Phụng Vụ - Mục Vụ
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:37 12/02/2010
N2T |
24. Không nên vì nhân tình thế tục mà ngưng làm tất cả việc thiện.
(Thánh Masaril)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:39 12/02/2010
N2T |
365. Nhìn nhiều, học nhiều, thí nghiệm nhiều, nếu thành tựu thì tuyệt đối sẽ không khoe khoang (tài cán của mình).
Tôn kính Đức Mẹ sao cho đúng?
Lm Fx Nguyễn hùng Oánh
10:33 12/02/2010
Sáng hôm nay, dâng Thánh Lễ kính Đức Mẹ hiện ra ở Lộ đức, tôi định viết một bài về Đức Mẹ với nhan đề "Đề phòng mê tín về Đức Mẹ", nhưng sợ hiểu lầm, tôi đã sửa lại như trên.
Bài Tin mừng theo thánh Gioan nói về tiệc cưới tại Cana (Ga 2, 1-11) cho biết vai trò thật của Đức Mẹ là trung gian giữa Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và loài người. Đức Mẹ không làm phép lạ, không ban ơn, nhưng Đức Mẹ chuyển cầu cho nhân loại. Đức Mẹ không đòi người ta phải chạy đến với Đức Mẹ, năn nỉ với Đức Mẹ mới chuyển cầu. Đức Mẹ nói nhỏ với Con của Đức Mẹ “họ hết rượu rồi" tỏ ra Đức Mẹ thật quán xuyến công việc nội trợ. Không ai dám nghĩ Đức Mẹ “xía vào” công việc của nhà đám, trái lại, người ta phải hoan hô hành động “cứu giúp” của Đức Mẹ. Chính ông quản tiệc phê phán chàng rể “đãi rượu ngon sau” đủ nói lên điều dó.
Nhưng sự cưú giúp của Đức Mẹ cũng chỉ là vai tuỳ vì nếu Đức Giêsu không làm phép lạ “nước hoá thành rượu ngon” thì lời Đức Mẹ nói với Đức Giêsu thành “vô duyên”.
Như vậy, ta thấy rất rõ vai trò của Đấng tạo hoá và vai trò của thụ tạo, dầu là thụ tạo ở bậc cao nhất vẫn là thụ tạo và Đức Giêsu mặc dầu mặc lấy xác phàm chúng ta và sống như chúng ta ngoại trừ tỗi lỗi vẫn là Đấng tạo hoá. Tôn kính Đức Mẹ mà xem Đức Mẹ là Đấng tạo hoá sẽ rơi vào tội thờ “dối trá”.
Đức Mẹ đã ý thức rõ ràng về điều đó nên Ngài mới nói với Đức Giêsu tình trạng khốn khỏ của nhà đám (họ hết rượu rồi) và dạy nhà đám phải vâng lời Đức Giêsu. Và chúng ta còn thấy Đức Mẹ không vượt quyền Giáo huấn của Giáo hội, cụ thể trong Thánh lễ nầy. Thật vậy, Giáo họi tuyên tín Đức Mẹ chẳng hề mắc tội tổ tông truyền (vô nhiễm nguyên tội) ngày 08-12-1854 và Đức Mẹ mới cho cô bé Bernadette Soubirous biết tên của Đức Mẹ là “Vô nhiễm nguyên tội” ngày 25-3-1858. Bấm tay tính ra phải mất 1854 năm, Giáo hội mới nhận ra được con người tinh toàn tuyệt đối của Đức Mẹ và phải bốn năm sau Đức Mẹ mới nói ra. Chắc là Đức Mẹ giúp Giáo hội tìm thấy được đặc ân Chúa dành cho Đức Mẹ, nhưng không vội vã.
Giáo hội dạy: nhờ Đức Mẹ để dến với Chúa Giêsu (ad Jesum per Mariam). Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Me Fatima, Đức Mẹ Lavang...? Tôi thường nói Đức Mẹ ở trên trời cầu bầu cho chúng ta, còn tượng Đức Mẹ do các hoạ sỹ vẽ, các nhà điêu khắc tạc ra, hoặc nơi Đức Mẹ hiện ra chẳng chứa phép thiêng cầu bàu gì hết chỉ là hình ảnh giúp ta nâng tâm hồn lên kết hiệp với Đức Mẹ ở trên trời.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo năm 1992 dạy: người nào tôn kính một ảnh tượng thánh là tôn kính chính Đấng ảnh tượng đó miêu tả (quiconque vénère une image, vénère en elle la personne qui y est dépeinte). Cầu nguyện trước một ảnh tượng thánh thì không dừng trước ảnh tượng đó nhưng là đạt tới chính con người vị thánh đó mà ảnh tượng miêu tả (le mouvement qui s ‘ adresse à l’ image en tant que telle ne s’ arrête pas à elle, mais tend à la réalité dont elle est l’ image) (số 2132).
Về phép lạ liên can tới Đức Mẹ trong tiệc cưới Cana, Đức Mẹ đã tin vào Con của Mẹ nên mới nói “họ hết rượu rồi và bảo các người giúp việc vâng lời Ngài”, còn các môn đệ chứng kiến phép lạ, thấy được vinh quang của Đức Giêsu mới tin vào Ngài là Đức Kitô. Chúa tỏ vinh quang và các môn đệ thấy vinh quang chứ không thấy cử chỉ “hô phong hoán vũ", chiêng trống đánh lớn để biểu dương sức mạnh. Vì thế ông quản tiệc không biết, chỉ có mấy người lấy nước đổ vào chum biết khác với mấy ông linh mục tổ chức cầu nguyện cho người ta té ngã khắp nhà thờ hoặc đưa những “chứng nhân láo” mô tả đã được ơn nầy ơn kia cho thính giả tin vào người thuyết giảng.
Với những người không tin Đưc Giêsu là Đức Kitô (Con Thiên Chúa), Ngài nói: “Còn nếu việc ta làm, cho đi các ngươi không tin Ta thì hãy tin vào các việc ấy” (Gioan 10,38: but if I perform them, even if you do not believe me, believe the works). Pascal đã nói:” Phép lạ chứng thực giáo thuyết và giáo thuyết là công chứng của phép lạ “(les miracles discenent la doctrine, et la doctrine discenent miracles “.
Đức Giêsu làm phép lạ để chứng minh Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến và phép lạ “giờ đã dến” bằng phép lạ vượt qua (chết và sống lại) chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa có bản tính Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ và Ngài ban quyền cho các Tông đồ làm phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ). Bây giờ, đời sống tốt của Kytô hữu và hành dộng bác ái chính là phép lạ.
Phải đề phòng người ưa chuộng phép lạ do các tượng thánh làm, người ham đồn thổi phép lạ, cả vài nhà tu có thứ suy luận lạ lùng về ơn Chúa (cầu nguyện, đặt tay cho phụ nữ hiếm muộn có thai, một nữ tu cắt thuốc cho người hiếm muộn có thai và đưa tới kết quả: thai ảo …)
Ngày hai mươi chín tháng Chạp năm Kỷ Sửu (12-02-2010)
Bài Tin mừng theo thánh Gioan nói về tiệc cưới tại Cana (Ga 2, 1-11) cho biết vai trò thật của Đức Mẹ là trung gian giữa Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người và loài người. Đức Mẹ không làm phép lạ, không ban ơn, nhưng Đức Mẹ chuyển cầu cho nhân loại. Đức Mẹ không đòi người ta phải chạy đến với Đức Mẹ, năn nỉ với Đức Mẹ mới chuyển cầu. Đức Mẹ nói nhỏ với Con của Đức Mẹ “họ hết rượu rồi" tỏ ra Đức Mẹ thật quán xuyến công việc nội trợ. Không ai dám nghĩ Đức Mẹ “xía vào” công việc của nhà đám, trái lại, người ta phải hoan hô hành động “cứu giúp” của Đức Mẹ. Chính ông quản tiệc phê phán chàng rể “đãi rượu ngon sau” đủ nói lên điều dó.
Nhưng sự cưú giúp của Đức Mẹ cũng chỉ là vai tuỳ vì nếu Đức Giêsu không làm phép lạ “nước hoá thành rượu ngon” thì lời Đức Mẹ nói với Đức Giêsu thành “vô duyên”.
Như vậy, ta thấy rất rõ vai trò của Đấng tạo hoá và vai trò của thụ tạo, dầu là thụ tạo ở bậc cao nhất vẫn là thụ tạo và Đức Giêsu mặc dầu mặc lấy xác phàm chúng ta và sống như chúng ta ngoại trừ tỗi lỗi vẫn là Đấng tạo hoá. Tôn kính Đức Mẹ mà xem Đức Mẹ là Đấng tạo hoá sẽ rơi vào tội thờ “dối trá”.
Đức Mẹ đã ý thức rõ ràng về điều đó nên Ngài mới nói với Đức Giêsu tình trạng khốn khỏ của nhà đám (họ hết rượu rồi) và dạy nhà đám phải vâng lời Đức Giêsu. Và chúng ta còn thấy Đức Mẹ không vượt quyền Giáo huấn của Giáo hội, cụ thể trong Thánh lễ nầy. Thật vậy, Giáo họi tuyên tín Đức Mẹ chẳng hề mắc tội tổ tông truyền (vô nhiễm nguyên tội) ngày 08-12-1854 và Đức Mẹ mới cho cô bé Bernadette Soubirous biết tên của Đức Mẹ là “Vô nhiễm nguyên tội” ngày 25-3-1858. Bấm tay tính ra phải mất 1854 năm, Giáo hội mới nhận ra được con người tinh toàn tuyệt đối của Đức Mẹ và phải bốn năm sau Đức Mẹ mới nói ra. Chắc là Đức Mẹ giúp Giáo hội tìm thấy được đặc ân Chúa dành cho Đức Mẹ, nhưng không vội vã.
Giáo hội dạy: nhờ Đức Mẹ để dến với Chúa Giêsu (ad Jesum per Mariam). Đức Mẹ Lộ Đức, Đức Me Fatima, Đức Mẹ Lavang...? Tôi thường nói Đức Mẹ ở trên trời cầu bầu cho chúng ta, còn tượng Đức Mẹ do các hoạ sỹ vẽ, các nhà điêu khắc tạc ra, hoặc nơi Đức Mẹ hiện ra chẳng chứa phép thiêng cầu bàu gì hết chỉ là hình ảnh giúp ta nâng tâm hồn lên kết hiệp với Đức Mẹ ở trên trời.
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo năm 1992 dạy: người nào tôn kính một ảnh tượng thánh là tôn kính chính Đấng ảnh tượng đó miêu tả (quiconque vénère une image, vénère en elle la personne qui y est dépeinte). Cầu nguyện trước một ảnh tượng thánh thì không dừng trước ảnh tượng đó nhưng là đạt tới chính con người vị thánh đó mà ảnh tượng miêu tả (le mouvement qui s ‘ adresse à l’ image en tant que telle ne s’ arrête pas à elle, mais tend à la réalité dont elle est l’ image) (số 2132).
Về phép lạ liên can tới Đức Mẹ trong tiệc cưới Cana, Đức Mẹ đã tin vào Con của Mẹ nên mới nói “họ hết rượu rồi và bảo các người giúp việc vâng lời Ngài”, còn các môn đệ chứng kiến phép lạ, thấy được vinh quang của Đức Giêsu mới tin vào Ngài là Đức Kitô. Chúa tỏ vinh quang và các môn đệ thấy vinh quang chứ không thấy cử chỉ “hô phong hoán vũ", chiêng trống đánh lớn để biểu dương sức mạnh. Vì thế ông quản tiệc không biết, chỉ có mấy người lấy nước đổ vào chum biết khác với mấy ông linh mục tổ chức cầu nguyện cho người ta té ngã khắp nhà thờ hoặc đưa những “chứng nhân láo” mô tả đã được ơn nầy ơn kia cho thính giả tin vào người thuyết giảng.
Với những người không tin Đưc Giêsu là Đức Kitô (Con Thiên Chúa), Ngài nói: “Còn nếu việc ta làm, cho đi các ngươi không tin Ta thì hãy tin vào các việc ấy” (Gioan 10,38: but if I perform them, even if you do not believe me, believe the works). Pascal đã nói:” Phép lạ chứng thực giáo thuyết và giáo thuyết là công chứng của phép lạ “(les miracles discenent la doctrine, et la doctrine discenent miracles “.
Đức Giêsu làm phép lạ để chứng minh Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến và phép lạ “giờ đã dến” bằng phép lạ vượt qua (chết và sống lại) chứng minh Ngài là Con Thiên Chúa có bản tính Thiên Chúa, là Thiên Chúa cứu độ và Ngài ban quyền cho các Tông đồ làm phép lạ chữa bệnh, trừ quỷ). Bây giờ, đời sống tốt của Kytô hữu và hành dộng bác ái chính là phép lạ.
Phải đề phòng người ưa chuộng phép lạ do các tượng thánh làm, người ham đồn thổi phép lạ, cả vài nhà tu có thứ suy luận lạ lùng về ơn Chúa (cầu nguyện, đặt tay cho phụ nữ hiếm muộn có thai, một nữ tu cắt thuốc cho người hiếm muộn có thai và đưa tới kết quả: thai ảo …)
Ngày hai mươi chín tháng Chạp năm Kỷ Sửu (12-02-2010)
Tất Niên - Tạ ơn Chúa cuối năm
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
10:38 12/02/2010
Khi xuống thế làm người, Ngôi Hai Thiên Chúa là Chúa Giêsu, đã dùng tất cả cuộc đời của mình để dạy chúng ta biết Thiên Chúa là Cha yêu thương chúng ta vô cùng, và muốn chúng ta sống hết tình con thảo đối với Thiên Chúa là Cha. Nhờ Ngài, chúng ta không những được những ơn vật chất quý báu trên đời nầy, nhưng còn được những ơn thiêng liêng hết sức cao trọng như có linh hồn bất tử, có đức tin để trở nên con của Chúa, con của Đức Mẹ, con của Giáo Hội.
Chúa Giêsu công khai tạ ơn Đức Chúa Cha trong những dịp quan trọng như khi làm phép lạ bánh hoá ra nhiều, khi làm cho Ladarô sống lại, khi lập Bí Tích Thánh Thể.
Khi chữa lành mười người tật phung, Chúa Giêsu cảm động vì thấy có một người tật phung trở lui, cám ơn Ngài sau khi được Ngài chữa lành.
___________
Khi suy nghĩ về những ơn mà Thiên Chúa ban cho muôn loài muôn vật, thì không có loài nào, không có vật nào mà không cám ơn Thiên Chúa. Dường như loài nào, vật nào cũng theo cách thức diễn tả của mình, hát vang lên câu: “Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa đã thương con, đã dựng nên con!”
Vào năm 35 tuổi, Pacifico (1653-1721) bị bệnh nặng khiến ngài bị điếc, bị mù và bị què. Ngài dâng sự đau khổ này để cầu nguyện cho người tội lỗi trở lại, và luôn luôn tạ ơn Chúa vì đã cho mình sống trong hoàn cảnh xem ra vô phước nầy.
Mẹ Bề Trên Angela có lần khuyên các nữ tu trong dòng mình: "Một kinh 'Sáng Danh' được cất lên để tạ ơn Chúa khi gặp nghịch cảnh thì có giá trị gấp ngàn lần lời tạ ơn Chúa khi thành công."
Tinh thần Á Đông nổi bật nhất, trong đó có tinh thần của Dân Tộc Việt Nam, là lòng biết ơn.
Người Việt chúng ta đặc biệt dạy về lòng biết ơn, đề cao lòng biết ơn và lên án lòng vô ơn.
Dạy về lòng biết ơn:
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo, nhớ kẻ đâm xay giàn sàng.
Uống nước, nhớ nguồn.
Có cây, mới có dây leo, có cột có kèo, mới có đòn tay, v.v...
Đề cao lòng biết ơn:
Nhất tự vi sư.
Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa.
Một miếng khi đói, bằng một gói (đọi) khi no.
Đường mòn, nhưng nghĩa không mòn, v.v...
Lên án lòng vô ơn:
Những người hữu thủy vô chung, là người tệ bạc, tin dùng làm chi.
Khi nóng thì bắt lấy tai, khi nguội thì chẳng biết tai là gì.
Ăn cháo, đái (đá) bát.
Có mới, nới củ.
Khỏi vòng, cong đuôi.
Đừng ăn cây táo mà rào cây sung.
Được chim, bẻ ná, được cá quên nơm.
Ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm, v.v...
___________
Những ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta thì vô số, vượt quá tất cả những tư tưởng của chúng ta, vượt quá tất cả những lời nói của chúng ta, vượt quá tất cả những tính toán của chúng ta, đến đỗi chúng ta có thể đếm được tất cả những giọt nước của biển cả mênh mông, nhưng chúng ta không thể nào đếm được những ân huệ Thiên Chúa đã ban, đang ban và sẽ ban cho chúng ta.
Những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta, thì Ngài ban cách một vô hạn, một cách lạ lùng, vì Ngài là Đấng vô cùng yêu thương, vô cùng quyền phép.
Tạ ơn Chúa, thật là chính đáng!
Vì thế, để thờ phượng Thiên Chúa Cha cho thật hết sức tuyệt hảo, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể, được gọi là Lễ Tạ Ơn. Ngày kia, thánh Têrêxa suy nghĩ cách nào để tỏ lòng cám ơn Chúa cho xứng đáng, thì ngài liền nghe lời Chúa phán trong lòng rằng: “Muốn cám ơn cho xứng đáng, chỉ cần đi tham dự một Thánh Lễ là đủ”
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Tạo Dựng.
Thiên Chúa đã dựng nên con người chúng ta giống hình ảnh Ngài: có trí khôn, có ý muốn. Đó là ân huệ lớn lao nhất, mà chúng ta phải hết lòng tạ ơn Chúa. Thiên Chúa cho con người chúng ta làm chủ mọi loài trên trời dưới đất: bầu trời, trăng sao, sông biển, núi đồi, cây cối, súc vật, của cải,. .. Những thứ hết sức ích lợi nầy cho loài người, Thiên Chúa rút ra từ không không, để ban tặng cho con người chúng ta. ..
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Quan Phòng.
Thiên Chúa còn tiếp tục quan phòng để gìn giữ mọi loài trên trời dưới đất nầy, hầu chúng có thể tồn tại mà giúp cho con người được sống hạnh phúc trên cõi đời nầy, và giúp con người được sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu. Đặc biệt, Thiên Chúa gìn giữ con người một cách hết sức cẩn thận và đầy yêu thương: soi sáng cho linh hồn con người luôn hướng về Ngài, thúc giục tâm hồn con người luôn yêu mến Ngài, ban Tin Mừng của Ngài cho con người để con người được bước theo ánh sao chân lý mà nhận biết Ngài, ban Lời Hằng Sống và Thánh Thể Hằng Sống của Con Thiên Chúa làm Người, để cho con người được sống hạnh phúc tuyệt vời ngay khi còn ở trên dương trần tạm bợ nầy.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Cứu Chuộc.
Mặc dầu được đầy tràn ơn Chúa ban, con người đã nổi loạn chống Thiên Chúa. Thiên Chúa vô cùng công bình: phạt. Nhưng Thiên Chúa cũng vô cùng yêu thương: tha. Thế là một trận chiến xảy ra trong chính Thiên Chúa: phạt hay tha, tha hay phạt. Để chấm dứt cuộc chiến nầy, có một giải pháp: phải có một nhân vật tuyệt vời đứng ra lãnh án chết để cứu con người khỏi phải chết. Trong chín phẩm thiên thần, không tìm ra được nhân vật tuyệt vời nầy. Và thế, Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, tự nguyện: “Lạy Cha, nầy con xin đến!” (Is 6,8 ). Đến để vâng lời thánh ý Cha trọn đời: “Xin đừng theo ý con. ..(Mt 26,39);. .. “ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ” (Pl 2,8). Đến để “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân ” (Pl 2,7 ).
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Đức Tin.
Phần chúng ta là người Công giáo Việt Nam, những người có đức tin, chúng ta phải biết ơn Chúa là dường nào, vì Chúa đã thương gọi chúng ta vào đoàn chiên của Chúa, làm con cái của Chúa, trong khi hãy còn hơn 80% chưa phải là Công giáo. Chúng ta đã biết sấp mình dưới chân Chúa, nhưng còn biết bao nhiêu người sấp mình dươí chân những người như họ, hoặc trước những loài vật vô linh tính, vô tri giác,. .. Phải chăng chúng ta có công nghiệp gì để đáng được Chúa thương ban ơn làm con Chúa? Dù chúng ta sinh ra là Đạo dòng, dù chúng ta được vào Đạo lúc mới sinh, hay khi đã lớn khôn, thì đó cũng là ơn nhưng không Chúa ban cho chúng ta, mà không ban cho hằng triệu triệu người khác đã sống trước chúng ta, đang sống với chúng ta, hoặc sẽ sống sau chúng ta. ..? Mà nếu tính như vậy, thì con số người không được phúc biết Chúa như chúng ta, lớn lao biết chừng nào, và chúng ta càng phải biết ơn Chúa biết bao! Nhưng chúng ta hãy xét lại xem: ơn Chúa ban cho chúng ta thì cao cả lớn lao biết chừng nào, còn cách chúng ta đáp lại ơn Chúa thì thế nào? Chúng ta có sống đời vui mừng, tạ ơn Chúa, hay chỉ sống đời tầm thường, lạt lẽo. .. ? Và tệ hơn nữa, thay vì sống đạo đức thánh thiện, làm đèn soi Chúa cho người khác thấy, làm muối ướp Chúa cho thế gian khỏi hư thối, chúng ta lại sống đời tội lỗi, phản bội tình thương của Chúa ?
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Thánh Thể.
Phép Thánh Thể gồm tất cả mọi ơn: ơn tạo dựng, ơn cứu chuộc, ơn thánh hóa, ơn bảo đảm phước Thiên Đàng.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn được chịu đau khổ vì Chúa.
Thánh Têrêxa thành Avila đau khổ trong suốt 47 năm, nhưng càng đau khổ, vị thánh nầy càng sung sướng, nên đã chọn khẩu hiệu sống của mình là: “Hoặc đau khổ, hoặc chết!”. Thánh Anphôngsô già yếu, mang đủ bệnh tật, nhưng khi ai hỏi ngài về bệnh tật của mình, thì ngài chỉ trả lời một câu: “Hãy tạ ơn Chúa ”.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn sẽ được vinh hiển trên thiên đàng: nơi mà tai chưa bao giờ nghe được du dương như thế, nơi mà mắt chưa bao giờ thấy được huy hoàng như thế, nơi mà miệng chưa bao giờ nói được những lời tuyệt vời như thế. ..
___________
Khi thấy Thiên Chúa ban cho mình rất nhiều ân huệ, vua Đavít than: “Lạy Chúa, con làm thế nào để tạ ơn Chúa cho cân xứng vì những ân huệ Ngài đã ban cho con” (Tv 116)
Trước khi đi vào phần Kinh Nguyện Thánh Thể, linh mục mời mọi người hãy tạ ơn Chúa: “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta! ”, và cộng đoàn sung sướng đáp: “Thật là chính đáng! ”.
Khi tạ ơn Chúa, chúng ta thi hành nhơn đức thờ phượng một cách rất đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa muốn gì? Thiên Chúa thích gì?
Thiên Chúa muốn và thích tâm hồn chúng ta biết ơn Ngài vì những ơn Ngài ban cho chúng ta.
Khi tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta nhận được thêm nhiều ơn Chúa ban cho chúng ta hơn nửa.
Khi tạ ơn Thiên Chúa, những ơn chúng ta không xin, Ngài cũng ban cho chúng ta.
Khi tạ ơn Thiên Chúa, những ơn chúng ta chưa xin, Ngài cũng tìm cách ban cho chúng ta.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.” (1 Th 5,18)
Giáo Hội dạy con cái mình lo cám ơn Chúa hằng ngày, nhất là mỗi sáng sau khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ.
Giáo Hội luôn luôn sung sướng vì được cám ơn Chúa. Vì thế, đối với Giáo Hội, việc quan trọng nhất trên đời nầy, là dâng Thánh Lễ Tạ Ơn vì chỉ có Thánh Lễ do Chúa Giêsu đứng ra tạ ơn, mới cân xứng với những ơn Đức Chúa Cha ban cho loài người chúng ta. Ngày kia, thánh Têrêxa suy nghĩ cách nào để tỏ lòng cám ơn Chúa cho xứng đáng, thì nghe Chúa phán trong lòng rằng: “Muốn cám ơn cho xứng đáng, chỉ cần đi tham dự một Thánh Lễ là đủ.”
___________
Tất cả đều là ơn Chúa. Chúng ta hãy xác tín như vậy.
Một vị giám mục kia, khi già yếu, mang ba bệnh đáng thương: đui, điếc, bất toại. Chỉ còn lỗ miệng là nói được. Ai đến thăm, ngài thường khoe lời cầu nguyện của ngài như sau: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa để cho con đui! Con cám ơn Chúa vì Chúa để cho con điếc! Con cám ơn Chúa vì Chúa để cho con bất toại! Amen!”.
Chúng ta hãy làm sao cho cuộc đời mình trở thành cuộc đời đem ơn Chúa đến cho kẻ khác: “Thánh Thần Chúa sai tôi đi tuyên bố một năm ân phúc do Thiên Chúa ban” (Lc 4,19).
Chúng ta hãy làm sao cho đời mình trở thành một đời cám ơn Chúa luôn luôn và mãi mãi.
Luôn luôn tạ ơn Chúa!
Mãi mãi tạ ơn Ngài!
Đời ta là một Thánh Lễ Tạ Ơn kéo dài, kéo dài từ khi sinh ra cho đến khi chết, kéo dài từ Năm Cũ qua đến Năm Mới, kéo dài đến vô tận, kéo dài đến mãi mãi!
Chúa Giêsu công khai tạ ơn Đức Chúa Cha trong những dịp quan trọng như khi làm phép lạ bánh hoá ra nhiều, khi làm cho Ladarô sống lại, khi lập Bí Tích Thánh Thể.
Khi chữa lành mười người tật phung, Chúa Giêsu cảm động vì thấy có một người tật phung trở lui, cám ơn Ngài sau khi được Ngài chữa lành.
___________
Khi suy nghĩ về những ơn mà Thiên Chúa ban cho muôn loài muôn vật, thì không có loài nào, không có vật nào mà không cám ơn Thiên Chúa. Dường như loài nào, vật nào cũng theo cách thức diễn tả của mình, hát vang lên câu: “Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Chúa đã thương con, đã dựng nên con!”
Vào năm 35 tuổi, Pacifico (1653-1721) bị bệnh nặng khiến ngài bị điếc, bị mù và bị què. Ngài dâng sự đau khổ này để cầu nguyện cho người tội lỗi trở lại, và luôn luôn tạ ơn Chúa vì đã cho mình sống trong hoàn cảnh xem ra vô phước nầy.
Mẹ Bề Trên Angela có lần khuyên các nữ tu trong dòng mình: "Một kinh 'Sáng Danh' được cất lên để tạ ơn Chúa khi gặp nghịch cảnh thì có giá trị gấp ngàn lần lời tạ ơn Chúa khi thành công."
Tinh thần Á Đông nổi bật nhất, trong đó có tinh thần của Dân Tộc Việt Nam, là lòng biết ơn.
Người Việt chúng ta đặc biệt dạy về lòng biết ơn, đề cao lòng biết ơn và lên án lòng vô ơn.
Dạy về lòng biết ơn:
Ăn quả, nhớ kẻ trồng cây, ăn gạo, nhớ kẻ đâm xay giàn sàng.
Uống nước, nhớ nguồn.
Có cây, mới có dây leo, có cột có kèo, mới có đòn tay, v.v...
Đề cao lòng biết ơn:
Nhất tự vi sư.
Một chữ nên thầy, một ngày nên nghĩa.
Một miếng khi đói, bằng một gói (đọi) khi no.
Đường mòn, nhưng nghĩa không mòn, v.v...
Lên án lòng vô ơn:
Những người hữu thủy vô chung, là người tệ bạc, tin dùng làm chi.
Khi nóng thì bắt lấy tai, khi nguội thì chẳng biết tai là gì.
Ăn cháo, đái (đá) bát.
Có mới, nới củ.
Khỏi vòng, cong đuôi.
Đừng ăn cây táo mà rào cây sung.
Được chim, bẻ ná, được cá quên nơm.
Ai mà phụ nghĩa quên công, thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm, v.v...
___________
Những ơn mà Thiên Chúa ban cho chúng ta thì vô số, vượt quá tất cả những tư tưởng của chúng ta, vượt quá tất cả những lời nói của chúng ta, vượt quá tất cả những tính toán của chúng ta, đến đỗi chúng ta có thể đếm được tất cả những giọt nước của biển cả mênh mông, nhưng chúng ta không thể nào đếm được những ân huệ Thiên Chúa đã ban, đang ban và sẽ ban cho chúng ta.
Những gì Thiên Chúa ban cho chúng ta, thì Ngài ban cách một vô hạn, một cách lạ lùng, vì Ngài là Đấng vô cùng yêu thương, vô cùng quyền phép.
Tạ ơn Chúa, thật là chính đáng!
Vì thế, để thờ phượng Thiên Chúa Cha cho thật hết sức tuyệt hảo, Chúa Giêsu đã lập phép Thánh Thể, được gọi là Lễ Tạ Ơn. Ngày kia, thánh Têrêxa suy nghĩ cách nào để tỏ lòng cám ơn Chúa cho xứng đáng, thì ngài liền nghe lời Chúa phán trong lòng rằng: “Muốn cám ơn cho xứng đáng, chỉ cần đi tham dự một Thánh Lễ là đủ”
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Tạo Dựng.
Thiên Chúa đã dựng nên con người chúng ta giống hình ảnh Ngài: có trí khôn, có ý muốn. Đó là ân huệ lớn lao nhất, mà chúng ta phải hết lòng tạ ơn Chúa. Thiên Chúa cho con người chúng ta làm chủ mọi loài trên trời dưới đất: bầu trời, trăng sao, sông biển, núi đồi, cây cối, súc vật, của cải,. .. Những thứ hết sức ích lợi nầy cho loài người, Thiên Chúa rút ra từ không không, để ban tặng cho con người chúng ta. ..
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Quan Phòng.
Thiên Chúa còn tiếp tục quan phòng để gìn giữ mọi loài trên trời dưới đất nầy, hầu chúng có thể tồn tại mà giúp cho con người được sống hạnh phúc trên cõi đời nầy, và giúp con người được sống hạnh phúc trong đời sống mai hậu. Đặc biệt, Thiên Chúa gìn giữ con người một cách hết sức cẩn thận và đầy yêu thương: soi sáng cho linh hồn con người luôn hướng về Ngài, thúc giục tâm hồn con người luôn yêu mến Ngài, ban Tin Mừng của Ngài cho con người để con người được bước theo ánh sao chân lý mà nhận biết Ngài, ban Lời Hằng Sống và Thánh Thể Hằng Sống của Con Thiên Chúa làm Người, để cho con người được sống hạnh phúc tuyệt vời ngay khi còn ở trên dương trần tạm bợ nầy.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Cứu Chuộc.
Mặc dầu được đầy tràn ơn Chúa ban, con người đã nổi loạn chống Thiên Chúa. Thiên Chúa vô cùng công bình: phạt. Nhưng Thiên Chúa cũng vô cùng yêu thương: tha. Thế là một trận chiến xảy ra trong chính Thiên Chúa: phạt hay tha, tha hay phạt. Để chấm dứt cuộc chiến nầy, có một giải pháp: phải có một nhân vật tuyệt vời đứng ra lãnh án chết để cứu con người khỏi phải chết. Trong chín phẩm thiên thần, không tìm ra được nhân vật tuyệt vời nầy. Và thế, Ngôi Hai, Con Thiên Chúa, tự nguyện: “Lạy Cha, nầy con xin đến!” (Is 6,8 ). Đến để vâng lời thánh ý Cha trọn đời: “Xin đừng theo ý con. ..(Mt 26,39);. .. “ vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ” (Pl 2,8). Đến để “mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân ” (Pl 2,7 ).
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Đức Tin.
Phần chúng ta là người Công giáo Việt Nam, những người có đức tin, chúng ta phải biết ơn Chúa là dường nào, vì Chúa đã thương gọi chúng ta vào đoàn chiên của Chúa, làm con cái của Chúa, trong khi hãy còn hơn 80% chưa phải là Công giáo. Chúng ta đã biết sấp mình dưới chân Chúa, nhưng còn biết bao nhiêu người sấp mình dươí chân những người như họ, hoặc trước những loài vật vô linh tính, vô tri giác,. .. Phải chăng chúng ta có công nghiệp gì để đáng được Chúa thương ban ơn làm con Chúa? Dù chúng ta sinh ra là Đạo dòng, dù chúng ta được vào Đạo lúc mới sinh, hay khi đã lớn khôn, thì đó cũng là ơn nhưng không Chúa ban cho chúng ta, mà không ban cho hằng triệu triệu người khác đã sống trước chúng ta, đang sống với chúng ta, hoặc sẽ sống sau chúng ta. ..? Mà nếu tính như vậy, thì con số người không được phúc biết Chúa như chúng ta, lớn lao biết chừng nào, và chúng ta càng phải biết ơn Chúa biết bao! Nhưng chúng ta hãy xét lại xem: ơn Chúa ban cho chúng ta thì cao cả lớn lao biết chừng nào, còn cách chúng ta đáp lại ơn Chúa thì thế nào? Chúng ta có sống đời vui mừng, tạ ơn Chúa, hay chỉ sống đời tầm thường, lạt lẽo. .. ? Và tệ hơn nữa, thay vì sống đạo đức thánh thiện, làm đèn soi Chúa cho người khác thấy, làm muối ướp Chúa cho thế gian khỏi hư thối, chúng ta lại sống đời tội lỗi, phản bội tình thương của Chúa ?
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn Thánh Thể.
Phép Thánh Thể gồm tất cả mọi ơn: ơn tạo dựng, ơn cứu chuộc, ơn thánh hóa, ơn bảo đảm phước Thiên Đàng.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn được chịu đau khổ vì Chúa.
Thánh Têrêxa thành Avila đau khổ trong suốt 47 năm, nhưng càng đau khổ, vị thánh nầy càng sung sướng, nên đã chọn khẩu hiệu sống của mình là: “Hoặc đau khổ, hoặc chết!”. Thánh Anphôngsô già yếu, mang đủ bệnh tật, nhưng khi ai hỏi ngài về bệnh tật của mình, thì ngài chỉ trả lời một câu: “Hãy tạ ơn Chúa ”.
Chúng ta hãy tạ ơn Chúa vì Ơn sẽ được vinh hiển trên thiên đàng: nơi mà tai chưa bao giờ nghe được du dương như thế, nơi mà mắt chưa bao giờ thấy được huy hoàng như thế, nơi mà miệng chưa bao giờ nói được những lời tuyệt vời như thế. ..
