh mục trong thừa tác vụ quản trị cộng đoàn:
3.1. Linh mục sống và hiện hữu cho cộng đoàn: “Là mục tử của cộng đoàn, theo hình ảnh của Chúa Kitô, Mục Tử nhân lành dâng hiến tất cả cuộc đời cho Giáo Hội, linh mục sống và hiện hữu cho cộng đoàn; chính vì cộng đoàn mà ngài cầu nguyện, học hỏi nghiên cứu, làm việc và tự hiến; chính vì cộng đoàn mà ngài sẵn lòng để cho đi cuộc sống của mình, yêu thương cộng đoàn như Chúa Kitô, bằng tất cả tình yêu và lòng quý mến, tiêu huỷ cả sức lực và không tiếc thời gian để làm cho cộng đoàn trở thành hình ảnh của Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa Kitô, ngày càng mỹ miều và xứng đáng hơn với lòng nhân hậu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Thánh Thần” (KCN số 77).
- Nếu linh mục nào cũng sống “sát sao” định hướng tốt lành trên thì chắc chắn không bao giờ xảy ra chuyện “giáo dân khiêng cha sở trả về Toà Giám Mục”, hay kéo nhau hoặc đâm đơn kiện cáo… Dĩ nhiên, không thiếu những mục tử bị “ghét oan”; mà nếu “bị oan thiệt” thì có dịp nên thánh chứ có sao đâu ! Rất tiếc là phần đông, cộng đoàn, giáo dân luôn là “bên chịu thiệt thoà”, dễ bị bắt nạt, trù dập…, bởi họ thuộc thành phần “thấp cổ bé miệng” ! Trở thành một mục tử mà bị chính cộng đoàn mình phục vụ không chấp nhận phải chăng là một “thất bại đau đớn nhất” của cuộc đời linh mục !
3.2. Linh mục và “chiếc cầu hiệp thông”: “Toàn bộ những mối quan tâm này, và thêm vào đó là việc cung cấp một chứng từ bác ái luôn trong sáng và hiệu quả, cũng biểu lộ sự hiệp thông sâu xa là sự hiệp thông phảo được thể hiện giữa linh mục và cộng đoàn của mình, là sự nối dài và hiện thực hoá sự hiệp thông với Thiên Chúa, Đức Kitô và Giáo Hội. Theo gương Chúa Giêsu, linh mục không được kêu gọi để được phục vụ nhưng là để phục vụ (x. Mt 20,28). Ngài phải lưu tâm để đừng sa vào cám dỗ dùng sự tôn trọng và sự quý mến của các tín hữu đối với chức linh mục và Giáo Hội vào các mục đích riêng” (KCN số 77).
- Thời bây giờ, nhất là nơi giáo phận Qui Nhơn nầy, “địa vị linh mục” cũng không còn được trân trọng cách thái quá đâu ! Nhưng có ăn nhằm gì ! Điều quan trọng là “cọp chết để da người ta chết để tiếng”. Dĩ nhiên không phải là “tiếng xấu”; mà là mẫu gương của tình phụ tử, huynh đệ cộng đoàn; là dư âm của một “chiếc cầu hiệp thông” được tận tình xây đắp bằng mồ hôi nước mắt của khiêm nhường phục vụ. Giáo phận Qui Nhơn với 400 năm đón nhận Tin Mừng không thiếu những linh mục cha ông sống hết mình vì đoàn chiên đến độ sẵn sàng hy sinh mạng sống. Chúng ta nguyện viết tiếp “trang sử hào hùng” của các ngài.
Kết:
Để kết thúc giờ hồi tâm nầy, chúng ta có thể (tiếp tục) mượn chính lời của Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm Vui Tin Mừng (Evangelii Gaudium) để thân thưa với Chúa:
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối! Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của Ngài.” (NVTM số 3).
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Tổng Đại Diện giáo phận Qui Nhơn
Giấc mơ ngàn đời
Lm. Minh Anh
23:07 26/02/2021
GIẤC MƠ NGÀN ĐỜI
“Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ rất bất ngờ khi cả hai bài đọc hôm nay cùng tiết lộ ‘giấc mơ ngàn đời’ của Thiên Chúa; và sẽ bất ngờ hơn khi Môisen của Cựu Ước lẫn ‘Môisen mới’ của Tân Ước cùng nói đến ‘giấc mơ ngàn đời’ ấy. Giấc mơ của Thiên Chúa có tên là ‘hoàn hảo, hoàn thiện hay nên thánh’ được Thiên Chúa chờ đợi nơi mọi con cái của Người, không trừ ai.
Nếu Môisen của Cựu Ước kêu gọi Israel, “Hãy tuân giữ mọi giới răn của Người… để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi”, thì ‘Môisen mới’ của Tân Ước cũng mời gọi Hội Thánh, Israel mới, “Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
“Hãy nên hoàn hảo!”, “Hãy nên thánh!” không phải là một gợi ý nhưng là một mệnh lệnh; một mệnh lệnh cần đến ân sủng của Thiên Chúa và nghị lực của con người. Bởi lẽ, Thiên Chúa biết, với sức riêng của nó, đó là điều không thể; vậy mà với Thiên Chúa, không gì là không thể. Qua đó, Chúa Giêsu nói lên một sự thật rằng, “nên thánh” là một kế hoạch của Thiên Chúa khi Người tạo dựng con người giống hình ảnh mình; “nên thánh” là một điều khả thi; và “nên thánh” là một điều kỳ diệu chắc chắn sẽ xảy ra với những kẻ tin. Vì thế, dẫu chưa có ai là thánh trước mặt Thiên Chúa, thì Người vẫn có lý do để mơ ‘giấc mơ ngàn đời’, đó là mọi người nên thánh, hoàn thiện như Người; không phải một lần cho tất cả, đúng hơn, từng khoảnh khắc trong từng phút giây cuộc đời họ.
Tại sao Thiên Chúa truyền cho chúng ta phải nên thánh? Lý do thứ nhất, vì vinh quang Người. Sách Lêvi viết, “Các ngươi phải nên thánh vì Ta, Đức Chúa, là Đấng Thánh; Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân tộc, để các ngươi thuộc về Ta”. Đang khi “Vinh quang Thiên Chúa là con người sống” thì con người xem ra đang chết; con người đang sống trong một thế giới ngày càng tồi tệ, một thế giới cần được cứu rỗi hơn bao giờ hết. Đây là lý do thứ hai để chúng ta hiểu được sự cấp thiết mỗi người phải theo đuổi sự thánh thiện. Vậy thì đâu là giá trị của sự thánh thiện Kitô trên thế giới? Thư Diognetus, một trong những tài liệu minh giáo đầu tiên, giải thích, “Xác thịt thù ghét và gây chiến với linh hồn, dù linh hồn không làm hại gì nó mà chỉ ngăn cản nó, không cho nó hưởng lạc thú; cũng thế, thế gian thù ghét các Kitô hữu, dù Kitô hữu không gây thiệt hại gì cho nó, mà chỉ chống lại các lạc thú. Linh hồn yêu thân xác, nhưng thân xác và các chi thể lại ghét linh hồn; các Kitô hữu cũng yêu những kẻ ghét mình”.
Trong một thế giới mùn cát hay thay đổi, Kitô hữu cung cấp một nền móng vững chắc là Chúa Kitô; trong một thế giới tối nhiều hơn sáng, Kitô hữu như những vì sao chiếu sáng ánh lửa Bí tích Rửa tội; trong một thế giới yếu nhược đầy bạo lực, Kitô hữu cung cấp sức mạnh “nên thánh” đầy thuyết phục của con cái Chúa. Mẹ Têrêxa nói, “Thánh thiện không phải là đặc ân của một số ít, mà là nghĩa vụ của tất cả mọi người”. Như thế, chúng ta được kêu gọi nên thánh vì vinh quang Thiên Chúa và sự cứu rỗi các linh hồn; đây chính là một động lực mới, một sức mạnh mới và cũng là lý do để chúng ta nỗ lực tìm kiếm sự thánh thiện. Bấy giờ, thách thức tìm kiếm sự thánh thiện trở thành một công cụ của tình yêu, được thúc đẩy bởi một trái tim rực lửa nhiệt thành với điều Thiên Chúa mong mỏi; và đó cũng là ‘giấc mơ ngàn đời’ của Thiên Chúa.
Trong 51 năm, Bob Edens bị mù, anh không thể nhìn thấy một thứ gì. Thế giới của anh là một vực đen thăm thẳm chỉ có âm thanh và mùi vị. Anh cảm nhận theo cách của mình qua năm thập kỷ tăm tối. Phép lạ xảy ra, Bob đã nhìn thấy; một bác sĩ lành nghề đã thực hiện một ca phẫu thuật phức tạp và lần đầu tiên Bob Edens có thị lực. Anh choáng ngợp, “Tôi không bao giờ có thể mơ rằng, màu vàng lại vàng đến thế”, “Tôi không biết nói làm sao! Tôi sững sờ bởi màu vàng nhưng màu đỏ là màu tôi yêu thích; tôi chỉ không thể tin được màu đỏ. Tôi có thể nhìn thấy hình dạng của mặt trăng và không gì thú vị hơn khi nhìn một chiếc phản lực bay ngang bầu trời, để lại một vệt trắng. Và tất nhiên, cả bình minh và hoàng hôn; đêm về, tôi chiêm ngưỡng các ngôi sao nhấp nháy ánh sáng trong màn đêm. Bạn không bao giờ có thể biết mọi thứ tuyệt vời như thế nào!”.
Anh Chị em,
Như trải nghiệm của Bob Edens, chúng ta không bao giờ có thể biết được mọi sự sẽ tuyệt vời như thế nào khi ‘giấc mơ ngàn đời’ của Thiên Chúa thành hiện thực, chí ít là nơi mỗi người chúng ta. Ngạc nhiên thay! Hối cải là bước đi đầu tiên trong hành trình hiện thực hoá giấc mơ ấy, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người không cần ăn năn”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để ‘giấc mơ ngàn đời’ của Chúa được hiện thực, xin cho con biết trở về với Chúa trong những ngày Mùa Chay này, vì đây là khởi sự của việc con ‘nên thánh’ như Chúa muốn”, Amen.
(Tgp. Huế)
“Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ rất bất ngờ khi cả hai bài đọc hôm nay cùng tiết lộ ‘giấc mơ ngàn đời’ của Thiên Chúa; và sẽ bất ngờ hơn khi Môisen của Cựu Ước lẫn ‘Môisen mới’ của Tân Ước cùng nói đến ‘giấc mơ ngàn đời’ ấy. Giấc mơ của Thiên Chúa có tên là ‘hoàn hảo, hoàn thiện hay nên thánh’ được Thiên Chúa chờ đợi nơi mọi con cái của Người, không trừ ai.
Nếu Môisen của Cựu Ước kêu gọi Israel, “Hãy tuân giữ mọi giới răn của Người… để ngươi trở thành dân thánh của Chúa là Thiên Chúa ngươi”, thì ‘Môisen mới’ của Tân Ước cũng mời gọi Hội Thánh, Israel mới, “Các con hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Đấng hoàn hảo”.
“Hãy nên hoàn hảo!”, “Hãy nên thánh!” không phải là một gợi ý nhưng là một mệnh lệnh; một mệnh lệnh cần đến ân sủng của Thiên Chúa và nghị lực của con người. Bởi lẽ, Thiên Chúa biết, với sức riêng của nó, đó là điều không thể; vậy mà với Thiên Chúa, không gì là không thể. Qua đó, Chúa Giêsu nói lên một sự thật rằng, “nên thánh” là một kế hoạch của Thiên Chúa khi Người tạo dựng con người giống hình ảnh mình; “nên thánh” là một điều khả thi; và “nên thánh” là một điều kỳ diệu chắc chắn sẽ xảy ra với những kẻ tin. Vì thế, dẫu chưa có ai là thánh trước mặt Thiên Chúa, thì Người vẫn có lý do để mơ ‘giấc mơ ngàn đời’, đó là mọi người nên thánh, hoàn thiện như Người; không phải một lần cho tất cả, đúng hơn, từng khoảnh khắc trong từng phút giây cuộc đời họ.
Tại sao Thiên Chúa truyền cho chúng ta phải nên thánh? Lý do thứ nhất, vì vinh quang Người. Sách Lêvi viết, “Các ngươi phải nên thánh vì Ta, Đức Chúa, là Đấng Thánh; Ta đã tách biệt các ngươi ra khỏi các dân tộc, để các ngươi thuộc về Ta”. Đang khi “Vinh quang Thiên Chúa là con người sống” thì con người xem ra đang chết; con người đang sống trong một thế giới ngày càng tồi tệ, một thế giới cần được cứu rỗi hơn bao giờ hết. Đây là lý do thứ hai để chúng ta hiểu được sự cấp thiết mỗi người phải theo đuổi sự thánh thiện. Vậy thì đâu là giá trị của sự thánh thiện Kitô trên thế giới? Thư Diognetus, một trong những tài liệu minh giáo đầu tiên, giải thích, “Xác thịt thù ghét và gây chiến với linh hồn, dù linh hồn không làm hại gì nó mà chỉ ngăn cản nó, không cho nó hưởng lạc thú; cũng thế, thế gian thù ghét các Kitô hữu, dù Kitô hữu không gây thiệt hại gì cho nó, mà chỉ chống lại các lạc thú. Linh hồn yêu thân xác, nhưng thân xác và các chi thể lại ghét linh hồn; các Kitô hữu cũng yêu những kẻ ghét mình”.
Trong một thế giới mùn cát hay thay đổi, Kitô hữu cung cấp một nền móng vững chắc là Chúa Kitô; trong một thế giới tối nhiều hơn sáng, Kitô hữu như những vì sao chiếu sáng ánh lửa Bí tích Rửa tội; trong một thế giới yếu nhược đầy bạo lực, Kitô hữu cung cấp sức mạnh “nên thánh” đầy thuyết phục của con cái Chúa. Mẹ Têrêxa nói, “Thánh thiện không phải là đặc ân của một số ít, mà là nghĩa vụ của tất cả mọi người”. Như thế, chúng ta được kêu gọi nên thánh vì vinh quang Thiên Chúa và sự cứu rỗi các linh hồn; đây chính là một động lực mới, một sức mạnh mới và cũng là lý do để chúng ta nỗ lực tìm kiếm sự thánh thiện. Bấy giờ, thách thức tìm kiếm sự thánh thiện trở thành một công cụ của tình yêu, được thúc đẩy bởi một trái tim rực lửa nhiệt thành với điều Thiên Chúa mong mỏi; và đó cũng là ‘giấc mơ ngàn đời’ của Thiên Chúa.
Anh Chị em,
Như trải nghiệm của Bob Edens, chúng ta không bao giờ có thể biết được mọi sự sẽ tuyệt vời như thế nào khi ‘giấc mơ ngàn đời’ của Thiên Chúa thành hiện thực, chí ít là nơi mỗi người chúng ta. Ngạc nhiên thay! Hối cải là bước đi đầu tiên trong hành trình hiện thực hoá giấc mơ ấy, “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người không cần ăn năn”.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, để ‘giấc mơ ngàn đời’ của Chúa được hiện thực, xin cho con biết trở về với Chúa trong những ngày Mùa Chay này, vì đây là khởi sự của việc con ‘nên thánh’ như Chúa muốn”, Amen.
(Tgp. Huế)
Thánh Lễ Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay 28/2/2021 dành cho những người không thể đến nhà thờ
Giáo Hội Năm Châu
23:28 26/02/2021
BÀI ĐỌC I: St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18
“Của hiến tế của Abraham Tổ phụ chúng ta”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Chúa thử Abraham và nói với ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông đáp lại: “Dạ, con đây”. Chúa nói: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi, và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”.
Khi hai người đến nơi Chúa đã chỉ, Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình. Bấy giờ thiên thần Chúa từ trời gọi ông rằng: “Abraham, Abraham!” Ông thưa lại: “Dạ, con đây”. Người nói: “Đừng giết con trẻ và đừng động đến nó, vì giờ đây ta biết ngươi kính sợ Chúa, đến nỗi không từ chối dâng đứa con duy nhất cho Ta”. Abraham ngước mắt lên, thấy sau lưng mình có con cừu đực đang mắc sừng trong bụi cây, Abraham liền bắt nó và tế lễ thay cho con mình. Thiên thần Chúa gọi Abraham lần thứ hai và nói rằng: “Chúa phán: Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta”.
Đó là lời Chúa.
ĐÁP CA: Tv 115, 10 và 15. 16-17. 18-19
Đáp: Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh (Tv 114, 9).
1) Tôi đã tin cậy ngay cả trong lúc tôi nói: “Tấm thân tôi trăm phần khổ cực!” Trước mặt Chúa thật là quý hoá cái chết của những bậc thánh nhân Ngài. – Đáp.
2) Ôi lạy Chúa, con là tôi tớ Chúa, con là tôi tớ Ngài, con trai của nữ tỳ Ngài, Ngài đã bẻ gãy xiềng xích cho con. Con sẽ hiến dâng Chúa lời ca ngợi làm sinh lễ, và con sẽ kêu cầu danh Chúa. – Đáp.
3) Tôi sẽ giữ trọn lời khấn xin cùng Chúa, trước mặt toàn thể dân Ngài, trong nơi hành lang nhà Chúa, ở giữa lòng ngươi, Giê-rusalem hỡi! – Đáp.
BÀI ĐỌC II: Rm 8, 31b-34
“Thiên Chúa không dung tha chính Con mình”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta? Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta, há Người lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Người sao? Ai sẽ tố cáo những kẻ Chúa chọn? (Chẳng lẽ là) chính Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án? (Chẳng lẽ là) Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta?
Đó là lời Chúa.
CÂU XƯỚNG TRƯỚC PHÚC ÂM: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói, có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
PHÚC ÂM: Mc 9, 1-9 (Hl 2-10)
“Đây là Con Ta rất yêu dấu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu. Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ. Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông. Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: “Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?”
Đó là lời Chúa.
Tiến về Jerusalem với Đức Kitô trong tin yêu hy vọng
Giáo Hội Năm Châu
23:34 26/02/2021
Video sẽ bắt đầu từ 7g tối ngày 27-February-2021 theo giờ Việt Nam
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Bi ai: Người đàn ông đến nhà thờ tham dự tang lễ của chính mình, báo cáo của tổng giáo phận Mexico
Đặng Tự Do
05:10 26/02/2021
Hôm Chúa Nhật 21 tháng Hai, tức là Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay, một nhà thờ ở thủ đô Mễ Tây Cơ đã là hiện trường xảy ra cái chết của Juan, một người đàn ông khoảng 60 tuổi. Anh đã quỳ xuống để cầu nguyện tại lối vào của nhà thờ, và dùng hai đầu gối để vào bên trong nhà thờ, khi lên gần đến hàng ghế đầu thì anh bất tỉnh và chết trong vòng vài phút sau đó giữa lối đi, ngay trước bàn thờ.
Cha xứ đã cử hành Thánh lễ an táng Juan cùng với một số giáo dân.
Báo cáo chính thức nói rằng Juan vào nhà thờ giáo xứ Jesús Sacerdote, nghĩa là Chúa Giêsu Thầy Cả Thượng Phẩm, vào khoảng trưa ngày 21 tháng 2, và chết ngay sau đó khi quỳ gối trước bàn thờ, khoảng 45 phút trước khi bắt đầu thánh lễ buổi trưa.
Ông từ của nhà thờ, là người chứng kiến cảnh người đàn ông quỵ xuống, đã nhanh chóng thông báo cho Cha sở là Cha Sajid Lozano. Cha đã gọi xe cấp cứu ngay lập tức, nhưng khi đến gần để xem tình hình cụ thể của Juan thì “có một số dấu hiệu cho thấy chúng tôi không thể làm gì được nữa vì anh ấy đã chết”, vị linh mục nói.