___________
Khi thấy Thiên Chúa ban cho mình rất nhiều ân huệ, vua Đavít than: “Lạy Chúa, con làm thế nào để tạ ơn Chúa cho cân xứng vì những ân huệ Ngài đã ban cho con” (Tv 116)
Trước khi đi vào phần Kinh Nguyện Thánh Thể, linh mục mời mọi người hãy tạ ơn Chúa: “Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta! ”, và cộng đoàn sung sướng đáp: “Thật là chính đáng! ”.
Khi tạ ơn Chúa, chúng ta thi hành nhơn đức thờ phượng một cách rất đẹp lòng Chúa. Thiên Chúa muốn gì? Thiên Chúa thích gì?
Thiên Chúa muốn và thích tâm hồn chúng ta biết ơn Ngài vì những ơn Ngài ban cho chúng ta.
Khi tạ ơn Thiên Chúa, chúng ta nhận được thêm nhiều ơn Chúa ban cho chúng ta hơn nửa.
Khi tạ ơn Thiên Chúa, những ơn chúng ta không xin, Ngài cũng ban cho chúng ta.
Khi tạ ơn Thiên Chúa, những ơn chúng ta chưa xin, Ngài cũng tìm cách ban cho chúng ta.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh: “Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh.” (1 Th 5,18)
Giáo Hội dạy con cái mình lo cám ơn Chúa hằng ngày, nhất là mỗi sáng sau khi thức dậy và mỗi tối trước khi đi ngủ.
Giáo Hội luôn luôn sung sướng vì được cám ơn Chúa. Vì thế, đối với Giáo Hội, việc quan trọng nhất trên đời nầy, là dâng Thánh Lễ Tạ Ơn vì chỉ có Thánh Lễ do Chúa Giêsu đứng ra tạ ơn, mới cân xứng với những ơn Đức Chúa Cha ban cho loài người chúng ta. Ngày kia, thánh Têrêxa suy nghĩ cách nào để tỏ lòng cám ơn Chúa cho xứng đáng, thì nghe Chúa phán trong lòng rằng: “Muốn cám ơn cho xứng đáng, chỉ cần đi tham dự một Thánh Lễ là đủ.”
___________
Tất cả đều là ơn Chúa. Chúng ta hãy xác tín như vậy.
Một vị giám mục kia, khi già yếu, mang ba bệnh đáng thương: đui, điếc, bất toại. Chỉ còn lỗ miệng là nói được. Ai đến thăm, ngài thường khoe lời cầu nguyện của ngài như sau: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì Chúa để cho con đui! Con cám ơn Chúa vì Chúa để cho con điếc! Con cám ơn Chúa vì Chúa để cho con bất toại! Amen!”.
Chúng ta hãy làm sao cho cuộc đời mình trở thành cuộc đời đem ơn Chúa đến cho kẻ khác: “Thánh Thần Chúa sai tôi đi tuyên bố một năm ân phúc do Thiên Chúa ban” (Lc 4,19).
Chúng ta hãy làm sao cho đời mình trở thành một đời cám ơn Chúa luôn luôn và mãi mãi.
Luôn luôn tạ ơn Chúa!
Mãi mãi tạ ơn Ngài!
Đời ta là một Thánh Lễ Tạ Ơn kéo dài, kéo dài từ khi sinh ra cho đến khi chết, kéo dài từ Năm Cũ qua đến Năm Mới, kéo dài đến vô tận, kéo dài đến mãi mãi!
Lời tạ ơn cuối năm
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:40 12/02/2010
LỜI TẠ ƠN CUỐI NĂM
(Lễ Giao Thừa)
Một mẩu chuyện nhỏ: Một cụ bà gặp tôi xin dâng Lễ. Theo thói quen tôi hỏi cụ xin ý chỉ gì ? Thưa cha, con xin lễ tạ ơn. Tạ ơn về chuyện gì, cụ có thể chia sẻ được không, để tôi hiệp thông. Thưa cha, năm hết, Tết đến thì phải tạ ơn Chúa thôi, không có chuyện gì cả.
Phải tạ ơn thôi. Câu nói mộc mạc, đơn sơ, ngắn gọn của cụ bà là một chân lý đáng để ngẫm suy không chỉ nhân dịp cuối năm Âm lịch mà suốt cả đời chúng ta. Phải tạ ơn. Vì sao lại “phải” ? Hạn từ “phải” một cách nào đó nói lên sự cần thiết có tính tất yếu, bắt buộc, không thể không làm. Chúng ta tự hỏi vì sao chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa ?
Khởi đi từ chân lý: Không ai phải trả một giá nào để đựoc làm người, để được chào đời. Tấm linh hồn, thân xác chúng ta cùng với các cơ năng, các khả năng đều là do lãnh nhận, đồng thời chẳng một ai phải trả một đồng xu lẻ nào để được đủ đầy 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Cũng chẳng có ai phải trả một giá nào để có bầu khí quyển mênh mông hay để có được mặt trời ngày ngày mọc lên và lặn xuống…
Có thể nói rằng tất cả những gì chúng ta đang là, đang có đều là do lãnh nhận, đều là ân ban từ trên. Nếu chúng ta tin nhận chân lý này thì việc tạ ơn là chuyện hiển nhiên phải có. Sự tri ân, thái độ biết ơn là một trong những động thái nền tảng của con người. Và nó là một trong các nhân đức nhân bản phải rèn luyện, phải thủ đắc để sống xứng với phận làm người. Ngược lại, đã có trí khôn thì ai ai cũng thấy rằng thái độ vô ơn, cho dù với lý do gì đi nữa thì cũng thật đáng trách, đáng lên án, chưa kể có khi được ví như loài “ăn cháo đái bát”.
Biết rằng làm người là phải biết tri ân, biết cảm tạ, thế nhưng cảm tạ ra sao, tri ân như thế nào để đẹp lòng người thi ân? Một vài câu cám ơn hay một đôi câu hát xin dâng lời cảm tạ? Thiết tưởng rằng không thể bỏ qua, nhưng chừng ấy vẫn không đủ, nhất là không tương xứng với cái ơn ban to lớn là ơn được làm người, được làm con cái Thiên Chúa. Hằng năm đến dịp tất niên hay vào các dịp kỷ niệm, tín hữu chúng ta có thói quen tốt “xin lễ tạ ơn”. Đây là một việc làm đáng trân trọng và khuyến khích, tuy nhiên chỉ dừng lại ở đó thì cũng vẫn chưa đủ và chắc chắn chưa làm hài lòng Thiên Chúa, Đấng là nguồn của mọi ơn lành chúng ta lãnh nhận. Vậy chúng ta lại hỏi nhau rằng lời tạ ơn nào đẹp lòng Thiên Chúa đây?
Có thể trả lời không chút ngại ngần rằng lời tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa nhất là sử dụng ơn Người ban đúng mục đích, đúng cách thế mà Người đặt định. Một ai đó tặng trao cho chúng ta một cuốn sách thì hẳn người ấy mong muốn chúng ta đọc lấy nó mà rút tỉa những điều hay, những lẽ đẹp trong sách ấy. Cũng vậy, khi chúng ta được tặng ban một chiếc xe, thì ý người trao tặng muốn ta sử dụng nó làm phương tiện di chuyển thuận lợi, dễ dàng, an toàn…chứ không phải để chúng ta chưng bày hay cất kỷ hay đem đổi chác, bán buôn…
Một năm theo truyền thống dân dân tộc đi qua, đoàn tín hữu Việt Nam cùng với bà con dân Việt thường sống tâm tình tạ ơn trong phút giây giao thừa, giây phút chuyển giao năm cũ và năm mới. Ngoài các ơn lành lớn nhỏ tuỳ mỗi người, mỗi hoàn cảnh đã lãnh nhận, thì ơn lành to lớn mà mọi người đều lãnh nhận là được sống cho đến hôm nay, đồng thời có cơ hội để bước vào một năm mới. Như thế những ơn lành mà chúng ta không thể không nhìn nhận để dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn đó là sự sống và thời gian. Xin được đề xuất vài câu tự vấn để giúp sống tâm tình tạ ơn cách chính đáng và phải đạo:
- Tôi được sống cho đến hôm nay, thì tôi phải như thế nào để đẹp và đúng thánh ý Thiên Chúa, Đấng đã cho tôi từ hư vô, được làm người, chào đời trong hoàn cảnh này, thời điểm này, xã hội này, Hội Thánh này?
- Một năm đã qua, tôi đã sử dụng thời giờ ra sao? Và một năm sắp tới tôi sẽ sử dụng thời giờ thế nào, không nguyên chỉ vì thời giờ là tiền bạc mà trên hết thời giờ là ân ban của Đấng Hằng Hữu? Một dự phóng mới cho một năm mới với các chương trình, kế hoạch cụ thể, thực tế, khả thi, hữu ích cho bản thân và tha nhân, cho gia đình, cho xã hội và Giáo Hội, quả là một lời tạ ơn đủ đầy ý nghĩa, và chắc chắn sẽ đẹp lòng Thiên Chúa.
- Được sống đến hôm nay là nhờ ân tình của Đấng giàu lòng xót thương, chậm bất bình và rất mực khoan dung, không bẻ gảy cây lau dù đã bị giập nát, không dập tắt tim đèn dù chỉ còn chút xíu khói. Quả thật nếu xét tội chúng ta đã phạm, thì chẳng một ai đáng được sống còn. Chúa nhẫn nại với chúng ta phải chăng là để tạo dịp cho chúng ta lại bắt đầu? Vậy xin chớ chần chờ, lần lữa hay khất hẹn. Này là lúc thuận tiện. Xin chớ để vận may vụt qua.
Thiên Chúa không cần chúng ta tạ ơn. Vì lời tạ ơn của chúng ta không thêm gì cho Chúa. Người chỉ muốn chúng ta sử dụng ân ban cách hữu hiệu, đúng thánh ý Người hầu sống cho xứng với thân phận con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. (Xin mỗi người dành chút thinh lặng để ngẫm lại một hay vài ơn trọng đại mình đã lãnh nhận năm qua, đồng thời quyết tâm sẽ làm cho ân huệ ấy trổ sinh hoa trái bằng chương trình hành động cách cụ thể cho năm mới sắp tới).
(Lễ Giao Thừa)
Một mẩu chuyện nhỏ: Một cụ bà gặp tôi xin dâng Lễ. Theo thói quen tôi hỏi cụ xin ý chỉ gì ? Thưa cha, con xin lễ tạ ơn. Tạ ơn về chuyện gì, cụ có thể chia sẻ được không, để tôi hiệp thông. Thưa cha, năm hết, Tết đến thì phải tạ ơn Chúa thôi, không có chuyện gì cả.
Phải tạ ơn thôi. Câu nói mộc mạc, đơn sơ, ngắn gọn của cụ bà là một chân lý đáng để ngẫm suy không chỉ nhân dịp cuối năm Âm lịch mà suốt cả đời chúng ta. Phải tạ ơn. Vì sao lại “phải” ? Hạn từ “phải” một cách nào đó nói lên sự cần thiết có tính tất yếu, bắt buộc, không thể không làm. Chúng ta tự hỏi vì sao chúng ta phải tạ ơn Thiên Chúa ?
Khởi đi từ chân lý: Không ai phải trả một giá nào để đựoc làm người, để được chào đời. Tấm linh hồn, thân xác chúng ta cùng với các cơ năng, các khả năng đều là do lãnh nhận, đồng thời chẳng một ai phải trả một đồng xu lẻ nào để được đủ đầy 24 giờ mỗi ngày, 365 ngày mỗi năm. Cũng chẳng có ai phải trả một giá nào để có bầu khí quyển mênh mông hay để có được mặt trời ngày ngày mọc lên và lặn xuống…
Có thể nói rằng tất cả những gì chúng ta đang là, đang có đều là do lãnh nhận, đều là ân ban từ trên. Nếu chúng ta tin nhận chân lý này thì việc tạ ơn là chuyện hiển nhiên phải có. Sự tri ân, thái độ biết ơn là một trong những động thái nền tảng của con người. Và nó là một trong các nhân đức nhân bản phải rèn luyện, phải thủ đắc để sống xứng với phận làm người. Ngược lại, đã có trí khôn thì ai ai cũng thấy rằng thái độ vô ơn, cho dù với lý do gì đi nữa thì cũng thật đáng trách, đáng lên án, chưa kể có khi được ví như loài “ăn cháo đái bát”.
Biết rằng làm người là phải biết tri ân, biết cảm tạ, thế nhưng cảm tạ ra sao, tri ân như thế nào để đẹp lòng người thi ân? Một vài câu cám ơn hay một đôi câu hát xin dâng lời cảm tạ? Thiết tưởng rằng không thể bỏ qua, nhưng chừng ấy vẫn không đủ, nhất là không tương xứng với cái ơn ban to lớn là ơn được làm người, được làm con cái Thiên Chúa. Hằng năm đến dịp tất niên hay vào các dịp kỷ niệm, tín hữu chúng ta có thói quen tốt “xin lễ tạ ơn”. Đây là một việc làm đáng trân trọng và khuyến khích, tuy nhiên chỉ dừng lại ở đó thì cũng vẫn chưa đủ và chắc chắn chưa làm hài lòng Thiên Chúa, Đấng là nguồn của mọi ơn lành chúng ta lãnh nhận. Vậy chúng ta lại hỏi nhau rằng lời tạ ơn nào đẹp lòng Thiên Chúa đây?
Có thể trả lời không chút ngại ngần rằng lời tạ ơn đẹp lòng Thiên Chúa nhất là sử dụng ơn Người ban đúng mục đích, đúng cách thế mà Người đặt định. Một ai đó tặng trao cho chúng ta một cuốn sách thì hẳn người ấy mong muốn chúng ta đọc lấy nó mà rút tỉa những điều hay, những lẽ đẹp trong sách ấy. Cũng vậy, khi chúng ta được tặng ban một chiếc xe, thì ý người trao tặng muốn ta sử dụng nó làm phương tiện di chuyển thuận lợi, dễ dàng, an toàn…chứ không phải để chúng ta chưng bày hay cất kỷ hay đem đổi chác, bán buôn…
Một năm theo truyền thống dân dân tộc đi qua, đoàn tín hữu Việt Nam cùng với bà con dân Việt thường sống tâm tình tạ ơn trong phút giây giao thừa, giây phút chuyển giao năm cũ và năm mới. Ngoài các ơn lành lớn nhỏ tuỳ mỗi người, mỗi hoàn cảnh đã lãnh nhận, thì ơn lành to lớn mà mọi người đều lãnh nhận là được sống cho đến hôm nay, đồng thời có cơ hội để bước vào một năm mới. Như thế những ơn lành mà chúng ta không thể không nhìn nhận để dâng lên Thiên Chúa lời tạ ơn đó là sự sống và thời gian. Xin được đề xuất vài câu tự vấn để giúp sống tâm tình tạ ơn cách chính đáng và phải đạo:
- Tôi được sống cho đến hôm nay, thì tôi phải như thế nào để đẹp và đúng thánh ý Thiên Chúa, Đấng đã cho tôi từ hư vô, được làm người, chào đời trong hoàn cảnh này, thời điểm này, xã hội này, Hội Thánh này?
- Một năm đã qua, tôi đã sử dụng thời giờ ra sao? Và một năm sắp tới tôi sẽ sử dụng thời giờ thế nào, không nguyên chỉ vì thời giờ là tiền bạc mà trên hết thời giờ là ân ban của Đấng Hằng Hữu? Một dự phóng mới cho một năm mới với các chương trình, kế hoạch cụ thể, thực tế, khả thi, hữu ích cho bản thân và tha nhân, cho gia đình, cho xã hội và Giáo Hội, quả là một lời tạ ơn đủ đầy ý nghĩa, và chắc chắn sẽ đẹp lòng Thiên Chúa.
- Được sống đến hôm nay là nhờ ân tình của Đấng giàu lòng xót thương, chậm bất bình và rất mực khoan dung, không bẻ gảy cây lau dù đã bị giập nát, không dập tắt tim đèn dù chỉ còn chút xíu khói. Quả thật nếu xét tội chúng ta đã phạm, thì chẳng một ai đáng được sống còn. Chúa nhẫn nại với chúng ta phải chăng là để tạo dịp cho chúng ta lại bắt đầu? Vậy xin chớ chần chờ, lần lữa hay khất hẹn. Này là lúc thuận tiện. Xin chớ để vận may vụt qua.
Thiên Chúa không cần chúng ta tạ ơn. Vì lời tạ ơn của chúng ta không thêm gì cho Chúa. Người chỉ muốn chúng ta sử dụng ân ban cách hữu hiệu, đúng thánh ý Người hầu sống cho xứng với thân phận con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. (Xin mỗi người dành chút thinh lặng để ngẫm lại một hay vài ơn trọng đại mình đã lãnh nhận năm qua, đồng thời quyết tâm sẽ làm cho ân huệ ấy trổ sinh hoa trái bằng chương trình hành động cách cụ thể cho năm mới sắp tới).
Lễ Minh Niên (Xuân Canh Dần)
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
10:42 12/02/2010
LỄ MINH NIÊN
(Xuân Canh Dần)
Không biết với người Tây phương khi đón mừng năm mới thì tâm trạng họ ra sao, còn với người Á Đông nói chúng, cách riêng con dân đất Việt thì phút giao thừa mừng đón năm mới thì ắp đầy sự thiêng thánh. Sự thánh thiêng này có lẽ bắt nguồn từ một nền văn hóa vốn luôn gắn bó với cội nguồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với mãnh đất thân thương là nơi chôn nhau cắt rốn. Chính vì thế mà dù có đi xa thì ba ngày Tết cũng quyết tìm về với quê nhà, về với gia đình. Sự thánh thiêng này, theo thiển ý cũng có thể bắt nguồn từ nơi cuộc sống lam lũ, vất vả, khó khăn, khiến cho lòng người khi có dịp là dâng trào niềm hy vọng. Và có dịp nào tốt cho bằng dịp đầu năm để nuôi dưỡng, ấp ủ niềm hy vọng cũng như giúp nhau giữ niềm niềm hy vọng.
Như thế, chúng ta có thể nói rằng có hai tâm tình chính của dịp đón năm mới. Thứ nhất đó là hướng về nguồn để sống niềm cảm tạ tri ân với các đấng bậc sinh thành, với Trời đất và với các bậc thánh thần trên cao. Thứ hai đó là hướng về tương lai với khát mong, hy vọng sẽ được nhiều phúc lộc, may lành hơn năm cũ. Một trong những cách thế mà Kitô hữu Công giáo chúng ta thể hiện hai tâm tình này đó là xin lễ tạ ơn, cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ và xin bình an năm mới.
Sống niềm cảm tạ tri ân: Nền tảng của động thái tri ân cảm tạ đó là nhìn nhận những gì mình đang là, đang có đều do bởi đã lãnh nhận. Cha mẹ, ông bà, tiên tổ là cội nguồn hữu hình mà đã là người thì đều biết và chân nhận đó là nơi mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Với lôgich “chim có tổ, nước có nguồn, con người có tổ, có tiên”, nên cứ vào dịp đón năm mới, người ta đều hướng về tiên tổ, mẹ cha, ông bà để tỏ lòng thảo hiếu, tri ân.
Người có niềm tin thì ngoài nguồn cội hữu hình còn biết hướng tâm hồn lên, không chỉ tạ ơn trời cao mà còn tạ ơn cả đất mẹ. Dù rằng vẫn có đó nhiều nghi lễ cúng bái phảng phất sự mê tín, nhưng tự bên trong tấm lòng của những người dâng hương, cúng lễ, luôn là tâm tình cảm tạ tri ân.
Có thể nói rằng một số hành vi cảm tạ tri ân của bà con ngoài Kitô giáo dành cho đất trời là nhằm làm đẹp lòng các thần thánh, để khỏi bị các ngài đoán phạt, không thi ân nữa, nghĩa là còn vấn vương đôi nét sợ hãi. Trái lại, động thái cảm tạ tri ân Thiên Chúa của Kitô hữu hoàn toàn không có nét sợ hãi, vì Đấng ban ơn lành là Người Cha nhân hậu. Và việc cảm tạ tri ân luôn hướng đến việc sử dụng ân ban đúng thánh ý của Người để ân ban phát sinh hiệu quả tốt đẹp cho bản thân và tha nhân.
Nuôi dưỡng niềm hy vọng: Dĩ nhiên đối tượng của niềm hy vọng luôn là những sự may lành, những điều tốt đẹp. Không kể một vài trường hợp bất thường, thì chẳng một ai lại đi trông mong những sự chẳng hay cho mình. Và dịp xuân về những sự mong ước ấy được thể hiện qua các lời chúc xuân, không chỉ là sang năm mới được hưởng phúc lộc thọ dư đầy mà còn mong sẽ được vạn sự như ý. Những phong bì lì xì đỏ thắm trao tặng là một cách thế thể hiện. Ngoài ra người ta lại còn cẩn trọng một cách kỹ lưỡng, đó là tránh gây cho nhau những điều chẳng hay, chẳng may hoặc điều xúi quẩy trong ba ngày đầu xuân bằng những kiêng cử này nọ, mặc dù có những sự kiêng cử có khi rất là mê tín. Dù sao đi nữa thì chúng cũng nói lên ý hướng là muốn sự tốt lành cho nhau.
Bước vào xuân mới, năm Canh Dần, với hình ảnh con vật đầy sức mạnh, đầy dũng khí và qua một vài ngạn ngữ cũng như chuyện dân gian liên quan đến chú hỗ hay còn gọi là ông Ba mươi, chúng ta cùng ngẫm nghĩ đôi điều:
Cũng như sư tử, loài hỗ được phong là chúa tể sơn lâm vì chính sự dũng mãnh của nó. Chúng ta ai cũng đều mong ước Chúa ban những sự tốt đẹp cho năm mới. Nhưng Thiên Chúa lại muốn ban điều tốt nhất cho loài người chúng ta đó là Nước Trời. Và Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, nghĩa là phải biết gắng công, nỗ lực hết mình. Là kho tàng vô giá chôn giấu trong ruộng, là viên ngọc quý…nên chúng ta không thể có Nước Trời nếu không can đảm bán đi tất cả những gì mình có (x.Mt 13,44-46).
“Mãnh hỗ nan địch quần hồ”. Dù có sức mạnh tuyệt luân nhưng ông cọp vẫn khó đương đầu với đoàn sói dữ. Sự kiện này nhắc nhớ chúng ta phải biết khiêm nhu canh phòng các chước mưu ma quỷ cám dỗ. Ỷ lại vào sức riêng mình thì sẽ có ngày ngã gục trước kẻ thù xảo quyệt là ma quỷ. Như thế bên cạnh việc nỗ lực kiếm tìm điều thiện hảo, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự hạn chế và bất toàn của mình để rồi luôn cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: Không có Thầy, chúng con sẽ không làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15,5).
“Hỗ dữ không ăn thịt con”. Câu ngạn ngữ này khiến chúng ta cần suy xét lại tấm lòng của chúng ta đối với nhau qua cách ăn ở, cung cách hành xử. Tình người không dừng lại ở tình đồng loại “bầu ơi lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay ở nghĩa đạo “tứ hải giai huynh đệ” mà phải tiến đến chỗ nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng một cha trên trời với sự hiệp thông liên đới “huynh đệ như thủ túc”.
“Hỗ chết để da, người ta chết để tiếng”. Năm mới mà nói đến cái chết thì quả là xúi quẩy theo quan niệm dân gian. Nhưng chúng ta là con cái Chúa, chúng ta không thể sống chỉ vì những sự ở đời này, cho dù đó là những thiện hảo nhưng chúng hữu hạn và rồi sẽ qua đi. Sống hôm nay mà biết nghĩ đến ngày mai. Tìm hạnh phúc ở đời này mà biết nghĩ đến hạnh phúc đời đời. Đó chính là nét phân biệt giữa người có niềm tin và người vô tín. Nói gì cho xa, chỉ vẻn vẹn dăm ba ngày, thì dịp đón xuân mới với các lễ hội, gặp gỡ, trò vui, tiệc tùng… rồi sẽ qua đi, một thực tế mà chúng ta đã biết qua nhiều dịp xuân về trước đây. Thậm chí nhiều thiếu niên tuổi 14 trở lên, đến ngày mồng Ba Tết đã thường tâm sự với tôi: “Thưa cha Tết này buồn chết được!”. Và cái điệp khúc ấy rồi sẽ lặp lại trong dịp xuân này. Quả thật các em chưa hiểu rằng niềm vui do mình tự kiếm tìm cho bản thân để hưởng cách ích kỷ thì sẽ chóng qua và sau đó là nỗi trống trải. Niềm vui đích thật và kéo dài lâu đó là niềm vui khi chúng ta thật lòng và gắng công làm cho ai đó hạnh phúc. Và đó chính là hạt giống ươm trồng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Năm mới lại về. Xin tạ ơn Chúa. Xin tri ân các đấng bậc sinh thành dưỡng dục là cha mẹ tổ tiên ông bà. Xin các bậc tiền nhân phù trì chúng con và dâng ước nguyện đầu xuân của chúng con lên Thiên Chúa. Ước gì tâm tình đầu xuân và cả thái độ sống của chúng ta trong ba ngày Tết được kéo dài suốt cả năm Canh Dần này.
(Xuân Canh Dần)
Không biết với người Tây phương khi đón mừng năm mới thì tâm trạng họ ra sao, còn với người Á Đông nói chúng, cách riêng con dân đất Việt thì phút giao thừa mừng đón năm mới thì ắp đầy sự thiêng thánh. Sự thánh thiêng này có lẽ bắt nguồn từ một nền văn hóa vốn luôn gắn bó với cội nguồn tổ tiên, ông bà, cha mẹ, với mãnh đất thân thương là nơi chôn nhau cắt rốn. Chính vì thế mà dù có đi xa thì ba ngày Tết cũng quyết tìm về với quê nhà, về với gia đình. Sự thánh thiêng này, theo thiển ý cũng có thể bắt nguồn từ nơi cuộc sống lam lũ, vất vả, khó khăn, khiến cho lòng người khi có dịp là dâng trào niềm hy vọng. Và có dịp nào tốt cho bằng dịp đầu năm để nuôi dưỡng, ấp ủ niềm hy vọng cũng như giúp nhau giữ niềm niềm hy vọng.
Như thế, chúng ta có thể nói rằng có hai tâm tình chính của dịp đón năm mới. Thứ nhất đó là hướng về nguồn để sống niềm cảm tạ tri ân với các đấng bậc sinh thành, với Trời đất và với các bậc thánh thần trên cao. Thứ hai đó là hướng về tương lai với khát mong, hy vọng sẽ được nhiều phúc lộc, may lành hơn năm cũ. Một trong những cách thế mà Kitô hữu Công giáo chúng ta thể hiện hai tâm tình này đó là xin lễ tạ ơn, cầu nguyện cho tổ tiên ông bà cha mẹ và xin bình an năm mới.
Sống niềm cảm tạ tri ân: Nền tảng của động thái tri ân cảm tạ đó là nhìn nhận những gì mình đang là, đang có đều do bởi đã lãnh nhận. Cha mẹ, ông bà, tiên tổ là cội nguồn hữu hình mà đã là người thì đều biết và chân nhận đó là nơi mình sinh ra, lớn lên và trưởng thành. Với lôgich “chim có tổ, nước có nguồn, con người có tổ, có tiên”, nên cứ vào dịp đón năm mới, người ta đều hướng về tiên tổ, mẹ cha, ông bà để tỏ lòng thảo hiếu, tri ân.
Người có niềm tin thì ngoài nguồn cội hữu hình còn biết hướng tâm hồn lên, không chỉ tạ ơn trời cao mà còn tạ ơn cả đất mẹ. Dù rằng vẫn có đó nhiều nghi lễ cúng bái phảng phất sự mê tín, nhưng tự bên trong tấm lòng của những người dâng hương, cúng lễ, luôn là tâm tình cảm tạ tri ân.
Có thể nói rằng một số hành vi cảm tạ tri ân của bà con ngoài Kitô giáo dành cho đất trời là nhằm làm đẹp lòng các thần thánh, để khỏi bị các ngài đoán phạt, không thi ân nữa, nghĩa là còn vấn vương đôi nét sợ hãi. Trái lại, động thái cảm tạ tri ân Thiên Chúa của Kitô hữu hoàn toàn không có nét sợ hãi, vì Đấng ban ơn lành là Người Cha nhân hậu. Và việc cảm tạ tri ân luôn hướng đến việc sử dụng ân ban đúng thánh ý của Người để ân ban phát sinh hiệu quả tốt đẹp cho bản thân và tha nhân.
Nuôi dưỡng niềm hy vọng: Dĩ nhiên đối tượng của niềm hy vọng luôn là những sự may lành, những điều tốt đẹp. Không kể một vài trường hợp bất thường, thì chẳng một ai lại đi trông mong những sự chẳng hay cho mình. Và dịp xuân về những sự mong ước ấy được thể hiện qua các lời chúc xuân, không chỉ là sang năm mới được hưởng phúc lộc thọ dư đầy mà còn mong sẽ được vạn sự như ý. Những phong bì lì xì đỏ thắm trao tặng là một cách thế thể hiện. Ngoài ra người ta lại còn cẩn trọng một cách kỹ lưỡng, đó là tránh gây cho nhau những điều chẳng hay, chẳng may hoặc điều xúi quẩy trong ba ngày đầu xuân bằng những kiêng cử này nọ, mặc dù có những sự kiêng cử có khi rất là mê tín. Dù sao đi nữa thì chúng cũng nói lên ý hướng là muốn sự tốt lành cho nhau.
Bước vào xuân mới, năm Canh Dần, với hình ảnh con vật đầy sức mạnh, đầy dũng khí và qua một vài ngạn ngữ cũng như chuyện dân gian liên quan đến chú hỗ hay còn gọi là ông Ba mươi, chúng ta cùng ngẫm nghĩ đôi điều:
Cũng như sư tử, loài hỗ được phong là chúa tể sơn lâm vì chính sự dũng mãnh của nó. Chúng ta ai cũng đều mong ước Chúa ban những sự tốt đẹp cho năm mới. Nhưng Thiên Chúa lại muốn ban điều tốt nhất cho loài người chúng ta đó là Nước Trời. Và Nước Trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy, nghĩa là phải biết gắng công, nỗ lực hết mình. Là kho tàng vô giá chôn giấu trong ruộng, là viên ngọc quý…nên chúng ta không thể có Nước Trời nếu không can đảm bán đi tất cả những gì mình có (x.Mt 13,44-46).
“Mãnh hỗ nan địch quần hồ”. Dù có sức mạnh tuyệt luân nhưng ông cọp vẫn khó đương đầu với đoàn sói dữ. Sự kiện này nhắc nhớ chúng ta phải biết khiêm nhu canh phòng các chước mưu ma quỷ cám dỗ. Ỷ lại vào sức riêng mình thì sẽ có ngày ngã gục trước kẻ thù xảo quyệt là ma quỷ. Như thế bên cạnh việc nỗ lực kiếm tìm điều thiện hảo, chúng ta cần khiêm tốn nhìn nhận sự hạn chế và bất toàn của mình để rồi luôn cậy trông vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này: Không có Thầy, chúng con sẽ không làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15,5).
“Hỗ dữ không ăn thịt con”. Câu ngạn ngữ này khiến chúng ta cần suy xét lại tấm lòng của chúng ta đối với nhau qua cách ăn ở, cung cách hành xử. Tình người không dừng lại ở tình đồng loại “bầu ơi lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” hay ở nghĩa đạo “tứ hải giai huynh đệ” mà phải tiến đến chỗ nhìn nhận nhau là anh chị em có cùng một cha trên trời với sự hiệp thông liên đới “huynh đệ như thủ túc”.
“Hỗ chết để da, người ta chết để tiếng”. Năm mới mà nói đến cái chết thì quả là xúi quẩy theo quan niệm dân gian. Nhưng chúng ta là con cái Chúa, chúng ta không thể sống chỉ vì những sự ở đời này, cho dù đó là những thiện hảo nhưng chúng hữu hạn và rồi sẽ qua đi. Sống hôm nay mà biết nghĩ đến ngày mai. Tìm hạnh phúc ở đời này mà biết nghĩ đến hạnh phúc đời đời. Đó chính là nét phân biệt giữa người có niềm tin và người vô tín. Nói gì cho xa, chỉ vẻn vẹn dăm ba ngày, thì dịp đón xuân mới với các lễ hội, gặp gỡ, trò vui, tiệc tùng… rồi sẽ qua đi, một thực tế mà chúng ta đã biết qua nhiều dịp xuân về trước đây. Thậm chí nhiều thiếu niên tuổi 14 trở lên, đến ngày mồng Ba Tết đã thường tâm sự với tôi: “Thưa cha Tết này buồn chết được!”. Và cái điệp khúc ấy rồi sẽ lặp lại trong dịp xuân này. Quả thật các em chưa hiểu rằng niềm vui do mình tự kiếm tìm cho bản thân để hưởng cách ích kỷ thì sẽ chóng qua và sau đó là nỗi trống trải. Niềm vui đích thật và kéo dài lâu đó là niềm vui khi chúng ta thật lòng và gắng công làm cho ai đó hạnh phúc. Và đó chính là hạt giống ươm trồng hạnh phúc vĩnh cửu mai sau.
Năm mới lại về. Xin tạ ơn Chúa. Xin tri ân các đấng bậc sinh thành dưỡng dục là cha mẹ tổ tiên ông bà. Xin các bậc tiền nhân phù trì chúng con và dâng ước nguyện đầu xuân của chúng con lên Thiên Chúa. Ước gì tâm tình đầu xuân và cả thái độ sống của chúng ta trong ba ngày Tết được kéo dài suốt cả năm Canh Dần này.
Con ai ngoan nhất
Thanh Thanh sưu tầm
10:50 12/02/2010
Con cáo, chó sói và gấu đen cùng ở trong một khu rừng, mỗi ngày chúng đều nói chuyện phiếm ngay trước cổng nhà, trong lúc trò chyện thì nói đến con cái của mình nhiều nhất.
Con cáo bố nói: “Con gái tôi vừa đẹp vừa dễ thương, khiến cho nhiều người khác ưa thích”.
Chó sói bố lên tiếng: “Con trai tôi vừa thông minh vừa dũng cảm, rất oai phong”.
Gấu đen bố thì yên lặng nghe con cáo và chó sói đối thoại cho đến khi mọi người đều thấy mệt. Chúng cảm thấy đói, và hy vọng các con của mình đem chút thức ăn về.
Trước tiên, con cáo con trở về, nhưng nó đã ăn no nên về tay không, chỉ chú ý đến việc chải lông da, mà không chú ý đến bố mình đang đói.
Tiếp đến, chó sói con cũng về, chó sói bố nói: “Này con, con có giúp bố đem về chút thức ăn gì không ?” Chó sói con làm bộ không nghe, hát nghêu ngao mà đi.
Cuối cùng, gấu con trở về, nó mang cho bố nó bắp ngô và những con cá nhỏ, để bố mình ăn được no.
Lúc này, mọi người đều nhìn rõ con ai là ngoan nhất.
Câu truyện Thánh kinh
Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: "Con không muốn đâu !" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi.
Ông gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa ngài, con đây! nhưng rồi lại không đi.
Vậy trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Họ trả lời: Người thứ nhất. Đức Giêsu nói với họ: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Ông Gioan đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. (Mt 21,28-32).
Nhìn vào cảnh sống của các gia đình, ta thấy
Có những người con thật tốt lành, đáng kính phục. Đi đâu cũng nhớ về gia đình, nghĩ đến cái khổ cực và tình cảm của cha mẹ, anh em. Rồi có ăn sài điều chi thì cũng nhớ dành phần ngon nhất, giá trị nhất đưa về cho cha mẹ. Còn luôn sẵn sàng chịu vất vả để cha mẹ đỡ cực nhọc, bớt lao lực, hao mòn sinh lực.
Tinh thần này cần được cổ võ và nhân rộng ra thật nhiều.
Rồi có những người con, miệng lúc nào cũng ngon ngọt với cha mẹ, nhưng lại không hề đếm xỉa đến cái già nua, bệnh tật, khổ đau, buồn phiền, lo toan của các ngài. Càng không giúp đỡ để cha mẹ bớt gánh nặng lo toan, dù họ rất sung sướng. Cha mẹ thì ăn mắm ăn rau để dành dụm cho con, còn con thì ăn sài hoang phí mà chẳng cho mẹ cha được tô cháo lót lòng.
Tinh thần này phải nghiêm túc khiển trách để sửa sai.
Lại có những người con đã không chia sẻ với cha mẹ, không được lời động viên an ủi, còn nặng lời, hất hủi, tỏ vẻ khinh khi, coi thường ra mặt, còn coi cha mẹ là gánh nặng, là cái gai, xấu hổ với chúng bạn nữa. Rồi chỉ biết tích góp cho mình, luôn tìm cách bòn rút tiền bạc của cha mẹ, mặc cho cha mẹ khổ cực từng ngày phải lo cho gia đình và các anh em khác nữa.
Tinh thần thật đáng lên án, cần phải được nghiêm trị thích đáng để làm gương.
Vậy thì ai tốt ai xấu, ai thật ai giả, con ai ngoan hơn?
Con cáo bố nói: “Con gái tôi vừa đẹp vừa dễ thương, khiến cho nhiều người khác ưa thích”.
Chó sói bố lên tiếng: “Con trai tôi vừa thông minh vừa dũng cảm, rất oai phong”.
Gấu đen bố thì yên lặng nghe con cáo và chó sói đối thoại cho đến khi mọi người đều thấy mệt. Chúng cảm thấy đói, và hy vọng các con của mình đem chút thức ăn về.
Trước tiên, con cáo con trở về, nhưng nó đã ăn no nên về tay không, chỉ chú ý đến việc chải lông da, mà không chú ý đến bố mình đang đói.
Tiếp đến, chó sói con cũng về, chó sói bố nói: “Này con, con có giúp bố đem về chút thức ăn gì không ?” Chó sói con làm bộ không nghe, hát nghêu ngao mà đi.
Cuối cùng, gấu con trở về, nó mang cho bố nó bắp ngô và những con cá nhỏ, để bố mình ăn được no.
Lúc này, mọi người đều nhìn rõ con ai là ngoan nhất.
Câu truyện Thánh kinh
Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho. Nó đáp: "Con không muốn đâu !" Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi.
Ông gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: Thưa ngài, con đây! nhưng rồi lại không đi.
Vậy trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?
Họ trả lời: Người thứ nhất. Đức Giêsu nói với họ: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Ông Gioan đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. (Mt 21,28-32).
Nhìn vào cảnh sống của các gia đình, ta thấy
Có những người con thật tốt lành, đáng kính phục. Đi đâu cũng nhớ về gia đình, nghĩ đến cái khổ cực và tình cảm của cha mẹ, anh em. Rồi có ăn sài điều chi thì cũng nhớ dành phần ngon nhất, giá trị nhất đưa về cho cha mẹ. Còn luôn sẵn sàng chịu vất vả để cha mẹ đỡ cực nhọc, bớt lao lực, hao mòn sinh lực.
Tinh thần này cần được cổ võ và nhân rộng ra thật nhiều.
Rồi có những người con, miệng lúc nào cũng ngon ngọt với cha mẹ, nhưng lại không hề đếm xỉa đến cái già nua, bệnh tật, khổ đau, buồn phiền, lo toan của các ngài. Càng không giúp đỡ để cha mẹ bớt gánh nặng lo toan, dù họ rất sung sướng. Cha mẹ thì ăn mắm ăn rau để dành dụm cho con, còn con thì ăn sài hoang phí mà chẳng cho mẹ cha được tô cháo lót lòng.
Tinh thần này phải nghiêm túc khiển trách để sửa sai.
Lại có những người con đã không chia sẻ với cha mẹ, không được lời động viên an ủi, còn nặng lời, hất hủi, tỏ vẻ khinh khi, coi thường ra mặt, còn coi cha mẹ là gánh nặng, là cái gai, xấu hổ với chúng bạn nữa. Rồi chỉ biết tích góp cho mình, luôn tìm cách bòn rút tiền bạc của cha mẹ, mặc cho cha mẹ khổ cực từng ngày phải lo cho gia đình và các anh em khác nữa.
Tinh thần thật đáng lên án, cần phải được nghiêm trị thích đáng để làm gương.
Vậy thì ai tốt ai xấu, ai thật ai giả, con ai ngoan hơn?
Ngọc quí
Lm Vũđình Tường
04:42 12/02/2010
Tự căn bản vật chất trong vũ trụ có giá trị vì Chúa dựng nên chúng. Những gì Chúa tạo dựng đều tốt đẹp, bởi Ngài dựng nên do yêu mến và ngắm nhìn điều tốt lành Ngài sáng tạo.
Chúa trao cho con người quyền làm chủ và bảo quản vũ trụ. Lòng tham cộng với tham vọng làm đảo lộn trật tự sáng tạo.
Tham lam dẫn đến ước muốn làm chủ càng nhiều càng tốt. Tham vọng dẫn đến khát khao quyền hành càng nhiều càng hay.
Tham lam và tham vọng gây khó khăn cho cuộc sống, mưu sinh vất vả hơn. Khó khăn tạo nên tình trạng tranh sống. Ở một xã hội chủ nhân nhiều tiền sẽ lắm thế lực, đời thợ thuyền càng khổ. Tiếng chủ càng nhiều, càng vang vọng; tiếng thợ càng nhỏ, tiếng kêu oan càng lạc lõng.
Đảo lộn
Đảo lộn trật tự vũ trụ nguy hại nhất là thay đổi nấc thang giá trị vật chất làm hại sự sống và sinh mạng con người. Do nhu cầu, hoàn cảnh, phong tục, tập quán địa phương, vật chất được con người đặt cho những giá trị khác nhau.
Quan niệm chung
Đại đa số quan niệm ‘có tiền là có tất cả’. Quan niệm sai lầm, nguy hiểm dẫn con người đến chối bỏ. Đầu tiên là chối bỏ người thân quen, sau đó chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa và cuối cùng chối bỏ chính họ.
Của cải, vật chất cần thiết cho sự sống nhưng chúng cũng giết hại biết bao mạng người. Con người cho chúng sức mạnh mở được nhiều cánh cửa, giúp chui lọt nhiều kẽ hở cả đạo lẫn đời.
Mặt trái của cải, vật chất nguy hiểm không kém. Tiền dẫn qua nhiều cánh cửa sa đọa, dẫn gặp thần lung linh, giáp mặt ma sa đoạ, tự nguyện làm nô lệ tứ đổ tường. Tiền che ánh sáng chân lí, khoả lấp người nghèo, làm tê liệt lương tâm công chính. Thích dối trá, coi thường gian tham. Mục đích sống để kiếm tiền. Cá nhân làm không được thì lập phe, tạo đảng cùng cướp giật. Đảng lại đề ra luật lệ, biện hộ, bảo vệ quyền lợi của đảng. Người trong đảng trở thành kẻ cướp chính danh, hợp hiến.
Khó hiểu
Điều nghịch lí - càng suy nghĩ càng thấy nghịch lí - không giải thích được nhưng đại đa số coi là thực tế lẽ sống. Giá trị vật chất cao thấp do con người tăng thêm. Con người lại dùng giá trị vật chất làm thước đo cao, thấp, mức sống. Nói cách khác, người ta quan niệm sống sướng hay khổ bằng cách nhìn vào của cải, vật chất người đó có.
Nhiều của, lắm tiền, nhà cao, xe mới được coi là sung sướng, giầu sang. Ít tiền, nhà thấp, xe nhỏ bị coi là sống khổ. Giá trị vật chất do con người tạo nên rồi lại dùng chính điều mình tạo nên để so mức sống cao thấp.
Như thế phải chăng cách so sánh giá trị mức sống đặt căn bản trên vật chất là một sai lầm. Sai lầm biến dạng thành một loại cám dỗ cho mọi người, rất khó tránh cho kẻ tham tiền, thích quyền.
Cám dỗ nguy hiểm này đe dọa mạng sống. Con người bị coi rẻ, chà đạp. Gia đình chia rẽ vì tiền. Công cha, nghĩa mẹ coi nhẹ. Gia tài cha mẹ để lại nặng hơn. Vì tiền, người ta sẵn sàng giết, đánh nhau, lừa gạt nhau. Cướp của, giết người, li dị thật; li thân giả, tranh tụng, hầu toà cũng vì tiền. Tiền nguyên cớ mọi cám dỗ.
Phúc thật
Trong bài giảng Phúc Thật Tám Mối Đức Kitô đưa ra một cách nhìn mới. Cách nhìn không đồng quan điểm với cái nhìn xã hội. Cách nhìn giá trị thật của con người.
Giá trị bẩm sinh
Theo cách nhìn mới, giá trị con người hoàn toàn không lệ thuộc vào của cải, vật chất. Nhiều của, lắm tiền không làm tăng giá trị con người. Ít của, nghèo giá trị con người không giảm. Đức Kitô dậy giá trị đời người không lệ thuộc vào vật chất. Giá trị một người là ơn Chúa ban. Tự bẩm sinh, dù sinh ra trong hoàn cảnh nào, ở bất cứ đâu người đó rất cao quí trong mắt Chúa. Người đó mang hình ảnh Chúa. Người đó được Chúa cứu chuộc. Người đó là anh chị em trong đại gia đình Chúa.
Của cải dùng để nuôi thân, giúp tha nhân nhưng mục đích cuộc đời không cần phải có thật nhiều tiền. Kitô hữu cần làm việc để nuôi thân, kiếm sống, cần hoạt động và sống như người khác.
Hạnh phúc thật
Hạnh phúc thật không đặt căn bản trên vật chất. Hạnh phúc thật vì được làm con Chúa. Được Lời Chúa hướng dẫn và các ân sủng Chúa ban qua bí tích trong Giáo Hội. Sống và thực thi Lời Chúa người đó có nguồn vui thật, nguồn vui sung mãn.
Hạnh phúc thật không lệ thuộc lắm của nhiều tiền, giầu vật chất. Giầu tinh thần, giầu tình thương, nhiều lòng mến mới là hạnh phúc thật. Được mọi người yêu mến mới thực sự giầu hạnh phúc, nhiều hoan lạc, lắm niềm vui. Giầu có không để nơi kho lẫm, mà được giữ gìn, ấp ủ, trân trọng trong con tim nồng ấm của tha nhân. Tình cảm và lòng mến này không mua bằng tiền. Chúng được gầy dựng nên, đan chéo nhau, kết lại nhờ sống chân tình và bác ái rộng lượng. Có người trúng số độc đắc về của cải. Không ai trúng độc đắc tình cảm, lòng người. Phải dầy công gầy dựng hạnh phúc. Gầy dựng gắn liền với mồ hôi và nước mắt. Hạnh phúc thật có pha lẫn mồ hôi, hy sinh và nước mắt.
Chúa trao cho con người quyền làm chủ và bảo quản vũ trụ. Lòng tham cộng với tham vọng làm đảo lộn trật tự sáng tạo.
Tham lam dẫn đến ước muốn làm chủ càng nhiều càng tốt. Tham vọng dẫn đến khát khao quyền hành càng nhiều càng hay.
Tham lam và tham vọng gây khó khăn cho cuộc sống, mưu sinh vất vả hơn. Khó khăn tạo nên tình trạng tranh sống. Ở một xã hội chủ nhân nhiều tiền sẽ lắm thế lực, đời thợ thuyền càng khổ. Tiếng chủ càng nhiều, càng vang vọng; tiếng thợ càng nhỏ, tiếng kêu oan càng lạc lõng.
Đảo lộn
Đảo lộn trật tự vũ trụ nguy hại nhất là thay đổi nấc thang giá trị vật chất làm hại sự sống và sinh mạng con người. Do nhu cầu, hoàn cảnh, phong tục, tập quán địa phương, vật chất được con người đặt cho những giá trị khác nhau.
Quan niệm chung
Đại đa số quan niệm ‘có tiền là có tất cả’. Quan niệm sai lầm, nguy hiểm dẫn con người đến chối bỏ. Đầu tiên là chối bỏ người thân quen, sau đó chối bỏ niềm tin vào Thiên Chúa và cuối cùng chối bỏ chính họ.
Của cải, vật chất cần thiết cho sự sống nhưng chúng cũng giết hại biết bao mạng người. Con người cho chúng sức mạnh mở được nhiều cánh cửa, giúp chui lọt nhiều kẽ hở cả đạo lẫn đời.
Mặt trái của cải, vật chất nguy hiểm không kém. Tiền dẫn qua nhiều cánh cửa sa đọa, dẫn gặp thần lung linh, giáp mặt ma sa đoạ, tự nguyện làm nô lệ tứ đổ tường. Tiền che ánh sáng chân lí, khoả lấp người nghèo, làm tê liệt lương tâm công chính. Thích dối trá, coi thường gian tham. Mục đích sống để kiếm tiền. Cá nhân làm không được thì lập phe, tạo đảng cùng cướp giật. Đảng lại đề ra luật lệ, biện hộ, bảo vệ quyền lợi của đảng. Người trong đảng trở thành kẻ cướp chính danh, hợp hiến.
Khó hiểu
Điều nghịch lí - càng suy nghĩ càng thấy nghịch lí - không giải thích được nhưng đại đa số coi là thực tế lẽ sống. Giá trị vật chất cao thấp do con người tăng thêm. Con người lại dùng giá trị vật chất làm thước đo cao, thấp, mức sống. Nói cách khác, người ta quan niệm sống sướng hay khổ bằng cách nhìn vào của cải, vật chất người đó có.
Nhiều của, lắm tiền, nhà cao, xe mới được coi là sung sướng, giầu sang. Ít tiền, nhà thấp, xe nhỏ bị coi là sống khổ. Giá trị vật chất do con người tạo nên rồi lại dùng chính điều mình tạo nên để so mức sống cao thấp.
Như thế phải chăng cách so sánh giá trị mức sống đặt căn bản trên vật chất là một sai lầm. Sai lầm biến dạng thành một loại cám dỗ cho mọi người, rất khó tránh cho kẻ tham tiền, thích quyền.
Cám dỗ nguy hiểm này đe dọa mạng sống. Con người bị coi rẻ, chà đạp. Gia đình chia rẽ vì tiền. Công cha, nghĩa mẹ coi nhẹ. Gia tài cha mẹ để lại nặng hơn. Vì tiền, người ta sẵn sàng giết, đánh nhau, lừa gạt nhau. Cướp của, giết người, li dị thật; li thân giả, tranh tụng, hầu toà cũng vì tiền. Tiền nguyên cớ mọi cám dỗ.
Phúc thật
Trong bài giảng Phúc Thật Tám Mối Đức Kitô đưa ra một cách nhìn mới. Cách nhìn không đồng quan điểm với cái nhìn xã hội. Cách nhìn giá trị thật của con người.
Giá trị bẩm sinh
Theo cách nhìn mới, giá trị con người hoàn toàn không lệ thuộc vào của cải, vật chất. Nhiều của, lắm tiền không làm tăng giá trị con người. Ít của, nghèo giá trị con người không giảm. Đức Kitô dậy giá trị đời người không lệ thuộc vào vật chất. Giá trị một người là ơn Chúa ban. Tự bẩm sinh, dù sinh ra trong hoàn cảnh nào, ở bất cứ đâu người đó rất cao quí trong mắt Chúa. Người đó mang hình ảnh Chúa. Người đó được Chúa cứu chuộc. Người đó là anh chị em trong đại gia đình Chúa.
Của cải dùng để nuôi thân, giúp tha nhân nhưng mục đích cuộc đời không cần phải có thật nhiều tiền. Kitô hữu cần làm việc để nuôi thân, kiếm sống, cần hoạt động và sống như người khác.
Hạnh phúc thật
Hạnh phúc thật không đặt căn bản trên vật chất. Hạnh phúc thật vì được làm con Chúa. Được Lời Chúa hướng dẫn và các ân sủng Chúa ban qua bí tích trong Giáo Hội. Sống và thực thi Lời Chúa người đó có nguồn vui thật, nguồn vui sung mãn.
Hạnh phúc thật không lệ thuộc lắm của nhiều tiền, giầu vật chất. Giầu tinh thần, giầu tình thương, nhiều lòng mến mới là hạnh phúc thật. Được mọi người yêu mến mới thực sự giầu hạnh phúc, nhiều hoan lạc, lắm niềm vui. Giầu có không để nơi kho lẫm, mà được giữ gìn, ấp ủ, trân trọng trong con tim nồng ấm của tha nhân. Tình cảm và lòng mến này không mua bằng tiền. Chúng được gầy dựng nên, đan chéo nhau, kết lại nhờ sống chân tình và bác ái rộng lượng. Có người trúng số độc đắc về của cải. Không ai trúng độc đắc tình cảm, lòng người. Phải dầy công gầy dựng hạnh phúc. Gầy dựng gắn liền với mồ hôi và nước mắt. Hạnh phúc thật có pha lẫn mồ hôi, hy sinh và nước mắt.
Phúc Cho Người Nghèo Khó
Tuyết Mai
08:07 12/02/2010
Người đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: "Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ tên các ngươi như kẻ bất lương. Ngày ấy, các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. (Lc 6, 17. 20-26).
Lời của Chúa tôi thấy rất là nghịch lý và khó nghe quá!??? Trước đây vài năm những Lời Chúa dậy trên, chắc hẳn tôi không thích nghe và cũng chẳng cần hiểu ý Chúa muốn nói gì, bởi trước đây khi chưa có ơn Chúa, tôi rất còn bon chen, rất còn xông xáo nhẩy vào những con đường làm ăn bất chính. Tôi rất hăng say để đi tìm những mối làm ăn vừa dễ kiếm tiền mà vừa chóng có tiền, để tôi đi sắm sửa và chưng diện cho nó sướng cái tấm thân. Nhưng rồi thì việc gì mà không chính trực thì thường cũng chấm dứt rất nhanh chóng. Bởi gian manh thì không lường trước được thời gian bao lâu "Ông Lớn" phát giác và cho người làm nội tuyến để mọi sự sẽ được phanh phui ra ánh sáng. Công việc tôi làm trước đây có dính líu nhiều với các giới luật sư và các giới bác sĩ. Một số thật đông đã bị bắt bớ ngồi tù, mất bằng, hay bằng bị câu lưu, còn tôi vì là tôm tép, nên không bị gì, nhưng cũng làm cho tôi một mẻ đứng tim, và sau đó thì mất việc làm. Bởi mọi người đều chạy tứ tán cả! Có người thì trốn qua Mễ, nhưng tôi biết cũng không chạy được bao xa, cũng phải trở về mà đón lấy cái tội của mình. Những công việc làm không chính trực của tôi trước đây trên dưới 20 năm, hình như bây giờ tôi lại thấy có nhiều nơi và nhiều người đang trên con đường làm như tôi xưa cũ!?? Lợi dụng khe hở của chính phủ, bởi thiếu người đi xem xét? Lợi dụng chính phủ làm tiền một cách trắng trợn khi mà gởi đòi tiền chính phủ bằng những chi phiếu "Ma", có nghĩa là người không có mà vẫn đòi tiền chính phủ được, thế mới là bất công và thiếu lẽ công bằng. Không gì dễ kiếm tiền cho bằng lợi dụng kẽ hở của công quỹ của chính phủ, cho nên không chóng thì chầy thì khối tiền khổng lồ của chính phủ cũng bị tiêu hao và gầy mòn vì những con người này!??
Đấy thưa anh chị em! Nếu không có Chúa ở cùng thì những Lời Chúa dậy chỉ giống như tiếng kêu của Thánh Gioan trong hoang địa mà thôi! Hà huống gì, trong lúc chúng ta đang đam mê những gì chúng ta đang làm, đem lại bao nhiêu tiền bạc, một cách thật dễ dàng?? Đã thế chúng ta lại giao du với những con người mà người đời cho là cao trọng? Chức vụ và bằng cấp của họ quả cao trọng lắm chứ thưa anh chị em? Có phải như tôi đây chỉ là một y tá quèn thấp kém nhất trong hàng y tá, mà được hằng ngày tiếp xúc với những hàng bác sĩ và luật sư, thì chính tôi cũng cảm thấy sung sướng cho cuộc đời của tôi lắm rồi!?? Quần áo lúc nào cũng lụa là, nước hoa đắt tiền, ví đắt tiền, đồng hồ cũng đắt tiền, và mọi thứ trên tôi toàn là tên hiệu, và là hiệu. ... Tôi lúc bấy giờ chỉ cảm thấy rất mãn nguyện cho chính tôi, cho gia đình tôi, bởi đi đâu tôi cũng cảm thấy mình rất cao, và hình như cũng có đôi lúc tôi cảm thấy mình cao thật, vì được luôn luôn ở bên cạnh các bác sĩ và các luật sư rất thân của tôi. Cho nên tôi rất hiểu và rất thông cảm cho những ai đang giầu có và đang sống trên mây xanh khi mà tiền bạc đến thật dễ dàng mà họ chẳng phải làm gì cả! Chỉ vì mánh mung, chỉ vì gian dối, chỉ vì được ăn những món tiền làm mánh mung của họ. Thí dụ như cái Tết hằng năm, có biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta ở ngoại quốc trở về thăm quê nhà, báo chí đã nói đến cả bạc tỷ dân việt kiều mang về cho quê nhà. Quả là một số tiền kếch xù thật đáng kể. Một số tiền có thể nuôi cả một đất nước nghèo VN của chúng ta, mà theo lẽ chẳng ai phải đói ăn thiếu mặc trong cái Tết này, hay trong năm, nếu được trang trải và sẻ chia cho đồng loại. Nhưng một số tiền khổng lồ ấy, tất cả sẽ vào tay ai và làm giầu cho ai???
Lời của Chúa hôm nay đối với tôi thì lại khác lắm rồi! Bởi tôi đã được Chúa thay đổi và biến đổi cuộc đời tôi, cho nên tôi không còn thấy Lời của Chúa là chói tai hay khó nghe nữa! Mà ngược lại tôi cảm thấy được đem Lời của Chúa ra giải thích và cắt nghĩa cho những anh chị em hiện còn đang quay cuồng trong cuộc sống hiện tại, với những cố gắng muốn thay đổi, hay đang tìm một cái phao vì cảm nhận được rằng cuộc sống bê tha của mình không đem lại cho mình hạnh phúc thật sự, nhưng chưa biết làm sao để được thay đổi, và không biết làm sao để mà tỉnh thức, và tìm ra chân lý của cuộc đời theo con mắt đức tin.
Cuộc sống sa hoa, trác tráng, và sa đọa của chúng ta cũng giống như thế này, thưa anh chị em! Khi chúng ta có nhiều tiền thì chúng ta có những người bạn cũng có nhiều tiền, có nhiều tiền thì chúng ta trên trần gian này không thiếu những nơi cho chúng ta xài tiền? Xài tiền một cách phung phí, xài tiền một cách vô lý, xài tiền một cách giết thời giờ và giết chính mình. Thưa không phải chúng ta say xỉn 24 tiếng một ngày đâu thưa anh chị em!? Có những lúc chúng ta tỉnh chứ!? Và nhìn mình trong kiếng trong gương, cảm thấy cuộc đời sao vô vị; cuộc đời sao trống trải; cuộc đời sao chán ngán và chán nản làm sao!? Chẳng lẽ ta cứ mãi như thế này!? Càng ngày tấm thân càng sa sút, càng ngày tấm thân càng bệnh hoạn, không còn biết thời gian và không gian nữa! Ngày tháng trôi qua thật vô vị và vô dụng làm sao!? Có những lúc trong tận thâm tâm của mình cũng có nghe tiếng nói của lương tâm hay là tiếng gọi thật khẽ của Thiên Chúa, đang gọi mình chăng!? Trong những đêm khuya khoắt?? Tiếng kêu ấy vô chừng lắm! Có khi tiếng kêu ấy làm lung lạc tinh thần của anh chị em trong một lúc nào đó mà chung quanh như quay cuồng như náo động như nổ tung cả đất trời!? Rồi có những khi tiếng kêu ấy lại vọng đến trong tâm hồn của chúng ta trong những lúc cơ thể của chúng ta đang thật rã rời và quá mệt mỏi!? Rồi có những lúc tiếng kêu ấy cứ vẳng lên thật vô chừng, vô đỗi, phải làm cho chúng ta phải ngừng lại, để nghe lại rằng ai đang kêu gọi tôi?? Tại sao có những lúc tôi cứ nghe tiếng kêu ấy thật rõ trong tôi khi tôi đang ở trong vũ trường, sòng bạc, đĩ điếm, và những nơi hút sách, v.v....
Tiếng kêu mời gọi ấy của Thiên Chúa, rồi thì cũng đến lúc làm cho anh chị em tỉnh thức và nhận ra được đó là tiếng Chúa, kêu gọi mình trở về và ra khỏi cuộc sống sa đọa, trác táng, của trụy lạc, tội lỗi. Tiếng kêu gọi ấy, muốn anh chị em phải quay trở về, để làm lại cuộc đời!? Một cuộc đời có giá trị hơn. Trả lại cho anh chị em một giá trị của cuộc sống thật sự mà Chúa muốn cho anh chị em có mà chính anh chị em đã đánh mất trước đây. Lạ một điều ở chỗ là khi những anh chị em này được Chúa ban cho ơn trở lại, thì họ rất hiền hòa, điều độ, chừng mực, xa hẳn con đường cũ, biết cảm thương người khác, cho đi, tha thứ thật dễ dàng, vui vẻ, tìm đến Chúa nhiều hơn, và biết sống theo thánh ý Chúa. Và rồi Lời của Chúa được tiếp nhận một cách dễ dàng, bởi Chúa sẽ ban cho ơn được thông hiểu, và đương nhiên là mọi sự Chúa ban cho thêm. Thêm bình an, sức mạnh từ Trên, Đức Tin mạnh mẽ, và biết bao nhiêu hạnh phúc, khác với hạnh phúc mà người đời cho là hạnh phúc. Tiền của không là gì nữa! Bởi biết chúng chỉ mang đến cho chúng ta tai họa và phiền phức. Danh vọng không còn là gì nữa! Bởi biết rằng chúng ta sống cho Chúa và cho anh chị em! Quyền hành cũng không còn là gì nữa! Bởi chúng ta biết rằng ai quyền hành cao hơn Thiên Chúa của chúng ta?? Nếu chúng ta tất cả loại bỏ được những gì mà thế gian tham muốn, tích lũy, và ký cóp, thì sẽ hiểu được thật rõ ràng những Lời vàng ngọc Chúa muốn dậy chúng ta hôm nay.
Vâng, được mọi sự thế gian mà đánh mất linh hồn đời đời của mình, thì có ích gì???? Và sự chuẩn bị để chúng ta Tìm Về Quê Trời là từng ngày chứ không phải để đợi đến ngày mai. Vì ngày hôm nay mới thực sự là của chúng ta, bởi ngày mai thì chưa tới, còn ngày hôm qua thì đã qua rồi! Xin hãy sống như ngày mai ta không còn nữa! Ai có tai thì nghe!!! Amen.
Lời của Chúa tôi thấy rất là nghịch lý và khó nghe quá!??? Trước đây vài năm những Lời Chúa dậy trên, chắc hẳn tôi không thích nghe và cũng chẳng cần hiểu ý Chúa muốn nói gì, bởi trước đây khi chưa có ơn Chúa, tôi rất còn bon chen, rất còn xông xáo nhẩy vào những con đường làm ăn bất chính. Tôi rất hăng say để đi tìm những mối làm ăn vừa dễ kiếm tiền mà vừa chóng có tiền, để tôi đi sắm sửa và chưng diện cho nó sướng cái tấm thân. Nhưng rồi thì việc gì mà không chính trực thì thường cũng chấm dứt rất nhanh chóng. Bởi gian manh thì không lường trước được thời gian bao lâu "Ông Lớn" phát giác và cho người làm nội tuyến để mọi sự sẽ được phanh phui ra ánh sáng. Công việc tôi làm trước đây có dính líu nhiều với các giới luật sư và các giới bác sĩ. Một số thật đông đã bị bắt bớ ngồi tù, mất bằng, hay bằng bị câu lưu, còn tôi vì là tôm tép, nên không bị gì, nhưng cũng làm cho tôi một mẻ đứng tim, và sau đó thì mất việc làm. Bởi mọi người đều chạy tứ tán cả! Có người thì trốn qua Mễ, nhưng tôi biết cũng không chạy được bao xa, cũng phải trở về mà đón lấy cái tội của mình. Những công việc làm không chính trực của tôi trước đây trên dưới 20 năm, hình như bây giờ tôi lại thấy có nhiều nơi và nhiều người đang trên con đường làm như tôi xưa cũ!?? Lợi dụng khe hở của chính phủ, bởi thiếu người đi xem xét? Lợi dụng chính phủ làm tiền một cách trắng trợn khi mà gởi đòi tiền chính phủ bằng những chi phiếu "Ma", có nghĩa là người không có mà vẫn đòi tiền chính phủ được, thế mới là bất công và thiếu lẽ công bằng. Không gì dễ kiếm tiền cho bằng lợi dụng kẽ hở của công quỹ của chính phủ, cho nên không chóng thì chầy thì khối tiền khổng lồ của chính phủ cũng bị tiêu hao và gầy mòn vì những con người này!??
Đấy thưa anh chị em! Nếu không có Chúa ở cùng thì những Lời Chúa dậy chỉ giống như tiếng kêu của Thánh Gioan trong hoang địa mà thôi! Hà huống gì, trong lúc chúng ta đang đam mê những gì chúng ta đang làm, đem lại bao nhiêu tiền bạc, một cách thật dễ dàng?? Đã thế chúng ta lại giao du với những con người mà người đời cho là cao trọng? Chức vụ và bằng cấp của họ quả cao trọng lắm chứ thưa anh chị em? Có phải như tôi đây chỉ là một y tá quèn thấp kém nhất trong hàng y tá, mà được hằng ngày tiếp xúc với những hàng bác sĩ và luật sư, thì chính tôi cũng cảm thấy sung sướng cho cuộc đời của tôi lắm rồi!?? Quần áo lúc nào cũng lụa là, nước hoa đắt tiền, ví đắt tiền, đồng hồ cũng đắt tiền, và mọi thứ trên tôi toàn là tên hiệu, và là hiệu. ... Tôi lúc bấy giờ chỉ cảm thấy rất mãn nguyện cho chính tôi, cho gia đình tôi, bởi đi đâu tôi cũng cảm thấy mình rất cao, và hình như cũng có đôi lúc tôi cảm thấy mình cao thật, vì được luôn luôn ở bên cạnh các bác sĩ và các luật sư rất thân của tôi. Cho nên tôi rất hiểu và rất thông cảm cho những ai đang giầu có và đang sống trên mây xanh khi mà tiền bạc đến thật dễ dàng mà họ chẳng phải làm gì cả! Chỉ vì mánh mung, chỉ vì gian dối, chỉ vì được ăn những món tiền làm mánh mung của họ. Thí dụ như cái Tết hằng năm, có biết bao nhiêu anh chị em của chúng ta ở ngoại quốc trở về thăm quê nhà, báo chí đã nói đến cả bạc tỷ dân việt kiều mang về cho quê nhà. Quả là một số tiền kếch xù thật đáng kể. Một số tiền có thể nuôi cả một đất nước nghèo VN của chúng ta, mà theo lẽ chẳng ai phải đói ăn thiếu mặc trong cái Tết này, hay trong năm, nếu được trang trải và sẻ chia cho đồng loại. Nhưng một số tiền khổng lồ ấy, tất cả sẽ vào tay ai và làm giầu cho ai???
Lời của Chúa hôm nay đối với tôi thì lại khác lắm rồi! Bởi tôi đã được Chúa thay đổi và biến đổi cuộc đời tôi, cho nên tôi không còn thấy Lời của Chúa là chói tai hay khó nghe nữa! Mà ngược lại tôi cảm thấy được đem Lời của Chúa ra giải thích và cắt nghĩa cho những anh chị em hiện còn đang quay cuồng trong cuộc sống hiện tại, với những cố gắng muốn thay đổi, hay đang tìm một cái phao vì cảm nhận được rằng cuộc sống bê tha của mình không đem lại cho mình hạnh phúc thật sự, nhưng chưa biết làm sao để được thay đổi, và không biết làm sao để mà tỉnh thức, và tìm ra chân lý của cuộc đời theo con mắt đức tin.
Cuộc sống sa hoa, trác tráng, và sa đọa của chúng ta cũng giống như thế này, thưa anh chị em! Khi chúng ta có nhiều tiền thì chúng ta có những người bạn cũng có nhiều tiền, có nhiều tiền thì chúng ta trên trần gian này không thiếu những nơi cho chúng ta xài tiền? Xài tiền một cách phung phí, xài tiền một cách vô lý, xài tiền một cách giết thời giờ và giết chính mình. Thưa không phải chúng ta say xỉn 24 tiếng một ngày đâu thưa anh chị em!? Có những lúc chúng ta tỉnh chứ!? Và nhìn mình trong kiếng trong gương, cảm thấy cuộc đời sao vô vị; cuộc đời sao trống trải; cuộc đời sao chán ngán và chán nản làm sao!? Chẳng lẽ ta cứ mãi như thế này!? Càng ngày tấm thân càng sa sút, càng ngày tấm thân càng bệnh hoạn, không còn biết thời gian và không gian nữa! Ngày tháng trôi qua thật vô vị và vô dụng làm sao!? Có những lúc trong tận thâm tâm của mình cũng có nghe tiếng nói của lương tâm hay là tiếng gọi thật khẽ của Thiên Chúa, đang gọi mình chăng!? Trong những đêm khuya khoắt?? Tiếng kêu ấy vô chừng lắm! Có khi tiếng kêu ấy làm lung lạc tinh thần của anh chị em trong một lúc nào đó mà chung quanh như quay cuồng như náo động như nổ tung cả đất trời!? Rồi có những khi tiếng kêu ấy lại vọng đến trong tâm hồn của chúng ta trong những lúc cơ thể của chúng ta đang thật rã rời và quá mệt mỏi!? Rồi có những lúc tiếng kêu ấy cứ vẳng lên thật vô chừng, vô đỗi, phải làm cho chúng ta phải ngừng lại, để nghe lại rằng ai đang kêu gọi tôi?? Tại sao có những lúc tôi cứ nghe tiếng kêu ấy thật rõ trong tôi khi tôi đang ở trong vũ trường, sòng bạc, đĩ điếm, và những nơi hút sách, v.v....