Nói chuyện với ACI Prensa, đối tác tin tức tiếng Tây Ban Nha của Thông tấn xã Catholic News, gọi tắt là CNA, Cha Lozano nói rằng “Juan đã tự mình đi bằng hai chân đến lễ tang của anh ấy với thi thể của anh ấy hiện diện ở đó, đó là cái chết của một người công chính, một cái chết không đau đớn.”
Ngài nói thêm: “Juan có đủ sức mạnh và can đảm để đến nhà Chúa và trút hơi thở cuối cùng.”
Theo tạp chí Desde la Fe, một ấn phẩm của Tổng giáo phận Mexico City, rất ít người biết đến Juan, nhưng cảm động trước cách anh thức anh qua đời, nên nhiều người đã tham gia thánh lễ an táng.
Cảnh sát và nhân viên y tế “nói với chúng tôi rằng cái chết đã xảy ra do một cơn đau tim đột ngột và không có dấu hiệu của bạo lực”, linh mục nói với tạp chí của Tổng giáo phận. Các nhà chức trách cũng cho phép linh mục tiến hành thánh lễ và đề nghị ngài tìm một trong những người thân của Juan.
Luật pháp Mexico quy định rằng khi một người chết bên ngoài bệnh viện, thi thể không được đưa đi cho đến khi nhân viên điều tra và công tố viên địa phương đến khám nghiệm tử thi để xác minh rằng không có hành vi tội phạm nào.
Do đó, thi thể của Juan phải được bỏ lại ngay tại nơi anh ta chết. Vì Thánh lễ Chúa Nhật dự kiến bắt đầu ngay lúc 1 giờ chiều, Cha Lozano đã quyết định biến thánh lễ này thành Thánh lễ an táng cho người đã khuất.
Một nam thanh niên đi ngang qua gần nhà thờ đã kịp nhận dạng thi thể rồi cùng cơ quan chức năng đến nơi ở của gia đình. Con trai của người quá cố đang ở nhà, và bị sốc trước tin tức, đã đến nhà thờ để tham gia thánh lễ an táng cha mình. Hàng xóm và dân chúng cũng đến đứng chật bên ngoài nhà thờ.
Để biểu thị sự tôn trọng với người đã chết, thi hài của Juan được phủ một tấm khăn trắng do một trong các tín hữu mang đến và một ngọn nến được đặt dưới chân anh ta.
Cha Lozano nói với ACI Prensa rằng “cái chết luôn luôn là một sự kiện đau đớn và bất ngờ”, và “chỉ nhờ đức tin, chúng ta mới có hy vọng rằng đó không phải là sự kết thúc của mọi thứ, mà là sự khởi đầu của cuộc sống vĩnh cửu.”
Cha Lozano nói với tờ Desde la Fe rằng các tín hữu “cầu nguyện cho một người mà họ không biết, nhưng người đó là một thành viên của cộng đồng.”
Sự thay đổi kịch tính “gây ảnh hưởng lớn đến mọi người”, ngạc nhiên trước những gì đã xảy ra và “chúng tôi cùng nhau suy tư rằng cái chết chỉ là dấu chấm hết cho cuộc hành hương của chúng ta trên thế giới này, nhưng là sự khởi đầu của cuộc sống vĩnh cửu,” ngài kết luận.
Source:Catholic News Agency
Đức Hồng Y Angelo De Donatis cử hành thánh lễ an táng Đại Sứ Luca Attanasio
Đặng Tự Do
16:01 26/02/2021
Hôm thứ Năm 15 tháng Hai, Ý đã tổ chức quốc tang cho đại sứ của họ tại Cộng hòa Dân chủ Congo và vệ sĩ của ông bị giết trong một cuộc phục kích mà một Hồng Y nói rằng nên nhắc mọi người “nghe thấy tiếng kêu” của dân tộc bị tàn phá bởi bạo lực.
Luca Attanasio, 43 tuổi và Vittorio Iacovacci, 30 tuổi, đã bị bắn chết sau khi bị bắt cóc khi đang đi trong đoàn xe của Chương trình Lương thực Thế giới của Liên hợp quốc, gọi tắt là WFP, đến thăm một dự án cho trẻ ăn học vào hôm thứ Hai. Tài xế của WFP Mustapha Milambo cũng thiệt mạng.
Thủ tướng Mario Draghi và các bộ trưởng khác đã tham dự lễ tang, được tổ chức tại Vương cung thánh đường Đức Maria Nữ vương các Thiên thần và các thánh Tử đạo. Đó là một nhà thờ được sử dụng cho các nghi lễ tôn giáo dành cho các nhà lãnh đạo quốc gia và các nhân vật văn hóa.
Những chiếc quan tài được phủ trong lá cờ ba màu của Ý, đã được chào đón bởi một hàng quân danh dự khi được đưa ra khỏi xe tang. Một người lính chỉ huy hô vang lời chào danh dự và một ban quân nhạc chơi một điệu nhạc buồn khi các quan tài được đưa vào nhà thờ.
“Những anh em này đã quyết định cam kết giúp đỡ người khác ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải hy sinh mạng sống của họ,” Đức Hồng Y Angelo De Donatis nói trong bài giảng lễ tang.
Đức Hồng Y De Donatis, là đại diện của Đức Thánh Cha Phanxicô tại giáo phận Rôma, nói rằng những cái chết này nên nhắc nhở mọi người “nghe thấy tiếng kêu của người dân Congo, bị tàn phá một cách tàn nhẫn bởi bạo lực khi chứng kiến những đứa con trai và con gái của họ chết mỗi ngày.”
Đại sứ Attanasio để lại một người vợ và ba đứa con. Anh Iacovacci, vệ sĩ của ông vừa mới đính hôn.
Một nguồn tin tư pháp ở Rôma cho biết kết quả khám nghiệm tử thi sơ bộ cho thấy cả hai đã bị trúng đạn hai lần trong một vụ bắt cóc.
Source:Reuters
Đức Hồng Y Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao suy tư về giá trị của việc sám hối trong thời đại dịch
Đặng Tự Do
16:02 26/02/2021
Sám hối là lời mời gọi thường hằng trong đời sống Kitô hữu, và được nhấn mạnh trong Mùa Chay, có thể giúp chúng ta hiểu giá trị những hy sinh mà chúng ta đã được kêu gọi thực hiện trong đại dịch coronavirus.
Trong một lá thư cho Mùa Chay năm 2021, được đăng trên tờ Quan Sát Viên Rôma vào ngày 18 tháng 2, Đức Hồng Y Mauro Piacenza đã trình bày các suy tư của ngài về việc “sám hối trong thời gian khẩn cấp”.
Đức Hồng Y Piacenza là Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao, một tòa án của Tòa án của Vatican có thẩm quyền liên quan đến các ân xá như toàn xá và tiểu xá, và việc xá các tội nghiêm trọng.
Ngài viết rằng 40 ngày Mùa Chay và sự chiến thắng của Chúa Kitô đối với sự dữ “có tầm quan trọng không thể so sánh được đối với sự sống của con người, bởi vì những điều này không chỉ liên quan đến đến lợi ích vật chất hay sức khoẻ thể xác, mà còn liên quan đến một điều triệt để hơn nhiều là sự cứu rỗi đời đời”.
Ngài nói rằng, không giống như những gì thường được nhấn mạnh trong đại dịch COVID-19, Mùa Chay “không chỉ liên quan đến việc chữa lành hoặc miễn nhiễm khỏi bệnh truyền nhiễm, nhưng còn liên quan đến chiến thắng tội lỗi, là thứ khiến con người trở thành nô lệ, và phải chết. Tội lỗi cũng giới hạn các khát vọng con người trong những ao ước thế tục mà thôi. Mùa Chay giúp chúng ta vươn đến những khát vọng cao cả hơn”.
Với Mùa Chay, chúng ta có thể nhìn thấy xa hơn các giai đoạn đóng cửa và đại dịch và nhìn “toàn bộ thời gian” với một viễn cảnh “được chiếu sáng bởi ánh sáng của sự phục sinh”, Đức Hồng Y nói.
Ngài lưu ý rằng tình trạng khẩn cấp về sức khỏe xuất hiện “ngay khi việc từ bỏ, hy sinh, và đền tội dường như bị cấm theo quy điển của một phương Tây đã trở nên điếc lác với mọi hình thức hành xác”.
Ngài giải thích rằng giờ đây, mọi người trên khắp thế giới đã được yêu cầu “từ bỏ, ít nhất là một phần, việc thực hiện các quyền tự do cá nhân” để tuân theo các quy trình an toàn sức khỏe và tuân theo các chỉ dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.
Theo Đức Hồng Y, trong thời kỳ đại dịch, các phương tiện thông tin đại chúng đã gửi đi ba thông điệp: tố cáo mối nguy hiểm sắp xảy ra và nhấn mạnh trách nhiệm của một người đối với bản thân và người khác; chỉ ra một thời điểm trong tương lai mà tại đó mọi thứ sẽ được giải quyết tốt nhất; và đặt ra thời hạn cho sự chờ đợi và hy sinh bắt buộc.
“Một phần trong những điều này cũng luôn là ý tưởng định hướng của sự sám hối Kitô Giáo được đề xuất và mời gọi đối với tất cả mọi người trong Mùa Chay thánh,” Đức Hồng Y Piacenza nói.
Ngài nói thêm rằng trên thế giới, luôn luôn có “một mối nguy hiểm sắp xảy ra,” đó là tinh thần ma quỷ, mà các tín hữu Kitô được kêu gọi chống lại bằng sự sám hối.
Chân trời tích cực là “chiến thắng trên Thập tự giá do Chúa Kitô giành được và được chia sẻ bởi những người chào đón Ngài vào cuộc sống của chính họ”, ngài giải thích. Và có sự kết thúc trận chiến, “được biểu thị bằng ‘con số thiêng liêng’ là 40 ngày, là thời gian hoán cải và cứu độ thực sự”.
Đức Hồng Y Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao nhấn mạnh rằng việc sám hối của Kitô hữu không phải là một “nỗ lực mệt mỏi và không chắc chắn để đạt được, bằng sức riêng của mình, một ơn thiêng nào đó”.
“Ngược lại”, Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng, “sám hối bao gồm nhu cầu không thể cưỡng lại, nảy sinh trong mỗi trái tim người Kitô hữu đích thực, là muốn đáp lại với tất cả bản thân mình trước Tình yêu của Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa thật và là người thật, đã gánh lấy tội ác của thế giới đến mức hy sinh trên thập tự giá. Sự phục sinh của chính Ngài đã đổi mới vũ trụ đang bị lung lay bởi tội lỗi”.
Giáo hội luôn coi việc sám hối là một “nhân đức đích thực và thích hợp, được Chúa Thánh Thần ban cho và hoạt động để qua đó con người tự mở lòng ra đón nhận chiến thắng vĩ đại của Chúa Kitô”, Đức Hồng Y Piacenza viết.
Qua việc sám hối, con người học cách từ bỏ toàn bộ cuộc sống của mình cho Chúa Kitô và chấp nhận cùng chịu đau khổ với Ngài, nhận lấy hậu quả của tội lỗi mình gây ra, và “dâng hiến sự đền đáp chính đáng”.
“Nhưng trên hết”, Đức Hồng Y nói, qua sám hối, Kitô hữu học được “cách nhận biết những điều bí ẩn trong Trái tim Chúa Kitô và tham gia, ngay bây giờ và mãi mãi, trong cuộc sống mới của Đấng ‘đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa’ (Dt 12: 2)”.
Đức Hồng Y Piacenza đã kết thúc bức thư của mình bằng cách cầu xin Đức Trinh Nữ Maria giúp người Công Giáo phát triển “sự sám hối thực sự của người Kitô hữu, để có khả năng đón nhận và nhìn thấy sự thay đổi trong dịp cứu độ, là tình trạng khẩn cấp đại dịch hiện nay, làm cho lòng người phát triển niềm vui và tự do của những người biết mình không thuộc về quyền lực nào trên thế gian này, nhưng chỉ thuộc về Chúa Kitô và quyền năng cứu rỗi của Ngài”.
Source:Catholic News Agency
Iraq và chiếc xe Hãng Lamborghini tặng Đức Phanxicô
Vũ Văn An
19:15 26/02/2021
Nhân chuyến viếng thăm Iraq sắp tới của Đức Phanxicô, ZenitNews, ấn bản tiếng Pháp, có bài viết về chiếc Huracán của hãng Lamborghini tặng ngài năm 2017.
Sau khi nhận chiếc xe đó, Đức Giáo Hoàng đã cho bán đấu giá lấy tiền giúp các công trình bác ái, nhất là việc tái thiết Iraq.
Thông cáo báo chí từ cơ quan nhân đạo Công Giáo Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu của Ý ngày 26/02/2021 cho biết, họ là một trong những tổ chức được Đức Giáo Hoàng dành cho một phần số tiền thu được.
Quả thế, quỹ giáo hoàng đã ủy thác 200,000 euro được Cơ quan Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu, theo đề nghị của chính Đức Giáo Hoàng, phân phối để hỗ trợ các cộng đồng Kitô giáo, là các cộng đồng, ngay sau thất bại quân sự của Daesh, đã lập tức bày tỏ mong muốn trở lại làng mạc của họ ở Đồng bằng Ninevê.
Một món quà từ công ty Lamborghini
Theo sự tiết lộ của Sotheby, vào tháng 5 năm 2018, chiếc Lamborghini được tặng cho Đức Giáo Hoàng Phanxicô hồi năm 2017 đã được bán đấu giá ở Monaco với giá 715,000 euro, gấp đôi so với giá ước tính lúc ban đầu. Kiểu “Huracan” này, một chiếc “coupé” màu trắng với viền vàng - để nhắc nhớ màu sắc của Vatican, trắng và vàng -, trong danh mục bán xe, được ước tính từ 250,000 đến 350,000 euro. Người mua cũng phải trả 20% giá bán cho thuế Trị Giá Gia Tăng.
Dòng xe sang trọng - với tiêu chuẩn chống khí thải Euro 6! -, đã được Đức Giáo Hoàng làm phép và ký tên trên mui xe. Xe có thể đạt vận tốc 325 km / giờ (5.204 cm3, 580 mã lực).
Nay, Alessandro Monteduro, giám đốc Cơ quan Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu Ý, nhận xét, "hai dự án đã được thực hiện để hỗ trợ các Kitô hữu ở Đồng bằng Ninevê nhờ chiếc Lamborghini do Đức Giáo Hoàng Phanxicô tặng. Dự án đầu tiên là việc tái thiết hội trường đa năng Syro-Công Giáo dâng kính Đức Mẹ Đồng trinh Bashiqa, đã bị các chiến binh thánh chiến của Nhà nước Duy Hồi giáo phá hủy hoàn toàn. Trong số 200,000 euro do Đức Giáo Hoàng tặng, Cơ quan Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu đã phân bổ 166,000 euro cho sáng kiến này, thêm vào đó, 124,000 euro được bổ sung thêm do các nhà hảo tâm của Qũy cung cấp, tổng cộng là 290,000 euro”.
Sáng kiến thứ hai là việc tái thiết trường mẫu giáo Công Giáo-Syria cũng dâng kính Đức Mẹ Đồng trinh Bashiqa, nơi bị tàn phá một phần bởi các phần tử Hồi giáo cực đoan. Monteduro cho biết thêm “Trong số 200,000 euro do Đức Giáo Hoàng tặng, Cơ quan Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu đã phân bổ 34,000 euro cho sáng kiến này. Tòa nhà, với sức chứa khoảng 70 trẻ em, hiện đã hoàn thành, mặc dù các hoạt động vẫn chưa bắt đầu do đại dịch Covid-19".
Đức Cha Yohanna Boutros Mouche, Giám mục Công Giáo Syria của Mosul, và Cha Rezqallah Alsimanni, cha xứ nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh, nhận xét, "Chúng tôi rất vui khi hoàn thành công trình tại Vườn trẻ Đức Trinh Nữ Maria, một vườn trẻ sẽ giúp đỡ và khuyến khích con em chúng tôi trở về Bashiqa để học trở lại".
Việc trở về Ninevê
Theo các dữ liệu mới nhất của Cơ quan Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu, cập nhật đến ngày 12 tháng 1 năm 2021, hơn 45% các gia đình cư trú từ ban đầu ở Đồng bằng Ninevê, và bị xua đuổi bởi bạo lực duy Hồi giáo, đã hồi hương, cũng nhờ nỗ lực lớn của tình liên đới quốc tế.
Những ngôi nhà được xây dựng lại với sự đóng góp của các tổ chức khác nhau chiếm gần 57% trong số những ngôi nhà bị phá hủy.
Alessandro Monteduro kết luận, “Với hai dự án được mô tả, Cơ quan Giúp Đỡ Giáo Hội Túng Thiếu muốn tôn vinh cuộc hiến tặng của Đức Thánh Cha đã tự đặt mình một cách cụ thể bên cạnh các Kitô hữu bị Nhà nước Hồi giáo tấn công, và rất vui vì chúng đã được hoàn thành gần vào lúc có cuộc tông du lịch sử của chính Đức Phanxicô tại Iraq".
Số tiền thu được từ cuộc đấu giá chiếc Lamborghini Huracan cũng được sử dụng để tu sửa một trung tâm cho các phụ nữ "nạn nhân của nạn buôn bán nô lệ" mà Đức Giáo Hoàng đã gặp vào ngày 12 tháng 8 năm 2016, nhân ngày Thứ Sáu Lòng Thương Xót, và ngài đã đặt tên là “Cộng đồng Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII”.
Đức Giáo Hoàng cũng đã nói rằng ngài sẽ phân phối một phần tiền bán xe cho hai hiệp hội Ý khác chủ yếu hoạt động ở châu Phi: Gicam của giáo sư Marco Lanzetta (phẫu thuật bàn tay) và "Amis du Centrafrique" ("Amici del Centrafrica"[Bạn Trung Phi]), với các dự án chủ yếu giúp đỡ phụ nữ và trẻ em.
Bài giảng thứ nhất Mùa Chay 2021 trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma của Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa
Bản dịch Việt Ngữ của J.B. Đặng Minh An
20:58 26/02/2021
Lúc 9g sáng ngày thứ Sáu 26 tháng Hai, Đức Hồng Y Raniero Cantalamessa, người vừa được Đức Thánh Cha Phanxicô tấn phong Hồng Y hôm 28 tháng 11 năm ngoái, đã có bài thuyết giảng đầu tiên cho Mùa Chay năm 2021 tại Đại Thính Đường Phaolô Đệ Lục ở Vatican. Chủ đề cho những suy tư Mùa Chay năm nay là “Các con nói Thầy là ai?”, trích từ Phúc âm Thánh Matthêu.
Trong bài giảng đầu tiên này, Đức Hồng Y Giảng Thuyết Viên Phủ Giáo Hoàng đã đưa ra một cái nhìn tổng quan về Mùa Chay, tập trung vào chủ đề “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!”
Mở đầu bài giảng, ngài nói:
Như thường lệ, chúng ta sẽ dành bài suy niệm đầu tiên này để giới thiệu chung về Mùa Chay, trước khi đi sâu vào chủ đề cụ thể mà chúng ta đã lên kế hoạch sau khi đã hoàn thành các bài tĩnh tâm của Giáo triều. Trong bài Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay năm B, chúng ta đã nghe lời tuyên bố long trọng qua đó Chúa Giêsu bắt đầu sứ vụ công khai của Người: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15). Chúng ta muốn suy ngẫm về lời kêu gọi hãy ăn năn liên tục này của Chúa Giêsu.