Tiếng kêu mời gọi ấy của Thiên Chúa, rồi thì cũng đến lúc làm cho anh chị em tỉnh thức và nhận ra được đó là tiếng Chúa, kêu gọi mình trở về và ra khỏi cuộc sống sa đọa, trác táng, của trụy lạc, tội lỗi. Tiếng kêu gọi ấy, muốn anh chị em phải quay trở về, để làm lại cuộc đời!? Một cuộc đời có giá trị hơn. Trả lại cho anh chị em một giá trị của cuộc sống thật sự mà Chúa muốn cho anh chị em có mà chính anh chị em đã đánh mất trước đây. Lạ một điều ở chỗ là khi những anh chị em này được Chúa ban cho ơn trở lại, thì họ rất hiền hòa, điều độ, chừng mực, xa hẳn con đường cũ, biết cảm thương người khác, cho đi, tha thứ thật dễ dàng, vui vẻ, tìm đến Chúa nhiều hơn, và biết sống theo thánh ý Chúa. Và rồi Lời của Chúa được tiếp nhận một cách dễ dàng, bởi Chúa sẽ ban cho ơn được thông hiểu, và đương nhiên là mọi sự Chúa ban cho thêm. Thêm bình an, sức mạnh từ Trên, Đức Tin mạnh mẽ, và biết bao nhiêu hạnh phúc, khác với hạnh phúc mà người đời cho là hạnh phúc. Tiền của không là gì nữa! Bởi biết chúng chỉ mang đến cho chúng ta tai họa và phiền phức. Danh vọng không còn là gì nữa! Bởi biết rằng chúng ta sống cho Chúa và cho anh chị em! Quyền hành cũng không còn là gì nữa! Bởi chúng ta biết rằng ai quyền hành cao hơn Thiên Chúa của chúng ta?? Nếu chúng ta tất cả loại bỏ được những gì mà thế gian tham muốn, tích lũy, và ký cóp, thì sẽ hiểu được thật rõ ràng những Lời vàng ngọc Chúa muốn dậy chúng ta hôm nay.
Vâng, được mọi sự thế gian mà đánh mất linh hồn đời đời của mình, thì có ích gì???? Và sự chuẩn bị để chúng ta Tìm Về Quê Trời là từng ngày chứ không phải để đợi đến ngày mai. Vì ngày hôm nay mới thực sự là của chúng ta, bởi ngày mai thì chưa tới, còn ngày hôm qua thì đã qua rồi! Xin hãy sống như ngày mai ta không còn nữa! Ai có tai thì nghe!!! Amen.
Lời cầu chúc Năm Mới tuyệt vời nhất
LM Inhaxiô Trần Ngà
08:43 12/02/2010
Sau ba năm lao động ở nước ngoài, Anh Năm trở về thăm gia đình vào đúng ngày 24 tháng 12. Khi vừa bước xuống máy bay, bầu khí tưng bừng của ngày lễ giáng sinh gợi cho anh ý tưởng phải làm điều gì đó đem lại ngạc nhiên và thích thú cho vợ và con sau ba năm xa cách. Thế rồi anh nảy ra sáng kiến hoá trang thành ông già No-en: anh vận bộ áo đỏ, đội mũ vải đỏ, đeo râu và tóc giả vào. Anh cũng không quên mua cho mấy đứa nhỏ những đồ chơi chúng ưa thích và nhiều quà bánh. Sau đó, anh đứng ngay cổng nhà chờ đợi vợ con đi lễ đêm về.
Khi thấy ông già No-en đứng trước cổng nhà mình với cả một túi đầy quà bánh và đồ chơi, bọn trẻ reo lên vui sướng và niềm vui của chúng dâng cao khi được ông già No-en tốt bụng trao cho những phần quà mà vì nhà quá nghèo, chúng chưa từng mơ ước. Cô bé gái thì được con búp bê xinh thật là xinh. Cậu bé trai thì được quả bóng da và cả hai lại được thêm nhiều bánh kẹo, những thứ mà lâu nay chúng chỉ đứng nhìn cách thèm thuồng qua những ô kính trong các cửa tiệm mà chưa hề được thưởng thức.
Hai đứa trẻ tíu tít hỏi chuyện ông già No-en và khi nghe ông cất tiếng nói, nhìn miệng ông cười thì chúng phát hiện ra ông già No-en không phải là ai xa lạ mà chính là Bố của mình.
Quá mừng vui và hạnh phúc vì có Bố về đoàn tụ với gia đình, hai đứa trẻ quẳng hết quà bánh xuống đất để nhào vào ôm lấy Bố và sung sướng reo lên: « Bố ơi! Bố ơi! Bố là nhất trên đời! Chúng con chỉ cần có Bố thôi! »
Khi chưa nhận ra Bố thì những món quà Bố cho quả là tuyệt vời, nhưng giờ đây có Bố rồi, những món quà đáng ước mơ kia không còn giá trị như trước nữa. Hai đứa trẻ buông hết quà xuống đất để chỉ được ôm lấy Bố thôi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Cụ già Simêon cũng tỏ ra hoan lạc như thế.
Được Thánh Thần mách bảo, Cụ “lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì Cụ ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài." (Luca 2, 27-32)
Được ẵm Chúa trên tay, cụ già Simêon vô cùng hạnh phúc. Được có Chúa thì quý hơn cả mọi thứ khác trên thế gian, nên cụ không còn tha thiết với bất cứ sự gì trên đời nầy nữa, không còn gì trên thế gian nầy có thể làm cho cụ quyến luyến nữa. Cụ chỉ muốn lìa cõi đời, chỉ muốn ra đi trong bình an để được về sống vĩnh viễn bên Chúa mà thôi.
Đúng thế, Đức Giê-su là quà tặng tuyệt vời nhất mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Ai có Chúa là có được ân huệ lớn nhất trong cuộc đời.
Sánh với Chúa Giê-su, tiền bạc chỉ là giấy vụn, vinh hoa phú quý đời nầy chỉ là phù vân, địa vị công danh chỉ là bèo bọt.
Đời ta có Chúa như trẻ sơ sinh được ở kề bên lòng mẹ, như lữ khách lạc lối trong đêm tối có được người bạn đồng hành, như người sắp chết đuối vớ được phao cứu sinh.
Thế nên trong ngày đầu xuân, thay vì cầu chúc cho được phúc-lộc-thọ như thói quen của người đời, tôi cầu chúc cho anh chị em điều còn tuyệt vời hơn thế nữa, đó là cầu chúc anh chị em chiếm hữu được Chúa, vì có Chúa là có tất cả những gì quý báu nhất trần gian.
Cầu chúc anh chị em có Chúa để Chúa luôn ở cùng anh chị em, để Chúa luôn đồng hành với anh chị em trên vạn nẻo đường đời, để Chúa an ủi anh chị em lúc sầu khổ, nâng đỡ anh chị em lúc gặp gian nguy, khuyên lơn chỉ bảo anh chị em khi lầm lạc, đem lại niềm tin và hy vọng cho anh chị em trong cuộc đời đầy sóng gió nầy.
Chúa là Nguồn Hạnh Phúc bao la. Chỉ có Chúa mới lấp đầy trái tim ta.
Mong anh chị em khám phá Chúa Giê-su là Kho Tàng mọi ơn phúc, để luôn yêu mến Chúa Giê-su, sống kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su từng ngày, từng giờ và mãi mãi. Amen.
Khi thấy ông già No-en đứng trước cổng nhà mình với cả một túi đầy quà bánh và đồ chơi, bọn trẻ reo lên vui sướng và niềm vui của chúng dâng cao khi được ông già No-en tốt bụng trao cho những phần quà mà vì nhà quá nghèo, chúng chưa từng mơ ước. Cô bé gái thì được con búp bê xinh thật là xinh. Cậu bé trai thì được quả bóng da và cả hai lại được thêm nhiều bánh kẹo, những thứ mà lâu nay chúng chỉ đứng nhìn cách thèm thuồng qua những ô kính trong các cửa tiệm mà chưa hề được thưởng thức.
Hai đứa trẻ tíu tít hỏi chuyện ông già No-en và khi nghe ông cất tiếng nói, nhìn miệng ông cười thì chúng phát hiện ra ông già No-en không phải là ai xa lạ mà chính là Bố của mình.
Quá mừng vui và hạnh phúc vì có Bố về đoàn tụ với gia đình, hai đứa trẻ quẳng hết quà bánh xuống đất để nhào vào ôm lấy Bố và sung sướng reo lên: « Bố ơi! Bố ơi! Bố là nhất trên đời! Chúng con chỉ cần có Bố thôi! »
Khi chưa nhận ra Bố thì những món quà Bố cho quả là tuyệt vời, nhưng giờ đây có Bố rồi, những món quà đáng ước mơ kia không còn giá trị như trước nữa. Hai đứa trẻ buông hết quà xuống đất để chỉ được ôm lấy Bố thôi.
Qua Tin Mừng hôm nay, Cụ già Simêon cũng tỏ ra hoan lạc như thế.
Được Thánh Thần mách bảo, Cụ “lên Đền Thờ vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì Cụ ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:
"Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi.
Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài." (Luca 2, 27-32)
Được ẵm Chúa trên tay, cụ già Simêon vô cùng hạnh phúc. Được có Chúa thì quý hơn cả mọi thứ khác trên thế gian, nên cụ không còn tha thiết với bất cứ sự gì trên đời nầy nữa, không còn gì trên thế gian nầy có thể làm cho cụ quyến luyến nữa. Cụ chỉ muốn lìa cõi đời, chỉ muốn ra đi trong bình an để được về sống vĩnh viễn bên Chúa mà thôi.
Đúng thế, Đức Giê-su là quà tặng tuyệt vời nhất mà Chúa Cha đã ban cho nhân loại. Ai có Chúa là có được ân huệ lớn nhất trong cuộc đời.
Sánh với Chúa Giê-su, tiền bạc chỉ là giấy vụn, vinh hoa phú quý đời nầy chỉ là phù vân, địa vị công danh chỉ là bèo bọt.
Đời ta có Chúa như trẻ sơ sinh được ở kề bên lòng mẹ, như lữ khách lạc lối trong đêm tối có được người bạn đồng hành, như người sắp chết đuối vớ được phao cứu sinh.
Thế nên trong ngày đầu xuân, thay vì cầu chúc cho được phúc-lộc-thọ như thói quen của người đời, tôi cầu chúc cho anh chị em điều còn tuyệt vời hơn thế nữa, đó là cầu chúc anh chị em chiếm hữu được Chúa, vì có Chúa là có tất cả những gì quý báu nhất trần gian.
Cầu chúc anh chị em có Chúa để Chúa luôn ở cùng anh chị em, để Chúa luôn đồng hành với anh chị em trên vạn nẻo đường đời, để Chúa an ủi anh chị em lúc sầu khổ, nâng đỡ anh chị em lúc gặp gian nguy, khuyên lơn chỉ bảo anh chị em khi lầm lạc, đem lại niềm tin và hy vọng cho anh chị em trong cuộc đời đầy sóng gió nầy.
Chúa là Nguồn Hạnh Phúc bao la. Chỉ có Chúa mới lấp đầy trái tim ta.
Mong anh chị em khám phá Chúa Giê-su là Kho Tàng mọi ơn phúc, để luôn yêu mến Chúa Giê-su, sống kết hợp mật thiết với Chúa Giê-su từng ngày, từng giờ và mãi mãi. Amen.
Người Công Giáo suy niệm về Nam Mới
LM Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang
14:17 12/02/2010
Sau nhiều năm vắng bóng, giờ đây, con CỌP, con DẦN, lại đến. Một Năm Mới bắt đầu: Năm canh Dần, và trong ngày Chúa Nhật nầy, ngày 14 tháng hai, năm 2010 sau Thiên Chúa Giáng Sinh, chúng ta bước vào Năm Mới Canh Dần.
Năm mới! Cái gì cũng phải mới. Nhưng trong đức tin, người công giáo chúng ta nói đến những cái mới không bao giờ cũ, những cái mới đầy lạ lùng, những cái mới vô tiền khoáng hậu, vô cùng hấp dẫn!
Trước hết, chúng ta nói đến Đức Chúa Trời của chúng ta luôn mới mẻ!
Người Công giáo chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Trời trước hết: “Tôi tin kính Một Đức Chúa Trời.”
Đức Chúa Trời là Đấng hằng có đời đời, không bao giờ chết, không bao giờ hết. Như đã có trước vô cùng, và bây giờ, và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen.
Chính Đức Chúa Trời đã mặc khải cho chúng ta biết Ngài là Đấng đời đời: "Ta là Đấng tự hữu” (Xh 3,14).
Thiên Chúa không có khởi đầu như mọi loài mọi vật trong vũ trụ nầy.
Thiên Chúa không có kết thúc như mọi loài mọi vật trong vũ trụ nầy.
Thiên Chúa không có trở nên như mọi loài mọi vật trong vũ trụ nầy.
Mọi loài, mọi vật trong vũ trụ nầy, phải đi từ cái ít đến cái nhiều, phải đi từ cái nhỏ đến cái lớn, phải đi từ cái bắt đầu đến cái kết thúc, phải đi từ cái sinh đến cái tử.
Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, không bao giờ cũ, không bao giờ tàn, là Đấng luôn luôn mới mẻ.
Trong Thiên Chúa, không có quá khứ, không có tương lai, không có thời gian đã qua hoặc sẽ đến.
Thiên Chúa chỉ có hiện tại luôn mới mẻ, luôn rõ ràng, không bao giờ lu mờ, phai lạt. Mọi cái đều đang có rõ ràng và mới mẻ trước mắt Thiên Chúa. Cái gì cũng đang có rõ ràng trước mặt Thiên Chúa, dẫu cái đó đã xảy ra trong thời gian hằng ức triệu năm. Cái gì cũng đang mới mẻ trước mặt Thiên Chúa, dẫu cái đó đã xảy ra trước đây hằng tỷ tỷ năm.
Sự mới mẻ của Thiên Chúa, thật là điều quá sững sốt đối với chúng ta!
Giờ đây, là năm mới trước mặt tôi, nhưng năm củ của tôi vừa rồi, đối với Thiên Chúa, vẫn là năm mới. Và năm tôi sinh ra cách đây đã lâu, cũng là năm mới trước mặt Thiên Chúa. Và năm tôi sẽ chết, - năm nào tôi chưa biết - năm chết nầy của tôi cũng đang rõ ràng, cũng đang hiện ra mới mẻ trước mặt Thiên Chúa.
Ôi, lạ lùng thay sự mới mẻ của Thiên Chúa!
Hiện nay, tôi đang sống thế nào, sau nầy, tôi sẽ chết ra sao, tất cả những gì quá khứ, hiện tại và tương lai của đời tôi, của gia đình tôi, của các dân nước, của toàn thể nhân loại, đều đang rõ ràng, đang mới mẻ trước mặt Thiên Chúa.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, làm gì cũng được. Mà Thiên Chúa lại yêu tôi một cách đặc biệt, với một tình yêu luôn mới mẻ. Vì thế, tôi hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Đấng hoàn toàn mới mẻ, hằng yêu tôi với một tình yêu không bao giờ tàn, không bao giờ cũ.
Khi buồn phiền, khi đau khổ và đổi thay của cuộc đời đè nặng lên tôi, lên gia đình tôi, lên cộng đoàn tôi, lên giáo xứ tôi, lên Giáo Hội tôi, lên Đất Nước tôi, tôi vẫn bình tĩnh an vui vì tôi biết tôi tin vào ai? Tôi tin vào Thiên Chúa luôn luôn mới mẻ, hằng có đời đời, quyền phép vô biên: Ngài lo lắng, quan phòng, sắp đặt, hướng dẫn tất cả cuộc đời tôi, từ một sợi tóc trên đầu tôi rơi xuống, cũng do Thánh Ý Ngài cho phép.
Hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy, lòng tôi luôn luôn cảm thấy vô cùng êm dịu ngọt ngào! Tôi không bao giờ mất Chúa vì Chúa hằng có đời đời. Chúa không bao giờ để mất tôi vì Chúa hằng yêu tôi luôn mãi.
Tiếp theo, chúng ta nói đến Chúa Giêsu của chúng ta luôn mới mẻ!
Con người chúng ta: sinh ra, khóc la, cười vui đôi chút, rồi chết.
Trên đời nầy, không gì cũ kỹ, úa tàn bằng cái chết: cũ kỹ, úa tàn quá chóng, đến đỗi người ta phải liệm cho mau, phải đưa vào hòm cho vội, phải chôn xuống đất cho sâu. Và mặc dầu trên mộ có tô màu đẹp đẽ, nhưng ở dưới mộ, xác chết bị phá hoại ghê gớm: các thứ nước hôi thối trong xác chết, còn lại, nay vỡ chảy tứ tung; các bắp thịt trở nên nhão nhẹt, tím bầm, phồng lên, thúi tha, tan rã, làm mồi cho giòi bọ đục khoét; rồi lần lần, xương khô cũng biến tan; rồi tất cả trở thành một đống bùn sầy sụa, nhơ nhớp, không tên.
Cái chết làm cho mọi người chúng ta ra cũ kỹ, úa tàn. Cái chết cũng làm cho mọi nhân vật lịch sử, dù danh tiếng đến đâu mặc lòng, như Ông nọ Bà kia..., cũng chỉ để lại trên đời nầy họa hiếm lắm, là một cái tên mà thôi!
Trái lại, Chúa Giêsu của chúng ta đã toàn thắng sự chết, đã sống lại, sống mãi muôn đời, và luôn luôn mới mẻ: "Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Một người thợ mộc vô danh, sinh sống nơi thôn quê nghèo khổ Nadarét, tại nước Do Thái xa xôi nhỏ bé, nằm chìm trong đế quốc rộng rãi bao la Rôma, một ngày đẹp trời của tháng 4 cách đây hơn 2000 năm, bị quân lính vây bắt, dẫn đi, bị Chính Quyền đế quốc Rôma ra lệnh đánh đòn, xử án đóng đinh vào thập giá, bị hành quyết chung với hai tên trộm cướp ác ôn, và chết cô độc lạnh lùng trên hai miếng gỗ.
Nếu sự kiện chỉ chấm dứt một cách oan ức và lạnh lùng như thế, trên đồi Gôngôta hiu quạnh cách đây hơn 2000 năm, thì làm sao giải thích được hiện tượng ngày nay đang làm sững sốt nhân loại: toàn thể nhân loại đều biết đến GIÊSU một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; toàn thể nhân loại ngày nào cũng nhắc đến GIÊSU một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; toàn thể nhân loại đều nhận lấy năm sinh của GIÊSU làm cái mốc lịch sử cho mình, và sau hơn hai ngàn năm thật dài trôi qua, một phần lớn nhân loại đang quỳ thờ lạy Nguời bị đóng đinh chết trên thập giá. Và thập giá nầy trở thành Thánh Giá được suy tôn, thờ lạy!
Các môn đệ của Chúa Giêsu, những người đầy sợ sệt nầy, làm sao dựng lên nổi một tôn giáo siêu phàm, vượt trên tất cả các tôn giáo danh tiếng nhất của nhân loại, gây uy tín trên khắp thế giới, làm đảo lộn cả lịch sử thế giới và chi phối tất cả lịch sử loài người?
Các môn đệ của Chúa Giêsu, những người đầy kém cõi và bất lực nầy, đã đưa Đạo Chúa Giêsu vào được thế giới đầy văn minh của Hy Lạp và Rôma, là những dân tộc từng có nhiều nhà tư tưởng siêu việt, nhiều nhà chinh phục lừng danh, nhiều nghệ sĩ tài ba, nhưng nhiều người nầy cũng đã trở thành những tín đồ đầu tiên trong Giáo Hội sơ khai, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm vì đã theo một Đạo hoàn toàn mới mẻ và bất lợi cho mình, một Đạo bắt buộc nhiều hy sinh, chủ trương yêu thương tha thứ, và chỉ biết rao giảng niềm tin vào Người Bị Đóng Đinh Chết trên hai miếng gỗ.
Và làm thế nào cắt nghĩa được hiện nay, Chúa Giêsu vẫn còn lôi cuốn nhiều người thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi tầng lớp xã hội, thuộc mọi thành phần trí thức, thuộc mọi ngôn ngữ?
Chúa Giêsu phải mới mẻ, mới mẻ lắm, mới mẻ độc nhất, mới hấp dẫn và lôi cuốn được như vậy.
Chúa Giêsu hằng ở với lịch sử nhân loại, hằng ở với mọi người cho đến tận thế, cho đến đời đơi. Lời thiên thần báo tin Phục Sinh vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần cách đây hơn 2000 năm, chứng minh điều nầy: "Ngài đã sống lại như lời Ngài đã nói ” (Mt 28,6).
Ôi! sung sướng biết bao khi Chúa Giêsu hằng mới mẻ, hằng ở với người Công giáo chúng ta luôn mãi. Ngài xâm nhập cuộc đời chúng tôi. Ngài làm cho đời chúng ta luôn mới mẻ, luôn tươi trẻ. Ngài chiếm đoạt cuộc đời chúng ta và làm cho đời chúng ta trở nên giàu sang quý báu. Đời chúng ta giống như những cọng rơm nằm trên bùn đất, tựa như những bình nước lã đặt trong xó vắng, nhưng có Chúa Giêsu đến, và những cọng rơm trong hang đá Bêlem đã tràn đầy ánh sáng của trời cao, và những bình nước lã tại Cana đã biến thành những hũ rượu ngon nhất thế giới.
Với Chúa Giêsu, cuộc đời những người Công giáo chúng ta luôn mới mẻ. Chúa Giêsu biến đổi tội lỗi chúng ta thành công nghiệp, biến đổi cái chết của chúng ta thành sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu, ích kỷ của chúng ta biến thành tình yêu cao thượng, mệt mõi của chúng ta trở nên hy vọng sung mãn, sự tầm thường của đời sống hằng ngày của chúng ta biến thành bài ca thanh thót.
Với Chúa Giêsu, gia đình thanh cao của chúng ta – vì chúng ta không sống bất công, không sống tham nhũng - cộng đoàn hiệp nhất của chúng ta, giáo xứ an vui của chúng ta như Loan Lý, Đồng Chiêm, vân vân...., trở thành thiên đàng hạnh phúc trên trần gian nầy.
Với Chúa Giêsu, đời chúng ta không còn tầm thường và lạt lẽo nữa.
Với Chúa Giêsu, đời chúng ta luôn mới mẻ, mới tinh.
Thật, không ai mới mẻ bằng Chúa Giêsu của chúng ta!
Thật, không ai tươi trẻ như Chúa Giêsu của chúng ta!
Chúa Giêsu hằng sống mãi với chúng ta cho đến tận thế.
Chúa Giêsu hằng sống mãi với chúng ta cho đến muôn đời.
Chúng ta nào có sợ gì ai? Ma quỷ rất mạnh mẽ. Chúng khống chế dễ dàng nhiều kẻ theo chúng. Nhưng khi nghe Danh Giêsu, ma quỷ te cò bỏ chạy! Huống hồ là những đồ đệ của ma quỷ!
Sau nửa, chúng ta nói đến Giáo Hội Công Giáo chúng ta luôn mới mẻ!
Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa Giêsu mãi mãi tươi trẻ. Vì thế, Giáo Hội của Ngài lập ra, - vì Chúa Giêsu là Ông Tổ Đạo Công Giáo chúng ta - cũng luôn luôn mới mẻ, luôn luôn tươi trẻ.
Giáo Hội Công Giáo, một tổ chức tôn giáo đã có mặt trên quả địa cầu nầy hơn hai ngàn năm rồi. Trong hơn hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu ngai vàng sụp đổ, bao nhiêu tổ chức tiêu tan, bao nhiêu đảng phái biến dạng, bao nhiêu nhân vật danh tiếng không còn, bao nhiêu công trình đã lu mờ, thế mà Giáo Hội Công Giáo chúng ta vẫn luôn luôn mới mẻ, vẫn luôn luôn tươi trẻ.
Giáo Hội công giáo chúng ta, mà trong quá khứ cũng như trong hiện tại, thường bị bắt bớ, bị hiểu lầm, bị xâu xé, nhiều phen xem ra sắp ngã xuống hố diệt vong, nhưng lạ thay, vẫn luôn vững đứng, vì cũng như Thầy Giêsu của mình, Giáo Hội Công Giáo luôn tái sinh, luôn phục sinh, luôn mới mẻ.
Có thể có kẻ cho Giáo Hội Công giáo chúng ta là già nua, là lỗi thời. Đối với họ, Giáo Hội Công giáo là một tổ chức tuy đáng kính, nhưng điều nầy đã thuộc về quá khứ, đã thuộc về đời trước, vì hiện nay, Giáo Hội không còn hợp thời nữa, vì hiện nay, Giáo Hội đã hết thời rồi. Những kẻ chủ trương như vậy là lầm vì Giáo Hội Công Giáo vẫn luôn tươi trẻ, vẫn luôn mới mẻ, vẫn luôn có mặt khắp nơi, có mặt tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc, có mặt tại Mỹ cũng như tại Nga, vẫn luôn hăng say hoạt động khắp chốn, vẫn thu hút nhiều kẻ trở lại đó đây, đây đó.
Có thể có kẻ cho Giáo Hội Công Giáo chúng ta là một tổ chức mà thế nào thời gian cũng làm cho ra úa tàn, kiệt quệ và tiêu tan. Họ giống như những Napôlêôn, những Vônte,. ...Nhưng họ đã thất vọng! Vì sao? Vì càng đi sâu vào thời gian, kẻ khác thì tan, tổ chức nọ thì tàn, còn Giáo Hội Công Giáo chúng ta thì bất chấp sức tiêu diệt của thời gian, vì càng lâu trong thời gian, Giáo Hội Công Giáo càng trẻ thêm trong thời gian; vì càng nhiều trong thời gian, Giáo Hội Công Giáo càng rực rỡ thêm mãi trong thời gian. Thời gian không làm cho Giáo Hội Công Giáo trở nên già cỗi, héo khô; trái lại, với thời gian, Giáo Hội Công Giáo càng sinh động, càng lột xác, càng có nhiều Công Đồng như Công Đồng Vatican II để làm cho mình luôn ở trong một mùa xuân tươi trẻ. Vì thế, hoàng đế Napôlêôn, sau khi đã ngạo nghễ tuyên bố: "Trẫm sẽ nghiền nát Giáo Hội Công Giáo! ”, thì cuối cùng, trước khi chết, cũng đã phải thú nhận: "Trẫm đã xây dựng một nước trên gươm giáo, và nước đó đã sụp đổ. Đức Giêsu đã xây dựng nước Ngài trên tình yêu, và nước đó vẫn còn”. Và không ai nghịch đạo và vô thần bằng Vonte. Nhà văn hào người Pháp nầy vung tay múa ngón ngăm đe Giáo Hội Công Giáo: "Ta đã chán nghe câu chuyện 12 tông đồ bành trướng nước ông Kitô. Một mình ta, ta sẽ tiêu diệt Giáo Hội của ông”. Lúc đó là năm 1758. Vônte hãnh diện nói tiên tri: "Còn 20 năm nữa, Giáo Hội Công Giáo sẽ bị tiêu diệt.”. Và lịch sử đã chứng minh một cách lạ lùng, lời tiên tri ba xạo của ông: đúng vào năm 1778, là 20 năm sau, Vônte già, yếu, chết, còn Giáo Hội công giáo vẫn trẻ, mạnh, và sống mãi.
Giáo Hội Công Giáo là Người Mẹ luôn luôn tươi trẻ của chúng ta. Giáo Hội Công Giáo luôn ôm ấp chúng ta vào lòng, dạy chúng ta biết Chúa, dạy chúng ta biết lẽ sống chết, dạy chúng ta biết số phận đời đời của mình, dạy chúng ta biết chắp tay chạy đến cầu nguyện cùng Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, toàn ái, dạy chúng ta biết trông cậy chạy đến với Chúa Giêsu đầy lân tuất, dạy chúng ta biết thỏ thẻ với Mẹ Maria đáng yêu, đáng kính.
Giáo Hội Công Giáo sai các linh mục đến săn sóc chúng ta, tha tội cho chúng ta, trao ban cho chúng ta những kho tàng Bí Tích vô cùng quý giá. Trong lòng Giáo Hội Công Giáo luôn mới mẻ, chúng ta được lớn lên bằng sự sống sung mãn của Thiên Chúa. Trong cánh tay Giáo Hội Công Giáo luôn tươi trẻ, chúng ta sẽ được nhắm mắt bình an, lìa cõi thế tạm nầy mà về Quê Trời đời đời bất diệt. Chúng ta không bao giờ lìa bỏ Giáo Hội Công Giáo. Chúng ta thề quyết luôn sống trong Giáo Hội Công Giáo và chết trong Giáo Hội Công Giáo.
Thiên Chúa luôn mới mẻ!
Chúa Giêsu luôn mới mẻ!
Giáo Hội Công Giáo luôn mới mẻ!
Năm mới, nói chuyện mới, mới quá lạ lùng!
Người công giáo chúng ta, trong năm mới nầy, hãy hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, hết sức yêu mến Chúa Giêsu, hết tâm phụng sự Giáo Hội Công Giáo, sống đời cầu nguyện sốt sắng, đại độ hy sinh, yêu thương mọi người, tha thứ tất cả, luôn treo cao gương tốt, dồn sức xây dựng Giáo Hội và Tổ Quốc cho thật tốt đẹp, không kỳ thị, không tiểu tâm, không bất công, không ích kỷ, không tham nhũng, không dối trá, không xiêng xẹo, không gian xảo, không độc ác, không hại người,. ..
Với Thiên Chúa luôn mới mẻ, với Chúa Giêsu luôn mới mẻ, với Giáo Hội Công Giáo luôn tươi trẻ, cuộc đời người công giáo chúng ta hiện nay, đầy mới mẻ, và sau nầy, trên thiên đàng, luôn mới mẻ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, đời đời, chẳng cùng! Amen.
Năm mới! Cái gì cũng phải mới. Nhưng trong đức tin, người công giáo chúng ta nói đến những cái mới không bao giờ cũ, những cái mới đầy lạ lùng, những cái mới vô tiền khoáng hậu, vô cùng hấp dẫn!
Trước hết, chúng ta nói đến Đức Chúa Trời của chúng ta luôn mới mẻ!
Người Công giáo chúng ta tuyên xưng Đức Chúa Trời trước hết: “Tôi tin kính Một Đức Chúa Trời.”
Đức Chúa Trời là Đấng hằng có đời đời, không bao giờ chết, không bao giờ hết. Như đã có trước vô cùng, và bây giờ, và hằng có, và đời đời chẳng cùng. Amen.
Chính Đức Chúa Trời đã mặc khải cho chúng ta biết Ngài là Đấng đời đời: "Ta là Đấng tự hữu” (Xh 3,14).
Thiên Chúa không có khởi đầu như mọi loài mọi vật trong vũ trụ nầy.
Thiên Chúa không có kết thúc như mọi loài mọi vật trong vũ trụ nầy.
Thiên Chúa không có trở nên như mọi loài mọi vật trong vũ trụ nầy.
Mọi loài, mọi vật trong vũ trụ nầy, phải đi từ cái ít đến cái nhiều, phải đi từ cái nhỏ đến cái lớn, phải đi từ cái bắt đầu đến cái kết thúc, phải đi từ cái sinh đến cái tử.
Thiên Chúa là Đấng vô thủy vô chung, không bao giờ cũ, không bao giờ tàn, là Đấng luôn luôn mới mẻ.
Trong Thiên Chúa, không có quá khứ, không có tương lai, không có thời gian đã qua hoặc sẽ đến.
Thiên Chúa chỉ có hiện tại luôn mới mẻ, luôn rõ ràng, không bao giờ lu mờ, phai lạt. Mọi cái đều đang có rõ ràng và mới mẻ trước mắt Thiên Chúa. Cái gì cũng đang có rõ ràng trước mặt Thiên Chúa, dẫu cái đó đã xảy ra trong thời gian hằng ức triệu năm. Cái gì cũng đang mới mẻ trước mặt Thiên Chúa, dẫu cái đó đã xảy ra trước đây hằng tỷ tỷ năm.
Sự mới mẻ của Thiên Chúa, thật là điều quá sững sốt đối với chúng ta!
Giờ đây, là năm mới trước mặt tôi, nhưng năm củ của tôi vừa rồi, đối với Thiên Chúa, vẫn là năm mới. Và năm tôi sinh ra cách đây đã lâu, cũng là năm mới trước mặt Thiên Chúa. Và năm tôi sẽ chết, - năm nào tôi chưa biết - năm chết nầy của tôi cũng đang rõ ràng, cũng đang hiện ra mới mẻ trước mặt Thiên Chúa.
Ôi, lạ lùng thay sự mới mẻ của Thiên Chúa!
Hiện nay, tôi đang sống thế nào, sau nầy, tôi sẽ chết ra sao, tất cả những gì quá khứ, hiện tại và tương lai của đời tôi, của gia đình tôi, của các dân nước, của toàn thể nhân loại, đều đang rõ ràng, đang mới mẻ trước mặt Thiên Chúa.
Mà Thiên Chúa là Đấng toàn năng, làm gì cũng được. Mà Thiên Chúa lại yêu tôi một cách đặc biệt, với một tình yêu luôn mới mẻ. Vì thế, tôi hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Đấng hoàn toàn mới mẻ, hằng yêu tôi với một tình yêu không bao giờ tàn, không bao giờ cũ.
Khi buồn phiền, khi đau khổ và đổi thay của cuộc đời đè nặng lên tôi, lên gia đình tôi, lên cộng đoàn tôi, lên giáo xứ tôi, lên Giáo Hội tôi, lên Đất Nước tôi, tôi vẫn bình tĩnh an vui vì tôi biết tôi tin vào ai? Tôi tin vào Thiên Chúa luôn luôn mới mẻ, hằng có đời đời, quyền phép vô biên: Ngài lo lắng, quan phòng, sắp đặt, hướng dẫn tất cả cuộc đời tôi, từ một sợi tóc trên đầu tôi rơi xuống, cũng do Thánh Ý Ngài cho phép.
Hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa như vậy, lòng tôi luôn luôn cảm thấy vô cùng êm dịu ngọt ngào! Tôi không bao giờ mất Chúa vì Chúa hằng có đời đời. Chúa không bao giờ để mất tôi vì Chúa hằng yêu tôi luôn mãi.
Tiếp theo, chúng ta nói đến Chúa Giêsu của chúng ta luôn mới mẻ!
Con người chúng ta: sinh ra, khóc la, cười vui đôi chút, rồi chết.