Trong Tân Ước, sự hoán cải được đề cập đến trong ba thời điểm và bối cảnh khác nhau, mỗi thời điểm và bối cảnh này nêu bật một thành phần mới của tiến trình. Ba đoạn Phúc Âm kết hợp với nhau cho chúng ta một ý tưởng hoàn chỉnh về ý nghĩa của từ hoán cải trong Phúc âm. Chúng ta sẽ không nhất thiết phải trải nghiệm tất cả ba thành phần đó cùng nhau, với cùng một cường độ như nhau. Mỗi mùa của cuộc sống đòi hỏi một loại hoán cải chuyên biệt. Điều quan trọng là mỗi chúng ta phải xác định được điều nào là phù hợp nhất ngay bây giờ.
Sám hối, nghĩa là tin!>
Kiểu hoán cải đầu tiên là kiểu hoán cải vang lên khi Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng và được tóm lược trong những lời này: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng!” (Mc 1:15). Chúng ta hãy cố gắng hiểu ý nghĩa của từ ‘hoán cải’ trong bối cảnh này. Trước Chúa Giêsu, hoán cải luôn có nghĩa là ‘quay trở lại’ (từ shub trong tiếng Hêbơrơ có nghĩa là đảo ngược lộ trình, quay lại các bước của chính mình). Nó xác định hướng hành động của một ai đó khi, tại một thời điểm nhất định trong cuộc đời, họ nhận ra rằng họ đang ‘đi chệch hướng’. Sau đó, họ dừng lại, để nghĩ lại tất cả; họ quyết định quay trở lại việc tuân giữ luật pháp và nối lại giao ước của họ với Thiên Chúa. Hoán cải, trong trường hợp này, về cơ bản có một ý nghĩa đạo đức và gợi lên ý tưởng về một điều gì đó đau đớn phải làm, chẳng hạn như thay đổi thói quen, ngừng làm điều này hoặc điều kia.
Trên môi của Chúa Giêsu, ý nghĩa đó thay đổi. Không phải là ngài thích thay đổi ý nghĩa của từ ngữ, nhưng với sự xuất hiện của Người, mọi thứ đã thay đổi. ‘Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!’. Hoán cải hay ăn năn không còn có nghĩa là quay trở lại giao ước cũ và tuân thủ luật pháp, nhưng nó có nghĩa là nhảy vọt về phía trước và tiến vào Nước Trời, nắm lấy ơn cứu rỗi vươn đến cách nhưng không với mọi người, do sáng kiến tự do và tối cao của chính Thiên Chúa.
‘Hãy sám hối và tin tưởng’ không đề cập đến hai điều khác nhau và tiếp theo, mà là cùng một hành động cơ bản: sám hối, nghĩa là tin! Thánh Tôma Aquina cho biết: “Prima conversion fit per fidem”- “Hành động hoán cải đầu tiên bao gồm sự tin tưởng”. Tất cả điều này mời gọi một hành động ‘hoán cải’ thực sự, một sự thay đổi sâu sắc trong cách nhìn mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa. Nó đòi hỏi sự chuyển đổi từ ý tưởng về một Thiên Chúa yêu sách, ra lệnh và đe dọa, sang ý tưởng về một Thiên Chúa đến với chúng ta với hai bàn tay đầy ắp để ban cho chúng ta mọi thứ. Đó là sự chuyển đổi từ ‘luật pháp’ sang ‘ân sủng’ mà Thánh Phaolô đã rất trân quí.
‘Trừ khi anh em trở lại mà nên như trẻ nhỏ…’
Bây giờ chúng ta hãy lắng nghe đoạn thứ hai trong Tin Mừng, nơi mà sự hoán cải được nhắc đến một lần nữa:
Lúc ấy, các môn đệ lại gần hỏi Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, ai là người lớn nhất trong Nước Trời?” Đức Giêsu liền gọi một em nhỏ đến, đặt vào giữa các ông và bảo: “Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,1-3).
Lần này hoán cải thực sự có nghĩa là quay ngược lại một chặng đường dài đến tận thời thơ ấu của chúng ta! Chính động từ được sử dụng, strefo, chỉ các hướng đảo ngược trong một cuộc diễn hành. Đây là sự hoán cải của những người đã vào Nước Trời, đã tin theo Phúc Âm và phục vụ Chúa Kitô trong một thời gian dài. Đó là sự hoán cải của chính chúng ta!
Đâu là giả định tiềm tàng trong cuộc thảo luận về ai là người lớn nhất? Có ý kiến cho rằng mối quan tâm chính không còn là Nước Trời, mà là vị trí của các Tông đồ, là bản ngã của họ. Mỗi người trong số họ phần nào được quyền khao khát trở thành người lớn nhất: Phêrô đã nhận được lời hứa về quyền tối cao, Giuđa nắm giữ hòm tiền, Matthêu có thể khẳng định mình đã trao ra nhiều hơn những người khác, Anrê là người đầu tiên theo Chúa Giêsu, Giacôbê và Gioan nghĩ rằng họ đã ở trên núi Tabor với Người… Kết quả của tình huống này rất rõ ràng: sự ganh đua, nghi ngờ, so sánh lẫn nhau, sự thất vọng.
Chúa Giêsu bất ngờ vén bức màn. Hãy quên việc trở thành người trước hết: anh em sẽ không bao giờ vào Nước Trời theo cách đó! Biện pháp khắc phục điều đó là gì? Quay đầu, thay đổi hoàn toàn quan điểm và hướng đi. Chúa Giêsu đưa ra một cuộc cách mạng đích thực. Cần phải chuyển trung tâm ra khỏi chính bạn và đặt lại trung tâm nơi Chúa Giêsu.
Nói đơn giản hơn, Chúa Giêsu mời gọi các Tông đồ trở nên giống như trẻ nhỏ. Đối với các ngài, trở lại làm trẻ nhỏ có nghĩa là quay trở lại lời mời gọi ban đầu của các ngài trên bờ hồ hoặc tại bàn làm việc của các ngài: không có các yêu cầu cá nhân hoặc chức danh, không có những so sánh lẫn nhau hoặc ghen tị và ganh đua. Của cải duy nhất của các ngài lúc đó là Chúa Giêsu, lời hứa của Ngài (‘Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người’) và sự hiện diện của Ngài. Khi đó các Tông đồ vẫn là bạn đồng hành với nhau; và đã không cạnh tranh cho vị trí trước hết.
Đối với chúng ta cũng vậy, quay trở lại làm trẻ thơ có nghĩa là quay trở lại thời điểm chúng ta khám phá ra rằng chúng ta được gọi, thời điểm thụ phong linh mục, hay tuyên khấn của chúng ta, hoặc lần đầu tiên chúng ta thực sự gặp gỡ Chúa Giêsu. Khi chúng ta nói: “ Chỉ một mình Chúa là đủ!” Và chúng ta đã tin vào điều đó.
‘Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng’
Bối cảnh thứ ba trong đó một lời mời gọi cấp thiết hoán cải được lặp đi lặp lại là bối cảnh của bảy bức thư gửi các Giáo hội của Sách Khải Huyền. Bảy bức thư này được gửi đến những người và các cộng đồng, những người cũng như chúng ta, từ lâu đã sống một đời sống Kitô và trên thực tế, đời sống Kitô ấy đóng một vai trò quan trọng trong họ. Các thư này được gửi đến thiên thần của các Giáo hội khác nhau: ‘Gửi thiên thần của hội Thánh ở Ê-phê-sô, Đây là lời...’ Danh hiệu thiên thần đó không thể giải thích cách nào khác hơn là muốn đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến những mục tử của các cộng đồng. Không thể tưởng tượng được rằng Chúa Thánh Thần lại đổ lỗi cho các thiên thần về những lỗi lầm và sai lạc được báo cáo trong các giáo hội khác nhau, hoặc thậm chí còn khó tin hơn nữa là lời kêu gọi hoán cải được gửi đến các thiên thần thay vì con người!
Trong số bảy bức thư gửi cho các Giáo hội, bức thư mà chúng ta nên suy ngẫm nhất là bức thư gửi cho Giáo hội Laođikia. Chúng ta khá quen thuộc với giọng điệu gay gắt của lá thư:
“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta... Vậy hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn! (Rev, 3: 15ff.)”.
Trọng tâm ở đây là hoán cải từ tầm thường và lạnh nhạt. Trong lịch sử sự thánh thiện của Kitô Giáo, ví dụ nổi tiếng nhất về kiểu hoán cải đầu tiên, từ tội lỗi sang ân sủng, là do Thánh Augustinô đưa ra; Thánh Teresa thành Ávila đưa ra ví dụ điển hình nhất về kiểu chuyển đổi thứ hai, từ lạnh nhạt sang nhiệt thành. Những gì Thánh nữ nói về bản thân trong cuốn Cuộc Sống chắc chắn bị phóng đại và bị chi phối bởi bản chất nhạy cảm trong lương tâm Thánh nữ, nhưng, dẫu sao, nó có thể giúp tất cả chúng ta tự vấn lương tâm của chính mình:
“Như thế, tôi đã bắt đầu sa vào hết trò tiêu khiển này đến trò tiêu khiển khác, hết sự phù phiếm này đến sự phù phiếm khác, và hết dịp tội này đến dịp tội khác. Tôi đã sa vào rất nhiều những dịp tội nghiêm trọng như thế, đến nỗi giờ đây tâm hồn tôi đã lạc lối bởi tất cả những điều phù phiếm này […]. Tất cả những điều của Thiên Chúa đã mang lại cho tôi niềm vui lớn, nhưng tôi lại bị ràng buộc với những thứ của thế giới. Dường như tôi muốn dung hòa hai điều mâu thuẫn này, là những điều hoàn toàn trái ngược với nhau - cuộc sống tinh thần và các thú vui cũng như những niềm vui và những trò tiêu khiển của các giác quan. Tình trạng này dẫn đến sự bất hạnh sâu sắc: Tôi đã trải qua gần hai mươi năm trên vùng biển đầy bão tố đó, thường xuyên sa ngã như thế và mỗi lần như thế lại đứng dậy, nhưng chẳng đi đến đâu, vì tôi lại sa ngã một lần nữa. Cuộc sống của tôi quá tệ đến mức tôi ít khi băn khoăn đối với các tội nhẹ, còn đối với các tội trọng, mặc dù sợ chúng, tôi không sợ đến mức lẽ ra tôi phải sợ; vì thế tôi đã không tránh khỏi nguy cơ sa ngã. Tôi có thể làm chứng rằng đây là một trong những kiểu sống đau buồn nhất mà tôi nghĩ có thể tưởng tượng ra được, vì tôi không có niềm vui nào trong Chúa cũng như không có niềm vui nào trên đời. Khi tôi đang ở giữa những thú vui trần tục, tôi đau khổ vì nhớ đến những gì tôi mắc nợ Thiên Chúa; khi tôi ở với Chúa, tôi trở nên bồn chồn vì những hấp lực trần tục”.
Trong phân tích này, nhiều người có thể tìm thấy lý do thực sự khiến họ không hài lòng và không hạnh phúc. Vậy thì, chúng ta hãy đi sâu vào việc từ bỏ sự lạnh nhạt. Thánh Phaolô khuyến khích các Kitô hữu ở Rôma bằng những lời này: ‘Hãy nhiệt thành trong Thánh Linh, đừng trễ nải’(Ro 12:11). Có người sẽ bị cám dỗ để phản đối: ‘Chà, Phaolô thân mến, đó chính là vấn đề! Làm thế nào để bạn chuyển từ thờ ơ sang nhiệt thành nếu đó là điều bạn không may mắc phải?” Chúng ta có thể rơi vào trạng thái thờ ơ, cũng như có thể rơi vào cát lún, nhưng chúng ta không thể tự mình rút ra được bằng cách túm tóc mình mà lôi lên.
Sự phản đối mà chúng ta nêu ra là kết quả của việc bỏ qua hoặc hiểu sai cụm từ phụ trợ “trong Thánh Linh” (enneumati) mà Thánh Tông đồ đưa vào trong lời khuyên ‘Hãy nhiệt thành’ của ngài. Trong các thư của Thánh Phaolô, từ ‘Thánh Linh’ hầu như luôn luôn nhất quán chỉ ra hoặc bao gồm một ám chỉ đến Chúa Thánh Thần, điều đó chắc chắn đúng trong trường hợp này. Từ này hầu như không bao giờ chỉ đề cập đến tinh thần hoặc ý chí của chúng ta, ngoại trừ trong thư thứ Nhất gởi các tín hữu Thêxalônica (1 Th 5:23,) nơi từ ấy có nghĩa là thành phần của con người, cùng với thể xác và linh hồn.
Chúng ta là những người thừa kế của một linh đạo thường chứng kiến tiến trình dẫn đến sự trọn lành được chia thành ba giai đoạn cổ điển: từ purgativa, sang Illuminativa; rồi đến unitiva; nghĩa là thanh lọc, để được soi sáng, và hiệp nhất [trong Chúa]. Nói cách khác, chúng ta cần thực hành việc từ bỏ và khổ hạnh lâu dài trước khi chúng ta có thể cảm nghiệm được lòng nhiệt thành. Tất cả điều này đều dựa trên trí tuệ tuyệt vời và kinh nghiệm hàng thế kỷ và sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng nó đã lỗi thời. Không, nó không lỗi thời, nhưng nó không phải là cách duy nhất mà ân sủng của Thiên Chúa phải theo.
Sự phân biệt nghiêm khắc như vậy cho thấy sự chuyển đổi tiệm tiến từ ơn Thánh Chúa sang nỗ lực của con người. Theo Tân Ước, đó là một quá trình tuần hoàn và diễn ra đồng thời, theo đó chắc chắn khổ hạnh là cần thiết để đạt được sự nhiệt thành của Thánh Linh, nhưng đồng thời, sự nhiệt thành của Thánh Linh cũng cần thiết để có thể thực hành việc khổ hạnh. Bắt tay vào một cuộc hành trình khổ hạnh mà không có sự thúc đẩy mạnh mẽ của Thánh Linh thì sẽ rất mệt mỏi và không tạo ra được gì ngoài ‘niềm tự hào về xác thịt’. Chúng ta được ban cho Thánh Linh để có thể khắc kỷ, chứ Thánh Linh không phải một phần thưởng cho việc tự hành hạ bản thân. Thánh Phaolô đã viết: “Nếu nhờ Thánh Linh, anh em diệt trừ được những hành vi của con người ích kỷ nơi anh em, thì anh em sẽ được sống”. (Rm 8:13).
Cách thứ hai này, đi từ nhiệt thành đến khổ hạnh và thực hành nhân đức, là cách mà Chúa Giêsu muốn các Tông đồ noi theo. Như nhà thần học Byzantine vĩ đại Cabasilas đã nói:
“Các Tông đồ và những người cha trong đức tin của chúng ta có lợi thế là được Đấng Cứu Độ đích thân hướng dẫn trong mọi giáo lý và nhiều hơn thế nữa. [...] Tuy nhiên, mặc dù đã biết tất cả những điều này, cho đến khi các ngài được làm phép Rửa [vào Lễ Ngũ Tuần, với Thánh Linh], các ngài đã không thể hiện bất cứ điều gì mới mẻ, cao quý, cao siêu, tốt hơn so với thời xưa. Nhưng khi các ngài nhận được phép Rửa và Đấng An Ủi ngự vào tâm hồn các ngài, thì các ngài trở nên mới mẻ và đón nhận một cuộc sống mới, các ngài là những người lãnh đạo người khác và làm cho ngọn lửa tình yêu dành cho Chúa Giêsu tỏa sáng trong chính các ngài và những người khác. [...] Cũng vậy, Thiên Chúa dẫn đưa tất cả các Thánh chào đời sau các ngài đến sự trọn lành”.
Các Giáo phụ đã thể hiện tất cả điều này bằng hình ảnh hấp dẫn của ‘cơn say tỉnh táo’. Điều khiến nhiều người trong số họ chấp nhận câu nói nghịch lý này, hay còn gọi là oxymoron, từ nhà hiền triết Philo thành Alexandria, là những lời của Thánh Phaolô nói với dân thành Êphêsô:
“Chớ say sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thánh Linh. Hãy cùng nhau đối đáp những bài Thánh vịnh, Thánh thi và Thánh ca do Thánh Linh linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa”(Ep 5, 18-19).
Bắt đầu với Origen, vô số văn bản của các Giáo phụ đã mô tả hình ảnh này, bằng cách đưa ra các tương đồng hoặc tương phản giữa say rượu thể chất và say rượu tâm linh. Vào ngày Lễ Ngũ Tuần, một số người đã ngộ nhận các Tông đồ với những người say rượu. Họ nghĩ như thế là đúng - như Thánh Cyrilô thành Giêrusalem viết; sai lầm duy nhất của họ là liên hệ cơn say đó với rượu bình thường, trong khi đó là ‘rượu mới’, được làm từ ‘cây nho thật’ là Chúa Kitô; các sứ đồ thực sự đã say, nhưng cơn say của các ngài là một cơn say tỉnh táo để nghiền nát tội lỗi và hồi sinh tâm hồn họ.
Làm sao chúng ta có thể tiếp nhận lý tưởng say sưa tỉnh táo này và thể hiện nó trong hoàn cảnh hiện tại của lịch sử và của Giáo hội? Tại sao chúng ta lại có thể coi là hiển nhiên rằng cách cảm nghiệm Thánh Linh mạnh mẽ như vậy là một đặc ân riêng của các Giáo phụ và của lịch sử sơ khai của Giáo hội, nhưng đến thời chúng ta thì không còn nữa? Ân sủng của Chúa Kitô không giới hạn trong một thời đại cụ thể nào, nhưng được ban cho mọi thời đại. Vai trò của Thánh Linh chính là làm cho ơn cứu chuộc của Chúa Kitô trở nên phổ quát và vươn đến mọi người, ở mọi thời điểm và bất kỳ không gian nào.
Như một Giáo phụ thời sơ khai của Giáo Hội đã nói, một đời sống Kitô đầy những nỗ lực khắc kỷ và khổ hạnh, nhưng thiếu sự tác động của Thánh Linh, sẽ giống như một Thánh Lễ với nhiều bài đọc, nghi thức và lễ vật, nhưng không có linh mục truyền phép. Tất cả sẽ vẫn như trước đây, bánh mì vẫn là bánh mì và rượu vẫn chỉ là rượu. Như Giáo phụ này đã kết luận:
“Điều tương tự cũng áp dụng cho các Kitô hữu. Ngay cả khi họ đã hoàn toàn chay tịnh, tham gia vào lễ canh thức, hát Thánh vịnh, thực hiện mọi hành vi khổ hạnh và thực hành nhân đức, nhưng nếu ân sủng chưa khởi sự các hoạt động mầu nhiệm của Thánh Linh trên bàn thờ là tâm hồn họ, toàn bộ quá trình khổ hạnh đó là không hoàn chỉnh và hầu như vô ích, bởi vì họ không tràn đầy niềm vui của Thánh Linh hoạt động một cách nhiệm mầu trong lòng họ.”
Đâu là ‘những nơi’ mà ngày nay Thánh Linh hoạt động giống như Ngài đã hành động trong ngày Lễ Ngũ Tuần? Chúng ta hãy lắng nghe Thánh Ambrôsiô. Trong số các Giáo phụ Latinh, ngài là người tiên báo xuất sắc nhất về cơn say tỉnh táo (sobria ebrietas) của Thần Khí. Sau khi đề cập đến hai ‘địa điểm’ cổ điển – là Thánh Thể và Sách Thánh - nơi Thần Khí có thể được kín múc, ngài đã gợi ý về một lựa chọn thứ ba:
“Lại còn một cơn say nữa do cơn mưa Thánh Thần tuôn rơi. Cơn say ấy tương tự như cơn say trong sách Tông đồ Công vụ, khi các Tông đồ nói các ngôn ngữ khác nhau mà đối với những người nghe có vẻ các ngài là những người đầy rượu rồi.”