Trên đời nầy, không gì cũ kỹ, úa tàn bằng cái chết: cũ kỹ, úa tàn quá chóng, đến đỗi người ta phải liệm cho mau, phải đưa vào hòm cho vội, phải chôn xuống đất cho sâu. Và mặc dầu trên mộ có tô màu đẹp đẽ, nhưng ở dưới mộ, xác chết bị phá hoại ghê gớm: các thứ nước hôi thối trong xác chết, còn lại, nay vỡ chảy tứ tung; các bắp thịt trở nên nhão nhẹt, tím bầm, phồng lên, thúi tha, tan rã, làm mồi cho giòi bọ đục khoét; rồi lần lần, xương khô cũng biến tan; rồi tất cả trở thành một đống bùn sầy sụa, nhơ nhớp, không tên.
Cái chết làm cho mọi người chúng ta ra cũ kỹ, úa tàn. Cái chết cũng làm cho mọi nhân vật lịch sử, dù danh tiếng đến đâu mặc lòng, như Ông nọ Bà kia..., cũng chỉ để lại trên đời nầy họa hiếm lắm, là một cái tên mà thôi!
Trái lại, Chúa Giêsu của chúng ta đã toàn thắng sự chết, đã sống lại, sống mãi muôn đời, và luôn luôn mới mẻ: "Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Một người thợ mộc vô danh, sinh sống nơi thôn quê nghèo khổ Nadarét, tại nước Do Thái xa xôi nhỏ bé, nằm chìm trong đế quốc rộng rãi bao la Rôma, một ngày đẹp trời của tháng 4 cách đây hơn 2000 năm, bị quân lính vây bắt, dẫn đi, bị Chính Quyền đế quốc Rôma ra lệnh đánh đòn, xử án đóng đinh vào thập giá, bị hành quyết chung với hai tên trộm cướp ác ôn, và chết cô độc lạnh lùng trên hai miếng gỗ.
Nếu sự kiện chỉ chấm dứt một cách oan ức và lạnh lùng như thế, trên đồi Gôngôta hiu quạnh cách đây hơn 2000 năm, thì làm sao giải thích được hiện tượng ngày nay đang làm sững sốt nhân loại: toàn thể nhân loại đều biết đến GIÊSU một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; toàn thể nhân loại ngày nào cũng nhắc đến GIÊSU một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; toàn thể nhân loại đều nhận lấy năm sinh của GIÊSU làm cái mốc lịch sử cho mình, và sau hơn hai ngàn năm thật dài trôi qua, một phần lớn nhân loại đang quỳ thờ lạy Nguời bị đóng đinh chết trên thập giá. Và thập giá nầy trở thành Thánh Giá được suy tôn, thờ lạy!
Các môn đệ của Chúa Giêsu, những người đầy sợ sệt nầy, làm sao dựng lên nổi một tôn giáo siêu phàm, vượt trên tất cả các tôn giáo danh tiếng nhất của nhân loại, gây uy tín trên khắp thế giới, làm đảo lộn cả lịch sử thế giới và chi phối tất cả lịch sử loài người?
Các môn đệ của Chúa Giêsu, những người đầy kém cõi và bất lực nầy, đã đưa Đạo Chúa Giêsu vào được thế giới đầy văn minh của Hy Lạp và Rôma, là những dân tộc từng có nhiều nhà tư tưởng siêu việt, nhiều nhà chinh phục lừng danh, nhiều nghệ sĩ tài ba, nhưng nhiều người nầy cũng đã trở thành những tín đồ đầu tiên trong Giáo Hội sơ khai, bất chấp mọi khó khăn nguy hiểm vì đã theo một Đạo hoàn toàn mới mẻ và bất lợi cho mình, một Đạo bắt buộc nhiều hy sinh, chủ trương yêu thương tha thứ, và chỉ biết rao giảng niềm tin vào Người Bị Đóng Đinh Chết trên hai miếng gỗ.
Và làm thế nào cắt nghĩa được hiện nay, Chúa Giêsu vẫn còn lôi cuốn nhiều người thuộc mọi dân tộc, thuộc mọi tầng lớp xã hội, thuộc mọi thành phần trí thức, thuộc mọi ngôn ngữ?
Chúa Giêsu phải mới mẻ, mới mẻ lắm, mới mẻ độc nhất, mới hấp dẫn và lôi cuốn được như vậy.
Chúa Giêsu hằng ở với lịch sử nhân loại, hằng ở với mọi người cho đến tận thế, cho đến đời đơi. Lời thiên thần báo tin Phục Sinh vào sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần cách đây hơn 2000 năm, chứng minh điều nầy: "Ngài đã sống lại như lời Ngài đã nói ” (Mt 28,6).
Ôi! sung sướng biết bao khi Chúa Giêsu hằng mới mẻ, hằng ở với người Công giáo chúng ta luôn mãi. Ngài xâm nhập cuộc đời chúng tôi. Ngài làm cho đời chúng ta luôn mới mẻ, luôn tươi trẻ. Ngài chiếm đoạt cuộc đời chúng ta và làm cho đời chúng ta trở nên giàu sang quý báu. Đời chúng ta giống như những cọng rơm nằm trên bùn đất, tựa như những bình nước lã đặt trong xó vắng, nhưng có Chúa Giêsu đến, và những cọng rơm trong hang đá Bêlem đã tràn đầy ánh sáng của trời cao, và những bình nước lã tại Cana đã biến thành những hũ rượu ngon nhất thế giới.
Với Chúa Giêsu, cuộc đời những người Công giáo chúng ta luôn mới mẻ. Chúa Giêsu biến đổi tội lỗi chúng ta thành công nghiệp, biến đổi cái chết của chúng ta thành sự sống đời đời.
Với Chúa Giêsu, ích kỷ của chúng ta biến thành tình yêu cao thượng, mệt mõi của chúng ta trở nên hy vọng sung mãn, sự tầm thường của đời sống hằng ngày của chúng ta biến thành bài ca thanh thót.
Với Chúa Giêsu, gia đình thanh cao của chúng ta – vì chúng ta không sống bất công, không sống tham nhũng - cộng đoàn hiệp nhất của chúng ta, giáo xứ an vui của chúng ta như Loan Lý, Đồng Chiêm, vân vân...., trở thành thiên đàng hạnh phúc trên trần gian nầy.
Với Chúa Giêsu, đời chúng ta không còn tầm thường và lạt lẽo nữa.
Với Chúa Giêsu, đời chúng ta luôn mới mẻ, mới tinh.
Thật, không ai mới mẻ bằng Chúa Giêsu của chúng ta!
Thật, không ai tươi trẻ như Chúa Giêsu của chúng ta!
Chúa Giêsu hằng sống mãi với chúng ta cho đến tận thế.
Chúa Giêsu hằng sống mãi với chúng ta cho đến muôn đời.
Chúng ta nào có sợ gì ai? Ma quỷ rất mạnh mẽ. Chúng khống chế dễ dàng nhiều kẻ theo chúng. Nhưng khi nghe Danh Giêsu, ma quỷ te cò bỏ chạy! Huống hồ là những đồ đệ của ma quỷ!
Sau nửa, chúng ta nói đến Giáo Hội Công Giáo chúng ta luôn mới mẻ!
Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ. Chúa Giêsu mãi mãi tươi trẻ. Vì thế, Giáo Hội của Ngài lập ra, - vì Chúa Giêsu là Ông Tổ Đạo Công Giáo chúng ta - cũng luôn luôn mới mẻ, luôn luôn tươi trẻ.
Giáo Hội Công Giáo, một tổ chức tôn giáo đã có mặt trên quả địa cầu nầy hơn hai ngàn năm rồi. Trong hơn hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu ngai vàng sụp đổ, bao nhiêu tổ chức tiêu tan, bao nhiêu đảng phái biến dạng, bao nhiêu nhân vật danh tiếng không còn, bao nhiêu công trình đã lu mờ, thế mà Giáo Hội Công Giáo chúng ta vẫn luôn luôn mới mẻ, vẫn luôn luôn tươi trẻ.
Giáo Hội công giáo chúng ta, mà trong quá khứ cũng như trong hiện tại, thường bị bắt bớ, bị hiểu lầm, bị xâu xé, nhiều phen xem ra sắp ngã xuống hố diệt vong, nhưng lạ thay, vẫn luôn vững đứng, vì cũng như Thầy Giêsu của mình, Giáo Hội Công Giáo luôn tái sinh, luôn phục sinh, luôn mới mẻ.
Có thể có kẻ cho Giáo Hội Công giáo chúng ta là già nua, là lỗi thời. Đối với họ, Giáo Hội Công giáo là một tổ chức tuy đáng kính, nhưng điều nầy đã thuộc về quá khứ, đã thuộc về đời trước, vì hiện nay, Giáo Hội không còn hợp thời nữa, vì hiện nay, Giáo Hội đã hết thời rồi. Những kẻ chủ trương như vậy là lầm vì Giáo Hội Công Giáo vẫn luôn tươi trẻ, vẫn luôn mới mẻ, vẫn luôn có mặt khắp nơi, có mặt tại Việt Nam cũng như tại Trung Quốc, có mặt tại Mỹ cũng như tại Nga, vẫn luôn hăng say hoạt động khắp chốn, vẫn thu hút nhiều kẻ trở lại đó đây, đây đó.
Có thể có kẻ cho Giáo Hội Công Giáo chúng ta là một tổ chức mà thế nào thời gian cũng làm cho ra úa tàn, kiệt quệ và tiêu tan. Họ giống như những Napôlêôn, những Vônte,. ...Nhưng họ đã thất vọng! Vì sao? Vì càng đi sâu vào thời gian, kẻ khác thì tan, tổ chức nọ thì tàn, còn Giáo Hội Công Giáo chúng ta thì bất chấp sức tiêu diệt của thời gian, vì càng lâu trong thời gian, Giáo Hội Công Giáo càng trẻ thêm trong thời gian; vì càng nhiều trong thời gian, Giáo Hội Công Giáo càng rực rỡ thêm mãi trong thời gian. Thời gian không làm cho Giáo Hội Công Giáo trở nên già cỗi, héo khô; trái lại, với thời gian, Giáo Hội Công Giáo càng sinh động, càng lột xác, càng có nhiều Công Đồng như Công Đồng Vatican II để làm cho mình luôn ở trong một mùa xuân tươi trẻ. Vì thế, hoàng đế Napôlêôn, sau khi đã ngạo nghễ tuyên bố: "Trẫm sẽ nghiền nát Giáo Hội Công Giáo! ”, thì cuối cùng, trước khi chết, cũng đã phải thú nhận: "Trẫm đã xây dựng một nước trên gươm giáo, và nước đó đã sụp đổ. Đức Giêsu đã xây dựng nước Ngài trên tình yêu, và nước đó vẫn còn”. Và không ai nghịch đạo và vô thần bằng Vonte. Nhà văn hào người Pháp nầy vung tay múa ngón ngăm đe Giáo Hội Công Giáo: "Ta đã chán nghe câu chuyện 12 tông đồ bành trướng nước ông Kitô. Một mình ta, ta sẽ tiêu diệt Giáo Hội của ông”. Lúc đó là năm 1758. Vônte hãnh diện nói tiên tri: "Còn 20 năm nữa, Giáo Hội Công Giáo sẽ bị tiêu diệt.”. Và lịch sử đã chứng minh một cách lạ lùng, lời tiên tri ba xạo của ông: đúng vào năm 1778, là 20 năm sau, Vônte già, yếu, chết, còn Giáo Hội công giáo vẫn trẻ, mạnh, và sống mãi.
Giáo Hội Công Giáo là Người Mẹ luôn luôn tươi trẻ của chúng ta. Giáo Hội Công Giáo luôn ôm ấp chúng ta vào lòng, dạy chúng ta biết Chúa, dạy chúng ta biết lẽ sống chết, dạy chúng ta biết số phận đời đời của mình, dạy chúng ta biết chắp tay chạy đến cầu nguyện cùng Thiên Chúa toàn năng, toàn tri, toàn ái, dạy chúng ta biết trông cậy chạy đến với Chúa Giêsu đầy lân tuất, dạy chúng ta biết thỏ thẻ với Mẹ Maria đáng yêu, đáng kính.
Giáo Hội Công Giáo sai các linh mục đến săn sóc chúng ta, tha tội cho chúng ta, trao ban cho chúng ta những kho tàng Bí Tích vô cùng quý giá. Trong lòng Giáo Hội Công Giáo luôn mới mẻ, chúng ta được lớn lên bằng sự sống sung mãn của Thiên Chúa. Trong cánh tay Giáo Hội Công Giáo luôn tươi trẻ, chúng ta sẽ được nhắm mắt bình an, lìa cõi thế tạm nầy mà về Quê Trời đời đời bất diệt. Chúng ta không bao giờ lìa bỏ Giáo Hội Công Giáo. Chúng ta thề quyết luôn sống trong Giáo Hội Công Giáo và chết trong Giáo Hội Công Giáo.
Thiên Chúa luôn mới mẻ!
Chúa Giêsu luôn mới mẻ!
Giáo Hội Công Giáo luôn mới mẻ!
Năm mới, nói chuyện mới, mới quá lạ lùng!
Người công giáo chúng ta, trong năm mới nầy, hãy hết lòng tin tưởng vào Thiên Chúa, hết sức yêu mến Chúa Giêsu, hết tâm phụng sự Giáo Hội Công Giáo, sống đời cầu nguyện sốt sắng, đại độ hy sinh, yêu thương mọi người, tha thứ tất cả, luôn treo cao gương tốt, dồn sức xây dựng Giáo Hội và Tổ Quốc cho thật tốt đẹp, không kỳ thị, không tiểu tâm, không bất công, không ích kỷ, không tham nhũng, không dối trá, không xiêng xẹo, không gian xảo, không độc ác, không hại người,. ..
Với Thiên Chúa luôn mới mẻ, với Chúa Giêsu luôn mới mẻ, với Giáo Hội Công Giáo luôn tươi trẻ, cuộc đời người công giáo chúng ta hiện nay, đầy mới mẻ, và sau nầy, trên thiên đàng, luôn mới mẻ trong Thiên Chúa Ba Ngôi, đời đời, chẳng cùng! Amen.
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:10 12/02/2010
THẤY MÌNH TRONG MỘNG
Có một quốc vương nọ nằm mộng thấy một nhà vua được lên thiên đàng, và thấy một vị linh mục xuống hỏa ngục. Ông ta đang buồn bực sao lại có chuyện như thế, đột nhiên truyền lại một âm thanh, nói: “Nhà vua ấy được lên thiên đàng vì ông ta tôn kính các linh mục, vị linh mục ấy xuống hỏa ngục là vì ông ta thường thỏa hiệp và nhượng bộ với nhà vua và với những nhà giàu có.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Mọi người, bất kể lương hay giáo đều luôn nhìn thấy sự đạo đức thánh thiện nơi các linh mục công giáo, bởi vì bản chất của linh mục là thánh trước khi thành thánh nhân.
Người ta vì tôn trọng linh mục mà được lên thiên đàng, dù đó là quốc vương, là tổng thống hay chủ tịch hay bộ trưởng hay người thường dân. Thế nhưng linh mục lại xuống hỏa ngục là vì thỏa hiệp với những thế lực của thế gian và đi lại với những người giàu có, đó chính là nguyên nhân quan trọng.
Bởi vì linh mục là những người được chọn để lo việc tế lễ Chúa và hướng dẫn phần linh hồn giáo dân đi theo con đường của Chúa Giê-su đã đi, đó là con đường nên thánh, chứ không phải được chọn để thỏa hiệp với các công ty mua bán quảng cáo, không phải được chọn để buôn bán bất động sản với các địa chủ.
Bởi vì linh mục được chọn để đứng về phía người nghèo, yêu thương giúp đỡ họ, chứ không chọn để các ngài chơi với nhà giàu, ăn uống với nhà giàu...
Thật là không công bằng khi chỉ tôn trọng các linh mục là được lên thiên đàng, còn giao du với nhà vua và các người giàu có thì xuống hỏa ngục.
Nhưng ngẫm nghĩ lại thì thật là chí lý, đó là sự thật chứ không phải trong mộng. Ha ha ha....
----------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Có một quốc vương nọ nằm mộng thấy một nhà vua được lên thiên đàng, và thấy một vị linh mục xuống hỏa ngục. Ông ta đang buồn bực sao lại có chuyện như thế, đột nhiên truyền lại một âm thanh, nói: “Nhà vua ấy được lên thiên đàng vì ông ta tôn kính các linh mục, vị linh mục ấy xuống hỏa ngục là vì ông ta thường thỏa hiệp và nhượng bộ với nhà vua và với những nhà giàu có.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Mọi người, bất kể lương hay giáo đều luôn nhìn thấy sự đạo đức thánh thiện nơi các linh mục công giáo, bởi vì bản chất của linh mục là thánh trước khi thành thánh nhân.
Người ta vì tôn trọng linh mục mà được lên thiên đàng, dù đó là quốc vương, là tổng thống hay chủ tịch hay bộ trưởng hay người thường dân. Thế nhưng linh mục lại xuống hỏa ngục là vì thỏa hiệp với những thế lực của thế gian và đi lại với những người giàu có, đó chính là nguyên nhân quan trọng.
Bởi vì linh mục là những người được chọn để lo việc tế lễ Chúa và hướng dẫn phần linh hồn giáo dân đi theo con đường của Chúa Giê-su đã đi, đó là con đường nên thánh, chứ không phải được chọn để thỏa hiệp với các công ty mua bán quảng cáo, không phải được chọn để buôn bán bất động sản với các địa chủ.
Bởi vì linh mục được chọn để đứng về phía người nghèo, yêu thương giúp đỡ họ, chứ không chọn để các ngài chơi với nhà giàu, ăn uống với nhà giàu...
Thật là không công bằng khi chỉ tôn trọng các linh mục là được lên thiên đàng, còn giao du với nhà vua và các người giàu có thì xuống hỏa ngục.
Nhưng ngẫm nghĩ lại thì thật là chí lý, đó là sự thật chứ không phải trong mộng. Ha ha ha....
----------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lễ Tân Niên (Mồng 1 Tết)
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:12 12/02/2010
LỄ TÂN NIÊN
(Mồng 1 Tết)
Tin Mừng: Mt 6, 25-34.
“Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài.”
Bạn thân mến,
Mỗi năm Xuân lại về, Tết lại đến và một năm mới lại bắt đầu, trong niềm vui đón Tết dân tộc, người Ki-tô hữu chúng ta cũng luôn xác tín rằng, năm mới chính là hồng ân của Thiên Chúa ban cho nhân loại, ban cho dân tộc Việt Nam chúng ta, trong tâm tình ấy tôi xin chia sẻ với bạn hai điểm này trong thánh lễ đầu năm mới hôm nay:
1. Thiên Chúa là nguyên nhân của Mùa Xuân.
Hôm qua ngày cuối năm âm lịch, tức là ngày 30 tháng chạp, tôi và một số giáo dân nam nữ cùng nhau đi chợ tết (chợ sát bên nhà thờ), vì chợ gần bên nên chúng tôi đi bộ, trời trở lạnh và có mưa nhẹ bay bay, nhưng người đi mua sắm hàng tết rất đông, chen nhau mà đi, tiếng rao hàng, tiếng cười nói vui vẻ, và hình như hôm nay ai cũng vội vàng đi chợ tìm kiếm những thứ cần dùng trong những ngày tết, do đó mà càng náo nhiệt hơn...
Người ta đi tìm mua thức ăn và bông hoa dùng trong ngày tết, người ta tìm kiếm những hàng hóa đẹp nhất, tốt nhất để mua đem về nhà, nhưng có mấy ai tìm kiếm Thiên Chúa là nguyên nhân của mùa xuân, của ngày tết trong cảnh ồn ào tấp nập này ? Có mấy ai nhìn thấy những cành hoa đào, hoa mai và những bông hoa đẹp khác để mà ca ngợi và cám tạ Thiên Chúa ? Có mấy ai nghĩ đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người thật bao la tuyệt vời, nhất là trong các ngày Tết đầu năm mới này ? Có mấy ai tìm Thiên Chúa trong cảnh đời tấp nập này ?
Chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng đất trời, tứ thời bát tiết thay nhau luân chuyển, khởi đầu là mùa xuân khiến con người và vạn vật như có sức sống mới, để tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa trong những mùa kế tiếp.
Hãy tìm kiếm Thiên Chúa và Nước Trời trước, tìm kiếm ngay trong ngày đầu năm mới này, để mỗi ngày trong cuộc sống, bạn và tôi đều thấy được ân sủng Ngài ban cho.
2. Con người là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa.
Con người qua những kinh nghiệm suy tư và lao động đã định ra được bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, và những chu kỳ mưa gió trong một năm để gieo trồng và thu hoạch, nghỉ ngơi và bồi dưỡng để cứ thế mà tiếp tục cuộc xây dựng vũ trụ này ngày càng đẹp hơn như ý muốn của Thiên Chúa.
Không có con người thì mùa xuân vẫn đến, nhưng con người đã làm cho mùa xuân có một ý nghĩa đẹp và huyền nhiệm hơn. Cứ nhìn mọi người tất bật trước ngày tết thì biết, chính con người là đối tượng của mùa xuân, và khi vui xuân mừng đón năm mới, thì con người suy ra rằng chính mình là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa.
Thật vậy, con người là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa, chính Ngài như mẹ hiền đã chuẩn bị tất cả để cho con cái mình vui sống, học hành và làm việc, chính Ngài –qua việc tạo dựng vũ trụ- đã an bài mọi sự cho con người cai quản và hưởng dùng.
Bạn thân mến,
Thiên Chúa là chúa tể vũ trụ, là nguyên nhân của mùa xuân và chúng ta là đối tượng yêu thương của Ngài. Và nhờ Chúa Giê-su Ki-tô mà chúng ta biết được mọi người cũng là anh chị em với nhau, do đó, người lân cận cũng là đối tượng yêu thương của chúng ta, và đó cũng chính là ý nghĩa trong bài Tin Mừng hôm nay: hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước.
Nước Thiên Chúa không phải chỉ có bạn và tôi, nhưng còn có rất nhiều người, vô số người đã tin, chưa tin và sẽ tin vào Chúa Giê-su là Đấng cứu đô trần gian.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta trong ngày đầu năm mới này.
---------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
(Mồng 1 Tết)
Tin Mừng: Mt 6, 25-34.
“Trước hết, hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài.”
Bạn thân mến,
Mỗi năm Xuân lại về, Tết lại đến và một năm mới lại bắt đầu, trong niềm vui đón Tết dân tộc, người Ki-tô hữu chúng ta cũng luôn xác tín rằng, năm mới chính là hồng ân của Thiên Chúa ban cho nhân loại, ban cho dân tộc Việt Nam chúng ta, trong tâm tình ấy tôi xin chia sẻ với bạn hai điểm này trong thánh lễ đầu năm mới hôm nay:
1. Thiên Chúa là nguyên nhân của Mùa Xuân.
Hôm qua ngày cuối năm âm lịch, tức là ngày 30 tháng chạp, tôi và một số giáo dân nam nữ cùng nhau đi chợ tết (chợ sát bên nhà thờ), vì chợ gần bên nên chúng tôi đi bộ, trời trở lạnh và có mưa nhẹ bay bay, nhưng người đi mua sắm hàng tết rất đông, chen nhau mà đi, tiếng rao hàng, tiếng cười nói vui vẻ, và hình như hôm nay ai cũng vội vàng đi chợ tìm kiếm những thứ cần dùng trong những ngày tết, do đó mà càng náo nhiệt hơn...
Người ta đi tìm mua thức ăn và bông hoa dùng trong ngày tết, người ta tìm kiếm những hàng hóa đẹp nhất, tốt nhất để mua đem về nhà, nhưng có mấy ai tìm kiếm Thiên Chúa là nguyên nhân của mùa xuân, của ngày tết trong cảnh ồn ào tấp nập này ? Có mấy ai nhìn thấy những cành hoa đào, hoa mai và những bông hoa đẹp khác để mà ca ngợi và cám tạ Thiên Chúa ? Có mấy ai nghĩ đến tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người thật bao la tuyệt vời, nhất là trong các ngày Tết đầu năm mới này ? Có mấy ai tìm Thiên Chúa trong cảnh đời tấp nập này ?
Chính Thiên Chúa là Đấng tạo dựng đất trời, tứ thời bát tiết thay nhau luân chuyển, khởi đầu là mùa xuân khiến con người và vạn vật như có sức sống mới, để tiếp tục công trình sáng tạo của Thiên Chúa trong những mùa kế tiếp.
Hãy tìm kiếm Thiên Chúa và Nước Trời trước, tìm kiếm ngay trong ngày đầu năm mới này, để mỗi ngày trong cuộc sống, bạn và tôi đều thấy được ân sủng Ngài ban cho.
2. Con người là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa.
Con người qua những kinh nghiệm suy tư và lao động đã định ra được bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, và những chu kỳ mưa gió trong một năm để gieo trồng và thu hoạch, nghỉ ngơi và bồi dưỡng để cứ thế mà tiếp tục cuộc xây dựng vũ trụ này ngày càng đẹp hơn như ý muốn của Thiên Chúa.
Không có con người thì mùa xuân vẫn đến, nhưng con người đã làm cho mùa xuân có một ý nghĩa đẹp và huyền nhiệm hơn. Cứ nhìn mọi người tất bật trước ngày tết thì biết, chính con người là đối tượng của mùa xuân, và khi vui xuân mừng đón năm mới, thì con người suy ra rằng chính mình là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa.
Thật vậy, con người là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa, chính Ngài như mẹ hiền đã chuẩn bị tất cả để cho con cái mình vui sống, học hành và làm việc, chính Ngài –qua việc tạo dựng vũ trụ- đã an bài mọi sự cho con người cai quản và hưởng dùng.
Bạn thân mến,
Thiên Chúa là chúa tể vũ trụ, là nguyên nhân của mùa xuân và chúng ta là đối tượng yêu thương của Ngài. Và nhờ Chúa Giê-su Ki-tô mà chúng ta biết được mọi người cũng là anh chị em với nhau, do đó, người lân cận cũng là đối tượng yêu thương của chúng ta, và đó cũng chính là ý nghĩa trong bài Tin Mừng hôm nay: hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước.
Nước Thiên Chúa không phải chỉ có bạn và tôi, nhưng còn có rất nhiều người, vô số người đã tin, chưa tin và sẽ tin vào Chúa Giê-su là Đấng cứu đô trần gian.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta trong ngày đầu năm mới này.
---------------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Lễ Tạ Ơn Tất Niên: Điều kỳ diệu của kẻ nghèo
Lm Jos. Trương Đình Hiền
09:13 12/02/2010
THÁNH LỄ TẠ ƠN TẤT NIÊN (Canh Dần 2010)
(BĐ Chúa Nhật VI Thường niên C)
Điều kỳ diệu của kẻ nghèo
Dẫn nhập đầu lễ: Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật VI TN, cũng là Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm (Kỷ Sửu 2009). 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
1. Chúc tụng-Tạ ơn, thái độ của “kẻ nghèo” trong Giao ước cũ:
Có một dòng thái độ và tâm tình đức tin xuyên suốt, chảy dọc theo con đường Cựu ước đó chính là “dòng chảy “Chúc tụng-Tạ Ơn”, chúc tụng-tạ ơn Thiên Chúa, chúc tụng-tạ ơn hồng ấn cứu độ, chúc tụng-tạ ơn lòng khoan dung hải hà, chúc tụng- tạ ơn công trình sáng tạo và cứu chuộc…
“Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người 1
Vì tình thương Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
Lòng thành tín Người bền vững muôn năm. Hallêluia” (Tv 117)
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài đã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Thế nhưng thái độ ngợi khen và tâm tình cảm tạ đó lại chỉ có được nơi tâm hồn của “những người nghèo của Gia-Vê” (Anawim), những người đặt hết niềm tin tưởng phó thác cho tình thương và quyền năng của Thiên Chúa trong ý thưc thân phận bé nhỏ khiêm nhu của chính mình. Chính thái độ đó đã mang về hạnh phúc đích thực như Giêrêmia đã tuyên cáo trong BĐ 1 hôm nay:
Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, …”
Thái độ đó, tâm tình đó hoàn toàn đối nghịch với hạng người giàu bất cần Thiên Chúa, vô tín và kiêu căng, đặt mọi giá trị và cùng đích trên chính bản thân mình… cũng được sứ ngôn Giêrêmia nói đến chính nơi trích đoạn sách thánh nầy:
“”Đáng nguyền rũa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa ! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…”
2. Đức Kitô, mẫu người nghèo tuyệt hảo:
Tiếp nối dòng chảy của Cựu ước, Tân ước tiếp tục làm vang lên sứ điệp chúc tụng-tạ ơn của những người nghèo của Thiên Chúa mà những kẻ đại diện lại là những nhân vật quyết định cho biến cố cứu độ: Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông Đồ, Hội Thánh Chúa Kitô…
Ngày từ Bài Giảng đầu tiên khai mạc công cuộc tuyên rao Tin Mừng, Đức Kitô đã dõng dạc công bố “Con đường phúc thật” mà trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay đã tóm tắt qua 4 hạng người tiêu biểu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…Phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải đói…, phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải khóc…., phúc cho anh em vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa…” (Lc 6,20-22)
Và cũng giống như Giêrêmia đưa ra 2 loại người bị chúc dữ và được chúc phúc đối lập nhau, Đức Kitô sau khi nêu bật những kẻ được chúc phúc, đã công bố thân phận của 4 hạng người bị chúc dữ: những kẻ giàu, những người no nê, những người vui cười và những kẻ được ca tụng…
Và Ngài cũng đã minh thị xác nhận rằng: Kẻ nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, chính là đối tượng của sự mặc khải của Thiên Chúa, là ưu tiên một trong bảng xếp hạng tiến vào Nước Trời:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đât, con xin ngời khen Cha…”(Mt 11,25).
“Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
Và Tin Mừng đã minh chứng Ngài đã lựa chọn làm người trong thân phận một kẻ nghèo thật sự:
* Sinh trong cảnh nghèo: Hang lừa, máng cỏ…
* Sống nghèo: Nghề thợ mộc,
* Đi rao giảng trong cảnh nghèo: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9, 58).
* Quan hệ, quan tâm đến những kẻ nghèo, thấp cổ bé miệng, bị loại trừ, tội lỗi, bệnh hoạn tật nguyền…
* Và sau cùng chết trần trụi trên cây thánh giá...
Và chúng ta còn nhận ra rằng, những kẻ liên kết mật thiết với Đức Kitô, thì cũng đã hoàn toàn để cho Tin Mừng nghèo khó thấm nhập vào cả cuộc đời:
Chính “Người thôn nữ Maria ở Na-da-rét”, Mẹ Đấng Cứu Thế, đã cảm nghiệm sâu xa hồng ân cao cả của Thiên Chúa dành cho kẻ thấp hèn nên đã cất cao lời ca khen chúc tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…” (Lc 1,46-55)
Những con người như Thánh Cả Giuse, các Thánh Tông Đồ, và kế tiếp suốt 2000 năm nay, bao thế hệ Kitô tô hữu muôn nơi muôn thuở với những gương mặt như Phanxicô thành Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Maximilien Kolbe, Anre Phú Yên, Mẹ Têrêsa thành Calcutta…
đã quyết chọn thái độ khó nghèo để phục vụ tình yêu Thiên Chúa và hiến dâng cuộc đời như lời ca khen chúc tụng và như của lễ cảm tạ tri ân..
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm.
Có ai trong chúng ta lại vô tâm vô tín đến độ không nhận ra bao “điều kỳ diệu Chúa đã làm cho mình”. Nếu thay vì động đất ở Haiti mà lại ở chính nơi đây thì chúng ta sẽ ra sao ? Nếu cơn lũ quét kinh hoàng thay vì xóa sạch cái Xóm Trường ở Đồng Xuân lại xóa sạch cái thành phố Tuy Hòa nầy thì liệu chúng ta có còn đủ thanh thản mà hân hoan hớn hở để đón xuân Canh Dần nầy không ? Ví von một chút như thế, để chiều hôm nay Tất Niên, chúng ta thầm cảm đội ơn Chúa. Nói thế, không phải Chúa ghét gì dân tộc Haiti, Chúa đố kỵ gì dân Xóm Trường ở Đồng Xuân…nhưng để chúng ta cảm nhận được rằng: chúng ta không có chút giàu có nào, quyền lực nào, khôn ngoan nào để mà kiêu căng hợm hĩnh trước uy quyền của Thiên Chúa. Nếu Chúa không thương quan phòng gìn giữ bảo vệ, thì “một cơn gió thoảng là xong, chốn nơi mình ở cũng không biết mình…”
Vì thế, thái độ chúc tụng ngợi khen và tâm tình tri ân cảm tạ phải là điều chính đáng và cần thiết nhất để thực hiện trong giây phút Tất Niên nầy. Cùng với Đức Trinh Nữ Maria, "kẻ nghèo nhưng luôn khám phá thấy điều kỳ diệu của Chúa làm cho mình", chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa….”
(BĐ Chúa Nhật VI Thường niên C)
Điều kỳ diệu của kẻ nghèo
Dẫn nhập đầu lễ: Anh chị em thân mến,
Chiều hôm nay, cộng đoàn chúng ta họp nhau cử hành Thánh Lễ Chúa Nhật VI TN, cũng là Thánh Lễ Tạ Ơn nhân ngày Tất Niên, ngày kết thúc một năm cũ, năm (Kỷ Sửu 2009). 365 ngày của năm cũ sắp đi qua mang theo bao nhiêu vui buồn sướng khổ, những giọt mồ hôi lẫn nước mắt, những nụ cười hoan vui lẫn xót xa cay đắng. Chúng ta xin dâng lên Thiên Chúa tất cả để hiệp cùng của lễ cực thánh là chính hiến Tế của Chúa Kitô làm thành Lời Ca Tụng Tạ Ơn tôn vinh Thiên Chúa, như chính Đức Kitô đã hiến dâng của lễ Tạ Ơn Chúa Cha là cả cuộc đời trong Hy Tế Thập Giá mà chúng ta đang tái diễn qua Thánh Lễ nầy.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lỗi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh Lễ.
Giảng Lời Chúa:
1. Chúc tụng-Tạ ơn, thái độ của “kẻ nghèo” trong Giao ước cũ:
Có một dòng thái độ và tâm tình đức tin xuyên suốt, chảy dọc theo con đường Cựu ước đó chính là “dòng chảy “Chúc tụng-Tạ Ơn”, chúc tụng-tạ ơn Thiên Chúa, chúc tụng-tạ ơn hồng ấn cứu độ, chúc tụng-tạ ơn lòng khoan dung hải hà, chúc tụng- tạ ơn công trình sáng tạo và cứu chuộc…
“Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa,
Ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người 1
Vì tình thương Chúa thương ta thật là mãnh liệt,
Lòng thành tín Người bền vững muôn năm. Hallêluia” (Tv 117)
Hãy tạ ơn Chúa vì Chúa nhân từ
Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương (Tv 136)
Lạy Chúa xin dâng lời cảm tạ
Ngài đã nghe lời miệng con xin (Tv 138)
Hãy dâng Chúa bài ca cảm tạ
Gảy khúc hạc cầm mừng Thiên Chúa chúng ta (Tv 147)
Thế nhưng thái độ ngợi khen và tâm tình cảm tạ đó lại chỉ có được nơi tâm hồn của “những người nghèo của Gia-Vê” (Anawim), những người đặt hết niềm tin tưởng phó thác cho tình thương và quyền năng của Thiên Chúa trong ý thưc thân phận bé nhỏ khiêm nhu của chính mình. Chính thái độ đó đã mang về hạnh phúc đích thực như Giêrêmia đã tuyên cáo trong BĐ 1 hôm nay:
Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, …”
Thái độ đó, tâm tình đó hoàn toàn đối nghịch với hạng người giàu bất cần Thiên Chúa, vô tín và kiêu căng, đặt mọi giá trị và cùng đích trên chính bản thân mình… cũng được sứ ngôn Giêrêmia nói đến chính nơi trích đoạn sách thánh nầy:
“”Đáng nguyền rũa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa ! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…”
2. Đức Kitô, mẫu người nghèo tuyệt hảo:
Tiếp nối dòng chảy của Cựu ước, Tân ước tiếp tục làm vang lên sứ điệp chúc tụng-tạ ơn của những người nghèo của Thiên Chúa mà những kẻ đại diện lại là những nhân vật quyết định cho biến cố cứu độ: Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông Đồ, Hội Thánh Chúa Kitô…
Ngày từ Bài Giảng đầu tiên khai mạc công cuộc tuyên rao Tin Mừng, Đức Kitô đã dõng dạc công bố “Con đường phúc thật” mà trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay đã tóm tắt qua 4 hạng người tiêu biểu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…Phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải đói…, phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải khóc…., phúc cho anh em vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa…” (Lc 6,20-22)
Và cũng giống như Giêrêmia đưa ra 2 loại người bị chúc dữ và được chúc phúc đối lập nhau, Đức Kitô sau khi nêu bật những kẻ được chúc phúc, đã công bố thân phận của 4 hạng người bị chúc dữ: những kẻ giàu, những người no nê, những người vui cười và những kẻ được ca tụng…
Và Ngài cũng đã minh thị xác nhận rằng: Kẻ nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, chính là đối tượng của sự mặc khải của Thiên Chúa, là ưu tiên một trong bảng xếp hạng tiến vào Nước Trời:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đât, con xin ngời khen Cha…”(Mt 11,25).
“Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
Và Tin Mừng đã minh chứng Ngài đã lựa chọn làm người trong thân phận một kẻ nghèo thật sự:
* Sinh trong cảnh nghèo: Hang lừa, máng cỏ…
* Sống nghèo: Nghề thợ mộc,
* Đi rao giảng trong cảnh nghèo: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9, 58).
* Quan hệ, quan tâm đến những kẻ nghèo, thấp cổ bé miệng, bị loại trừ, tội lỗi, bệnh hoạn tật nguyền…
* Và sau cùng chết trần trụi trên cây thánh giá...
Và chúng ta còn nhận ra rằng, những kẻ liên kết mật thiết với Đức Kitô, thì cũng đã hoàn toàn để cho Tin Mừng nghèo khó thấm nhập vào cả cuộc đời:
Chính “Người thôn nữ Maria ở Na-da-rét”, Mẹ Đấng Cứu Thế, đã cảm nghiệm sâu xa hồng ân cao cả của Thiên Chúa dành cho kẻ thấp hèn nên đã cất cao lời ca khen chúc tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…” (Lc 1,46-55)
Những con người như Thánh Cả Giuse, các Thánh Tông Đồ, và kế tiếp suốt 2000 năm nay, bao thế hệ Kitô tô hữu muôn nơi muôn thuở với những gương mặt như Phanxicô thành Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Maximilien Kolbe, Anre Phú Yên, Mẹ Têrêsa thành Calcutta…
đã quyết chọn thái độ khó nghèo để phục vụ tình yêu Thiên Chúa và hiến dâng cuộc đời như lời ca khen chúc tụng và như của lễ cảm tạ tri ân..
3. Sống chiều kích Tạ Ơn trong nhỏ nhặt đời thường:
Trong giờ phút thiêng liêng khi trời đất sắp sửa giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà nhìn lại cuộc sống, mà cảm nhận muôn vạn hồng ân Chúa đã ân ban trong suốt một năm.
Có ai trong chúng ta lại vô tâm vô tín đến độ không nhận ra bao “điều kỳ diệu Chúa đã làm cho mình”. Nếu thay vì động đất ở Haiti mà lại ở chính nơi đây thì chúng ta sẽ ra sao ? Nếu cơn lũ quét kinh hoàng thay vì xóa sạch cái Xóm Trường ở Đồng Xuân lại xóa sạch cái thành phố Tuy Hòa nầy thì liệu chúng ta có còn đủ thanh thản mà hân hoan hớn hở để đón xuân Canh Dần nầy không ? Ví von một chút như thế, để chiều hôm nay Tất Niên, chúng ta thầm cảm đội ơn Chúa. Nói thế, không phải Chúa ghét gì dân tộc Haiti, Chúa đố kỵ gì dân Xóm Trường ở Đồng Xuân…nhưng để chúng ta cảm nhận được rằng: chúng ta không có chút giàu có nào, quyền lực nào, khôn ngoan nào để mà kiêu căng hợm hĩnh trước uy quyền của Thiên Chúa. Nếu Chúa không thương quan phòng gìn giữ bảo vệ, thì “một cơn gió thoảng là xong, chốn nơi mình ở cũng không biết mình…”
Vì thế, thái độ chúc tụng ngợi khen và tâm tình tri ân cảm tạ phải là điều chính đáng và cần thiết nhất để thực hiện trong giây phút Tất Niên nầy. Cùng với Đức Trinh Nữ Maria, "kẻ nghèo nhưng luôn khám phá thấy điều kỳ diệu của Chúa làm cho mình", chúng ta hãy dâng lên Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa….”
Lễ Mồng Một Tết Bình An Năm Mới: Cái uy dũng của người Kitô Hữu
Lm Jos. Trương Đình Hiền
09:21 12/02/2010
THÁNH LỄ MỒNG MỘT TẾT BÌNH AN NĂM MỚI (2010)
(BĐ Chúa Nhật VI Thường niên C)
Cái uy dũng của người Kitô hữu
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa….
Trước hết, trong buổi sáng tinh mơ của ngày Đầu Năm Mới, năm (Canh Dần, 2010), tôi xin được kính chúc Quí Cha, Quí Thầy, Quí nữ tu hai hội dòng Phaolô và MTGQN, cùng toàn thể ÔBACE, đặc biệt các Vị cao niên, các bạn trẻ, các em thiếu nhi và những người ngheo đơn bệnh tật, một Năm Mới đầy tràn bình an và hạnh phúc, một Xuân Mới chan hòa niềm vui và ân lộc của Thiên Chúa. (Cho một tràng pháo tay).
Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều đồng cảm và đồng xác tín rằng: chúng ta có mặt đông đảo nơi đây, sum họp sớm sủa trong những giờ đầu tiên của Năm Mới nầy, phải chắng trước tiên là để chúc mừng Thiên Chúa, hay nói theo ngôn ngữ truyền thống bình dân của giáo dân Qui Nhơn chúng ta, đó là “Mừng tuổi Chúa”, mà nội dung và ý nghĩa cốt yếu đó là: Tạ Ơn và dâng Năm Mới cho Thiên Chúa để xin Ngài ban phúc lành bình an và muôn điều tốt lành cho thế giới, cho Hội Thánh, cho Đất Nước quê hương VN, cho mọi gia đình và tất cả chúng ta.
Mùa Xuân năm nay lại về trong Năm Thánh Giáo Hội Việt nam.
Trong ý nghĩa đó, thánh lễ Minh Niên nầy sẽ là món quà quý giá nhất chúng ta dâng lên để “mừng tuổi Chúa”, và là lời chúc tốt đẹp nhất chúng ta dành cho nhau.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lõi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh lễ.
Giáng Lời Chúa:
Theo văn học dân gian, trong 12 Con Giáp, Dần được xếp hạng 3 (Tý, Sửu, Dần) qua cuộc đua việt dã do Ngọc Hoàng Thượng Đế tổ chức. Nhân ngày đầu năm Dần, năm con cọp lên chức hành khiển, có thể rút ra một đôi điều từ sự kiện nầy.
Dân ta gọi Dần là Hổ, Hùm, Cọp, Hạm, Hầm, Khái; đôi lúc vì kính sợ kêu là Ông Ba Mươi hay Ông Kễnh. Vì Hổ có sức mạnh vô địch trong các loài thú nên được phong là Chúa Sơn Lâm. Chắc bạn đã có dịp nhìn trên truyền hình hay đọc báo National Geographic, những con mãnh hổ đuổi theo đàn trâu nước, bò mộng, hươu nai…như gíó cuốn tàn khốc. Chính vì thế Hổ đựoc ghép với một từ khác biểu hiệu sức mạnh uy dũng như như môn võ Hổ quyền-chó sói Hổ lang-rắn độc Hổ lửa, Hổ mang-tướng trăm trận trăm thắng Hổ tướng- phù hiệu hành quân cắt đôi, vua giũ một nửa, một nửa ban cho tướng chỉ huy là Hổ phù-cửa ra vào dinh tướng Hổ môn, hang hổ gọi Hổ huyệt-, bản doanh đóng quân của tướng lãnh Hổ trướng-xương Cọp nấu thành cao chữa bá bệnh là Hổ cốt-trong bát trân (8 món ăn) của các hoàng đế Nhà Đường Trung Hoa món bao tử cọp cũng được kể tên…
Cũng chính với cái biểu tượng oai hùng, uy dũng đó mà nhà thơ Thế Lữ đã có một bài thơ bất hủ về con cọp, bài “Nhớ Rừng” để ví von cảnh tù ngục của một con cọp bị giam trong củi sắt với thân phận của một nhà cách mạng bị lao tù. Xin trích:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
Nhưng không phải lúc nào cọp cũng được xem trọng. Cũng trong dòng văn học bình dân, đôi khi cọp được cho là con vật “hữu dõng vô mưu” như câu chuyện sau:
Trong sách Giáo khoa xưa có truyện tích dạy đời ‘Trí khôn loài người’. Một hôm, có chú Cọp mò về làng rình bắt trâu bò, nhìn thấy trong ruộng bùn 1 con trâu lớn ì ạch kéo cày dưới làn roi điều khiển của bác nông phu. Nó lấy làm lạ tại sao con trâu to lón lại nghe lời con người nhỏ bé kia, liền cất tiếng hỏi:
- Thưa tại sao ông nhỏ bé thế mà con trâu to lớn phải nghe lời ông?
- Vì ta có trí khôn. - Người nông phu đáp.
- Ông có thể cho tôi xem trí khôn của ông được không?
- Tao để quên ở nhà.
- Ông có thể về lấy cho tôi xem được chứ?
- Dễ thôi, nhưng với điều kiện ta phải trói ngươi lại để khi ta về lấy ‘trí khôn’ ngươi không thể ăn thịt trâu ta.
Cọp đồng ý. Thế là bác nông phu lấy giây thừng trói chặt Cọp vào gốc cây rồi châm lửa đốt. Cọp biết bị lừa cố vùng vẫy thoát thân chạy vào rừng, còn nghe tiếng gọi lớn đàng xa vọng lại “ Trí khôn ta đây ! Trí khôn ta đây ! “. Tuy thoát chết, nhưng trên da Cọp còn lưu lại vết cháy rằn ri muôn đời không xóa sạch...
Và có lẽ câu chuyện ngày mồng 3 tháng 7 năm 1991 tại bờ sông Fraser, cách thành phố Vancouver, Canada l;à ý nghĩa nhất để chúng ta cùng suy niệm trong năm Con Cọp nầy:
Larrane Leech là một cô nuôi trẻ, 44 tuổi, tại làng Lillooet, cạnh bờ sông Fraser, cách thành phố Vancouver, Canada 200 cây số. Làng này hẻo lánh thưa người, có rừng núi hoang vu bao bọc, nên thú rừng thường xuất hiện.
Một hôm, cô dẫn 5 em bé cô coi sóc ra bờ sông để hái trái dâu dại, và chơi đùa. Các em này còn rất thơ ngây, chỉ từ 2 đến 5 tuổi. Sau khi hái dâu, cô dẫn các em ra bãi cát bờ sông chơi trò “bỏ khăn”. Đang chơi, bỗng cô thấy các em im lặng, một thứ im lặng hồi hộp dễ sợ… thì ra một con hùm tơ đang liếm mặt Mikey, 2 tuồi, bé trai duy nhất trong bọn. Cô sợ lặng đi đến mấy chục giây. Bình tĩnh lại, cô ra lệnh ngay cho con hùm:
- Không được liếm mặt bé Mikey nữa!
Trong khi đó bé Mikey sợ điếng người. ngồi không nhúc nhích. Thế là cô lao lại phía con hùm, tính kéo đuôi cho nó xa em Mikey ra, nhưng cô lại vươn hai tay thộp cổ con hùm, lắc qua lắc lại. Con hùm bị tấn công, nó nghiêng ra cào vào mặt hai em khác đang đứng chết trân cạnh đó, rồi nó quay lại vươn hai chân trước vồ túm đầu cô Larrane. Cô đưa hai tay ra đỡ, túm chắc hai chân con hùm, đẩy nhau với nó, trong khi cô la lớn “các con lại núp sau lưng cô!” Đám trẻ chạy xón lại sau lưng cô, đồng thanh la hét “cút! cút! cút!…” Cô Larrane tuy đã mệt, nhưng tiếng hét của đám trẻ làm cô lên tinh thần, cô trợn mắt há miệng hét vào mặt con hùm: “Mày cút đi đề cho chúng tao yên!” vừa nói cô vừa lấy hết sức bình sinh đẩy con hùm. Con hùm tơ bị đẩy quá mạnh, nó ngã chúi xuống, rồi lồm cồm bò dậy, cúp đuôi chạy vào rừng.
Vì lòng can đảm, tình yêu thương trẻ và trách nhiệm nghề nghiệp, cô Larrane đã đuổi được con hùm, đùm bọc cho đám trẻ thoát miệng cọp dữ, tuy cũng phải một phen hú vía kinh hồn.
Chắc chắn cô không thể quên cuộc đuổi hổ, ngày mồng 3 tháng 7 năm 1991 ấy.
Từ câu chuyện đó, tôi muốn cộng đoàn chúng ta hướng về sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật của ngày Tết Nguyên Đán.
Lời Chúa hôm nay gần như tập chú để nói với chúng ta rằng: thái độ đức tin đúng đắn nhất của người Kitô hữu phải chăng là khiêm hạ, khó nghèo, một thái độ đã được chính Chúa hướng dẫn và huấn luyện trong suốt dòng chảy của licghj sử cứu độ từ Cựu ước sang Tân ước, đó là thái độ đức tin của “những người nghèo của Gia-Vê” (Anawim), những người đặt hết niềm tin tưởng phó thác cho tình thương và quyền năng của Thiên Chúa trong ý thưc thân phận bé nhỏ khiêm nhu của chính mình. Chính thái độ đó đã mang về hạnh phúc đích thực như Giêrêmia đã tuyên cáo trong BĐ 1 hôm nay:
Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, …”
Thái độ đó, tâm tình đó hoàn toàn đối nghịch với hạng người giàu bất cần Thiên Chúa, vô tín và kiêu căng, đặt mọi giá trị và cùng đích trên chính bản thân mình… cũng được sứ ngôn Giêrêmia nói đến chính nơi trích đoạn sách thánh nầy:
“”Đáng nguyền rũa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa ! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…”
Tiếp nối dòng chảy của Cựu ước, Tân ước tiếp tục làm vang lên sứ điệp chúc tụng-tạ ơn của những người nghèo của Thiên Chúa mà những kẻ đại diện lại là những nhân vật quyết định cho biến cố cứu độ: Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông Đồ, Hội Thánh Chúa Kitô…
Ngày từ Bài Giảng đầu tiên khai mạc công cuộc tuyên rao Tin Mừng, Đức Kitô đã dõng dạc công bố “Con đường phúc thật” mà trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay đã tóm tắt qua 4 hạng người tiêu biểu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…Phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải đói…, phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải khóc…., phúc cho anh em vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa…” (Lc 6,20-22)
Và cũng giống như Giêrêmia đưa ra 2 loại người bị chúc dữ và được chúc phúc đối lập nhau, Đức Kitô sau khi nêu bật những kẻ được chúc phúc, đã công bố thân phận của 4 hạng người bị chúc dữ: những kẻ giàu, những người no nê, những người vui cười và những kẻ được ca tụng…
Và Ngài cũng đã minh thị xác nhận rằng: Kẻ nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, chính là đối tượng của sự mặc khải của Thiên Chúa, là ưu tiên một trong bảng xếp hạng tiến vào Nước Trời:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đât, con xin ngời khen Cha…”(Mt 11,25).
“Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
Và Tin Mừng đã minh chứng Ngài đã lựa chọn làm người trong thân phận một kẻ nghèo thật sự:
* Sinh trong cảnh nghèo: Hang lừa, máng cỏ…
* Sống nghèo: Nghề thợ mộc,
* Đi rao giảng trong cảnh nghèo: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9, 58).
* Quan hệ, quan tâm đến những kẻ nghèo, thấp cổ bé miệng, bị loại trừ, tội lỗi, bệnh hoạn tật nguyền…
* Và sau cùng chết trần trụi trên cây thánh giá...
Và chúng ta còn nhận ra rằng, những kẻ liên kết mật thiết với Đức Kitô, thì cũng đã hoàn toàn để cho Tin Mừng nghèo khó thấm nhập vào cả cuộc đời:
Chính “Người thôn nữ Maria ở Na-da-rét”, Mẹ Đấng Cứu Thế, đã cảm nghiệm sâu xa hồng ân cao cả của Thiên Chúa dành cho kẻ thấp hèn nên đã cất cao lời ca khen chúc tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…” (Lc 1,46-55)
Những con người như Thánh Cả Giuse, các Thánh Tông Đồ, và kế tiếp suốt 2000 năm nay, bao thế hệ Kitô tô hữu muôn nơi muôn thuở với những gương mặt như Phanxicô thành Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Maximilien Kolbe, Anre Phú Yên, Mẹ Têrêsa thành Calcutta… đã quyết chọn thái độ khó nghèo để phục vụ tình yêu Thiên Chúa và hiến dâng cuộc đời như lời ca khen chúc tụng và như của lễ cảm tạ tri ân..
Trong giây phút thiêng liêng khi trời đất giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà định hướng thái độ sống đức tin cho suốt một năm, năm Canh Dần, năm Con Cọp.
Chính trong cái biểu tượng uy hùng, manh mẽ của con cọp mà chúng ta ý thức chức phận cao cả của ơn gọi cuộc đời Kitô hữu, một cơn gọi và cuộc đời không phải để sống khiếp nhược nhưng anh hùng, không yếu hèn nhưng mạnh mẽ; cái mạnh mẽ của “những vì sao chiếu sáng trong bầu trời” (như ngôn ngữ của Thánh Phaolô), cái mạnh mẽ như “ngọn đèn cháy sáng, như men vùi trong thúng bột” (ngôn từ và hình ảnh của chính Chúa Giêsu).
Tuy nhiên, cái mạnh mẽ đó, cái uy hùng đó không bao giờ lại dính bén chút nào tới cái kiêu căng, hợm hĩnh, trịch thượng, vô tín vô tâm trước Thiên Chúa và với anh em mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay cảnh báo bằng cụm từ “khốn cho những kẻ…”, mà là cái mạnh mẽ uy dũng của “người chứng nhân Tin Mừng”, của người Tông Đồ làm chứng sức mạnh của tình yêu phục vụ và khiêm tốn, quảng đại và biết sẻ chia. Đó chính là cái mạnh mẽ của chính Chúa Giêsu, Đấng đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến thân chịu chết cho muôn người; là cái mạnh mẽ của Phêrô can đảm thân thưa với Thầy Chí Thánh: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”; là cái mạnh mẽ của các Tông Đồ “hân hoan vui mừng vì được chịu đau khổ bách hại vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng”; là cái mạnh mẽ của Đức Trinh Nữ Maria can đảm đứng dưới chân thập giá để liên kết với Con trong hành trình khổ nạn và Hy tế Thập Giá; là cái mạnh mẽ của những bao vị Thánh Tử đạo sẵn sàng đón nhận gươm đao, tù đầy, đầu rơi máu chảy chứ không thể khước từ mình thuộc về Chúa Kitô; là cái mạnh mẽ của cô gái Maria Goretti, can đảm bảo vệ đức khiết trinh cho dù lảnh đủ 14 nhát dao cho tới chết; hay của chàng thanh niên 19 tuổi Anrê Phú Yên, tươi vui mang gông ra pháp trường thành Chiêm và cõi lòng vui như mở hội vì được “đáp trả tình yêu” cho chính Chúa Kitô, Đấng đã yêu thương mình…
Bắt đầu một Năm mới cũng là dịp để chúng ta cùng đổi mới. Thay đổi cuộc sống, đổi mới tâm hồn sao cho cuộc hành trình đức tin không bao giờ là một lặp lại nguyên xi những thói quen cũ mòn xơ cứng, như cái nhìn của nhà thơ Thế lữ gieo vào đầu óc của con cọp bị nhốt trong sở thú trong bài thơ “Nhớ rừng”, đã khinh chê cái tầm thường, giả dối của những hòn non bộ:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Trước thềm năm mới, chúng ta cầu chúc cho nhau “nhật nhật tân”, mỗi ngày mỗi đổi mới trên nền tảng của Tin Mừng, Tin Mừng Tám Mối Phúc Thật, Tin Mừng bác ái yêu thương, Tin Mừng khiêm nhu nghèo khó, Tin Mừng phó thác trông cậy, Tin mừng kiên nhẫn tin yêu, Tin Mừng can đảm nói không với trào lưu buông tuồng mất nết của nền văn minh sự chết, văn minh hưởng thụ và ích kỷ, để sẵn sàng nói có với những giá trị luân lý Công Giáo, với các nhân đức anh hùng của Phúc âm. Và như thế, biểu tượng của Con Cọp, của Năm Dần sẽ mang theo một chiều kích tích cực để tát cả chúng ta cùng nỗ lực lên đường như lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt nam trong thư công bố Năm Thánh 2010:
“Vì thế, khi xây dựng đời sống mình trên nền tảng những giá trị Tin Mừng như bác ái, liêm chính và quí trọng công ích, anh chị em chính là những công dân tốt, tích cực tham gia vào việc xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Qua anh chị em, Giáo Hội đóng góp phần mình vào việc phát triển con người và xã hội cách toàn diện, trong tinh thần đối thoại chân thành, hợp tác lành mạnh và tôn trọng lẫn nhau…”
Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện đầu năm của chúng ta. Amen.
(BĐ Chúa Nhật VI Thường niên C)
Cái uy dũng của người Kitô hữu
Dẫn nhập đầu lễ:
Kính thưa….
Trước hết, trong buổi sáng tinh mơ của ngày Đầu Năm Mới, năm (Canh Dần, 2010), tôi xin được kính chúc Quí Cha, Quí Thầy, Quí nữ tu hai hội dòng Phaolô và MTGQN, cùng toàn thể ÔBACE, đặc biệt các Vị cao niên, các bạn trẻ, các em thiếu nhi và những người ngheo đơn bệnh tật, một Năm Mới đầy tràn bình an và hạnh phúc, một Xuân Mới chan hòa niềm vui và ân lộc của Thiên Chúa. (Cho một tràng pháo tay).
Tuy nhiên, tất cả chúng ta đều đồng cảm và đồng xác tín rằng: chúng ta có mặt đông đảo nơi đây, sum họp sớm sủa trong những giờ đầu tiên của Năm Mới nầy, phải chắng trước tiên là để chúc mừng Thiên Chúa, hay nói theo ngôn ngữ truyền thống bình dân của giáo dân Qui Nhơn chúng ta, đó là “Mừng tuổi Chúa”, mà nội dung và ý nghĩa cốt yếu đó là: Tạ Ơn và dâng Năm Mới cho Thiên Chúa để xin Ngài ban phúc lành bình an và muôn điều tốt lành cho thế giới, cho Hội Thánh, cho Đất Nước quê hương VN, cho mọi gia đình và tất cả chúng ta.
Mùa Xuân năm nay lại về trong Năm Thánh Giáo Hội Việt nam.
Trong ý nghĩa đó, thánh lễ Minh Niên nầy sẽ là món quà quý giá nhất chúng ta dâng lên để “mừng tuổi Chúa”, và là lời chúc tốt đẹp nhất chúng ta dành cho nhau.
Giờ đây, chúng ta hãy nhìn nhận tội lõi chúng ta để xứng đáng cử hành Thánh lễ.
Giáng Lời Chúa:
Theo văn học dân gian, trong 12 Con Giáp, Dần được xếp hạng 3 (Tý, Sửu, Dần) qua cuộc đua việt dã do Ngọc Hoàng Thượng Đế tổ chức. Nhân ngày đầu năm Dần, năm con cọp lên chức hành khiển, có thể rút ra một đôi điều từ sự kiện nầy.
Dân ta gọi Dần là Hổ, Hùm, Cọp, Hạm, Hầm, Khái; đôi lúc vì kính sợ kêu là Ông Ba Mươi hay Ông Kễnh. Vì Hổ có sức mạnh vô địch trong các loài thú nên được phong là Chúa Sơn Lâm. Chắc bạn đã có dịp nhìn trên truyền hình hay đọc báo National Geographic, những con mãnh hổ đuổi theo đàn trâu nước, bò mộng, hươu nai…như gíó cuốn tàn khốc. Chính vì thế Hổ đựoc ghép với một từ khác biểu hiệu sức mạnh uy dũng như như môn võ Hổ quyền-chó sói Hổ lang-rắn độc Hổ lửa, Hổ mang-tướng trăm trận trăm thắng Hổ tướng- phù hiệu hành quân cắt đôi, vua giũ một nửa, một nửa ban cho tướng chỉ huy là Hổ phù-cửa ra vào dinh tướng Hổ môn, hang hổ gọi Hổ huyệt-, bản doanh đóng quân của tướng lãnh Hổ trướng-xương Cọp nấu thành cao chữa bá bệnh là Hổ cốt-trong bát trân (8 món ăn) của các hoàng đế Nhà Đường Trung Hoa món bao tử cọp cũng được kể tên…
Cũng chính với cái biểu tượng oai hùng, uy dũng đó mà nhà thơ Thế Lữ đã có một bài thơ bất hủ về con cọp, bài “Nhớ Rừng” để ví von cảnh tù ngục của một con cọp bị giam trong củi sắt với thân phận của một nhà cách mạng bị lao tù. Xin trích:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành, hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm-thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể muôn của loài
Giữa chốn thảo hoa, không tên không tuổi.
Nhưng không phải lúc nào cọp cũng được xem trọng. Cũng trong dòng văn học bình dân, đôi khi cọp được cho là con vật “hữu dõng vô mưu” như câu chuyện sau:
Trong sách Giáo khoa xưa có truyện tích dạy đời ‘Trí khôn loài người’. Một hôm, có chú Cọp mò về làng rình bắt trâu bò, nhìn thấy trong ruộng bùn 1 con trâu lớn ì ạch kéo cày dưới làn roi điều khiển của bác nông phu. Nó lấy làm lạ tại sao con trâu to lón lại nghe lời con người nhỏ bé kia, liền cất tiếng hỏi:
- Thưa tại sao ông nhỏ bé thế mà con trâu to lớn phải nghe lời ông?
- Vì ta có trí khôn. - Người nông phu đáp.
- Ông có thể cho tôi xem trí khôn của ông được không?
- Tao để quên ở nhà.
- Ông có thể về lấy cho tôi xem được chứ?
- Dễ thôi, nhưng với điều kiện ta phải trói ngươi lại để khi ta về lấy ‘trí khôn’ ngươi không thể ăn thịt trâu ta.
Cọp đồng ý. Thế là bác nông phu lấy giây thừng trói chặt Cọp vào gốc cây rồi châm lửa đốt. Cọp biết bị lừa cố vùng vẫy thoát thân chạy vào rừng, còn nghe tiếng gọi lớn đàng xa vọng lại “ Trí khôn ta đây ! Trí khôn ta đây ! “. Tuy thoát chết, nhưng trên da Cọp còn lưu lại vết cháy rằn ri muôn đời không xóa sạch...
Và có lẽ câu chuyện ngày mồng 3 tháng 7 năm 1991 tại bờ sông Fraser, cách thành phố Vancouver, Canada l;à ý nghĩa nhất để chúng ta cùng suy niệm trong năm Con Cọp nầy:
Larrane Leech là một cô nuôi trẻ, 44 tuổi, tại làng Lillooet, cạnh bờ sông Fraser, cách thành phố Vancouver, Canada 200 cây số. Làng này hẻo lánh thưa người, có rừng núi hoang vu bao bọc, nên thú rừng thường xuất hiện.
Một hôm, cô dẫn 5 em bé cô coi sóc ra bờ sông để hái trái dâu dại, và chơi đùa. Các em này còn rất thơ ngây, chỉ từ 2 đến 5 tuổi. Sau khi hái dâu, cô dẫn các em ra bãi cát bờ sông chơi trò “bỏ khăn”. Đang chơi, bỗng cô thấy các em im lặng, một thứ im lặng hồi hộp dễ sợ… thì ra một con hùm tơ đang liếm mặt Mikey, 2 tuồi, bé trai duy nhất trong bọn. Cô sợ lặng đi đến mấy chục giây. Bình tĩnh lại, cô ra lệnh ngay cho con hùm:
- Không được liếm mặt bé Mikey nữa!
Trong khi đó bé Mikey sợ điếng người. ngồi không nhúc nhích. Thế là cô lao lại phía con hùm, tính kéo đuôi cho nó xa em Mikey ra, nhưng cô lại vươn hai tay thộp cổ con hùm, lắc qua lắc lại. Con hùm bị tấn công, nó nghiêng ra cào vào mặt hai em khác đang đứng chết trân cạnh đó, rồi nó quay lại vươn hai chân trước vồ túm đầu cô Larrane. Cô đưa hai tay ra đỡ, túm chắc hai chân con hùm, đẩy nhau với nó, trong khi cô la lớn “các con lại núp sau lưng cô!” Đám trẻ chạy xón lại sau lưng cô, đồng thanh la hét “cút! cút! cút!…” Cô Larrane tuy đã mệt, nhưng tiếng hét của đám trẻ làm cô lên tinh thần, cô trợn mắt há miệng hét vào mặt con hùm: “Mày cút đi đề cho chúng tao yên!” vừa nói cô vừa lấy hết sức bình sinh đẩy con hùm. Con hùm tơ bị đẩy quá mạnh, nó ngã chúi xuống, rồi lồm cồm bò dậy, cúp đuôi chạy vào rừng.
Vì lòng can đảm, tình yêu thương trẻ và trách nhiệm nghề nghiệp, cô Larrane đã đuổi được con hùm, đùm bọc cho đám trẻ thoát miệng cọp dữ, tuy cũng phải một phen hú vía kinh hồn.
Chắc chắn cô không thể quên cuộc đuổi hổ, ngày mồng 3 tháng 7 năm 1991 ấy.
Từ câu chuyện đó, tôi muốn cộng đoàn chúng ta hướng về sứ điệp Lời Chúa của Chúa Nhật hôm nay, Chúa Nhật của ngày Tết Nguyên Đán.
Lời Chúa hôm nay gần như tập chú để nói với chúng ta rằng: thái độ đức tin đúng đắn nhất của người Kitô hữu phải chăng là khiêm hạ, khó nghèo, một thái độ đã được chính Chúa hướng dẫn và huấn luyện trong suốt dòng chảy của licghj sử cứu độ từ Cựu ước sang Tân ước, đó là thái độ đức tin của “những người nghèo của Gia-Vê” (Anawim), những người đặt hết niềm tin tưởng phó thác cho tình thương và quyền năng của Thiên Chúa trong ý thưc thân phận bé nhỏ khiêm nhu của chính mình. Chính thái độ đó đã mang về hạnh phúc đích thực như Giêrêmia đã tuyên cáo trong BĐ 1 hôm nay:
Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa, và có Đức Chúa làm chỗ nương thân. Người ấy như cây trồng bên dòng nước, đâm rễ sâu vào mạch suối trong, …”
Thái độ đó, tâm tình đó hoàn toàn đối nghịch với hạng người giàu bất cần Thiên Chúa, vô tín và kiêu căng, đặt mọi giá trị và cùng đích trên chính bản thân mình… cũng được sứ ngôn Giêrêmia nói đến chính nơi trích đoạn sách thánh nầy:
“”Đáng nguyền rũa thay kẻ tin ở người đời, lấy sức phàm nhân làm nơi nương tựa, và lòng dạ xa rời Đức Chúa ! Người đó sẽ như bụi cây trong hoang địa, chẳng được thấy hạnh phúc bao giờ…”
Tiếp nối dòng chảy của Cựu ước, Tân ước tiếp tục làm vang lên sứ điệp chúc tụng-tạ ơn của những người nghèo của Thiên Chúa mà những kẻ đại diện lại là những nhân vật quyết định cho biến cố cứu độ: Đức Giêsu Kitô, Đức Trinh Nữ Maria, Thánh Cả Giuse, Thánh Gioan Tẩy giả, các Tông Đồ, Hội Thánh Chúa Kitô…
Ngày từ Bài Giảng đầu tiên khai mạc công cuộc tuyên rao Tin Mừng, Đức Kitô đã dõng dạc công bố “Con đường phúc thật” mà trình thuật Tin Mừng Luca hôm nay đã tóm tắt qua 4 hạng người tiêu biểu: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…Phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải đói…, phúc cho anh là những kẻ bây giờ phải khóc…., phúc cho anh em vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xóa tên như đồ xấu xa…” (Lc 6,20-22)
Và cũng giống như Giêrêmia đưa ra 2 loại người bị chúc dữ và được chúc phúc đối lập nhau, Đức Kitô sau khi nêu bật những kẻ được chúc phúc, đã công bố thân phận của 4 hạng người bị chúc dữ: những kẻ giàu, những người no nê, những người vui cười và những kẻ được ca tụng…
Và Ngài cũng đã minh thị xác nhận rằng: Kẻ nghèo hèn, thấp cổ bé miệng, chính là đối tượng của sự mặc khải của Thiên Chúa, là ưu tiên một trong bảng xếp hạng tiến vào Nước Trời:
“Lạy Cha là Chúa tể trời đât, con xin ngời khen Cha…”(Mt 11,25).
“Thầy bảo thật anh em: nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 18,3).
Và Tin Mừng đã minh chứng Ngài đã lựa chọn làm người trong thân phận một kẻ nghèo thật sự:
* Sinh trong cảnh nghèo: Hang lừa, máng cỏ…
* Sống nghèo: Nghề thợ mộc,
* Đi rao giảng trong cảnh nghèo: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Lc 9, 58).