Sau khi đề cập đến các phương thế ‘bình thường’, với những lời này, Thánh Ambrôsiô gợi ý đến phương thế ‘ngoại thường’ thứ ba, trong đó ngài muốn nói đến một điều không được hoạch định trước, và cũng chẳng phải là một định chế. Đó là về việc làm sống lại kinh nghiệm của các Tông đồ trong ngày Lễ Ngũ Tuần. Chắc chắn, Thánh Ambrôsiô không có ý định chỉ ra lựa chọn thứ ba này, để nói với thính giả của mình rằng nó không thể tiếp cận được với họ, chỉ dành riêng cho các Tông đồ và thế hệ đầu tiên của các tín hữu Chúa Kitô. Ngược lại, ngài muốn thúc đẩy cộng đoàn của mình trải nghiệm ‘cơn mưa Thánh Linh’ diễn ra vào ngày Lễ Ngũ Tuần. Đó là điều mà Thánh Gioan XXIII muốn làm với Công Đồng Vatican II: một ‘Lễ Hiện Xuống mới’ cho Giáo Hội.
Do đó, chúng ta cũng có cơ hội kín múc Thánh Linh từ kênh này, hoàn toàn phụ thuộc vào hành động tự do và tối cao của chính Thiên Chúa. Một trong những cách mà Thánh Linh thể hiện theo cách này bên ngoài các kênh thể chế được gọi là ‘phép Rửa trong Thánh Linh’. Tôi chỉ gợi ý về điều đó trong bối cảnh này mà không có ý định chiêu dụ, nhưng chỉ để đáp lại lời khuyến khích thường xuyên của Đức Thánh Cha Phanxicô đối với các thành viên của phong trào Canh Tân Đặc Sủng Công Giáo là hãy chia sẻ ‘dòng ân sủng’ trải qua từ phép Rửa trong Thánh Linh với toàn thể dân Chúa.
Cụm từ ‘Phép Rửa trong Thánh Linh’ bắt nguồn từ chính Chúa Giêsu. Khi đề cập đến Lễ Hiện Xuống sắp xảy ra, trước khi lên trời, Người nói với các Tông đồ: “Ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần”. (Cv 1: 5). Nghi lễ đó không có gì cao siêu; đúng hơn, nó bao gồm những cử chỉ cực kỳ đơn giản, thanh thản và hân hoan, cùng với cảm xúc khiêm tốn, ăn năn và sẵn sàng trở nên giống như những đứa trẻ.
Đó là một sự canh tân với nhận thức mới mẻ không chỉ về Bí tích Rửa tội và Thêm sức, mà còn về toàn bộ đời sống Kitô hữu, về bí tích hôn phối đối với những người đã lập gia đình, về bí tích truyền chức đối với linh mục, về lễ tuyên khấn đối với những người Thánh hiến. Ứng viên chuẩn bị cho phép Rửa trong Thánh Linh không chỉ bằng việc xưng tội cách trọn, mà còn tham gia vào các buổi họp hướng dẫn, nơi họ có thể tiếp xúc sống động và vui tươi với những chân lý và những thực tại chính yếu của đức tin như tình yêu của Thiên Chúa, tội lỗi, ơn cứu rỗi, cuộc sống mới và sự biến đổi trong Chúa Kitô, các đặc sủng, và những hoa trái của Thánh Linh. Kết quả quan trọng thường xuyên nhất là việc khám phá ra ý nghĩa của việc có một ‘mối quan hệ cá vị’ với Chúa Giêsu đã sống lại và đang sống. Theo cách hiểu của Công Giáo, Phép Rửa trong Thánh Linh không phải là điểm kết thúc của một cuộc hành trình, nhưng là điểm khởi đầu để trưởng thành với tư cách là các Kitô hữu và các thành viên dấn thân của Giáo hội.
Có chính đáng không khi mong đợi mọi người trải qua trải nghiệm này? Liệu đó có phải là cách duy nhất để cảm nghiệm ân sủng của Lễ Hiện Xuống đổi mới mà Công Đồng Vatican II đã hy vọng không? Nếu khi dùng cụm từ “phép Rửa trong Thánh Linh”, chúng ta muốn nói đến một nghi lễ, trong một bối cảnh nhất định nào đó, câu trả lời phải là không; đó chắc chắn không phải là cách duy nhất để tận hưởng một kinh nghiệm mạnh mẽ về Thánh Linh. Đã có và hiện có vô số Kitô hữu đã có kinh nghiệm tương tự, mà không hề biết gì đến phép Rửa trong Thánh Linh, nhưng vẫn nhận được sự gia tăng rõ ràng ân sủng và một sự xức dầu mới với Thánh Linh sau một buổi tĩnh tâm, một buổi họp nhóm hoặc nhờ điều gì đó mà họ đã đọc qua. Ngay cả một khóa tĩnh tâm cũng có thể kết thúc bằng một lời cầu khẩn đặc biệt đến Chúa Thánh Thần, nếu người lãnh đạo đã có kinh nghiệm đó và những người tham gia hoan nghênh điều này. Nếu có ai đó không thích cụm từ “phép Rửa trong Thánh Linh”, hãy để họ sang một bên và thay vì “phép Rửa trong Thánh Linh”, hãy cầu xin “Thần khí của phép Rửa Tội”, nghĩa là một sự đổi mới của ân sủng đã nhận được trong lễ rửa tội.
Bí quyết là hãy nói ‘Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến’, nhưng hãy nói điều đó với cả tấm lòng của bạn, vì biết rằng lời mời như vậy sẽ không thể không được lắng nghe. Nói điều đó với một “ đức tin mong đợi”, để cho Thánh Linh tự do đến theo cách thế và với những biểu hiện mà Ngài quyết định, chứ không phải theo cách chúng ta nghĩ rằng Ngài nên đến và thể hiện ra sao.
‘Phép Rửa trong Thánh Linh’ hóa ra là một phương tiện đơn giản và mạnh mẽ để đổi mới đời sống của hàng triệu tín hữu trong hầu hết các Giáo hội Kitô. Vô số người, những người chỉ là Kitô hữu trên danh nghĩa, nhờ kinh nghiệm đó đã trở thành Kitô hữu thực sự, tham gia vào việc cầu nguyện ngợi khen và trong các bí tích, những người truyền bá phúc âm tích cực, sẵn sàng đảm nhận các nhiệm vụ mục vụ trong giáo xứ của họ. Một sự chuyển đổi thực sự từ thờ ơ thành nhiệt thành! Chúng ta thực sự nên tự nói với chính mình những gì mà Thánh Augustinô đã từng lặp lại, hầu như với sự phẫn nộ với chính mình khi nghe những câu chuyện về những người nam và những người nữ, những người mà tại một thời điểm nào đó, đã rời bỏ thế giới để hiến thân cho Chúa: “Si isti et istae, cur non ego”: “Nếu những người nam và những người nữ đó đã làm được, tại sao tôi lại không làm?”
Chúng ta hãy cầu xin Mẹ Thiên Chúa ban cho chúng ta ân sủng mà Mẹ có được từ Con Mẹ tại tiệc cưới Cana miền Galilê. Qua lời cầu nguyện của Mẹ, vào dịp đó, nước đã biến thành rượu. Chúng ta hãy cầu xin rằng qua lời cầu bầu của Mẹ, nước lạnh nhạt của chúng ta có thể được biến thành rượu của lòng nhiệt thành mới. Chính là loại rượu mà các Tông đồ dùng trong ngày Lễ Ngũ Tuần đã gây ra cơn say tỉnh táo và khiến các ngài ‘nhiệt thành trong Thánh Linh’.
1. Thánh Tommaso, Thánh Tôma, I-IIae, q. 113, a. 4.
2. Thánh Teresa thành Ávila, Cuộc Đời Thánh Teresa Hài Đồng Giêsu, chs. 7-8; http://www.carmelitemonks.org/Vocation/teresa_life.pdf.
3. N. Cabasilas, Cuộc sống trong Chúa Kitô, II, 8: PG 150, 552 s.
4. Philo of Alexandria, Legum allegoriae, I, 84 (methē nefalios).
5 Thánh Cyrilô thành Giêrusalem, Cat. XVII, 18-19 (PG 33, 989).
6. Macarius the Egyptian, in Filocalia, 3, Torino 1985, p. 325).
7. Thánh Ambrôsiô, Bình luận về Thánh Vịnh 35, 19.
8. Thánh Augustinô, Tự Thú, VIII, 8, 19.
Source:Cantalamessa
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giáo Xứ Martino Gia Kiệm Mừng Ba Niềm Vui Dịp Đầu Năm Mới
Thầy Giáo Gia Kiệm
08:56 26/02/2021
Kính thưa cộng đoàn dân Chúa, 12 năm là một khoảng thời gian khá dài, chúng con đợi chờ trong mòn mỏi, trong hy vọng nhưng vẫn đặt trọn niềm tin tín thác vào Thiên Chúa như câu Thánh Vịnh 130 “Mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người..” Cộng đoàn chúng con mong mỏi có được một ngôi nhà xứ, nơi để tiếp đón đức cha, qúy cha, qúy thầy và giáo dân trong giáo xứ, qúy khách khi có việc cần gặp cha xứ để giải quyết những vấn đề trong giáo xứ, trong đời sống đức tin,… và mong có được ngôi nhà giáo lý khang trang, sạch sẽ để các em thiếu nhi đến sinh hoạt, học hỏi giáo lý và trau dồi Kinh Thánh. Hằng sau này, các em sẽ trở nên những chứng nhân của Chúa, biết yêu thương và phục vụ mọi người, trở nên những Ki- tô giáo hữu ích cho Giáo Hội.
Khi xây nhà Mục vụ, chúng con lấy ý tưởng chủ đề là: “Bác ái và yêu thương” từ ý tưởng vị Thánh quan thầy của giáo xứ - Thánh Martino, vị Thánh có Tấm lòng vàng, hiện thân của Lòng thương xót Chúa. Khởi đầu, nhà xứ được xây dựng theo nhà năm gian miền quê Bắc Bộ, để nhắc nhớ cho con cháu về cội nguồn của mình.
Nhà xứ được xây theo con số 5 và 12: 5 gian cầu mong Ngũ phúc, 12 cột nhà tượng trưng cho 12 vị Thánh tông đồ. 12 cửa sổ được mở theo góc từ 0 đến 90 độ để đón gió vào nhà. Kinh Thánh đã từng viết về 12 Thánh Tông đồ khi các ngài đang cầu nguyện trong ngày lễ Ngũ tuần “bỗng từ trời phát ra một tiếng động như gió mạnh ùa vào dãy nhà nơi họ đang tụ họp. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần (Cv 2, 2-4).
Tại phòng Tiệc Ly, được xếp một ghế chính và 12 ghế phụ, để tái hiện nơi đây Chúa Giê-su đã dạy các Thánh Tông đồ bài học về phục vụ anh em mình.
Phòng khách nhà xứ có tranh kính màu về Thánh Giu- se bế Chúa con, được đặt ở bên phải. Còn tượng Thánh Martino, cũng là quan thầy của giáo xứ được đặt bên trái. Trong phòng khách được bố trí một ghế chính và 12 ghế phụ được chia thành hai bên, mỗi bên 6 ghế; muốn nhắc nhở mọi người một điều: Đây là Chủ chiên và hai bên là đàn chiên. Qua đó nhằm thể hiện tinh thần phục vụ, bác ái và yêu thương.
Ngôi nhà giáo lý sẽ là nơi cha xứ, các thầy, các anh chị giáo lý viên hướng dẫn các em thiếu nhi học hỏi lời Chúa, cùng sinh hoạt, vui chơi. Là nơi rèn luyện đạo đức và tăng thêm đức tin ngày một vững mạnh cho các em.
Hôm nay, niềm mong ước đó đã trở thành hiện thực khi mọi sự do tay Chúa sắp đặt. Ngài đã đem đến cho giáo xứ chúng con hai cha mới là cha Phê-rô Phan Khắc Giữa và Gio-an B Đỗ Anh Khoa thông qua Đức Cha Giu-se Đinh Đức Đạo. Chỉ vài tháng trước tết 2021, các ngài đã giúp giáo xứ xây dựng hoàn tất nhà Mục vụ và đặt viên đá đầu tiên của nhà giáo lý. Công trình xây dựng nhà giáo lý của giáo xứ chúng con sẽ mau chóng hoàn thành sớm nếu có thêm sự giúp đỡ của qúy vị ân nhân gần xa với tấm lòng quảng đại, lòng yêu mến Chúa và Thánh Martino cùng với sự nhiệt thành trong việc xây dựng nhà Chúa. Nguyện xin Thiên Chúa và Thánh Nhân chúc lành, trả công bội hậu cho các vị.
Thánh lễ ban phép thêm sức của Đức Cha Giu-se cho 39 em thiếu nhi trong giáo xứ Martino là một sự vui mừng, hân hoan không chỉ đối với các em khi được lãnh nhận ấn tín thiêng liêng từ ơn Chúa Thánh Thần; mà còn là niềm vinh dự, tự hào của gia đình các em; của cha xứ và cộng đoàn trong giáo xứ. Bởi từ đây, các em sẽ phải làm chứng trước mặt thế gian về mầu nhiệm Khổ Nạn và Phục Sinh của Chúa Kitô để đời sống các em trở nên hương thơm của Chúa Kitô ở khắp mọi nơi.
Trong buổi lễ Thêm sức, đức cha Giu-se đã chia sẻ: “Chúa chúng ta là Thiên Chúa toàn năng, đấng tạo dựng nên đất trời, luôn thương yêu chúng ta. Vì vậy, nếu có ai thấy mình trong hoàn cảnh lo lắng sợ sệt, hãy tin tưởng vào Chúa, chỉ cần chúng ta mở lòng ra đến với Chúa…”.
Cảm tạ hồng ân Chúa, thánh lễ diễn ra suôn sẻ, tốt đẹp dù trong hoàn cảnh dịch bệnh. Trong thánh lễ, đức cha mời gọi cộng đoàn cầu nguyện cho qúy ân nhân, cho những người già neo đơn, những gia đình hoàn cảnh khó khăn trong giáo xứ, nhờ lời cầu bầu của Thánh Martino bổn mạng giáo xứ, xin Chúa ban muôn hồng ân đến cho mọi người, mọi gia đình trong giáo xứ, nhất là các em thiếu nhi được ban Bí tích thêm sức hôm nay.
Cuối lễ đức cha công bố chứng thư thánh tích về thánh Martino: Để Thiên Chúa được thêm vinh hiển và các thánh của Người được thêm tôn kính. Chúng tôi xác nhận và chứng thực để trao tặng một phần xương thánh Martino de Porre tu sĩ dòng anh em thuyết giáo
Phần xương thánh này được nhìn nhận đúng là lấy từ chính thánh tích mà chúng tôi kính cẩn đặt trong hộp kim loại chắc chắn hình tròn với mặt kính trong suốt có thể hình thấu và được niên phong bằng triện của chúng tôi kèm theo phép ban để xương thánh này được gìn giữ, dâng tặng và trưng nơi xứng đáng ngõ hầu các tín hữu có thể công khai tôn kính theo thể thức Hội Thánh truyền dạy
Làm tại Roma ngày 22/ 04/ 1985
Linh mục Innocentio Venchi, Dòng anh em thuyết giáo,
Tổng Cáo Thỉnh Viên
(đã ký)
Đây là sự kiện trọng đại, một niềm vui sướng vô hạn khi giáo xứ tiếp nhận thánh tích của Thánh Martino, được đức cha công bố trước toàn thể dân Chúa. Kết thúc thánh lễ, đức cha ban phép lành và thay mặt cha chánh xứ và cộng đoàn giáo xứ Martino gởi tặng qúy khách, qúy ân nhân những ảnh tượng thánh Martino.
Tác giả: Thầy Giáo Gia Kiệm
Tài Liệu - Sưu Khảo
Thánh Giuse Người Cha Dịu Dàng
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
09:09 26/02/2021
Thánh Giuse Người Cha Dịu Dàng
Đức tính dịu dàng của Thánh Giuse là điểm thứ hai Đức Thánh Cha đề cập đến, ngài viết : Thánh Giuse là người cha dịu dàng, nơi ngài, “Chúa Giêsu nhìn thấy sự dịu dàng của Thiên Chúa” (x. Patris Corde, số 2).
Nói đến sự dịu dàng thường ta nghĩ ngay đến người mẹ cả trong văn chương cũng như trong đời sống, người cha thường cứng cỏi. Nói như vậy không có nghĩa là tình phụ tử giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu không bao la, trìu mến.
Nếu Đức Maria là người chăm sóc Chúa Giêsu, sớm khuya lo lắng cho con từ bữa ăn giấc ngủ với sự dễ thương của tình người mẹ, thì Thanh Giuse với tầm nhìn cao và mạnh mẽ hơn, là trụ cột gia đình, bảo vệ vợ con, vất vả mưu sinh, phải dịu dàng lắm mới nuôi được Con Đức Chúa Trời, gìn giữ Đức Nữ Đồng Trinh, là cột trụ cho gia đình được vững và là người dạy dỗ. Thánh Giuse cũng đã làm với Chúa Giêsu : “Ngài dạy bước đi, cầm lấy tay; đối xử như một người cha nâng đứa trẻ lên tận má mình, cúi xuống và cho ăn” (x. Hs 11,3-4).
Tuổi thơ của Chúa Giêsu được Thánh Giuse bồng ẵm, áp má, nụ hôn, xoa đầu cách dịu dàng trìu mến, tay Chúa Giêsu lúc 12 trong tay Thánh Giuse dắt lên Đền thờ dự lễ. Chắc chắn Thánh Giuse là người cha dịu dàng, mềm lòng và quan tâm lắm mới có thể yếm Hài Nhi Giêsu như thế. Sự dịu dàng của Thánh Giuse đã ảnh hưởng trên cách sống và hành xử của Chúa Giêsu. Điều này không có sai, khi Đức Thánh Cha viết : “Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse…” (x. Patris Corde, số 3).
Tin mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là bậc thầy của người có lòng dịu dàng. Vì có lòng dịu dàng thì Chúa Giêsu mới bảo các tông đồ hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa, để Người chạm đến chúng, vuốt ve chúng và trò chuyện với chúng (x.Mc 10,13-16). Có lòng dịu dàng trìu mến, Chúa Giêsu mới tiếp xúc gần gũi và chữa lành người mù, người câm điếc, người què quặt, người bị quỷ ám và người tội lỗi. Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình bị ném đá là một minh chứng cho ta thấy Chúa Giêsu là một người có lòng dịu dàng trìu mến. Chúa đã không lên án, kết án và nóng giận với người phụ nữ ấy. Ngài đến gần, mỉm cười và tha thứ tất cả những lỗi tội của người phụ nữ.
Sự dịu dàng là cách tốt nhất để chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. Chỉ tay và phán xét người khác thường là dấu hiệu của việc không thể chấp nhận sự yếu đuối, sự mong manh của bản thân chúng ta. Chỉ có tình yêu dịu dàng mới cứu chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của kẻ tố cáo (x. Kh 12,10).
Thời nào cũng vậy, vẫn có những người cha không hoàn hảo. Những người cha đánh đập chính những đứa con của mình. Vì họ bất lực trong cuộc sống, nên đánh đập chính con để giải sầu. Cũng có những người cha nghiện ngập, chỉ biết rượu chè, cờ bạc, hút chích, chẳng quan tâm gì đến con cái, chỉ biết có bản thân mình. Và những đứa trẻ, thật bất hạnh khi sống cùng những người cha như vậy.