* Quan hệ, quan tâm đến những kẻ nghèo, thấp cổ bé miệng, bị loại trừ, tội lỗi, bệnh hoạn tật nguyền…
* Và sau cùng chết trần trụi trên cây thánh giá...
Và chúng ta còn nhận ra rằng, những kẻ liên kết mật thiết với Đức Kitô, thì cũng đã hoàn toàn để cho Tin Mừng nghèo khó thấm nhập vào cả cuộc đời:
Chính “Người thôn nữ Maria ở Na-da-rét”, Mẹ Đấng Cứu Thế, đã cảm nghiệm sâu xa hồng ân cao cả của Thiên Chúa dành cho kẻ thấp hèn nên đã cất cao lời ca khen chúc tụng:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng…
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
Dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường…” (Lc 1,46-55)
Những con người như Thánh Cả Giuse, các Thánh Tông Đồ, và kế tiếp suốt 2000 năm nay, bao thế hệ Kitô tô hữu muôn nơi muôn thuở với những gương mặt như Phanxicô thành Assisi, Têrêsa Hài Đồng Giêsu, Maximilien Kolbe, Anre Phú Yên, Mẹ Têrêsa thành Calcutta… đã quyết chọn thái độ khó nghèo để phục vụ tình yêu Thiên Chúa và hiến dâng cuộc đời như lời ca khen chúc tụng và như của lễ cảm tạ tri ân..
Trong giây phút thiêng liêng khi trời đất giao mùa, chúng ta có dịp ngồi lại với nhau trước mặt Chúa để nhờ ánh sáng của Lời Ngài mà định hướng thái độ sống đức tin cho suốt một năm, năm Canh Dần, năm Con Cọp.
Chính trong cái biểu tượng uy hùng, manh mẽ của con cọp mà chúng ta ý thức chức phận cao cả của ơn gọi cuộc đời Kitô hữu, một cơn gọi và cuộc đời không phải để sống khiếp nhược nhưng anh hùng, không yếu hèn nhưng mạnh mẽ; cái mạnh mẽ của “những vì sao chiếu sáng trong bầu trời” (như ngôn ngữ của Thánh Phaolô), cái mạnh mẽ như “ngọn đèn cháy sáng, như men vùi trong thúng bột” (ngôn từ và hình ảnh của chính Chúa Giêsu).
Tuy nhiên, cái mạnh mẽ đó, cái uy hùng đó không bao giờ lại dính bén chút nào tới cái kiêu căng, hợm hĩnh, trịch thượng, vô tín vô tâm trước Thiên Chúa và với anh em mà sứ điệp Lời Chúa hôm nay cảnh báo bằng cụm từ “khốn cho những kẻ…”, mà là cái mạnh mẽ uy dũng của “người chứng nhân Tin Mừng”, của người Tông Đồ làm chứng sức mạnh của tình yêu phục vụ và khiêm tốn, quảng đại và biết sẻ chia. Đó chính là cái mạnh mẽ của chính Chúa Giêsu, Đấng đến không phải để được phục vụ mà là phục vụ và hiến thân chịu chết cho muôn người; là cái mạnh mẽ của Phêrô can đảm thân thưa với Thầy Chí Thánh: “Bỏ Thầy con biết đến cùng ai vì Thầy có Lời ban sự sống đời đời”; là cái mạnh mẽ của các Tông Đồ “hân hoan vui mừng vì được chịu đau khổ bách hại vì Chúa Kitô và vì Tin Mừng”; là cái mạnh mẽ của Đức Trinh Nữ Maria can đảm đứng dưới chân thập giá để liên kết với Con trong hành trình khổ nạn và Hy tế Thập Giá; là cái mạnh mẽ của những bao vị Thánh Tử đạo sẵn sàng đón nhận gươm đao, tù đầy, đầu rơi máu chảy chứ không thể khước từ mình thuộc về Chúa Kitô; là cái mạnh mẽ của cô gái Maria Goretti, can đảm bảo vệ đức khiết trinh cho dù lảnh đủ 14 nhát dao cho tới chết; hay của chàng thanh niên 19 tuổi Anrê Phú Yên, tươi vui mang gông ra pháp trường thành Chiêm và cõi lòng vui như mở hội vì được “đáp trả tình yêu” cho chính Chúa Kitô, Đấng đã yêu thương mình…
Bắt đầu một Năm mới cũng là dịp để chúng ta cùng đổi mới. Thay đổi cuộc sống, đổi mới tâm hồn sao cho cuộc hành trình đức tin không bao giờ là một lặp lại nguyên xi những thói quen cũ mòn xơ cứng, như cái nhìn của nhà thơ Thế lữ gieo vào đầu óc của con cọp bị nhốt trong sở thú trong bài thơ “Nhớ rừng”, đã khinh chê cái tầm thường, giả dối của những hòn non bộ:
Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ sén, lối phẳng, cây trồng;
Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành không bí hiểm
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.
Trước thềm năm mới, chúng ta cầu chúc cho nhau “nhật nhật tân”, mỗi ngày mỗi đổi mới trên nền tảng của Tin Mừng, Tin Mừng Tám Mối Phúc Thật, Tin Mừng bác ái yêu thương, Tin Mừng khiêm nhu nghèo khó, Tin Mừng phó thác trông cậy, Tin mừng kiên nhẫn tin yêu, Tin Mừng can đảm nói không với trào lưu buông tuồng mất nết của nền văn minh sự chết, văn minh hưởng thụ và ích kỷ, để sẵn sàng nói có với những giá trị luân lý Công Giáo, với các nhân đức anh hùng của Phúc âm. Và như thế, biểu tượng của Con Cọp, của Năm Dần sẽ mang theo một chiều kích tích cực để tát cả chúng ta cùng nỗ lực lên đường như lời mời gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt nam trong thư công bố Năm Thánh 2010:
“Vì thế, khi xây dựng đời sống mình trên nền tảng những giá trị Tin Mừng như bác ái, liêm chính và quí trọng công ích, anh chị em chính là những công dân tốt, tích cực tham gia vào việc xây dựng một xã hội công bằng, liên đới và bình đẳng. Qua anh chị em, Giáo Hội đóng góp phần mình vào việc phát triển con người và xã hội cách toàn diện, trong tinh thần đối thoại chân thành, hợp tác lành mạnh và tôn trọng lẫn nhau…”
Xin Chúa chúc lành cho những ước nguyện đầu năm của chúng ta. Amen.
Tấm thiệp ngày đầu Xuân
Lm Đaminh Nguyễn Ngọc Long
09:25 12/02/2010
Tấm thiệp ngày đầu Xuân
Bước sang Xuân năm Mới chúng ta thường gửi thiệp chúc mừng cùng cám ơn nhau. Đây là nghĩa cử sâu đậm nét văn hóa và tình nghĩa con người.
Mùa Xuân năm mới về trong đất trời, công trình sáng tạo thiên nhiên.
Mùa Xuân năm mới thể hiện bằng hình ảnh trong chữ viết thi ca của những áng văn chương.
Và Mùa Xuân năm mới về với lòng con người.
Tâm tình rộn ràng niềm vui đón mừng mùa Xuân mới không chỉ bừng lên trong tầng thần kinh cảm giác cùng nơi trái tim, nhưng lan tỏa sang tới trí khôn suy nghĩ nữa.
Cách tính phân chia thời gian theo mặt Trăng, còn gọi là Âm Lịch, năm nay cánh cửa mùa Xuân năm mới Âm lịch có tên Canh Dần.
Cách tính phân chia theo Mặt Trời của Dương lịch dựa trên căn bản con số, mỗi năm có tên theo số thứ tự,. Năm Mới bắt đầu với tháng Một. Tháng Một theo chữ nghĩa tây phương có tên Januar (Đức ngữ), January ( Anh ngữ), Janvier( Pháp ngữ). Tên này đặt dựa theo tên vị thần của người Roma bằng tiếng Latinh: Janus. Vị thần Janus được người Roma kính thờ như vị thần canh giữ cửa nhà. Vì thế họ khắc đầu vị Thần này với hai khuôn mặt, một ở bên trong và một ở bên ngoài bên ngoài cánh cửa nhà. Truyền thống văn hóa tập tục dân gian đó dần ăn sâu vào nếp sống xã hội. Và vì thế người ta lấy tên Janus đặt tên cho tháng thứ nhất của năm Dương lịch. Và Tháng thứ nhất của năm, tháng Một, là tháng tựa như cánh cửa mở sang năm mới.
Còn theo Âm lịch, mỗi năm có một tên riêng. Năm mới bắt đầu vào thời tiết mùa Xuân. Mùa Xuân mới năm nay có con Hổ cùng đồng hành đi vào xuyên suốt cả năm: Canh Dần.
Hổ là một loại mèo rừng to lớn có nanh vuốt một thú dữ, được kể như vua của lòai thú vật sống trong vùng rừng núi hoang dã, ăn thịt sống heo rừng, nai, hưu,chuột, chó sói con.. . Chúng sống trong vùng núi cao, rừng rậm và được gọi là chúa của vùng đồi núi. Loài thú dữ này chạy rất nhanh, răng nhọn nanh vuồt sắc bén, đôi mắt sáng nhìn trời tối ban đêm rất tinh, tai thính, mũi ngửi mùi rất bén nhậy. Chúng chạy nhảy chuyền lượn lẹ làng nhẹ nhàng thoăn thoắt từ chỏm núi đá này sang chỏm núi đá bên kia. Chú Hổ được kể xếp vào loài mèo rừng.
Tuy được xếp vào loại giống mèo, nhưng chú Hổ có thân hình to lớn, nó có thể chạy nhảy phóng bay xa từ 2 mét tới 8 mét khi săn đuổi con mồi. Con Hổ mái có trọng lượng nặng tới hơn 150 kýlô; con Hổ trống có sức cân nặng đến 300 kýlô.
Loài Hổ sống tụ tập bên vùng rừng rậm Indonesia, bên Ấn Độ, bên Trung quốc, bên Tây bá lợi Á. Mầu lông da của Hổ có nhiều vân rằn ri đẹp lắm. Ngày nay người ta chế biến kiểu mầu quần áo rằn ri đốm khoang đen trắng hay vàng giống như kiểu lông con Hổ, rất hấp dẫn các nữ khách hàng.
Loài Hổ là loài thú vật biểu tượng của sức mạnh, yếu tố giống đực. Nhưng loài Hổ có da lông mầu trắng lại là biệu tượng loài thú vật giống cái.
Theo truyền thuyết của văn hóa xưa nay trong cách tính phân chia Âm lịch, con Hổ đứng hàng thứ ba trong vòng 12 con thú vật của Âm lịch.
Hình ảnh con Hổ được sơn hay vẽ dán ở trên cửa hay bên đố cửa nhà với ý nghĩ mong muốn để canh giữ cửa nhà chống lại thần dữ, sự xấu.
Con Hổ có lối sống hung bạo, nhưng lại có đặc tính can đảm. Đặc tính này cần thiết cho con người trong đời sống. Ai cũng đã đang và sẽ còn trải qua những khúc đường đời sống phức tạp khó khăn. Những khi gặp vướng vào hòan cảnh như thế, lòng can đảm kiên trì rất cần thiết giúp giữ vững ý chí vượt qua khó khăn. Có thế mới đạt tới đích điểm mong muốn.
Lòng can đảm không phải là tính cứng nhắc hay nhu nhược mềm yếu. Trái lại là lối sống âm thâm chịu đựng, biết tự trọng, không để cho con đường đời sống của mình bị ngoại cảnh chi phối làm lung lạc, một khi đã xác tín là tốt, là đúng cho đời mình rồi. Chả thế mà dân gian có ca dao ngạn ngữ làm phương châm cho đời sống:
„Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Thì ta cứ vững như kiềng ba chân.“
Trong đời sống đức tin Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ: “ Thầy nói với anh em, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Phúc âm Thánh Gioan 16, 33).
Một đời sống can đảm cũng nói lên lòng trung thành với lý tưởng, với người mình dấn thân gắn bó yêu mến.
Nhiều vợ chồng từ khi còn trẻ mới lập mái ấm gia đình với nhau, họ cùng can đảm chia sẻ với nhau bước đường chật vật thiếu thốn, có khi cả bệnh tật nữa, nhất là trong thời gian có con còn nhỏ thơ bé. Chính lòng cảm đảm chấp nhận khó khăn của người vợ hay của người chồng chịu đựng phấn đấu trải qua gian nan, đã giúp gia đình họ đứng vững trung thành với nhau. Và từ căn bản đó họ có niềm vui hạnh phúc.
Thánh Phao lo ngày xưa vượt biển đi truyền giáo gặp giông bão. Ông và đoàn tùy tùng bối rối lo sợ, nhưng khi cập bến cảng bình an găp các tín hữu Chúa Giêsu ra đón tiếp, Ông vui mừng tạ ơn Thiên Chúa và lấy lại can đảm. ( Công vụ Tông đồ 28, 11-16).
Đường đời sống trong năm Mới Canh Dần đang mở ra phía trước, và không ít những gian nan phức tạp về mọi mặt đức tin đạo giáo cũng như đời thường nhật sẽ xảy đến. Nhưng lòng can đảm là nhịp cầu cần thiết giúp duy trì lòng trung thành và ý chí vươn lên.
Chúc mừng năm mới Canh Dần!
Bước sang Xuân năm Mới chúng ta thường gửi thiệp chúc mừng cùng cám ơn nhau. Đây là nghĩa cử sâu đậm nét văn hóa và tình nghĩa con người.
Mùa Xuân năm mới thể hiện bằng hình ảnh trong chữ viết thi ca của những áng văn chương.
Và Mùa Xuân năm mới về với lòng con người.
Tâm tình rộn ràng niềm vui đón mừng mùa Xuân mới không chỉ bừng lên trong tầng thần kinh cảm giác cùng nơi trái tim, nhưng lan tỏa sang tới trí khôn suy nghĩ nữa.
Cách tính phân chia thời gian theo mặt Trăng, còn gọi là Âm Lịch, năm nay cánh cửa mùa Xuân năm mới Âm lịch có tên Canh Dần.
Cách tính phân chia theo Mặt Trời của Dương lịch dựa trên căn bản con số, mỗi năm có tên theo số thứ tự,. Năm Mới bắt đầu với tháng Một. Tháng Một theo chữ nghĩa tây phương có tên Januar (Đức ngữ), January ( Anh ngữ), Janvier( Pháp ngữ). Tên này đặt dựa theo tên vị thần của người Roma bằng tiếng Latinh: Janus. Vị thần Janus được người Roma kính thờ như vị thần canh giữ cửa nhà. Vì thế họ khắc đầu vị Thần này với hai khuôn mặt, một ở bên trong và một ở bên ngoài bên ngoài cánh cửa nhà. Truyền thống văn hóa tập tục dân gian đó dần ăn sâu vào nếp sống xã hội. Và vì thế người ta lấy tên Janus đặt tên cho tháng thứ nhất của năm Dương lịch. Và Tháng thứ nhất của năm, tháng Một, là tháng tựa như cánh cửa mở sang năm mới.
Còn theo Âm lịch, mỗi năm có một tên riêng. Năm mới bắt đầu vào thời tiết mùa Xuân. Mùa Xuân mới năm nay có con Hổ cùng đồng hành đi vào xuyên suốt cả năm: Canh Dần.
Hổ là một loại mèo rừng to lớn có nanh vuốt một thú dữ, được kể như vua của lòai thú vật sống trong vùng rừng núi hoang dã, ăn thịt sống heo rừng, nai, hưu,chuột, chó sói con.. . Chúng sống trong vùng núi cao, rừng rậm và được gọi là chúa của vùng đồi núi. Loài thú dữ này chạy rất nhanh, răng nhọn nanh vuồt sắc bén, đôi mắt sáng nhìn trời tối ban đêm rất tinh, tai thính, mũi ngửi mùi rất bén nhậy. Chúng chạy nhảy chuyền lượn lẹ làng nhẹ nhàng thoăn thoắt từ chỏm núi đá này sang chỏm núi đá bên kia. Chú Hổ được kể xếp vào loài mèo rừng.
Tuy được xếp vào loại giống mèo, nhưng chú Hổ có thân hình to lớn, nó có thể chạy nhảy phóng bay xa từ 2 mét tới 8 mét khi săn đuổi con mồi. Con Hổ mái có trọng lượng nặng tới hơn 150 kýlô; con Hổ trống có sức cân nặng đến 300 kýlô.
Loài Hổ sống tụ tập bên vùng rừng rậm Indonesia, bên Ấn Độ, bên Trung quốc, bên Tây bá lợi Á. Mầu lông da của Hổ có nhiều vân rằn ri đẹp lắm. Ngày nay người ta chế biến kiểu mầu quần áo rằn ri đốm khoang đen trắng hay vàng giống như kiểu lông con Hổ, rất hấp dẫn các nữ khách hàng.
Loài Hổ là loài thú vật biểu tượng của sức mạnh, yếu tố giống đực. Nhưng loài Hổ có da lông mầu trắng lại là biệu tượng loài thú vật giống cái.
Theo truyền thuyết của văn hóa xưa nay trong cách tính phân chia Âm lịch, con Hổ đứng hàng thứ ba trong vòng 12 con thú vật của Âm lịch.
Hình ảnh con Hổ được sơn hay vẽ dán ở trên cửa hay bên đố cửa nhà với ý nghĩ mong muốn để canh giữ cửa nhà chống lại thần dữ, sự xấu.
Con Hổ có lối sống hung bạo, nhưng lại có đặc tính can đảm. Đặc tính này cần thiết cho con người trong đời sống. Ai cũng đã đang và sẽ còn trải qua những khúc đường đời sống phức tạp khó khăn. Những khi gặp vướng vào hòan cảnh như thế, lòng can đảm kiên trì rất cần thiết giúp giữ vững ý chí vượt qua khó khăn. Có thế mới đạt tới đích điểm mong muốn.
Lòng can đảm không phải là tính cứng nhắc hay nhu nhược mềm yếu. Trái lại là lối sống âm thâm chịu đựng, biết tự trọng, không để cho con đường đời sống của mình bị ngoại cảnh chi phối làm lung lạc, một khi đã xác tín là tốt, là đúng cho đời mình rồi. Chả thế mà dân gian có ca dao ngạn ngữ làm phương châm cho đời sống:
„Dù ai nói ngả nói nghiêng,
Thì ta cứ vững như kiềng ba chân.“
Trong đời sống đức tin Chúa Giêsu đã từng nhắn nhủ: “ Thầy nói với anh em, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Phúc âm Thánh Gioan 16, 33).
Một đời sống can đảm cũng nói lên lòng trung thành với lý tưởng, với người mình dấn thân gắn bó yêu mến.
Nhiều vợ chồng từ khi còn trẻ mới lập mái ấm gia đình với nhau, họ cùng can đảm chia sẻ với nhau bước đường chật vật thiếu thốn, có khi cả bệnh tật nữa, nhất là trong thời gian có con còn nhỏ thơ bé. Chính lòng cảm đảm chấp nhận khó khăn của người vợ hay của người chồng chịu đựng phấn đấu trải qua gian nan, đã giúp gia đình họ đứng vững trung thành với nhau. Và từ căn bản đó họ có niềm vui hạnh phúc.
Thánh Phao lo ngày xưa vượt biển đi truyền giáo gặp giông bão. Ông và đoàn tùy tùng bối rối lo sợ, nhưng khi cập bến cảng bình an găp các tín hữu Chúa Giêsu ra đón tiếp, Ông vui mừng tạ ơn Thiên Chúa và lấy lại can đảm. ( Công vụ Tông đồ 28, 11-16).
Đường đời sống trong năm Mới Canh Dần đang mở ra phía trước, và không ít những gian nan phức tạp về mọi mặt đức tin đạo giáo cũng như đời thường nhật sẽ xảy đến. Nhưng lòng can đảm là nhịp cầu cần thiết giúp duy trì lòng trung thành và ý chí vươn lên.
Chúc mừng năm mới Canh Dần!
Mỗi ngày một câu chuyện
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:29 12/02/2010
TỔ CHỨC LẠI TỪ ĐẦU
Căn cứ vào truyền thuyết nọ, khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật thì hoàn toàn tráng lệ đẹp đẽ, sa-tan cũng dùng cách thức độc đáo của nó để chia sẻ niềm vui với Ngài. Khi Lu-xi-phe chăm chú nhìn cảnh tượng đẹp mê ly hiện ra trước mắt, bất giác kinh ngạc kêu lên:
- “Tốt lắm, chúng ta đến tổ chức lại tất cả.”
- “Sau đó thì phá hỏng tất cả.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Thiên Chúa -vì yêu thương- nên đã tạo dựng trời đất muôn vật tốt lành và đẹp đẽ, nhưng ma quỷ -vì ghen ghét- đã phá hỏng sự tốt đẹp ấy của Thiên Chúa nơi con người, là loài được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài.
Cho nên, người Ki-tô hữu đều phải luôn cảnh giác trước những phá hoại của ma quỷ trên con người của mình.
Sự phá hoại đó đối với thế gian là tốt đẹp vì nó đem lại vinh hoa phú quý và hưởng thụ cho con người, nhưng đối với người Ki-tô hữu thì là những vinh hoa phú quý đó sẽ thoáng qua như gió thổi mây trôi, và dễ làm cho con người mất linh hồn mình.
Yêu là tạo dựng – ghét là phá hoại.
Yêu là gom lại – ghét là phân tán.
Yêu là khiêm tốn – ghét là kiêu ngạo.
Yêu là hy sinh – ghét là ích kỷ.
Yêu là cho đi – ghét là vứt bỏ.
-----------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
N2T |
Căn cứ vào truyền thuyết nọ, khi Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật thì hoàn toàn tráng lệ đẹp đẽ, sa-tan cũng dùng cách thức độc đáo của nó để chia sẻ niềm vui với Ngài. Khi Lu-xi-phe chăm chú nhìn cảnh tượng đẹp mê ly hiện ra trước mắt, bất giác kinh ngạc kêu lên:
- “Tốt lắm, chúng ta đến tổ chức lại tất cả.”
- “Sau đó thì phá hỏng tất cả.”
(Lắng nghe của loài ếch)
Suy tư:
Thiên Chúa -vì yêu thương- nên đã tạo dựng trời đất muôn vật tốt lành và đẹp đẽ, nhưng ma quỷ -vì ghen ghét- đã phá hỏng sự tốt đẹp ấy của Thiên Chúa nơi con người, là loài được Thiên Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài.
Cho nên, người Ki-tô hữu đều phải luôn cảnh giác trước những phá hoại của ma quỷ trên con người của mình.
Sự phá hoại đó đối với thế gian là tốt đẹp vì nó đem lại vinh hoa phú quý và hưởng thụ cho con người, nhưng đối với người Ki-tô hữu thì là những vinh hoa phú quý đó sẽ thoáng qua như gió thổi mây trôi, và dễ làm cho con người mất linh hồn mình.
Yêu là tạo dựng – ghét là phá hoại.
Yêu là gom lại – ghét là phân tán.
Yêu là khiêm tốn – ghét là kiêu ngạo.
Yêu là hy sinh – ghét là ích kỷ.
Yêu là cho đi – ghét là vứt bỏ.
-----------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Chia sẻ Đầu Năm Mới
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:33 12/02/2010
CHIA SẺ ĐẦU NĂM MỚI
(Xuân Canh Dần)
XUÂN CỦA CON NGƯỜI: ƯỚC MƠ VÀ HY VỌNG
1. Năm mới của ước mơ.
Mỗi năm xuân đều đến và mỗi ngày người ta thường ước mơ, nhưng ước mơ đầu năm mới thì luôn là ước mơ mà con người thường hy vọng đạt được.
Năm mới thì khác với năm cũ, bởi vì năm cũ có quá nhiều chuyện đau buồn, nhiều chuyện không vui, và có khi gặp xui xẻo. Do đó mà khi năm mới đến, thì ai ai cũng mơ ước năm mới đến đem lại nhiều bình an và hạnh phúc hơn năm cũ.
Ước mơ của người nghèo là có cơm ngày ba bữa đủ dùng, có công ăn việc làm ổn định.
Ước mơ của các thầy cô giáo là mong muốn thế hệ học trò của mình học hành thành đạt và sẽ là những chủ nhân của đất nước ngày mai.
Ước mơ của những người yêu chuộng hòa bình là mong muốn xã hội công bằng bác ái, mọi người sống yêu thương nhau...
Năm mới đến thì có nhiều ước mơ mới, và ước mơ đầu năm mới thì vẫn luôn là ước mơ mà mọi người mong muốn nhất.
2. Năm mới của hy vọng.
Ngày đầu năm mới, người ta không muốn nói đến chuyện xui xẻo, cũng không muốn nói đến những chuyện buồn trong năm qua, nhưng người ta thích nói đến hy vọng, hy vọng một năm mới đầy mọi sự tốt lành cho mọi người.
Xuân hy vọng là xuân tràn ngập niềm vui, vui bởi vì ai cũng có những hy vọng trong năm mới, bởi vì hy vọng chính là nguyên nhân thúc đẩy con người ta vươn tới, tiến lên và sống vui vẻ trong mọi hoàn cảnh, nhất là những người Ki-tô hữu càng thêm hy vọng vào tình yêu và lòng nhân từ của Thiên Chúa, bởi vì khi cuộc sống của họ ngày càng ngắn đi khi đón mừng năm mới, thì họ càng thêm hy vọng ngày đoàn tụ với Chúa trên thiên đàng sắp đến.
Hy vọng đầu năm mới, hy vọng trong những ngày đầu xuân của mọi người càng được thể hiện cách rõ ràng nhất qua việc chuẩn bị đón Tết đến:
Nơi nhà thờ giáo xứ, cha sở thì lo tìm những câu Kinh Thánh để giáo dân hái lộc trong thánh lễ giao thừa, và mỗi giáo dân hy vọng hái được Lộc Thánh đầu năm sẽ là Lời Chúa soi sáng cuộc sống của họ trong suốt năm mới.
Nơi mỗi gia đình, mọi người đều trang hoàng bàn thờ Chúa và bàn thờ tổ tiên, với những câu đối, những chậu hoa đẹp rực rỡ, để hy vọng một năm mới tốt đẹp với ơn Chúa ban, và sự cầu bàu của ông bà tổ tiên.
Xuân đến, năm mới đến, người người hy vọng, nhà nhà hy vọng, hy vọng ơn Chúa tràn ngập tâm hồn, hy vọng công thành danh toại, hy vọng cuộc sống ấm no hạnh phúc...
XUÂN MỚI – NĂM THÁNH LINH MỤC
Giáo Hội là mùa xuân được bắt đầu từ khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, như thế có thể nói Chúa Thánh Thần là gió mùa xuân khởi đầu từ các thánh tông đồ. Mùa xuân của ơn cứu độ, mùa xuân của ơn thánh, mùa xuân của nhân loại, và mùa xuân đem ơn cứu rỗi cho nhân loại.
Xuân mới năm nay, Giáo Hội hoàn vũ đang trong thời gian mừng Năm Thánh Linh Mục, mở ra một năm hồng ân, sám hối hòa giải, cho các linh mục của Giáo Hội, để các ngài với vai trò là mục tử của đoàn chiên nhận ra căn tính đích thực của thiên chức linh mục chính là Tế Lễ, Phục Vụ và Hy Sinh như chính Chúa Giê-su vậy.
Linh mục vẫn luôn là mùa xuân của các linh hồn, bởi vì mùa xuân là sự bắt đầu, từ nơi các linh mục mọi sự được bắt đầu cho đời sống thiêng liêng của người Ki-tô hữu, chính nơi các linh mục mà sự sống ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô tràn trề tuôn xuống trong tâm hồn của người Ki-tô hữu, do đó mà toàn thể giáo hữu của Giáo Hội trên khắp hoàn cầu đều hy vọng các linh mục của mình ngày càng nên hoàn hảo hơn trong đức ái, và mong ước các linh mục của mình ngày càng thánh thiện hơn trong công việc mục vụ của các ngài.
1. Hy vọng.
Cứ mỗi năm mới đến, mùa xuân tới, giáo dân đều chúc tết các cha sở của mình qua năm mới mạnh khỏe hơn để phục vụ, tràn đầy ơn Chúa để dẫn dắt giáo dân, nhưng ít có giáo dân nào chúc tết cha sở mình: mong cha sống hiền lành, hòa đồng với mọi người và vui vẻ với các người già cũng như người trẻ.
Giáo dân hy vọng gì nơi linh mục trong năm mới của năm thánh linh mục này ?
Thưa, giáo dân hy vọng đầu năm mới của năm thánh linh mục này, các linh mục luôn trở thành mẫu mực nhân đức cho họ; hy vọng các linh mục thoát ra khỏi cái vỏ quan liêu hách dịch để trở nên người phục vụ bàn thánh và dân thánh Chúa; hy vọng các linh mục không đi theo trào lưu của thời đại thế tục, nhưng luôn trở thành người bắt kịp và đi trước thời đại để nắm bắt được những cái hay của thời đại mà ứng dụng vào công việc mục vụ truyền giáo của mình, hoặc để thấu hiểu những cái xấu của thời đại để trở thành hàng rào chắn không cho nó thâm nhập vào tâm hồn của các giáo dân trẻ của mình.
Giáo dân nào cũng hy vọng trong Xuân mới của năm thánh linh mục này, các linh mục của mình luôn trở thành mùa xuân và là niềm vui của họ, bởi vì nếu linh mục không trở nên mùa xuân và niềm vui của giáo xứ, thì giáo xứ sẽ vắng bóng nụ cười thông cảm và hoan lạc, giáo xứ sẽ trở thành nơi vắng vẻ thiếu nắng đẹp yêu thương.
2. Phục vụ.
Khi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI công bố Năm Thánh Linh Mục (19.6.2009 – 19.6.2010), là chính ngài đã kéo mùa xuân đến cho Giáo Hội trên toàn thế giới, bởi vì các linh mục là mùa xuân, và nhờ năm thánh này mà các ngài nhìn lại đời sống thánh hiến và tận hiến của mình, để từ đó mà nhận ra căn tính linh mục của mình được phát xuất từ Chúa Giê-su Ki-tô Linh Mục, là vị thượng tế đời đời theo phẩm hàm Men-ki-sê-đê, mà căn tính của linh mục chính là phục vụ trong yêu thương và hy sinh, đó cũng chính là những tác động của Thánh Thần để mỗi linh mục đểu trở nên mùa Xuân mới không những cho Giáo Hội, mà còn cho tất cả mọi người nữa.
Giáo dân, khi nhìn thấy mục tử của mình phục vụ đoàn chiên cách tận tụy mà không đòi hỏi gì, không một lời kêu ca hay gắt gỏng, thì tự tâm hồn họ như nhìn thấy được mùa xuân với ánh nắng ấm lòng, như nghe được tiếng chim hót vui tai từ trong nội tâm sâu thẳm, bởi vì mỗi lần phục vụ là mỗi lần linh mục diễn lại cảnh Chúa Giê-su ngày xưa đem niềm vui đến cho người què biết đi, người câm nói được, người chết sống lại.v.v...đó không phải là Ngài đem mùa xuân đến cho họ hay sao ?
Xuân mới của Năm Thánh Linh Mục làm cho mỗi linh mục của Chúa Giê-su như mặc lấy áo mùa xuân mới của Ngài, để trở thành Chúa Ki-tô thứ hai trong mầu nhiệm cứu chuộc nhân loại của Thiên Chúa, mà sự phục vụ chân chính của các ngài nói lên được tính chất cao quý của linh mục, như Chúa Giê-su trong đêm thứ Năm trước khi ăn bữa tối sau cùng với các môn đệ, Ngài đã rửa chân cho các ông, rửa chân xong thì Ngài nói với các ông: “Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.”
3. Con người mới.
Mọi người trong nhiệm thể của Chúa Giê-su Ki-tô đều hân hoan mong ước trong Năm Thánh Linh Mục này, mỗi vị mục tử của mình đều trở thành con người mới trong Chúa Giê-su, và trở nên người bạn mới của mọi người.
Giáo Hội Việt Nam cũng nằm trong “quỷ đạo” ấy, cũng đều mong muốn các linh mục trở thành những con người của thời đại để thu hút các bạn trẻ đến với nhà thờ và cũng là đến với Chúa, do đó mà Giáo Hội kêu gọi các linh mục hãy học học các phương cách của khoa học như biết sử dụng internet, biết dùng hòm thư điện tử (email), biết dùng computer để soạn bài giảng và lấy tài liệu cho bài giảng. Và về phương diện phụng vụ, Giáo Hội cũng mong muốn các linh mục hãy cẩn thận khi đứng giảng trên tòa giảng, hãy cẩn trọng và trang nghiêm khi cử hành thánh lễ, hãy siêng năng cầu nguyện và cử hành các giờ kinh phụng vụ cách nghiêm túc...
Tất cả những chỉ dẫn ấy đều mong muốn mỗi một linh mục phải thay đổi cách sống của mình, không tục hóa thiên chức linh mục như một giám đốc xí nghiệp, cũng không coi chức thánh như là một phương tiện để cai trị mà không phục vụ.
Xuân mới trong Năm Thánh Linh Mục, các linh mục của Chúa cần phải thay đổi những gì ?
a. Thay đổi cách suy nghĩ.
Không coi thiên chức linh mục là một chức vụ để được người khác phục vụ nhưng là để phục vụ; không coi thiên chức linh mục là một chức quan lớn nhưng là một tôi tớ phục vụ đúng nghĩa của nó; không đòi hỏi mình phải được ưu tiên hơn những người khác vì mình là linh mục.
Phải đổi mới cách suy nghĩ trên vì Chúa Giê-su đã dạy các tông đồ: phục vụ nhau là dấu chỉ anh em là môn đệ của Thầy. Bởi vì có một vài linh mục đem thiên chức linh mục của mình “bán đi” để được người khác phục vụ, cho nên các ngài trở thành những tảng đá chặn ngang đường, làm cản trở bước chân người khác đến với Chúa và đến với anh chị em mình trong nhà thờ.
- Đem cách suy nghĩ mình là một người được phục vụ thành suy nghĩ mình là kẻ phục vụ tha nhân.
- Đem cách suy nghĩ mình là một chủ nhân ông thành suy nghĩ mình chỉ là một tôi tớ vô dụng.
- Đem suy nghĩ mình thuộc giai cấp quý tộc thành suy nghĩ mình là thuộc giai cấp rốt hèn trong anh chị em.
- Đem suy nghĩ mình là người được đào tạo để làm linh mục ăn trên ngổi trước, thành suy nghĩ mình được Chúa chọn làm linh mục để phục vụ Ngài trong anh chị em của mình.
b. Có cuộc sống đơn giản.
Thời nay, giáo dân được học hỏi giáo lý, được làm quen với các văn kiện của Giáo Hội, cũng như cũng được tham gia các khóa học Kinh Thánh, cho nên giáo dân biết nhiều về những căn bản trong Giáo Hội, nhất là những gì gần gũi với họ, vì thế mà có một số giáo dân thường than phiền về một số linh mục không biết sống hòa đồng với giáo dân, thích ra lệnh hơn là gợi ý, thích chỉ tay năm ngón hơn là mô phạm cho giáo dân.