Chúng ta không phủ nhận gánh nặng của người cha, người trụ cột trong gia đình là rất lớn. Cho nên, tất cả những công việc mà người cha phải gánh vác thật là nhiều, khiến cho người cha dễ nổi nóng, nghiêm khắc, hay khó tính. Nhiều người cha mang trong mình nhiều nỗi ưu tư, trăn trở về cuộc sống. Làm sao có thể chăm sóc, nuôi dưỡng con cái cho thật tốt. Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta đến với Thánh Giuse để học nơi Ngài sự dịu dàng.
Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên Chúa cũng là tin rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh và yếu đuối. Ngài cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta đừng bao giờ sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn kiểm soát mọi sự, nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn ( Patris Corde, số 2).
Tình thương được diễn tả bằng nhiều cách. Dịu dàng sẽ làm cho động lực yêu thương đạt hiệu năng giáo dục cao. Có những người bề ngoài nóng nay nhưng cũng chỉ vì thương. Nhấn mạnh đến "dịu dàng" là chúng ta muốn nhắm đến không chỉ tình yêu thương, mà còn phải để ý đến cách ứng xử dịu dàng, dễ mến, dễ gần nữa.
Kính xin Thánh Giuse, người cha dịu dàng trợ giúp chúng ta.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Đức tính dịu dàng của Thánh Giuse là điểm thứ hai Đức Thánh Cha đề cập đến, ngài viết : Thánh Giuse là người cha dịu dàng, nơi ngài, “Chúa Giêsu nhìn thấy sự dịu dàng của Thiên Chúa” (x. Patris Corde, số 2).
Nói đến sự dịu dàng thường ta nghĩ ngay đến người mẹ cả trong văn chương cũng như trong đời sống, người cha thường cứng cỏi. Nói như vậy không có nghĩa là tình phụ tử giữa Thánh Giuse và Chúa Giêsu không bao la, trìu mến.
Nếu Đức Maria là người chăm sóc Chúa Giêsu, sớm khuya lo lắng cho con từ bữa ăn giấc ngủ với sự dễ thương của tình người mẹ, thì Thanh Giuse với tầm nhìn cao và mạnh mẽ hơn, là trụ cột gia đình, bảo vệ vợ con, vất vả mưu sinh, phải dịu dàng lắm mới nuôi được Con Đức Chúa Trời, gìn giữ Đức Nữ Đồng Trinh, là cột trụ cho gia đình được vững và là người dạy dỗ. Thánh Giuse cũng đã làm với Chúa Giêsu : “Ngài dạy bước đi, cầm lấy tay; đối xử như một người cha nâng đứa trẻ lên tận má mình, cúi xuống và cho ăn” (x. Hs 11,3-4).
Tuổi thơ của Chúa Giêsu được Thánh Giuse bồng ẵm, áp má, nụ hôn, xoa đầu cách dịu dàng trìu mến, tay Chúa Giêsu lúc 12 trong tay Thánh Giuse dắt lên Đền thờ dự lễ. Chắc chắn Thánh Giuse là người cha dịu dàng, mềm lòng và quan tâm lắm mới có thể yếm Hài Nhi Giêsu như thế. Sự dịu dàng của Thánh Giuse đã ảnh hưởng trên cách sống và hành xử của Chúa Giêsu. Điều này không có sai, khi Đức Thánh Cha viết : “Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse…” (x. Patris Corde, số 3).
Tin mừng cho chúng ta thấy Chúa Giêsu là bậc thầy của người có lòng dịu dàng. Vì có lòng dịu dàng thì Chúa Giêsu mới bảo các tông đồ hãy để các trẻ nhỏ đến với Chúa, để Người chạm đến chúng, vuốt ve chúng và trò chuyện với chúng (x.Mc 10,13-16). Có lòng dịu dàng trìu mến, Chúa Giêsu mới tiếp xúc gần gũi và chữa lành người mù, người câm điếc, người què quặt, người bị quỷ ám và người tội lỗi. Câu chuyện người phụ nữ ngoại tình bị ném đá là một minh chứng cho ta thấy Chúa Giêsu là một người có lòng dịu dàng trìu mến. Chúa đã không lên án, kết án và nóng giận với người phụ nữ ấy. Ngài đến gần, mỉm cười và tha thứ tất cả những lỗi tội của người phụ nữ.
Sự dịu dàng là cách tốt nhất để chạm vào sự yếu đuối bên trong chúng ta. Chỉ tay và phán xét người khác thường là dấu hiệu của việc không thể chấp nhận sự yếu đuối, sự mong manh của bản thân chúng ta. Chỉ có tình yêu dịu dàng mới cứu chúng ta thoát khỏi cạm bẫy của kẻ tố cáo (x. Kh 12,10).
Thời nào cũng vậy, vẫn có những người cha không hoàn hảo. Những người cha đánh đập chính những đứa con của mình. Vì họ bất lực trong cuộc sống, nên đánh đập chính con để giải sầu. Cũng có những người cha nghiện ngập, chỉ biết rượu chè, cờ bạc, hút chích, chẳng quan tâm gì đến con cái, chỉ biết có bản thân mình. Và những đứa trẻ, thật bất hạnh khi sống cùng những người cha như vậy.
Chúng ta không phủ nhận gánh nặng của người cha, người trụ cột trong gia đình là rất lớn. Cho nên, tất cả những công việc mà người cha phải gánh vác thật là nhiều, khiến cho người cha dễ nổi nóng, nghiêm khắc, hay khó tính. Nhiều người cha mang trong mình nhiều nỗi ưu tư, trăn trở về cuộc sống. Làm sao có thể chăm sóc, nuôi dưỡng con cái cho thật tốt. Đức Thánh Cha mời gọi chúng ta đến với Thánh Giuse để học nơi Ngài sự dịu dàng.
Thánh Giuse dạy chúng ta rằng đức tin vào Thiên Chúa cũng là tin rằng Ngài có thể hành động cả khi chúng ta sợ hãi, mỏng manh và yếu đuối. Ngài cũng dạy chúng ta rằng giữa những thử thách của cuộc đời, chúng ta đừng bao giờ sợ để Chúa dẫn lối cho chúng ta. Đôi khi, chúng ta muốn kiểm soát mọi sự, nhưng Thiên Chúa luôn nhìn thấy bức tranh toàn cảnh hơn ( Patris Corde, số 2).
Tình thương được diễn tả bằng nhiều cách. Dịu dàng sẽ làm cho động lực yêu thương đạt hiệu năng giáo dục cao. Có những người bề ngoài nóng nay nhưng cũng chỉ vì thương. Nhấn mạnh đến "dịu dàng" là chúng ta muốn nhắm đến không chỉ tình yêu thương, mà còn phải để ý đến cách ứng xử dịu dàng, dễ mến, dễ gần nữa.
Kính xin Thánh Giuse, người cha dịu dàng trợ giúp chúng ta.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Thánh Giuse Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
09:15 26/02/2021
Thánh Giuse Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, Thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”.
Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Đọc Phúc âm Luca, ta gặp nhiều câu gọi Thánh Giuse là Cha Chúa Giêsu. Sau bài ca của cụ già Simeon, Thánh ký viết: “Cha Ngài và Mẹ Ngài ngạc nhiên về các điều nói về Ngài” (Lc 2,33). Lúc tìm thấy Chúa con trong đền thánh, Đức Mẹ nói với Ngài: “này Cha Con và Mẹ phải đau khổ tìm Con” (Lc 2,48).
Có người cho rằng Chúa Giêsu đã phủ nhận phụ tính của Thánh Giuse khi Ngài nói: “Nào không biết con phải ở nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Thánh sử Augutinh trả lời: “Chúa Giêsu không muốn cho người ta tưởng rằng Ngài là con Đức Mẹ và Thánh Giuse thì không còn là con Thiên Chúa nữa. Ngài khẳng định Thiên Chúa là Cha Ngài, nhưng không phủ nhận Thánh Giuse cũng là Cha Ngài”. Như vậy theo Thánh Kinh, mọi người đều công nhận Thánh Giuse là cha đối với Chúa Giêsu.
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, người đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Trong Tông Thư có tựa đề Patris Corde, Đức Thánh Cha giải thích rằng : “Trong mối quan hệ của thánh nhân với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần thế của Cha trên trời: Ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giêsu, không bao giờ bỏ Ngài bơ vơ để đi theo con đường riêng của mình” (x. PC).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2, 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
Giáo hội xưng Thánh Giuse là Cha Chúa Giêsu
Trong kinh phụng vụ lễ Thánh Giuse Giáo hội ca ngợi rằng: “Đấng Sáng tạo càn khôn định cho Người làm Phu quân Trinh nữ - Và muốn cho Người được gọi là Cha của Ngôi Lời”.
Các Đức Giáo Tông Piô IX là Lêô XIII, trong văn kiện tôn Thánh Cả làm bổn mạng Giáo hội toàn cầu, cũng xưng Ngài là “Cha Chúa Giêsu trước mặt người ta”.
Vậy Thánh Thần Chúa đã dùng danh hiệu Cha mà gọi Giuse để diễn tả sứ mạng cao siêu của Ngài bên cạnh Chúa Cứu Thế
Xin thánh Giuse phù hộ cho các người cha
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền : “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng”.
Trong Tông Thư Patris Corde, Đức Thánh Cha viêt : “Thế giới hôm nay vắng bóng người cha. Giáo hội cũng cần có những người cha. Trẻ em mồ côi. Vì không cha. Vì người cha không đảm nhận trách nhiệm. Vì thiếu con tim nhân hiều của một người cha” (x. Patris Corde,7). Đức Thánh Cha mời gọi các người cha hãy noi gương Thánh Cả Giuse đảm nhận trách nhiệm.
Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong xã hội hiện đại, vai trò người chồng, người cha trong gia đình được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn hai nhiệm vụ cách song song được. Có người nói rằng là người chồng tốt, đương nhiên phải là người cha tốt. Tuy nhiên, một người cha tốt chưa chắc đã là người chồng tốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho các người làm cha trong gia đình, để họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
còn tiếp.....
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Trong chương trình của Thiên Chúa tình thương, Thánh Giuse đã được mời gọi trở nên người cha trên trần gian của Ngôi Lời Nhập Thể, (nơi ngài) được phản chiếu một cách đặc biệt tình phụ tử của Thiên Chúa. Nên khi chúng ta tôn kính thánh nhân là chúng ta ca khen chúc tụng Thiên Chúa : “Trong ngày lễ kính thánh Giuse chúng con cùng tung hô, chúc tụng và ca ngợi Cha” (Kinh Tiền Tụng Thánh Giuse). Đây là điều đẹp lòng Thiên Chúa, lời nguyện khác có đoạn “ Vào lúc bình minh của thời đại mới, Chúa đã trao cho thánh Giuse bảo vệ các Mầu Nhiệm Cứu Độ, xin cho Hội Thánh Chúa luôn luôn nhớ lời cầu bầu của thánh nhân …”.
Cha nuôi Hài Đồng Giêsu
Đọc Phúc âm Luca, ta gặp nhiều câu gọi Thánh Giuse là Cha Chúa Giêsu. Sau bài ca của cụ già Simeon, Thánh ký viết: “Cha Ngài và Mẹ Ngài ngạc nhiên về các điều nói về Ngài” (Lc 2,33). Lúc tìm thấy Chúa con trong đền thánh, Đức Mẹ nói với Ngài: “này Cha Con và Mẹ phải đau khổ tìm Con” (Lc 2,48).
Có người cho rằng Chúa Giêsu đã phủ nhận phụ tính của Thánh Giuse khi Ngài nói: “Nào không biết con phải ở nhà Cha con sao?” (Lc 2,49). Thánh sử Augutinh trả lời: “Chúa Giêsu không muốn cho người ta tưởng rằng Ngài là con Đức Mẹ và Thánh Giuse thì không còn là con Thiên Chúa nữa. Ngài khẳng định Thiên Chúa là Cha Ngài, nhưng không phủ nhận Thánh Giuse cũng là Cha Ngài”. Như vậy theo Thánh Kinh, mọi người đều công nhận Thánh Giuse là cha đối với Chúa Giêsu.
Thánh Giuse là vị hôn phu của Ðức Maria, người đã cưu mang Chúa Giêsu, mà vẫn còn đồng trinh, do bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần. Nhưng con trẻ Giêsu cũng là con của thánh Giuse, vị hôn phu hợp pháp của Mẹ Maria. Vì thế, trong Tin Mừng, cả hai đều được gọi là song thân của Chúa Giêsu (x. Lc 2, 27.41).
Trong Tông Thư có tựa đề Patris Corde, Đức Thánh Cha giải thích rằng : “Trong mối quan hệ của thánh nhân với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần thế của Cha trên trời: Ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giêsu, không bao giờ bỏ Ngài bơ vơ để đi theo con đường riêng của mình” (x. PC).
Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và Mẹ Người mà thánh Luca mô tả : Đức Maria nói “Này cha con và mẹ phải đau khổ tìm con! ” Nhưng Ngài đáp lại: “ Thì tại sao tìm con? Lại còn không biết là con phải ở lại nơi nhà Cha con sao? ” (Lc 2, 48 – 49 ). Những lời của Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu được thiên chức “ làm cha ” của thánh Giuse. Khi gợi lên cho cha mẹ trần gian về việc của Đấng mà Ngài gọi là “Cha con”, Chúa Giêsu tiết lộ sự thật về vai trò của Đức Maria và thánh Giuse. Thánh Giuse thực sự là “chồng” của Đức Maria và là “cha” của Chúa Giêsu, như Đức Maria nói: “Cha con và mẹ phải đau khổ tìm con”. Nhưng thánh Giuse là chồng và là cha theo ý Thiên Chúa, vì chính Thiên Chúa mời gọi Giuse cống hiến đời mình phục vụ người Con duy nhất của Chúa Cha và Đức Trinh Nữ Maria. Thánh nhân đã đảm nhận thánh ý Chúa với lòng trung thành và ngưỡng mộ.
Giáo hội xưng Thánh Giuse là Cha Chúa Giêsu
Trong kinh phụng vụ lễ Thánh Giuse Giáo hội ca ngợi rằng: “Đấng Sáng tạo càn khôn định cho Người làm Phu quân Trinh nữ - Và muốn cho Người được gọi là Cha của Ngôi Lời”.
Các Đức Giáo Tông Piô IX là Lêô XIII, trong văn kiện tôn Thánh Cả làm bổn mạng Giáo hội toàn cầu, cũng xưng Ngài là “Cha Chúa Giêsu trước mặt người ta”.
Vậy Thánh Thần Chúa đã dùng danh hiệu Cha mà gọi Giuse để diễn tả sứ mạng cao siêu của Ngài bên cạnh Chúa Cứu Thế
Xin thánh Giuse phù hộ cho các người cha
Trong buổi Yết Kiến Chung (28/1/2015), Đức Thánh Cha Phanxicô đã than phiền : “Thật buồn là trong xã hội hiện nay, chúng ta đang trải nghiệm một cuộc khủng hoảng nơi cương vị làm cha”. Trong quá khứ, thông lệ phổ biến là nhận thức về hình ảnh của người cha như là một người độc tài và đôi khi hà khắc; còn ngày nay, chúng ta có cảm tưởng về một sự không chắc chắn và lẫn lộn nơi vai trò của người cha”. Ngài cho biết: “Thiếu vắng hình bóng người cha, người trẻ thường cảm thấy ‘mồ côi’, bị bỏ trôi dạt lênh đênh vào thời điểm then chốt trong sự trưởng thành và phát triển của chúng”.
Trong Tông Thư Patris Corde, Đức Thánh Cha viêt : “Thế giới hôm nay vắng bóng người cha. Giáo hội cũng cần có những người cha. Trẻ em mồ côi. Vì không cha. Vì người cha không đảm nhận trách nhiệm. Vì thiếu con tim nhân hiều của một người cha” (x. Patris Corde,7). Đức Thánh Cha mời gọi các người cha hãy noi gương Thánh Cả Giuse đảm nhận trách nhiệm.
Ngài kêu gọi những người làm cha phải có trách nhiệm, và cho rằng những bậc làm cha cần thiết phải nên như mẫu gương và người hướng dẫn cho con cái của chúng ta trong sự khôn ngoan và đạo đức.
Trong xã hội hiện đại, vai trò người chồng, người cha trong gia đình được thể hiện đa dạng và có nhiều thử thách khắc nghiệt hơn. Thật khó để chu toàn hai nhiệm vụ cách song song được. Có người nói rằng là người chồng tốt, đương nhiên phải là người cha tốt. Tuy nhiên, một người cha tốt chưa chắc đã là người chồng tốt.
Kính xin thánh Giuse từ trời cao phù hộ cho các người làm cha trong gia đình, để họ có thể phản chiếu tình thương dự phòng và trung tín của Thiên Chúa khi thi hành những trách nhiệm là chồng, làm cha và làm chủ gia đình. Amen.
còn tiếp.....
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Thánh Giuse Bạn Hiền Trinh Nữ
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
09:16 26/02/2021
Thánh Giuse Bạn Hiền Trinh Nữ
Giuse, người công chính
Biệt hiệu ‘công chính’ luôn gắn liền với Giuse. Giuse công chính vì ông kính sợ Chúa, ông kính sợ Chúa nên ông tuân giữ Luật Chúa cách trọn hảo, ông tuân giữ Luật Chúa vì ông yêu mến Chúa, người yêu mến Chúa thì được kể là công chính. Tin Mừng ghi lại : “bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Bạn hiền Trinh Nữ
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của Ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng Ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, Ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho Ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), Ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22); “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ); “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ); cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh (x. Phần dẫn nhập Patris Corde).
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, Ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nagiaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu (x. Patris Corde, 6).
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành bạn hiền, người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Sự tích cành hoa huệ trên tay Thánh Giuse
Có rất nhiều bạn thắc mắc vì tại sao có nhiều ảnh hay tượng mà trên tay Thánh Giuse lại có cành hoa huệ.
Theo dã sử xanh, Trinh Nữ Maria đã dâng mình trong đền thờ và khấn đời sống khiết tịnh. Nhưng Thiên Chúa đã chọn Trinh Nữ làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa. Trinh Nữ sẽ chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần chứ không theo tự nhiên của loài người. Là những bậc vị vọng trong đền thờ, các thầy cả thượng phẩm đã tổ chức một lễ tuyển chọn người “bạn đường” cho Maria. Các ngài đã ra lệnh cho tất cả các thanh niên trong thành, ai muốn cùng Maria kết nghĩa trăm năm, phải đến đền thờ khai tên tuổi và mang theo một cây gậy, trong số đó cũng có chàng thanh niên Giuse. Trước giờ tổ chức, các Thầy cả thu thập những gậy lại và để trên bàn thờ. Cầu nguyện vừa xong, tự nhiên một cây gậy khô cằn, trên đầu đã nở một cành hoa huệ tươi mát, xem ra mới biết đó là gậy của Giuse.
Cây gậy trổ ra một bông huệ, tượng trưng cho sự thanh sạch. Hoa huệ nói lên sự tinh khiết, thanh sạch; cây gậy nói lên sự giản dị, tính ngay thẳng, sự khiêm nhường. Không phải những đức tính đó là của thánh Giuse hay sao!
Tại Âu châu, tượng Thánh Giuse thường đi theo với cành hoa huệ trắng hay cành hoa hạnh nhân. Có thể hoa huệ trắng là hình ảnh Thánh Giuse trong thế giới Mỹ-Tây Ban Nha với gốc rễ Thánh Kinh. Hoa huệ trắng trong Cựu Ước hay Tân Ước là loại hoa thơm có cành dài với nhiều cánh hoa. Theo tương truyền, Thánh Giuse cầm cành hoa huệ trắng đến xin hỏi cưới Mẹ Maria, hoa huệ tượng trưng cho sự tinh tuyền và tình yêu. Cựu Ước nhắc đến hoa huệ trong Diễm Ca (Dc 1, 12; 4, 13-14). Trong Tân Ước thì Phúc Âm Thánh Mácô (Mc 14, 3) và Thánh Gioan (Ga 12, 3) nhắc đến hoa huệ.
Chúng ta hãy xin Thánh Giuse từ trời cao trợ giúp cho chúng ta luôn sống ngay thẳng, chuẩn mực như cây gậy của Thánh Giuse và tâm hồn được tinh khiết, đơn sơ và cao quý như bông huệ trắng trong tay Thánh Giuse.
còn tiếp....
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Giuse, người công chính
Biệt hiệu ‘công chính’ luôn gắn liền với Giuse. Giuse công chính vì ông kính sợ Chúa, ông kính sợ Chúa nên ông tuân giữ Luật Chúa cách trọn hảo, ông tuân giữ Luật Chúa vì ông yêu mến Chúa, người yêu mến Chúa thì được kể là công chính. Tin Mừng ghi lại : “bạn của bà là người công chính, không muốn tố cáo bà, nên định tâm lìa bỏ bà cách kín đáo” (Mt 1, 19). Ðây là câu chuyện duy nhất trong Tân Ước diễn tả trực tiếp về con người của thánh Giuse, một vị hôn phu không những là người đã giữ đức công bình mà còn trung thành chu toàn mọi bổn phận của một người chồng, người chủ gia đình.
Bạn hiền Trinh Nữ
Lần giở lại những trang Tin Mừng có liên quan đến Thánh Giuse, chúng ta có thể khám phá ngay tính cao thượng trượng phu của Ngài. Khi hay tin Maria mang thai, Thánh Giuse không bối rối cũng không ẩn trốn. Nhưng Ngài chỉ mới toan tính bỏ bà Maria cách kín đáo. Tuy nhiên, Ngài không thực hiện ý định đó. Bởi sau khi được sứ thần Thiên Chúa đến mặc khải cho Ngài qua giấc mộng: “Mẹ Maria mang thai là bởi quyền năng của Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20), Ngài đã không còn “bán tín bán nghi” nữa. Trái lại, tín thác hoàn toàn vào lời của sứ thần, sẵn sàng đón Đức Maria về nhà làm bạn mình và phục vụ với lòng kính trọng, mến yêu.
Những biến cố xảy ra trong cuộc đời thánh Giuse như: Mầu Nhiệm Nhập thể, cuộc trốn chạy sang Ai Cập trước ý định tìm giết Chúa Giêsu của vua Hêrôđê, việc lạc mất Chúa Giêsu, cũng như những tháng năm sống đời ẩn dật tại Nazaret, Giuse, bậc trượng phu đã đứng mũi chịu sào trong mọi tình huốn : cùng bạn mình “đem Hài nhi lên Giêrusalem tiến dâng cho Chúa” (Lc 2, 22); “đem Hài nhi và mẹ Ngài ban đêm mà trốn qua Ai Cập” (Mt 2,14 ); “đem Hài Nhi và Mẹ Ngài mà về đất Israel” (Mt 2, 20 ); cùng với bạn đời sống âm thầm nơi thôn làng Nazaret, hàng năm cùng với Đức Maria đưa Chúa Giêsu lên Đền thờ chầu lễ (x. Lc 2, 41- 43). Ngài thật xứng đáng là bạn hiền của Đức Nữ Trinh (x. Phần dẫn nhập Patris Corde).
Như thế, từ khi kết hôn với Mẹ Maria cho đến biến cố Chúa Giêsu 12 tuổi tại Ðền thờ Giêrusalem, Ngài ân cần yêu thương đồng hành trong mọi lúc. Ngài ở cạnh Maria Hiền thê của ngài trong những lúc thanh thản cũng như trong những lúc khó khăn của cuộc sống, trong hành trình đi Bêlem để kiểm tra dân số, và trong những giờ hồi hộp và vui mừng của cuộc sinh hạ; trong lúc bi thảm tị nạn sang Ai Cập và trong cuộc vất vả tìm con tại Ðền Thờ; và rồi trong cuộc sống hằng ngày tại nhà Nagiaret, trong phòng làm việc nơi thánh nhân đã dạy nghề cho Chúa Giêsu (x. Patris Corde, 6).
Thánh Giuse đã sống ơn gọi làm chồng của Đức Maria trong thinh lặng, kiên trì và trung tín hoàn toàn, cả khi ngài không hiểu. Ngài biết lắng nghe Thiên Chúa, để cho thánh ý Chúa hướng dẫn, và chính vì thế thánh nhân trở thành bạn hiền, người chồng mẫu mực của Đức Maria và người cha tận tụy đối với Chúa Giêsu, như Chân phước Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh: “Thánh Giuse, vì yêu thương chăm sóc Mẹ Maria và vui mừng tận tụy giáo dục Ðức Giêsu Kitô, như thế Ngài cũng giữ gìn và bảo vệ nhiệm thể của Ngài là Giáo Hội, mà Ðức Thánh Trinh Nữ là hình ảnh và gương mẫu” (Trích Tông Huấn Redemptoris Custos, 1).
Sự tích cành hoa huệ trên tay Thánh Giuse
Có rất nhiều bạn thắc mắc vì tại sao có nhiều ảnh hay tượng mà trên tay Thánh Giuse lại có cành hoa huệ.
Theo dã sử xanh, Trinh Nữ Maria đã dâng mình trong đền thờ và khấn đời sống khiết tịnh. Nhưng Thiên Chúa đã chọn Trinh Nữ làm Mẹ Ngôi Hai Thiên Chúa. Trinh Nữ sẽ chịu thai bởi phép Chúa Thánh Thần chứ không theo tự nhiên của loài người. Là những bậc vị vọng trong đền thờ, các thầy cả thượng phẩm đã tổ chức một lễ tuyển chọn người “bạn đường” cho Maria. Các ngài đã ra lệnh cho tất cả các thanh niên trong thành, ai muốn cùng Maria kết nghĩa trăm năm, phải đến đền thờ khai tên tuổi và mang theo một cây gậy, trong số đó cũng có chàng thanh niên Giuse. Trước giờ tổ chức, các Thầy cả thu thập những gậy lại và để trên bàn thờ. Cầu nguyện vừa xong, tự nhiên một cây gậy khô cằn, trên đầu đã nở một cành hoa huệ tươi mát, xem ra mới biết đó là gậy của Giuse.
Cây gậy trổ ra một bông huệ, tượng trưng cho sự thanh sạch. Hoa huệ nói lên sự tinh khiết, thanh sạch; cây gậy nói lên sự giản dị, tính ngay thẳng, sự khiêm nhường. Không phải những đức tính đó là của thánh Giuse hay sao!
Tại Âu châu, tượng Thánh Giuse thường đi theo với cành hoa huệ trắng hay cành hoa hạnh nhân. Có thể hoa huệ trắng là hình ảnh Thánh Giuse trong thế giới Mỹ-Tây Ban Nha với gốc rễ Thánh Kinh. Hoa huệ trắng trong Cựu Ước hay Tân Ước là loại hoa thơm có cành dài với nhiều cánh hoa. Theo tương truyền, Thánh Giuse cầm cành hoa huệ trắng đến xin hỏi cưới Mẹ Maria, hoa huệ tượng trưng cho sự tinh tuyền và tình yêu. Cựu Ước nhắc đến hoa huệ trong Diễm Ca (Dc 1, 12; 4, 13-14). Trong Tân Ước thì Phúc Âm Thánh Mácô (Mc 14, 3) và Thánh Gioan (Ga 12, 3) nhắc đến hoa huệ.
Chúng ta hãy xin Thánh Giuse từ trời cao trợ giúp cho chúng ta luôn sống ngay thẳng, chuẩn mực như cây gậy của Thánh Giuse và tâm hồn được tinh khiết, đơn sơ và cao quý như bông huệ trắng trong tay Thánh Giuse.
còn tiếp....
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Giữa cơn chao đảo khủng hoảng
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
09:38 26/02/2021
Giữa cơn chao đảo khủng hoảng
Từ một năm nay thế giới sống trong cơn khủng hoảng, vì bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Cho nên mọi sinh hoạt đời sống chung cũng như riêng tư bị đình trệ tê liệt phải sống trong tình trạng Lockdown giới hạn.
Con người sống trong hoàn cảnh Lockdown có nhiều lo âu sợ hãi cùng thất vọng chán nản, và trở nên như xa lạ sợ nhau. Nhưng việc bảo vệ gìn giữ sức khoẻ riêng cũng như chung quan trọng hàng đầu cho đời sống. Vì thế phải chấp nhận sống Lockdown về luật lệ y tế vệ sinh chung chặt chẽ.
Nhiều thắc mắc được đặt ra: đâu là nguyên do dẫn đến tình trạng khủng hoảng của bệnh đại dịch nguy hiểm này? Phải chăng đó là hình phạt hay thử thách do Thiên Chúa, Trời cao đổ ập đè xuống đời sống nhân loại thế giới?
Về phương diện khoa học đang có những nỗ lực đi truy tìm căn nguyên gốc gác của lọai vi trùng bệnh đại dịch này, cùng tìm cách phát triển chế biến ra thuốc chủng ngừa, cùng thuốc chữa trị bệnh.
Còn về phương diện đạo giáo tinh thần thiêng liêng chưa có hay không có câu trả lời cho thắc mắc suy nghĩ nêu ra. Các nhà thần học đạo đức đưa ra lời kêu mời khuyên nhủ trong cơn khủng hỏang thử thách cần có nếp sống tâm linh đặt niềm tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa, vào Trời cao, Đấng tạo dựng nên đời sống con người, cùng là nguồn ơn cứu chữa cho đời sống.
Dựa vào đâu để có thể đưa ra những chỉ dẫn tâm linh thiêng liêng như thế giữa cơn chao đảo khủng hoảng?
Không có cắt nghĩa trắng đen như những phát minh nghiên cứu khoa học của phòng thí nghiệm. Nhưng đức tin nói với chúng ta, Thiên Chúa, Đấng tạo dựng sự sống mọi tạo vật trong vũ trụ không bỏ rơi công trình do Ngài tạo dựng nên.
Xưa nay những biến cố khủng hoảng gây ra lo âu hoảng sợ cho đời sống con người luôn luôn có, như trong Kinh Thánh thuật lại ngay từ thời vũ trụ mới được tạo dựng đã xảy ra nạn lụt đại hồng thủy nước mưa đổ trút xuống 40 đêm ngày dâng cao tràn ngập mặt địa cầu thời gia đình Ông Noe. ( Sách Sáng Thế 7, 1-23).
Cơn đại hoạ tưởng chừng như vũ trụ, nhân loại lúc đó bị xóa số không còn nữa. Nhưng nhân loại vũ trụ đã không bị hủy diệt. Trái lại Thiên Chúa đã đặt ra chương trình cứu chữa cho đời sống vũ trụ bắt đầu mới trở lại. ( Sách Sáng Thế 8,1-22).
Như vậy phải chăng Thiên Chúa đặt ra cơn khủng hỏang đe dọa để thử thách lòng tin của gia đình Noe?
Không có gì là bằng chứng qủa quyết cho suy luận như thế. Nhưng việc thử thách trong đời sống, nhất là vào niềm tin lòng trung thành không phải là không có hay hiếm hoi xưa nay. Cá nhân mỗi người hầu như ai cũng đã có kinh nghiệm trải qua những thử thách cơn khủng hỏang vào những giai đoạn khác nhau trong đời sống.
Kinh Thánh thuật lại nơi sách Sáng Thế ( 22,1-2.9a10-13-18) về cơn chao đảo khủng hoảng của tổ phụ Abraham, khi chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên Ông, ban cho Ông có gia đình và người con trai Isaak, như Thiên Chúa hứa ban cho dòng dõi của Ông, đã đòi hỏi đặt ra cơn thử thách lòng tin ll`ng trung thành của Ông vào Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Abraham đem Isaak, con mình lên núi Moriah dâng làm lễ tế cho Thiên Chúa!
Chắc chắn Abraham khi nghe Thiên Chúa nói như vậy, ông cũng đã hoang mang chao đảo đau lòng lo âu nghi nan. Nhưng không biết làm sao hơn, nên cũng vâng nghe làm theo Thiên Chúa nói.
Trên núi Moriah, Ông đã trói con mình đặt lên đống củi định giết nó thiêu đốt làm lễ tế cho Thiên Chúa. Mọi sự đã sẵn sàng, ông đang ra tay giơ dao kiếm lên định đâm giết con mình, nhưng Thiên Sứ của Chúa lập tức đã xuất hiện cản ngăn không cho ông làm việc đó:
„ Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! "12 Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc! „
Thay vì giết con mình làm lễ tế, một con cừu hoang chạy ngang đến gần, và Abraham đã bắt con vật này giết thiêu đốt làm lễ tế cho Thiên Chúa, như lễ nghi tôn giáo ngày xưa thời đó qui định.
Tổ phụ Abraham trong hoài nghi chao đảo lo sợ đã thi đậu vượt qua sự thử thách lòng tin trung thành vào Thiên Chúa giữa con khủng hỏang do chính Thiên Chúa đặt ra đòi hỏi Ông.
Ông Abraham và chính con Ông, Isaak, đã phải trả gía đòi hỏi qúa tầm sức của tâm trí không sao hiểu nổi, khi phải sống giữa cơn chao đảo hoảng loạn vô tiền khoàng hậu trong đời mình.
Mạng sống Isaak, con Ông Abraham, đã được cứu thoát gìn giữ vẹn toàn trong đường tơ kẽ tóc!
Tổ Phụ Abraham, cha của Isaak, đã nhận được giải đáp cho bài toán qúa khó vượt tầm sức con người. Nó giúp Ông thoát khỏi vòng lo âu hoảng sợ nghi nan trái ngược hẳn nhau: một đàng vâng lời Thiên Chúa, và một đàng tại sao mình lại phạm tội giết người, sát hại chính con mình!!!
Còn con người chúng ta? Chúng ta không phải là Abraham. Chúng ta là loài thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cả về thể xác lẫn tinh thần, và luôn cần đặt sự cậy trông vào bàn tay quan phòng che chở của Thiên Chúa.
Chính vì thế hằng ngày chúng ta hướng tâm hồn cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình thương yêu, xin cứu chúng con thoát khỏi vòng cơn khủng hoảng sự dữ! Xin đừng để chúng con phải vướng mắc vào cơn khủng hoảng thử thách vượt qúa tầm sức chịu đựng. Chúng con hằng muốn sống tin tưởng trung thành vào Chúa. Là loài thụ tạo yếu đuối giới hạn, chúng con cần sự nâng đỡ cứu giúp của Chúa, như đứa trẻ luôn luôn cần tình yêu thương săn sóc che chở của cha mẹ! Giữa cơn chao đảo khủng hoảng bị đại dịch đe dọa đời sống như trong hiện tại, nếp sống tâm linh đặt tin tưởng niềm hy vọng vào Thiên Chúa là phương thuốc giúp giữ vững sức khoẻ cho tinh thần và cả thể xác nữa.
Con người luôn cần có sức khoẻ cả thể xác lẫn tinh thần. Có thế đời sống mới có thăng bằng quân bình cho hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Từ một năm nay thế giới sống trong cơn khủng hoảng, vì bệnh đại dịch do vi trùng Corona lây lan truyền nhiễm đe dọa sức khoẻ đời sống con người. Cho nên mọi sinh hoạt đời sống chung cũng như riêng tư bị đình trệ tê liệt phải sống trong tình trạng Lockdown giới hạn.
Con người sống trong hoàn cảnh Lockdown có nhiều lo âu sợ hãi cùng thất vọng chán nản, và trở nên như xa lạ sợ nhau. Nhưng việc bảo vệ gìn giữ sức khoẻ riêng cũng như chung quan trọng hàng đầu cho đời sống. Vì thế phải chấp nhận sống Lockdown về luật lệ y tế vệ sinh chung chặt chẽ.
Nhiều thắc mắc được đặt ra: đâu là nguyên do dẫn đến tình trạng khủng hoảng của bệnh đại dịch nguy hiểm này? Phải chăng đó là hình phạt hay thử thách do Thiên Chúa, Trời cao đổ ập đè xuống đời sống nhân loại thế giới?
Về phương diện khoa học đang có những nỗ lực đi truy tìm căn nguyên gốc gác của lọai vi trùng bệnh đại dịch này, cùng tìm cách phát triển chế biến ra thuốc chủng ngừa, cùng thuốc chữa trị bệnh.
Còn về phương diện đạo giáo tinh thần thiêng liêng chưa có hay không có câu trả lời cho thắc mắc suy nghĩ nêu ra. Các nhà thần học đạo đức đưa ra lời kêu mời khuyên nhủ trong cơn khủng hỏang thử thách cần có nếp sống tâm linh đặt niềm tin tưởng hy vọng vào Thiên Chúa, vào Trời cao, Đấng tạo dựng nên đời sống con người, cùng là nguồn ơn cứu chữa cho đời sống.
Dựa vào đâu để có thể đưa ra những chỉ dẫn tâm linh thiêng liêng như thế giữa cơn chao đảo khủng hoảng?
Không có cắt nghĩa trắng đen như những phát minh nghiên cứu khoa học của phòng thí nghiệm. Nhưng đức tin nói với chúng ta, Thiên Chúa, Đấng tạo dựng sự sống mọi tạo vật trong vũ trụ không bỏ rơi công trình do Ngài tạo dựng nên.
Xưa nay những biến cố khủng hoảng gây ra lo âu hoảng sợ cho đời sống con người luôn luôn có, như trong Kinh Thánh thuật lại ngay từ thời vũ trụ mới được tạo dựng đã xảy ra nạn lụt đại hồng thủy nước mưa đổ trút xuống 40 đêm ngày dâng cao tràn ngập mặt địa cầu thời gia đình Ông Noe. ( Sách Sáng Thế 7, 1-23).
Cơn đại hoạ tưởng chừng như vũ trụ, nhân loại lúc đó bị xóa số không còn nữa. Nhưng nhân loại vũ trụ đã không bị hủy diệt. Trái lại Thiên Chúa đã đặt ra chương trình cứu chữa cho đời sống vũ trụ bắt đầu mới trở lại. ( Sách Sáng Thế 8,1-22).
Như vậy phải chăng Thiên Chúa đặt ra cơn khủng hỏang đe dọa để thử thách lòng tin của gia đình Noe?
Không có gì là bằng chứng qủa quyết cho suy luận như thế. Nhưng việc thử thách trong đời sống, nhất là vào niềm tin lòng trung thành không phải là không có hay hiếm hoi xưa nay. Cá nhân mỗi người hầu như ai cũng đã có kinh nghiệm trải qua những thử thách cơn khủng hỏang vào những giai đoạn khác nhau trong đời sống.
Kinh Thánh thuật lại nơi sách Sáng Thế ( 22,1-2.9a10-13-18) về cơn chao đảo khủng hoảng của tổ phụ Abraham, khi chính Thiên Chúa, Đấng tạo dựng nên Ông, ban cho Ông có gia đình và người con trai Isaak, như Thiên Chúa hứa ban cho dòng dõi của Ông, đã đòi hỏi đặt ra cơn thử thách lòng tin ll`ng trung thành của Ông vào Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Abraham đem Isaak, con mình lên núi Moriah dâng làm lễ tế cho Thiên Chúa!
Chắc chắn Abraham khi nghe Thiên Chúa nói như vậy, ông cũng đã hoang mang chao đảo đau lòng lo âu nghi nan. Nhưng không biết làm sao hơn, nên cũng vâng nghe làm theo Thiên Chúa nói.
Trên núi Moriah, Ông đã trói con mình đặt lên đống củi định giết nó thiêu đốt làm lễ tế cho Thiên Chúa. Mọi sự đã sẵn sàng, ông đang ra tay giơ dao kiếm lên định đâm giết con mình, nhưng Thiên Sứ của Chúa lập tức đã xuất hiện cản ngăn không cho ông làm việc đó:
„ Sứ thần của ĐỨC CHÚA từ trời gọi ông: "Áp-ra-ham! Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! "12 Người nói: "Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc! „
Thay vì giết con mình làm lễ tế, một con cừu hoang chạy ngang đến gần, và Abraham đã bắt con vật này giết thiêu đốt làm lễ tế cho Thiên Chúa, như lễ nghi tôn giáo ngày xưa thời đó qui định.
Tổ phụ Abraham trong hoài nghi chao đảo lo sợ đã thi đậu vượt qua sự thử thách lòng tin trung thành vào Thiên Chúa giữa con khủng hỏang do chính Thiên Chúa đặt ra đòi hỏi Ông.
Ông Abraham và chính con Ông, Isaak, đã phải trả gía đòi hỏi qúa tầm sức của tâm trí không sao hiểu nổi, khi phải sống giữa cơn chao đảo hoảng loạn vô tiền khoàng hậu trong đời mình.
Mạng sống Isaak, con Ông Abraham, đã được cứu thoát gìn giữ vẹn toàn trong đường tơ kẽ tóc!
Tổ Phụ Abraham, cha của Isaak, đã nhận được giải đáp cho bài toán qúa khó vượt tầm sức con người. Nó giúp Ông thoát khỏi vòng lo âu hoảng sợ nghi nan trái ngược hẳn nhau: một đàng vâng lời Thiên Chúa, và một đàng tại sao mình lại phạm tội giết người, sát hại chính con mình!!!
Còn con người chúng ta? Chúng ta không phải là Abraham. Chúng ta là loài thụ tạo mỏng dòn yếu đuối cả về thể xác lẫn tinh thần, và luôn cần đặt sự cậy trông vào bàn tay quan phòng che chở của Thiên Chúa.
Chính vì thế hằng ngày chúng ta hướng tâm hồn cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa, nguồn sự sống và tình thương yêu, xin cứu chúng con thoát khỏi vòng cơn khủng hoảng sự dữ! Xin đừng để chúng con phải vướng mắc vào cơn khủng hoảng thử thách vượt qúa tầm sức chịu đựng. Chúng con hằng muốn sống tin tưởng trung thành vào Chúa. Là loài thụ tạo yếu đuối giới hạn, chúng con cần sự nâng đỡ cứu giúp của Chúa, như đứa trẻ luôn luôn cần tình yêu thương săn sóc che chở của cha mẹ! Giữa cơn chao đảo khủng hoảng bị đại dịch đe dọa đời sống như trong hiện tại, nếp sống tâm linh đặt tin tưởng niềm hy vọng vào Thiên Chúa là phương thuốc giúp giữ vững sức khoẻ cho tinh thần và cả thể xác nữa.
Con người luôn cần có sức khoẻ cả thể xác lẫn tinh thần. Có thế đời sống mới có thăng bằng quân bình cho hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Lm. Daminh Nguyễn ngọc Long
Thánh Giuse Người Cha Vâng Lời Thiên Chúa
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
21:15 26/02/2021
Thánh Giuse Người Cha Vâng Lời Thiên Chúa
Người xưa rất coi trọng lễ nghi, đặc biệt là đạo hiếu, nghĩa thầy trò. Điều cao quý nhất đảm bảo cho sự thành công của con người đó chính là biết vâng lời dạy bảo của cha mẹ, thầy cô. Không biết vâng lời cha mẹ là người con bất hiếu. Không biết nghe lời thầy cô là kẻ vô đạo. Bất hiếu và vô đạo thì không thể thành người được.
Vâng lời, lễ phép, kính trên, nhường dưới, vâng lời cha mẹ là những chuẩn mực đạo đức mà ai ai củng cần có, đặt biệt trong văn hóa người Việt Nam nó trở thành tiền đề cho sự giáo dục con người, là tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá phẩm chất cá nhân.
Vậy vâng lời là gì? Theo nghĩa Latinh: vâng lời bắt nguồn từ chữ ob-audire có nghĩa là nghe theo lời của một ai đó cách thận trọng sâu xa rồi đem ra thực hành. Nghĩa tôn giáo: vâng lời là thái độ chăm chú lắng nghe lời Thiên Chúa cho dù thánh ý của Người được diễn tả dưới bất cứ hình thức nào. Nhiều người chỉ hiểu vâng lời theo nghĩa hẹp là người trên bảo sao làm vậy, vâng chỉ vì muốn lấy lòng người trên, chứ không nhằm thực hiện thánh ý Chúa, dù biết lệnh của người trên không phù hợp với Thánh Ý Chúa mà vẫn cứ vâng lời, thì sự vâng lời đó không phải là nhân đức.
Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình trong mọi hoàn cảnh, Ngài vâng phục cách mau mắn và triệt để. Nếu biết là ý Chúa thì cho dù khó khăn, vất vả, thậm trí trái ý mình vẫn cứ xin vâng miễn sao ý Chúa được thể hiện. Đức vâng lời của Thánh Giuse được Đức Thánh Cha đề cao không chỉ cho những người sống đời gia đình, mà càng cần thiết hơn cho những ai sống đời tu trì trong Giáo Hội.
Thánh Giuse nói lời “fiat” của chính mình trong mọi hoàn cảnh. Có là bậc trượng phục chăng nữa cũng khó đón người bạn mang thai, tác giả không phải là mình về nhà làm vợ và làm cha của con trẻ. Nhưng khi Sứ Thần cho biết là ý Chúa : “Đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì đứa trẻ được thụ thai trong lòng bà là do Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20-21). Thánh Giuse đáp lại ngay: “Khi Giuse vừa thức giấc, ông đã làm theo lời Sứ Thần Chúa truyền” (Mt 1,24). Cả cuộc đời của Thánh Giuse là chuỗi đời hoàn toàn vâng phục. Từ khi đón Đức Maria mang thai cho đến khi đưa Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người sang Ai cập rồi từ Ai cập trở về... Tất cả thuận theo ý Chúa.
Vì vâng lời, Thánh Giuse đã dạy cho Chúa Giêsu biết bài học vâng phục, nên Chúa Giêsu : “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Chúa Giêsu đã học từ Giuse, người cha phàm nhân ấy như lời Đức Thánh Cha viết : “Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse để làm theo ý của Chúa Cha” (x.Patris Corde, số 3).
Bằng sự vâng lời, Thánh Giuse đã cứu Mẹ Maria và Chúa Giêsu và dạy Con của ngài “thi hành ý Chúa Cha” (x. Patris Corde, số 3). Sách Giáo lý còn viết rõ hơn khi nói rằng, “Việc Đức Giêsu mỗi ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria báo trước việc vâng phục vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh: “Xin đừng theo ý con” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong cuộc sống ẩn dật thường ngày đã khởi đầu công trình tái lập những gì mà Ađam đã phá đổ vì bất tuân phục (Rm 5, l9)” (GLCG, số 532). Ngay cả khi gặp khó khăn nhất, trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã chọn làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha hơn là ý muốn của mình, trở nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Vì thế, tác giả Thư gửi người Do Thái kết luận rằng Chúa Giêsu “đã học biết vâng phục qua những gì Người phải chịu” (Pl 5,8).
Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi để trực tiếp phục vụ con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu qua việc thực thi chức vụ làm cha vâng phục Thiên Chúa để cho ý Chúa được thể hiện.
Xã hội cần có sự vâng phục, Giáo Hội càng cần hơn. Công Đồng Vatican II xác nhận: “Đức Vâng Phục là sức mạnh đặc biệt của các thừa tác viên Chúa Kitô, Đấng đã dùng sự vâng phục để cứu nhân loại” (TG 24,2). Nếu người ta nói: “Kỷ luật là sức mạnh của quân đội”, thì ta có thể nói : “Đức Vâng Phục chính là sức mạnh của Giáo hội”.
Xin cho ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Người xưa rất coi trọng lễ nghi, đặc biệt là đạo hiếu, nghĩa thầy trò. Điều cao quý nhất đảm bảo cho sự thành công của con người đó chính là biết vâng lời dạy bảo của cha mẹ, thầy cô. Không biết vâng lời cha mẹ là người con bất hiếu. Không biết nghe lời thầy cô là kẻ vô đạo. Bất hiếu và vô đạo thì không thể thành người được.
Vâng lời, lễ phép, kính trên, nhường dưới, vâng lời cha mẹ là những chuẩn mực đạo đức mà ai ai củng cần có, đặt biệt trong văn hóa người Việt Nam nó trở thành tiền đề cho sự giáo dục con người, là tiêu chuẩn đạo đức để đánh giá phẩm chất cá nhân.
Vậy vâng lời là gì? Theo nghĩa Latinh: vâng lời bắt nguồn từ chữ ob-audire có nghĩa là nghe theo lời của một ai đó cách thận trọng sâu xa rồi đem ra thực hành. Nghĩa tôn giáo: vâng lời là thái độ chăm chú lắng nghe lời Thiên Chúa cho dù thánh ý của Người được diễn tả dưới bất cứ hình thức nào. Nhiều người chỉ hiểu vâng lời theo nghĩa hẹp là người trên bảo sao làm vậy, vâng chỉ vì muốn lấy lòng người trên, chứ không nhằm thực hiện thánh ý Chúa, dù biết lệnh của người trên không phù hợp với Thánh Ý Chúa mà vẫn cứ vâng lời, thì sự vâng lời đó không phải là nhân đức.
Thánh Giuse đều nói lời “fiat” của chính mình trong mọi hoàn cảnh, Ngài vâng phục cách mau mắn và triệt để. Nếu biết là ý Chúa thì cho dù khó khăn, vất vả, thậm trí trái ý mình vẫn cứ xin vâng miễn sao ý Chúa được thể hiện. Đức vâng lời của Thánh Giuse được Đức Thánh Cha đề cao không chỉ cho những người sống đời gia đình, mà càng cần thiết hơn cho những ai sống đời tu trì trong Giáo Hội.
Thánh Giuse nói lời “fiat” của chính mình trong mọi hoàn cảnh. Có là bậc trượng phục chăng nữa cũng khó đón người bạn mang thai, tác giả không phải là mình về nhà làm vợ và làm cha của con trẻ. Nhưng khi Sứ Thần cho biết là ý Chúa : “Đừng ngại nhận Maria làm vợ, vì đứa trẻ được thụ thai trong lòng bà là do Chúa Thánh Thần”(Mt 1,20-21). Thánh Giuse đáp lại ngay: “Khi Giuse vừa thức giấc, ông đã làm theo lời Sứ Thần Chúa truyền” (Mt 1,24). Cả cuộc đời của Thánh Giuse là chuỗi đời hoàn toàn vâng phục. Từ khi đón Đức Maria mang thai cho đến khi đưa Hài Nhi Giêsu và Mẹ Người sang Ai cập rồi từ Ai cập trở về... Tất cả thuận theo ý Chúa.
Vì vâng lời, Thánh Giuse đã dạy cho Chúa Giêsu biết bài học vâng phục, nên Chúa Giêsu : “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Chúa Giêsu đã học từ Giuse, người cha phàm nhân ấy như lời Đức Thánh Cha viết : “Trong những năm sống ẩn dật ở Nadarét, Chúa Giêsu đã học ở trường học của thánh Giuse để làm theo ý của Chúa Cha” (x.Patris Corde, số 3).
Bằng sự vâng lời, Thánh Giuse đã cứu Mẹ Maria và Chúa Giêsu và dạy Con của ngài “thi hành ý Chúa Cha” (x. Patris Corde, số 3). Sách Giáo lý còn viết rõ hơn khi nói rằng, “Việc Đức Giêsu mỗi ngày vâng phục thánh Giuse và Mẹ Maria báo trước việc vâng phục vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh: “Xin đừng theo ý con” (Lc 22,42). Sự vâng phục của Đức Kitô trong cuộc sống ẩn dật thường ngày đã khởi đầu công trình tái lập những gì mà Ađam đã phá đổ vì bất tuân phục (Rm 5, l9)” (GLCG, số 532). Ngay cả khi gặp khó khăn nhất, trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng đã chọn làm theo ý muốn của Đức Chúa Cha hơn là ý muốn của mình, trở nên “vâng lời cho đến chết, thậm chí chết trên thập tự giá” (Pl 2,8). Vì thế, tác giả Thư gửi người Do Thái kết luận rằng Chúa Giêsu “đã học biết vâng phục qua những gì Người phải chịu” (Pl 5,8).
Tất cả những điều này cho thấy rõ rằng Thánh Giuse đã được Thiên Chúa kêu gọi để trực tiếp phục vụ con người và sứ mệnh của Chúa Giêsu qua việc thực thi chức vụ làm cha vâng phục Thiên Chúa để cho ý Chúa được thể hiện.
Xã hội cần có sự vâng phục, Giáo Hội càng cần hơn. Công Đồng Vatican II xác nhận: “Đức Vâng Phục là sức mạnh đặc biệt của các thừa tác viên Chúa Kitô, Đấng đã dùng sự vâng phục để cứu nhân loại” (TG 24,2). Nếu người ta nói: “Kỷ luật là sức mạnh của quân đội”, thì ta có thể nói : “Đức Vâng Phục chính là sức mạnh của Giáo hội”.
Xin cho ý Chúa được thể hiện dưới đất cũng như trên trời.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Thánh Giuse Người Cha Chấp Nhận
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
21:16 26/02/2021
Thánh Giuse Người Cha Chấp Nhận
Sau khi nói về đức vâng phục của Thánh Giuse, Đức Thánh Cha đề cập đến sự “chấp nhận” nơi Ngài.
Vậy chấp nhận là gì? Chấp nhận là tiếp nhận yêu cầu người khác. Chấp nhận còn có nghĩa là chấp nhận những gì xẩy ra không như ý mình, tức là biết đón nhận những điều không mong muốn ập tới mình, nên sinh ra chuyện có người làm vì phải làm, vừa làm vừa hậm hực.
Sự chấp nhận nơi Thánh Giuse lại khác, Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong tin yêu phó thác. Ngài chấp nhận ý Chúa, dù khó hiểu, vì Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và nhân lành, nên tất cả những việc Ngài làm đều thể hiện sự khôn ngoan và nhân lành của Thiên Chúa. Ngài luôn muốn mọi sự tốt đẹp cho con người. Thánh Giuse ý thức được ý Chúa luôn tốt hảo nên Ngài chấp nhận. Cụ thể như Ngài đang do dự, bán tín bán nghi, nhưng khi được báo mộng, Thánh Giuse lập tức làm như lời sứ thần Chúa truyền đón nhận Đức Maria về nhà, rồi sang Ai cập, sau đó trở về Israel, định cư tại Nagiarét, tỉnh dậy, Thánh Giuse vâng lời và chấp nhận làm theo, kết quả là Hài Nhi Giêsu và Đức Maria được bảo toàn theo ý Chúa.
Chấp nhận với lòng tôn trọng
Đón nhận thánh ý Chúa, và vì Chúa mà đón nhận mọi người trong mọi hoàn cảnh Chúa gửi đến, không phải là một đón nhận miễn cưỡng. Nhưng đón nhận với tất cả tấm lòng, tình yêu và trân trọng.
Thánh Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Đức Thánh Cha nhấn mạnh cử chỉ này khi viết : “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được từ lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của chúng ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá rõ ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định (x. Patris Corde, số 4 ).
Chủ động chấp nhận
Con đường thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con đường giải thích, mà là con đường chấp nhận… Chắc chắn Thánh Giuse không cam chịu một cách thụ động, nhưng chủ động một cách can đảm và vững vàng…Thái độ của Thánh Giuse khuyến khích chúng ta chấp nhận và đón nhận người khác như họ vốn có, không có ngoại lệ, và quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối, vì Thiên Chúa chọn những gì yếu đuối (x. 1 Cr 1,27) (x. Patris Corde, số 4).
Chấp nhận vì đó là ý Chúa
Thánh Giuse đâu có bị buộc phải chấp nhận, Ngài chủ động với tất cả tấm lòng, tình yêu và trân trọng. Hay tin Maria mang thai, ý của Giuse là “định tâm lìa bỏ cách kính đáo”(Mt 1,19). Nhưng ý Chúa qua lời sứ thần truyền : “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng sợ đón Maria về nhà làm bạn mình!” (Mt 1,20). Thánh Giuse đã đón nhận không kêu ca phàn nàn. Chấp nhận không cần lý do, không cần giải thích, dù hạnh phúc hay khổ đau, vì ý Chúa là ý Ngài.
Thánh Augustinô nói, “ngay cả cái được gọi là sự dữ (etiam illud quod malum dicitur)”. Dường như chúng ta nghe vọng lại câu trả lời thật sâu sắc của ông Gióp với người vợ, bà đã xúi giục ông phản kháng vì những điều ác mà ông phải gánh chịu: “Chúng ta nhận được điều tốt từ tay Thiên Chúa, sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” (G 2,10). Theo góc nhìn rộng hơn này, đức tin mang lại ý nghĩa cho mọi biến cố, dù vui hay buồn. Thánh Giuse không tìm kiếm những lối tắt, mà mở rộng đôi mắt để đối mặt với thực tế và nhận trách nhiệm cá nhân về điều ấy. Ngài chấp nhận tất cả thánh ý Chúa với trọn niềm tin (x. Patris Corde, số 4).
Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ luôn xuất hiện những điều khác biệt. Những khác biệt đó có thể đến từ con người, từ những hành động, lời nói, sự vật hiện tượng… nhưng điều quan trọng là con người đón nhận và chấp nhận nó như thế nào.
Chúng ta hãy xin Thánh Giuse ơn biết nhận ra ý Chúa, để noi gương Ngài đón nhận thánh ý Chúa trong mọi lúc. Chúa có cách làm của Chúa, chắc chắn Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho chúng ta.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi nói về đức vâng phục của Thánh Giuse, Đức Thánh Cha đề cập đến sự “chấp nhận” nơi Ngài.
Vậy chấp nhận là gì? Chấp nhận là tiếp nhận yêu cầu người khác. Chấp nhận còn có nghĩa là chấp nhận những gì xẩy ra không như ý mình, tức là biết đón nhận những điều không mong muốn ập tới mình, nên sinh ra chuyện có người làm vì phải làm, vừa làm vừa hậm hực.
Sự chấp nhận nơi Thánh Giuse lại khác, Ngài hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa trong tin yêu phó thác. Ngài chấp nhận ý Chúa, dù khó hiểu, vì Thiên Chúa là Đấng khôn ngoan và nhân lành, nên tất cả những việc Ngài làm đều thể hiện sự khôn ngoan và nhân lành của Thiên Chúa. Ngài luôn muốn mọi sự tốt đẹp cho con người. Thánh Giuse ý thức được ý Chúa luôn tốt hảo nên Ngài chấp nhận. Cụ thể như Ngài đang do dự, bán tín bán nghi, nhưng khi được báo mộng, Thánh Giuse lập tức làm như lời sứ thần Chúa truyền đón nhận Đức Maria về nhà, rồi sang Ai cập, sau đó trở về Israel, định cư tại Nagiarét, tỉnh dậy, Thánh Giuse vâng lời và chấp nhận làm theo, kết quả là Hài Nhi Giêsu và Đức Maria được bảo toàn theo ý Chúa.
Chấp nhận với lòng tôn trọng
Đón nhận thánh ý Chúa, và vì Chúa mà đón nhận mọi người trong mọi hoàn cảnh Chúa gửi đến, không phải là một đón nhận miễn cưỡng. Nhưng đón nhận với tất cả tấm lòng, tình yêu và trân trọng.
Thánh Giuse đã chấp nhận Đức Maria một cách vô điều kiện. Đức Thánh Cha nhấn mạnh cử chỉ này khi viết : “Sự cao thượng của tâm hồn Thánh Giuse là ở chỗ những gì ngài học được từ lề luật thì ngài đã sống theo tình bác ái. Ngày nay, trong thế giới của chúng ta, nơi mà bạo lực tinh thần, ngôn từ và thân xác đối với phụ nữ đã quá rõ ràng, thì Thánh Giuse trở thành hình ảnh của một người đàn ông biết tôn trọng và tinh tế. Mặc dù không hiểu rõ mọi chuyện, nhưng ngài vẫn quyết định bảo vệ danh thơm tiếng tốt, phẩm giá và cuộc sống của Mẹ Maria. Khi ngài còn do dự không biết nên làm gì, Thiên Chúa đã soi sáng để giúp ngài quyết định (x. Patris Corde, số 4 ).
Chủ động chấp nhận
Con đường thiêng liêng mà Thánh Giuse vạch ra cho chúng ta không phải là con đường giải thích, mà là con đường chấp nhận… Chắc chắn Thánh Giuse không cam chịu một cách thụ động, nhưng chủ động một cách can đảm và vững vàng…Thái độ của Thánh Giuse khuyến khích chúng ta chấp nhận và đón nhận người khác như họ vốn có, không có ngoại lệ, và quan tâm đặc biệt đến những người yếu đuối, vì Thiên Chúa chọn những gì yếu đuối (x. 1 Cr 1,27) (x. Patris Corde, số 4).
Chấp nhận vì đó là ý Chúa
Thánh Giuse đâu có bị buộc phải chấp nhận, Ngài chủ động với tất cả tấm lòng, tình yêu và trân trọng. Hay tin Maria mang thai, ý của Giuse là “định tâm lìa bỏ cách kính đáo”(Mt 1,19). Nhưng ý Chúa qua lời sứ thần truyền : “Hỡi Giuse con vua Đavít, đừng sợ đón Maria về nhà làm bạn mình!” (Mt 1,20). Thánh Giuse đã đón nhận không kêu ca phàn nàn. Chấp nhận không cần lý do, không cần giải thích, dù hạnh phúc hay khổ đau, vì ý Chúa là ý Ngài.
Thánh Augustinô nói, “ngay cả cái được gọi là sự dữ (etiam illud quod malum dicitur)”. Dường như chúng ta nghe vọng lại câu trả lời thật sâu sắc của ông Gióp với người vợ, bà đã xúi giục ông phản kháng vì những điều ác mà ông phải gánh chịu: “Chúng ta nhận được điều tốt từ tay Thiên Chúa, sao chúng ta lại không nhận điều bất hạnh?” (G 2,10). Theo góc nhìn rộng hơn này, đức tin mang lại ý nghĩa cho mọi biến cố, dù vui hay buồn. Thánh Giuse không tìm kiếm những lối tắt, mà mở rộng đôi mắt để đối mặt với thực tế và nhận trách nhiệm cá nhân về điều ấy. Ngài chấp nhận tất cả thánh ý Chúa với trọn niềm tin (x. Patris Corde, số 4).
Trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ luôn xuất hiện những điều khác biệt. Những khác biệt đó có thể đến từ con người, từ những hành động, lời nói, sự vật hiện tượng… nhưng điều quan trọng là con người đón nhận và chấp nhận nó như thế nào.
Chúng ta hãy xin Thánh Giuse ơn biết nhận ra ý Chúa, để noi gương Ngài đón nhận thánh ý Chúa trong mọi lúc. Chúa có cách làm của Chúa, chắc chắn Chúa luôn muốn điều tốt đẹp cho chúng ta.
Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ
VietCatholic TV
Bi thảm: Italia tưởng niệm 204 linh mục, 100,000 nạn nhân của virút Tầu. Quốc tang Đại Sứ Ý
Thế Giới Nhìn Từ Vatican
16:00 26/02/2021
1. Tưởng niệm các nạn nhân chết vì virút Tầu độc địa tại Ý
Ngày 20 tháng Hai được chính thức ghi nhận là ngày Italia phát hiện trường hợp coronavirus đầu tiên. Trong những ngày này, các thành phố và thị trấn trên khắp nước Ý đã treo cờ rũ để thương tiếc các nạn nhân của coronavirus, và tôn vinh sự hy sinh quảng đại và dấn thân anh dũng của các nhân viên y tế.
Đề xuất này được đưa ra bởi ANCI, Hiệp hội các thành phố Ý. Trên khắp nước Ý, một phút mặc niệm đã được cử hành tại các văn phòng chính phủ để mặc niệm những người đã chết, cầu nguyện cho những bệnh nhân nhiễm coronavirus, các nhân viên y tế, và những ai đang phải đau khổ vì trận dịch kinh hoàng này.
Theo tờ Avvnire, tức là Tương lai, tờ báo của Hội Đồng Giám Mục Ý, giáo phận Bergamo là giáo phận có số các linh mục thiệt mạng vì coronavirus cao nhất. Kể từ khi bắt đầu dịch bệnh tới nay đã có trên 40 linh mục thuộc giáo phận Bergamo thiệt mạng.
Lược qua danh sách các linh mục bị thiệt mạng, Avvenire xác định có năm phẩm chất chung của các ngài là. Các linh mục bị thiệt mạng đã sống rất bình dân, hoà đồng và gần gũi đàn chiên
Trong các cộng đồng dù lớn dù nhỏ, các vị này là “những người gìn giữ ký ức chung, tham gia vào việc truyền bá các chứng tá và các giá trị từ thế hệ này sang thế hệ tiếp theo.”
Các vị đã rất trung thành với ơn gọi: Nhiều vị trong số các linh mục này đã phục vụ cộng đồng của mình từ bốn mươi năm trở lên.
Các vị sống rất khiêm tốn: Nhiều vị trong số 110 linh mục đã qua đời chỉ được biết đến trong phạm vi các giáo xứ và cộng đồng địa phương của mình, chỉ một số ít các vị có danh tiếng ở cấp khu vực hoặc quốc gia.
Các ngài là những người không thể thiếu đối với cộng đồng: “Hết lần này đến lần khác,” Avvenire viết, “người ta nghe thấy sau cái chết của một linh mục những mô tả về một sự mất mát quá lớn đối với cộng đồng, một người luôn gần gũi, sẵn sàng với đàn chiên.”
Tử vong tại Ý tính đến ngày 25 tháng Hai đã lên đến 96,666 người, trong số 2,848,564 trường hợp nhiễm coronavirus. Theo tờ Avvnire tính đến đầu tháng Giêng năm nay đã có ít nhất 204 linh mục thiệt mạng vì coronavirus.
Cho đến nay, đã có 2 Giám Mục Ý qua đời vì coronavirus. Vào đầu tháng 10, Giám mục Giovanni D'Alise của Giáo phận Caserta qua đời ở tuổi 72. Sau đó, một Giám Mục Phụ Tá đã nghỉ hưu của Milan, là Đức Cha Marco Virgilio Ferrari, 87 tuổi, cũng đã chết ngày 23 tháng 11 do coronavirus.
Đức Hồng Y Gualtiero Bassetti, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Ý, đã phải nhập viện trong tình trạng rất nghiêm trọng vào đầu tháng 12 vì nhiễm coronavirus.
Theo Liên đoàn Quốc gia về bác sĩ phẫu thuật và nha sĩ, tính đến ngày 18 tháng 2 năm 2021, ước tính có 324 bác sĩ đã chết ở Ý do đại dịch coronavirus.
Source:Wordometer
2. Ðức Thánh Cha gửi điện thư chia buồn về vụ tấn công ở Congo.
Ðức Thánh Cha Phanxicô gửi điện thư chia buồn đến gia đình các nạn nhân của vụ tấn công ở Congo và gọi họ là “những người phục vụ hòa bình”.
Trong điện thư gửi tới Tổng thống Ý, ông Sergio Mattarella, Ðức Thánh Cha bày tỏ sự đau buồn về cuộc tấn công hôm thứ Hai 22 tháng 2 năm 2021 ở Cộng hòa Dân chủ Congo, làm cho Ðại sứ Ý Luca Attanasio, một quân cảnh người Ý và một tài xế người Congo thiệt mạng. Cả ba đang đi làm nhiệm vụ trong một Phái đoàn của Liên Hợp Quốc.
Ðức Thánh Cha cũng gửi lời chia buồn đến các gia đình các nạn nhân, đoàn ngoại giao và quân đoàn Carabinieri “vì sự qua đời của những người phục vụ hoà bình và luật pháp”.
Tiếp đến, Ðức Thánh Cha ca ngợi “nhân chứng mẫu mực” của Ðại sứ Ý Luca Attanasio. Ngài nói ông là một Kitô hữu tốt lành, luôn cống hiến trong việc thiết lập các tương quan huynh đệ và thân ái cho việc phục hồi sự an bình và hài hòa tại quốc gia châu Phi.
Sau đó, Ðức Thánh Cha hướng đến ông Vittorio Iacovacci, thành viên của cảnh sát Ý Carabinieri, người cũng đã bị giết trong vụ tấn công. Ngài bày tỏ: “Vittorio Iacovacci là một chuyên viên và là một người quảng đại trong phục vụ và đang chuẩn bị tạo dựng một gia đình mới”.
Trong phần kết của điện thư, Ðức Thánh Cha nói ngài cầu nguyện cho sự nghỉ yên muôn đời của những người con cao quý này của dân tộc Ý, và khuyến khích Tổng thống và mọi người hãy tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, vì trong Chúa những gì đã được thực hiện tốt đẹp không bao giờ trở nên vô ích, đặc biệt khi những việc làm này được xác nhận bằng đau khổ và hy sinh.
Sau cùng, Ðức Thánh Cha ban phép lành cho Tổng thống, những người thân và bạn bè của các nạn nhân và tất cả những ai đang thương khóc vì sự mất mát này.
Ngày 22 tháng 02 năm 2021, đoàn xe của Liên Hiệp Quốc đang đi thăm một trường học thuộc Chương trình Lương thực Thế giới ở Rutshuru, thì bị tấn công làm cho ba người chết và một số bị thương. Vụ tấn công xảy ra trên con đường trước đó đã được dọn sạch để đi lại nhưng không có lực lượng an ninh hộ tống. Rutshuru chỉ cách Goma hơn hai giờ lái xe. Con đường ra khỏi thủ đô là khu vực không an toàn, với một số nhóm vũ trang hoạt động trong khu vực bất chấp sự hiện diện dày đặc của phái bộ gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc trong khu vực.
Source:Vatican News
3. Đức Hồng Y Angelo De Donatis cử hành thánh lễ an táng Đại Sứ Luca Attanasio
Hôm thứ Năm 15 tháng Hai, Ý đã tổ chức quốc tang cho đại sứ của họ tại Cộng hòa Dân chủ Congo và vệ sĩ của ông bị giết trong một cuộc phục kích mà một Hồng Y nói rằng nên nhắc mọi người “nghe thấy tiếng kêu” của dân tộc bị tàn phá bởi bạo lực.
Luca Attanasio, 43 tuổi và Vittorio Iacovacci, 30 tuổi, đã bị bắn chết sau khi bị bắt cóc khi đang đi trong đoàn xe của Chương trình Lương thực Thế giới của Liên hợp quốc, gọi tắt là WFP, đến thăm một dự án cho trẻ ăn học vào hôm thứ Hai. Tài xế của WFP Mustapha Milambo cũng thiệt mạng.
Thủ tướng Mario Draghi và các bộ trưởng khác đã tham dự lễ tang, được tổ chức tại Vương cung thánh đường Đức Maria Nữ vương các Thiên thần và các thánh Tử đạo. Đó là một nhà thờ được sử dụng cho các nghi lễ tôn giáo dành cho các nhà lãnh đạo quốc gia và các nhân vật văn hóa.
Những chiếc quan tài được phủ trong lá cờ ba màu của Ý, đã được chào đón bởi một hàng quân danh dự khi được đưa ra khỏi xe tang. Một người lính chỉ huy hô vang lời chào danh dự và một ban quân nhạc chơi một điệu nhạc buồn khi các quan tài được đưa vào nhà thờ.
“Những anh em này đã quyết định cam kết giúp đỡ người khác ngay cả khi điều đó có nghĩa là phải hy sinh mạng sống của họ,” Đức Hồng Y Angelo De Donatis nói trong bài giảng lễ tang.
Đức Hồng Y De Donatis, là đại diện của Đức Thánh Cha Phanxicô tại giáo phận Rôma, nói rằng những cái chết này nên nhắc nhở mọi người “nghe thấy tiếng kêu của người dân Congo, bị tàn phá một cách tàn nhẫn bởi bạo lực khi chứng kiến những đứa con trai và con gái của họ chết mỗi ngày.”
Đại sứ Attanasio để lại một người vợ và ba đứa con. Anh Iacovacci, vệ sĩ của ông vừa mới đính hôn.
Một nguồn tin tư pháp ở Rôma cho biết kết quả khám nghiệm tử thi sơ bộ cho thấy cả hai đã bị trúng đạn hai lần trong một vụ bắt cóc.
Source:Reuters
4. Đức Hồng Y Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao suy tư về giá trị của việc sám hối trong thời đại dịch
Sám hối là lời mời gọi thường hằng trong đời sống Kitô hữu, và được nhấn mạnh trong Mùa Chay, có thể giúp chúng ta hiểu giá trị những hy sinh mà chúng ta đã được kêu gọi thực hiện trong đại dịch coronavirus.
Trong một lá thư cho Mùa Chay năm 2021, được đăng trên tờ Quan Sát Viên Rôma vào ngày 18 tháng 2, Đức Hồng Y Mauro Piacenza đã trình bày các suy tư của ngài về việc “sám hối trong thời gian khẩn cấp”.
Đức Hồng Y Piacenza là Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao, một tòa án của Tòa án của Vatican có thẩm quyền liên quan đến các ân xá như toàn xá và tiểu xá, và việc xá các tội nghiêm trọng.
Ngài viết rằng 40 ngày Mùa Chay và sự chiến thắng của Chúa Kitô đối với sự dữ “có tầm quan trọng không thể so sánh được đối với sự sống của con người, bởi vì những điều này không chỉ liên quan đến đến lợi ích vật chất hay sức khoẻ thể xác, mà còn liên quan đến một điều triệt để hơn nhiều là sự cứu rỗi đời đời”.
Ngài nói rằng, không giống như những gì thường được nhấn mạnh trong đại dịch COVID-19, Mùa Chay “không chỉ liên quan đến việc chữa lành hoặc miễn nhiễm khỏi bệnh truyền nhiễm, nhưng còn liên quan đến chiến thắng tội lỗi, là thứ khiến con người trở thành nô lệ, và phải chết. Tội lỗi cũng giới hạn các khát vọng con người trong những ao ước thế tục mà thôi. Mùa Chay giúp chúng ta vươn đến những khát vọng cao cả hơn”.
Với Mùa Chay, chúng ta có thể nhìn thấy xa hơn các giai đoạn đóng cửa và đại dịch và nhìn “toàn bộ thời gian” với một viễn cảnh “được chiếu sáng bởi ánh sáng của sự phục sinh”, Đức Hồng Y nói.
Ngài lưu ý rằng tình trạng khẩn cấp về sức khỏe xuất hiện “ngay khi việc từ bỏ, hy sinh, và đền tội dường như bị cấm theo quy điển của một phương Tây đã trở nên điếc lác với mọi hình thức hành xác”.
Ngài giải thích rằng giờ đây, mọi người trên khắp thế giới đã được yêu cầu “từ bỏ, ít nhất là một phần, việc thực hiện các quyền tự do cá nhân” để tuân theo các quy trình an toàn sức khỏe và tuân theo các chỉ dẫn của các cơ quan có thẩm quyền.
Theo Đức Hồng Y, trong thời kỳ đại dịch, các phương tiện thông tin đại chúng đã gửi đi ba thông điệp: tố cáo mối nguy hiểm sắp xảy ra và nhấn mạnh trách nhiệm của một người đối với bản thân và người khác; chỉ ra một thời điểm trong tương lai mà tại đó mọi thứ sẽ được giải quyết tốt nhất; và đặt ra thời hạn cho sự chờ đợi và hy sinh bắt buộc.
“Một phần trong những điều này cũng luôn là ý tưởng định hướng của sự sám hối Kitô Giáo được đề xuất và mời gọi đối với tất cả mọi người trong Mùa Chay thánh,” Đức Hồng Y Piacenza nói.
Ngài nói thêm rằng trên thế giới, luôn luôn có “một mối nguy hiểm sắp xảy ra,” đó là tinh thần ma quỷ, mà các tín hữu Kitô được kêu gọi chống lại bằng sự sám hối.
Chân trời tích cực là “chiến thắng trên Thập tự giá do Chúa Kitô giành được và được chia sẻ bởi những người chào đón Ngài vào cuộc sống của chính họ”, ngài giải thích. Và có sự kết thúc trận chiến, “được biểu thị bằng ‘con số thiêng liêng’ là 40 ngày, là thời gian hoán cải và cứu độ thực sự”.
Đức Hồng Y Chánh Tòa Ân Giải Tối Cao nhấn mạnh rằng việc sám hối của Kitô hữu không phải là một “nỗ lực mệt mỏi và không chắc chắn để đạt được, bằng sức riêng của mình, một ơn thiêng nào đó”.
“Ngược lại”, Đức Hồng Y nhấn mạnh rằng, “sám hối bao gồm nhu cầu không thể cưỡng lại, nảy sinh trong mỗi trái tim người Kitô hữu đích thực, là muốn đáp lại với tất cả bản thân mình trước Tình yêu của Chúa Kitô, Đấng là Thiên Chúa thật và là người thật, đã gánh lấy tội ác của thế giới đến mức hy sinh trên thập tự giá. Sự phục sinh của chính Ngài đã đổi mới vũ trụ đang bị lung lay bởi tội lỗi”.
Giáo hội luôn coi việc sám hối là một “nhân đức đích thực và thích hợp, được Chúa Thánh Thần ban cho và hoạt động để qua đó con người tự mở lòng ra đón nhận chiến thắng vĩ đại của Chúa Kitô”, Đức Hồng Y Piacenza viết.
Qua việc sám hối, con người học cách từ bỏ toàn bộ cuộc sống của mình cho Chúa Kitô và chấp nhận cùng chịu đau khổ với Ngài, nhận lấy hậu quả của tội lỗi mình gây ra, và “dâng hiến sự đền đáp chính đáng”.
“Nhưng trên hết”, Đức Hồng Y nói, qua sám hối, Kitô hữu học được “cách nhận biết những điều bí ẩn trong Trái tim Chúa Kitô và tham gia, ngay bây giờ và mãi mãi, trong cuộc sống mới của Đấng ‘đã khước từ niềm vui dành cho mình, mà cam chịu khổ hình thập giá, chẳng nề chi ô nhục, và nay đang ngự bên hữu ngai Thiên Chúa’ (Dt 12: 2)”.
Đức Hồng Y Piacenza đã kết thúc bức thư của mình bằng cách cầu xin Đức Trinh Nữ Maria giúp người Công Giáo phát triển “sự sám hối thực sự của người Kitô hữu, để có khả năng đón nhận và nhìn thấy sự thay đổi trong dịp cứu độ, là tình trạng khẩn cấp đại dịch hiện nay, làm cho lòng người phát triển niềm vui và tự do của những người biết mình không thuộc về quyền lực nào trên thế gian này, nhưng chỉ thuộc về Chúa Kitô và quyền năng cứu rỗi của Ngài”.
Source:Catholic News Agency