- Đơn giản trong cách ăn mặc, để không lệ thuộc vào những áo quần mô-đen mới làm cho mình mất thời gian.
- Đơn giản trong cách ăn uống, không cầu kỳ kiểu cách kiểu tây kiểu tàu, nhưng bình dị như Chúa Giê-su cùng với các tông đồ khi đi truyền giáo vậy: chim trời có tổ, cáo chồn có hang, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu.
- Đơn giản trong cách làm việc không nặng về hành chánh, vì giáo xứ chứ không phải là công ty, nhưng bất cứ lúc nào giáo dân cũng có thể mời cha sở đi xức dầu bệnh nhân, ngồi tòa giải tội và bàn chuyện linh hồn của họ với cha sở.
- Đơn giản trong giao tiếp, không phân biệt giáo dân thân quen hay sơ quen, bởi vì tất cả đều là giáo dân của mình.
- Đơn giản trong những nhu cầu hằng ngày, không có nhu cầu thì không bận tâm đến.
Chính cuộc sống đơn giản của linh mục sẽ làm cho giáo dân nhìn thấy được tâm hồn yêu mến Chúa nơi các ngài, và chính cuộc sống đơn giản làm cho các linh mục dễ dàng hòa đồng với mọi người hơn, và giáo dân sẽ cảm thấy các linh mục của mình gần gủi với họ hơn, lúc đó giáo xứ mới chính là một đại gia đình thật, và đó cũng là ước mơ của Giáo Hội trong ngày Xuân mới của Năm Thánh Linh Mục này.
Kết
Xuân đến, năm mới đến với niềm hy vọng tràn trề trong tâm hồn của mỗi người Ki-tô hữu, bởi vì hy vọng là sự tin tưởng vào Thiên Chúa toàn năng, tin tưởng vào các linh mục của Chúa ngày càng tinh tuyền thánh thiện hơn, để trở nên một “Đức Ki-tô thứ hai“ đang từng giây phút vác thập giá để chết cho cái tôi của mình và đền tội cho tha nhân, để thông phần đau khổ với Chúa Giê-su và sống lại với Ngài.
Mỗi năm xuân mới đều đến, nhưng Xuân năm nay thì đẹp hơn, vui hơn và hy vọng hơn các mùa xuân đã qua, bởi vì mùa Xuân năm nay là Xuân Năm Thánh Linh Mục, Xuân hồng ân, Xuân hy vọng của các linh mục và của người Ki-tô hữu.
Ngày cuối năm Kỷ Sửu
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
---------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi tuần SỐNG một câu Lời Chúa
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
09:35 12/02/2010
CHỦ NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN
Tin Mừng: Lc 6, 17. 20-26
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có.”
Bạn thân mến,
Hôm nay Chúa Giê-su giảng cho bạn và tôi nghe một bài học rất là thấm thía, người ta nói lời Ngài giảng như có một quyền uy sức mạnh, khiến cho ai nghe cũng phải cảm phục và thích nghe Ngài giảng, vậy Chúa Giê-su giảng như thế nào ?
1. Chúa Giê-su giảng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc; phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét.v.v...”
Những cái phúc này xem ra ngược đời với những người cùng thời với Chúa Giê-su, và càng ngược đời chói tai hơn đối với người thời đại của chúng ta –thời đại của kim tiền vật chất thống trị- nhưng nó sẽ không chói tai chút nào đối với những người đã nghe và thực hành các mối phúc mà Chúa Giê-su đã dạy.
Có nhiều lần bạn và tôi than thở rằng mình không có phúc vì đang sống trong cảnh nghèo khó; có lắm lúc bạn và tôi phải đói meo vì chúng ta không có gì ăn; có nhiều lần bạn và tôi âm thầm khóc than vì dồn dập những bất công đang ập xuống trên bản thân cũng như trên gia đình chúng ta; có nhiều lần bạn và tôi âm thầm cử hành thánh lễ và các bí tích, đang chịu bắt bớ vì mình tin vào Chúa Giê-su, đó là những thực tế quá chua cay và không một ai muốn như thế.
Nhưng cũng có một thực tế huy hoàng khác mà bạn và tôi phải cảm nhận và phải biết, đó là những người đã thực hành các mối phúc này đang ngày đêm vui tươi hoan ca trong tình yêu của Chúa, họ sống khó nghèo, họ vui tươi khi gặp buồn phiền, họ trưởng thành hơn khi chịu bắt bớ vì đạo Chúa, họ chính là các thánh nam nữ, là những người lành thánh đang hưởng phúc thiên đàng, họ là những mẫu mực công chính của chúng ta.
2. Chúa Giê-su giảng tiếp: “Nhưng khốn cho các người là những kẻ giàu có; khốn cho các ngươi là những kẻ bây giờ được no nê; khốn cho các người là những kẻ đang vui cười; khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng...”
Những cái khốn này cũng là chói tai và khó nghe, bởi vì con người ta ai lại không thích có tiền, ai lại không thích được ăn sung mặc sướng, ai lại không thích đùa giỡn vui vẻ, ai lại không thích được người khác ca tụng ?
Nhưng đúng là khốn nạn khi chúng ta có tiền của để rồi dùng tiền mua lấy tội lỗi cho mình, dùng tiền để làm điều gian ác; đúng là khốn nạn thật khi chúng ta bây giờ được no nê phè phởn trên sự đói nghèo của anh chị em mà không một chút chạnh lòng; đúng là khốn nạn thật khi mà chúng ta cười cợt thâu đêm bên những bóng hồng kĩ nữ với những lon bia li rượu hàng trăm đô la Mỹ; đúng là khốn nạn thật khi chúng ta vênh mặt lên khi được mọi người ca tụng vì thành quả của mình, mà quên mất rằng chính Thiên Chúa là tác giả của thành công ấy..
Bạn thân mến,
Trong cuộc sống của mình bạn và tôi thường đi tìm bốn cái khốn nạn mà Chúa Giê-su đã giảng, còn cái phúc thì chúng ta lại không tìm kiếm, bởi vì chúng ta chưa hiểu trọn lời giảng của Ngài, bạn và tôi chưa hiểu là vì chúng ta không nhiệt tâm nghe và suy tư, bạn và tôi không nhiệt tâm là vì chúng ta yêu mến Ngài chưa đủ.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan của Thánh Thần, để chúng ta biết chọn cái phúc của Chúa hơn là cái phúc của người đời.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Tin Mừng: Lc 6, 17. 20-26
“Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có.”
Bạn thân mến,
Hôm nay Chúa Giê-su giảng cho bạn và tôi nghe một bài học rất là thấm thía, người ta nói lời Ngài giảng như có một quyền uy sức mạnh, khiến cho ai nghe cũng phải cảm phục và thích nghe Ngài giảng, vậy Chúa Giê-su giảng như thế nào ?
1. Chúa Giê-su giảng: “Phúc cho anh em là những người nghèo khó; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói; phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc; phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét.v.v...”
Những cái phúc này xem ra ngược đời với những người cùng thời với Chúa Giê-su, và càng ngược đời chói tai hơn đối với người thời đại của chúng ta –thời đại của kim tiền vật chất thống trị- nhưng nó sẽ không chói tai chút nào đối với những người đã nghe và thực hành các mối phúc mà Chúa Giê-su đã dạy.
Có nhiều lần bạn và tôi than thở rằng mình không có phúc vì đang sống trong cảnh nghèo khó; có lắm lúc bạn và tôi phải đói meo vì chúng ta không có gì ăn; có nhiều lần bạn và tôi âm thầm khóc than vì dồn dập những bất công đang ập xuống trên bản thân cũng như trên gia đình chúng ta; có nhiều lần bạn và tôi âm thầm cử hành thánh lễ và các bí tích, đang chịu bắt bớ vì mình tin vào Chúa Giê-su, đó là những thực tế quá chua cay và không một ai muốn như thế.
Nhưng cũng có một thực tế huy hoàng khác mà bạn và tôi phải cảm nhận và phải biết, đó là những người đã thực hành các mối phúc này đang ngày đêm vui tươi hoan ca trong tình yêu của Chúa, họ sống khó nghèo, họ vui tươi khi gặp buồn phiền, họ trưởng thành hơn khi chịu bắt bớ vì đạo Chúa, họ chính là các thánh nam nữ, là những người lành thánh đang hưởng phúc thiên đàng, họ là những mẫu mực công chính của chúng ta.
2. Chúa Giê-su giảng tiếp: “Nhưng khốn cho các người là những kẻ giàu có; khốn cho các ngươi là những kẻ bây giờ được no nê; khốn cho các người là những kẻ đang vui cười; khốn cho các ngươi khi được mọi người ca tụng...”
Những cái khốn này cũng là chói tai và khó nghe, bởi vì con người ta ai lại không thích có tiền, ai lại không thích được ăn sung mặc sướng, ai lại không thích đùa giỡn vui vẻ, ai lại không thích được người khác ca tụng ?
Nhưng đúng là khốn nạn khi chúng ta có tiền của để rồi dùng tiền mua lấy tội lỗi cho mình, dùng tiền để làm điều gian ác; đúng là khốn nạn thật khi chúng ta bây giờ được no nê phè phởn trên sự đói nghèo của anh chị em mà không một chút chạnh lòng; đúng là khốn nạn thật khi mà chúng ta cười cợt thâu đêm bên những bóng hồng kĩ nữ với những lon bia li rượu hàng trăm đô la Mỹ; đúng là khốn nạn thật khi chúng ta vênh mặt lên khi được mọi người ca tụng vì thành quả của mình, mà quên mất rằng chính Thiên Chúa là tác giả của thành công ấy..
Bạn thân mến,
Trong cuộc sống của mình bạn và tôi thường đi tìm bốn cái khốn nạn mà Chúa Giê-su đã giảng, còn cái phúc thì chúng ta lại không tìm kiếm, bởi vì chúng ta chưa hiểu trọn lời giảng của Ngài, bạn và tôi chưa hiểu là vì chúng ta không nhiệt tâm nghe và suy tư, bạn và tôi không nhiệt tâm là vì chúng ta yêu mến Ngài chưa đủ.
Nguyện xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan của Thánh Thần, để chúng ta biết chọn cái phúc của Chúa hơn là cái phúc của người đời.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.
------------------------
http://www.vietcatholic.net/nhantai
http://vn.myblog.yahoo.com/jmtaiby
jmtaiby@yahoo.com taibytw@hotmail.com
Mỗi ngày một câu danh ngôn của các thánh
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:13 12/02/2010
N2T |
25. Cái mà con cho người ta là những thứ trên mặt đất, nhưng cái mà con nhận được là phúc lộc trên trời.
(Thánh Christina)Mỗi ngày một câu cách ngôn
Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.
19:14 12/02/2010
N2T |
366. Cuộc sống, nếu không phải là một trường mạo hiểm dũng cảm, thì sẽ không có gì cả.
Tình yêu mầu xanh
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
20:29 12/02/2010
Ngày 14 tháng 2, Giáo hội mừng lễ Thánh Valentinô. Trong khi đó xã hội lại mừng Ngày Tình Yêu.
Ngày lễ Thánh Valentinô được mừng như Ngày Tình Yêu đã trở nên nhộn nhịp vào khoảng đầu thế kỷ XVI. Những người yêu nhau viết cho nhau những bức thư tình, gửi tặng cho nhau những đoá hoa hồng.
Khởi sự là Ngày Tình Nhân rồi trở thành Ngày Tình Yêu, ngày lễ Thánh Valentinô trở thành lễ của các mối tình khác nhau. Năm 1981, các cặp vợ chồng tại Baton Rouge, Louisiana đề nghị thống đốc tiểu bang và Giám mục công bố lễ Thánh Valentinô là “NgàyHôn Nhân”. Năm 1983, cả nước Hoa Kỳ và một vài nước khác đã mừng “Ngày Hôn Nhân Thế Giới”. Ngày này đã được cử hành vào ngày Chúa nhật thứ hai của tháng hai hàng năm. Tại Việt nam, lễ này mới xuất hiện trong vòng 10 năm qua. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban phép lành Toà thánh cho những ai tham dự nghi lễ mừng Ngày Hôn Nhân Thế Giới này.
Nhân Ngày Tình Yêu, chúng ta cầu chúc cho các đôi hôn phối sống thuỷ chung, hạnh phúc, trung tín giao ước tình yêu suốt đời. Tình yêu đẹp ngọt ngào, và luôn ánh sắc hồng hạnh phúc. Tình yêu cũng có nhiều cung bậc, đa chiều và lắm sắc màu. Tình yêu và hạnh phúc song hành cùng nhau. Có tình yêu mới có hạnh phúc. Càng hạnh phúc tình yêu càng dạt dào.
Có bài thơ “Về Năm Chiếc Lá” của Dạ Thảo Phương nói về tình yêu và hạnh phúc.
Hạnh phúc là một chiếc lá
Am thầm nảy lộc đêm đông.
Buồn đau là một chiếc lá
Rụng trong nhựa úa mai hồng.
Nhớ mong là một chiếc lá
Run vô cớ giữa lặng không.
Hờn ghen là một chiếc lá
Lay lắt mãi giữa cành không.
Tình yêu chỉ năm chiếc lá
Mà làm thành một cơn giông.
Bài thơ về năm chiếc lá là khúc hát về tình yêu của muôn người, muôn đời. Hạnh phúc, buồn đau, nhớ mong, hờn ghen, cô đơn, mỗi trạng thái tình yêu ấy ứng với một chiếc lá đời. Tình yêu muôn thửơ vẫn là thứ tình cảm kỳ lạ và khó hiểu. Khi ngọt ngào hạnh phúc, khi hờn ghen giận dỗi cách vô cớ, lúc lại tin ỵêu mãnh liệt. Có người đã cho tình yêu là một loại thực phẩm với đủ năm mùi vị: ngọt, đắng, chát, chua, cay.
Nảy mầm từ tình yêu chính là hạnh phúc. Hạnh phúc là mong ước ngàn đời của con người. Ai cũng muốn được hạnh phúc. Ai cũng đi tìm và xây đắp hạnh phúc.
Hạnh phúc là một chiếc lá, âm thầm nảy lộc đêm đông. Cũng như chiếc lá lặng lẽ vươn mình giữa đêm đông, hạnh phúc con người chỉ có được khi biết dày công chăm nom gìn giữ, biết vượt qua khó khăn thử thách. Hạnh phúc là quà tặng, là hồng ân, con người phải biết trân trọng, nâng niu giữ gìn những gì mình đang có. Bởi lẽ, biết đâu rằng giông bão cuộc đời nổi lên cuốn theo chiếc lá hạnh phúc mong manh.
Buồn đau, nhớ mong, hờn ghen, cô đơn là mỗi chiếc lá cảm xúc của tình yêu. Chiếc âm thầm trong hạnh phúc. Chiếc rụng úa bởi buồn đau. Chiếc run lên vì mong nhớ. Chiếc hờn ghen khi vở tắt. Chiếc cô đơn giữa lặng không.
Tình yêu là năm chiếc lá mà làm thành một cơn giông. Năm chiếc lá hạnh phúc, buồn đau, mong nhớ, hờn ghen, cô đơn là năm khía cạnh của tình yêu đôi lứa. Năm chiếc lá ấy dẫu mong manh, bé nhỏ nhưng lại tiềm tàng một sức mạnh lớn lao là làm thành một cơn giông. Cơn giông của tình yêu đầy sức mạnh. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu là nguồn sống cho đời. Ai đã một lần yêu mới thấu hiểu tình yêu. Người mình yêu là lẽ sống trên đời.
Tình yêu rất huyền nhiệm Tình yêu kỳ diệu nó gõ hồn ta vào những giờ không định như Xuân Diệu viết:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Chỉ một lần chạm tay nhau thôi, về nhà đã mang bệnh tương tư:
Hôm qua lỡ chạm tay nhau,
về nhà đó có bị đau không nào,
riêng đây chẳng biết vì sao,
chạm tay lần ấy đau vào đến tim.
Đau vào đến tim chính là khởi đầu cho những xao xuyến rung động của tình yêu.
Thi sĩ Tân Văn viết thật hay nổi nhớ của tình yêu qua bài thơ “Nhớ”
Nhớ em từng phút từng giây
Như chim nhớ tổ như mây nhớ trời
Như sông nhớ nuớc bồi hồi
Như hè nhớ nắng, như vôi nhớ trầu
Như thu nhớ lá vàng rơi
Như đông nhớ giọt mưa xoi sụt sùi
Như xuân nhớ đóa Mai tươi
Như bình minh nhớ mặt trời chưa lên
Như hoàng hôn nhớ bóng đêm
Như chim quyên nhớ bạn tình xa nhau
Em ơi, xin hãy về mau
Rừng thương biển nhớ núi sầu tương tư.
Bài thơ tiếng Anh được giải thưởng Editor's Choice của International Society of Poets 24-02-05 và được đăng tại nhiều nước trên thế giới.
I miss You
I miss you every day and night
Like sun flowers missing sunrise
Like a bird missing its nest
Like a cloud missing sky
Like a river missing water
Like spring missing flowers
Like a mountain missing its rocks
Like lovers missing lovers
Like summer missing the sun
Like fall missing yellow leaves
Like fishes missing water
I miss you, do you miss me?
Like winter missing snow
Like dawn missing sunlight
Like night missing darkness
Like a bird missing flight
Darling, please come with me now
Mountains and rivers also miss thou
Please come, I keep my promise
Forever, we will be in love. (Tân Văn, Montréal, Canada)
Khi yêu rồi thì sức mạnh của tình yêu giúp con người vượt qua tất cả mọi thử thách, mọi khó khăn để có nhau:
Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Yêu nhau bất kể giàu nghèo, dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.
Yêu nhau mọi sự trở nên ngon ngọt:
Thiếp xa chàng ăn vàng cũng đắng,
thiếp gần chàng ăn muối trắng cũng ngon.
Bài thơ “Lạ chưa” đã diễn tả sự kỳ diệu ấy của tình yêu:
Lạ chưa vẫn ở bên em,
mà anh cứ nhớ cứ thèm gần hơn.
Cứ lo em giận em hờn,
mãi mê anh để cô đơn em buồn.
Cớ chi chắp được đôi hồn,
như chim đôi cánh lượn hôn mây trời.
Cớ chi đi suốt đường đời,
như hình với bóng sóng đôi tháng ngày.
Em cười anh cũng vui lây,
em đau anh lại lệ cay xót thầm.
Qua bao xao động thăng trầm,
tâm ca được mấy tri ân không lời.
Tình yêu là thế em ơi,
hai người mà hoá một người trăm năm.
Tình yêu thật đẹp và thật kỳ diệu. Vì thế, quyết định sống chung với một người suốt đời là điều hết sức quan trọng. Quyết định mà không hiểu biết đó là liều lĩnh và mù quáng sẽ dẫn tới bất hạnh. Sự hiểu biết về mình và đối tượng mình chọn lựa luôn cần thời gian dài khá dài tìm hiểu,thử thách, đo lường.
Thời gian chính là thước đo tình yêu.Chân thật hay giả dối, thuỷ chung hay hời hợt chóng qua, thời gian sẽ xác định cho một tình yêu. Bởi vậy ông bà chúng ta khôn ngoan khuyên dạy con cháu, cần phải có thời gian dài để tìm hiểu kỹ lưỡng rồi mới tiến tới hôn nhân.
Ngày nay, người ta yêu nhau vội vàng, cưới nhau vội vã và bỏ nhau cũng mau chóng. Vì chưa hiểu nhau và chưa có đủ thời gian để tình yêu nên sâu đậm.Tựa như tình yêu hờ hững mà Mỹ Tâm hát trong bài ca “ hát với dòng sông”: tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc. Yêu nhau mà không mong đợi, không hối tiếc thì đâu phải là yêu thật tình.
Các đôi vợ chồng cũng cần có thời gian dành cho nhau. Cảm thông, chia sẽ những khó khăn vui buồn của nhau trong cuộc sống. Khi người vợ quá lo lắng về con cái. Bận rộn cơm áo gạo tiền. Họ tự bó chặt trong những thứ vụn vặt ấy. Khi người chồng bị cuốn hút trong công việc và bè bạn. Họ không còn dành thời gian cho vợ con. Đó là những nguy hiểm cho rạn nứt và bất hoà gia đình. Cần lắm thời gian vợ chồng dành cho nhau, cho gia đình mình.
Sách Sáng Thế định nghĩa: Thiên Chúa là Alpha và Omêga,là khởi nguyên và cùng tận. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian.
Thánh Gioan xác định: Thiên Chúa là tình yêu.
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Như thế tình yêu và thời gian song hành là một. Sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Kẻ sống trong Thiên Chúa là người biết quý chuộng thời gian.
Con người không làm chủ được thời gian. Quá khứ đã qua rồi. Tương lai chưa tới. Chỉ còn hiện tại. Hiện tại là thời gian quý nhất mà con người có trong tay.Sự giàu có của chúng ta là giây phút hiện tại.Trong Phúc âm, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy sống giây phút hiện tại. Kinh Lạy Cha,Chúa dạy: Xin Cha cho chúng con hôm nay và nhắc nhở rằng, ngày nào cũng có sự lao nhọc, cũng có niềm vui của ngày đó.
Sống giây phút hiện tại bằng yêu thương chính là hạnh phúc.
Năm Canh Dần, ngày Mồng Một Tết cũng là ngày Valentine. Tình Yêu khởi đầu một Năm Mới. Cầu chúc Xuân Mới đầy tràn Tình Yêu cho những người đang yêu, cho những đôi vợ chồng đã yêu luôn sống hạnh phúc tín trung. Cho dẫu tình yêu như năm chiếc lá buồn đau nhớ mong hờn ghen cô đơn thì hạnh phúc vẫn luôn là chiềc trên cành mãi màu xanh. Xanh hy vọng. Xanh niềm vui và sự sống. Tình yêu vốn mang màu trắng tinh khiết, yên bình, không vướng bận, không nghĩ suy, không toan tính, chân thành, hết lòng, và sống thật tâm. Màu xanh mang lại cho Tình yêu hy vọng bởi không ai yêu mà không đặt vào nó một chút hay thật nhiều mong ước và kỳ vọng, ở bản thân, ở đối tượng và ở tương lai.
Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.
Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo: Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu.
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn thánh hóa cho những ai đang yêu. Một năm mới biết yêu và biết diễn tả tình yêu Thiên Chúa cho con người trong xã hội hôm nay. Amen.
Ngày lễ Thánh Valentinô được mừng như Ngày Tình Yêu đã trở nên nhộn nhịp vào khoảng đầu thế kỷ XVI. Những người yêu nhau viết cho nhau những bức thư tình, gửi tặng cho nhau những đoá hoa hồng.
Khởi sự là Ngày Tình Nhân rồi trở thành Ngày Tình Yêu, ngày lễ Thánh Valentinô trở thành lễ của các mối tình khác nhau. Năm 1981, các cặp vợ chồng tại Baton Rouge, Louisiana đề nghị thống đốc tiểu bang và Giám mục công bố lễ Thánh Valentinô là “NgàyHôn Nhân”. Năm 1983, cả nước Hoa Kỳ và một vài nước khác đã mừng “Ngày Hôn Nhân Thế Giới”. Ngày này đã được cử hành vào ngày Chúa nhật thứ hai của tháng hai hàng năm. Tại Việt nam, lễ này mới xuất hiện trong vòng 10 năm qua. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban phép lành Toà thánh cho những ai tham dự nghi lễ mừng Ngày Hôn Nhân Thế Giới này.
Nhân Ngày Tình Yêu, chúng ta cầu chúc cho các đôi hôn phối sống thuỷ chung, hạnh phúc, trung tín giao ước tình yêu suốt đời. Tình yêu đẹp ngọt ngào, và luôn ánh sắc hồng hạnh phúc. Tình yêu cũng có nhiều cung bậc, đa chiều và lắm sắc màu. Tình yêu và hạnh phúc song hành cùng nhau. Có tình yêu mới có hạnh phúc. Càng hạnh phúc tình yêu càng dạt dào.
Có bài thơ “Về Năm Chiếc Lá” của Dạ Thảo Phương nói về tình yêu và hạnh phúc.
Hạnh phúc là một chiếc lá
Am thầm nảy lộc đêm đông.
Buồn đau là một chiếc lá
Rụng trong nhựa úa mai hồng.
Nhớ mong là một chiếc lá
Run vô cớ giữa lặng không.
Hờn ghen là một chiếc lá
Lay lắt mãi giữa cành không.
Tình yêu chỉ năm chiếc lá
Mà làm thành một cơn giông.
Bài thơ về năm chiếc lá là khúc hát về tình yêu của muôn người, muôn đời. Hạnh phúc, buồn đau, nhớ mong, hờn ghen, cô đơn, mỗi trạng thái tình yêu ấy ứng với một chiếc lá đời. Tình yêu muôn thửơ vẫn là thứ tình cảm kỳ lạ và khó hiểu. Khi ngọt ngào hạnh phúc, khi hờn ghen giận dỗi cách vô cớ, lúc lại tin ỵêu mãnh liệt. Có người đã cho tình yêu là một loại thực phẩm với đủ năm mùi vị: ngọt, đắng, chát, chua, cay.
Nảy mầm từ tình yêu chính là hạnh phúc. Hạnh phúc là mong ước ngàn đời của con người. Ai cũng muốn được hạnh phúc. Ai cũng đi tìm và xây đắp hạnh phúc.
Hạnh phúc là một chiếc lá, âm thầm nảy lộc đêm đông. Cũng như chiếc lá lặng lẽ vươn mình giữa đêm đông, hạnh phúc con người chỉ có được khi biết dày công chăm nom gìn giữ, biết vượt qua khó khăn thử thách. Hạnh phúc là quà tặng, là hồng ân, con người phải biết trân trọng, nâng niu giữ gìn những gì mình đang có. Bởi lẽ, biết đâu rằng giông bão cuộc đời nổi lên cuốn theo chiếc lá hạnh phúc mong manh.
Buồn đau, nhớ mong, hờn ghen, cô đơn là mỗi chiếc lá cảm xúc của tình yêu. Chiếc âm thầm trong hạnh phúc. Chiếc rụng úa bởi buồn đau. Chiếc run lên vì mong nhớ. Chiếc hờn ghen khi vở tắt. Chiếc cô đơn giữa lặng không.
Tình yêu là năm chiếc lá mà làm thành một cơn giông. Năm chiếc lá hạnh phúc, buồn đau, mong nhớ, hờn ghen, cô đơn là năm khía cạnh của tình yêu đôi lứa. Năm chiếc lá ấy dẫu mong manh, bé nhỏ nhưng lại tiềm tàng một sức mạnh lớn lao là làm thành một cơn giông. Cơn giông của tình yêu đầy sức mạnh. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu là nguồn sống cho đời. Ai đã một lần yêu mới thấu hiểu tình yêu. Người mình yêu là lẽ sống trên đời.
Tình yêu rất huyền nhiệm Tình yêu kỳ diệu nó gõ hồn ta vào những giờ không định như Xuân Diệu viết:
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu,
có nghĩa gì đâu một buổi chiều,
nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt,
bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu.
Chỉ một lần chạm tay nhau thôi, về nhà đã mang bệnh tương tư:
Hôm qua lỡ chạm tay nhau,
về nhà đó có bị đau không nào,
riêng đây chẳng biết vì sao,
chạm tay lần ấy đau vào đến tim.
Đau vào đến tim chính là khởi đầu cho những xao xuyến rung động của tình yêu.
Thi sĩ Tân Văn viết thật hay nổi nhớ của tình yêu qua bài thơ “Nhớ”
Nhớ em từng phút từng giây
Như chim nhớ tổ như mây nhớ trời
Như sông nhớ nuớc bồi hồi
Như hè nhớ nắng, như vôi nhớ trầu
Như thu nhớ lá vàng rơi
Như đông nhớ giọt mưa xoi sụt sùi
Như xuân nhớ đóa Mai tươi
Như bình minh nhớ mặt trời chưa lên
Như hoàng hôn nhớ bóng đêm
Như chim quyên nhớ bạn tình xa nhau
Em ơi, xin hãy về mau
Rừng thương biển nhớ núi sầu tương tư.
Bài thơ tiếng Anh được giải thưởng Editor's Choice của International Society of Poets 24-02-05 và được đăng tại nhiều nước trên thế giới.
I miss You
I miss you every day and night
Like sun flowers missing sunrise
Like a bird missing its nest
Like a cloud missing sky
Like a river missing water
Like spring missing flowers
Like a mountain missing its rocks
Like lovers missing lovers
Like summer missing the sun
Like fall missing yellow leaves
Like fishes missing water
I miss you, do you miss me?
Like winter missing snow
Like dawn missing sunlight
Like night missing darkness
Like a bird missing flight
Darling, please come with me now
Mountains and rivers also miss thou
Please come, I keep my promise
Forever, we will be in love. (Tân Văn, Montréal, Canada)
Khi yêu rồi thì sức mạnh của tình yêu giúp con người vượt qua tất cả mọi thử thách, mọi khó khăn để có nhau:
Yêu nhau mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua.
Yêu nhau trăm sự chẳng nề, một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.
Yêu nhau bất kể giàu nghèo, dù cho lên ải xuống đèo cũng cam.
Yêu nhau mọi sự trở nên ngon ngọt:
Thiếp xa chàng ăn vàng cũng đắng,
thiếp gần chàng ăn muối trắng cũng ngon.
Bài thơ “Lạ chưa” đã diễn tả sự kỳ diệu ấy của tình yêu:
Lạ chưa vẫn ở bên em,
mà anh cứ nhớ cứ thèm gần hơn.
Cứ lo em giận em hờn,
mãi mê anh để cô đơn em buồn.
Cớ chi chắp được đôi hồn,
như chim đôi cánh lượn hôn mây trời.
Cớ chi đi suốt đường đời,
như hình với bóng sóng đôi tháng ngày.
Em cười anh cũng vui lây,
em đau anh lại lệ cay xót thầm.
Qua bao xao động thăng trầm,
tâm ca được mấy tri ân không lời.
Tình yêu là thế em ơi,
hai người mà hoá một người trăm năm.
Tình yêu thật đẹp và thật kỳ diệu. Vì thế, quyết định sống chung với một người suốt đời là điều hết sức quan trọng. Quyết định mà không hiểu biết đó là liều lĩnh và mù quáng sẽ dẫn tới bất hạnh. Sự hiểu biết về mình và đối tượng mình chọn lựa luôn cần thời gian dài khá dài tìm hiểu,thử thách, đo lường.
Thời gian chính là thước đo tình yêu.Chân thật hay giả dối, thuỷ chung hay hời hợt chóng qua, thời gian sẽ xác định cho một tình yêu. Bởi vậy ông bà chúng ta khôn ngoan khuyên dạy con cháu, cần phải có thời gian dài để tìm hiểu kỹ lưỡng rồi mới tiến tới hôn nhân.
Ngày nay, người ta yêu nhau vội vàng, cưới nhau vội vã và bỏ nhau cũng mau chóng. Vì chưa hiểu nhau và chưa có đủ thời gian để tình yêu nên sâu đậm.Tựa như tình yêu hờ hững mà Mỹ Tâm hát trong bài ca “ hát với dòng sông”: tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc. Yêu nhau mà không mong đợi, không hối tiếc thì đâu phải là yêu thật tình.
Các đôi vợ chồng cũng cần có thời gian dành cho nhau. Cảm thông, chia sẽ những khó khăn vui buồn của nhau trong cuộc sống. Khi người vợ quá lo lắng về con cái. Bận rộn cơm áo gạo tiền. Họ tự bó chặt trong những thứ vụn vặt ấy. Khi người chồng bị cuốn hút trong công việc và bè bạn. Họ không còn dành thời gian cho vợ con. Đó là những nguy hiểm cho rạn nứt và bất hoà gia đình. Cần lắm thời gian vợ chồng dành cho nhau, cho gia đình mình.
Sách Sáng Thế định nghĩa: Thiên Chúa là Alpha và Omêga,là khởi nguyên và cùng tận. Điều ấy có thể diễn tả cách khác: Thiên Chúa là thời gian.
Thánh Gioan xác định: Thiên Chúa là tình yêu.
Thiên Chúa là thời gian và là tình yêu. Như thế tình yêu và thời gian song hành là một. Sống trong Thiên Chúa là sống để yêu và sống trong thời gian là yêu để sống. Kẻ sống trong Thiên Chúa là người biết quý chuộng thời gian.
Con người không làm chủ được thời gian. Quá khứ đã qua rồi. Tương lai chưa tới. Chỉ còn hiện tại. Hiện tại là thời gian quý nhất mà con người có trong tay.Sự giàu có của chúng ta là giây phút hiện tại.Trong Phúc âm, Chúa Giêsu khuyến khích chúng ta hãy sống giây phút hiện tại. Kinh Lạy Cha,Chúa dạy: Xin Cha cho chúng con hôm nay và nhắc nhở rằng, ngày nào cũng có sự lao nhọc, cũng có niềm vui của ngày đó.
Sống giây phút hiện tại bằng yêu thương chính là hạnh phúc.
Năm Canh Dần, ngày Mồng Một Tết cũng là ngày Valentine. Tình Yêu khởi đầu một Năm Mới. Cầu chúc Xuân Mới đầy tràn Tình Yêu cho những người đang yêu, cho những đôi vợ chồng đã yêu luôn sống hạnh phúc tín trung. Cho dẫu tình yêu như năm chiếc lá buồn đau nhớ mong hờn ghen cô đơn thì hạnh phúc vẫn luôn là chiềc trên cành mãi màu xanh. Xanh hy vọng. Xanh niềm vui và sự sống. Tình yêu vốn mang màu trắng tinh khiết, yên bình, không vướng bận, không nghĩ suy, không toan tính, chân thành, hết lòng, và sống thật tâm. Màu xanh mang lại cho Tình yêu hy vọng bởi không ai yêu mà không đặt vào nó một chút hay thật nhiều mong ước và kỳ vọng, ở bản thân, ở đối tượng và ở tương lai.
Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.
Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo: Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu.
Nguyện xin Thiên Chúa ban ơn thánh hóa cho những ai đang yêu. Một năm mới biết yêu và biết diễn tả tình yêu Thiên Chúa cho con người trong xã hội hôm nay. Amen.
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Pháp đánh giá tầm quan trọng của Giáo Hội Pháp
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
10:21 12/02/2010
VATICAN - Được bổ nhiệm làm người đứng đầu sứ thần Tòa Thánh tại Pháp vào dịp tháng 09/2009, Đức Khâm Sứ Luigi Ventura trong bài phỏng vấn được công bố trên trang điện tử HĐGM Pháp đã gợi lại tầm quan trọng của Giáo Hội Pháp.
Vị Tân Sứ Thần Tòa Thánh 64 tuổi đã thi hành công vụ kể từ cuối tháng 12 vừa qua, sau khi nắm giữ trọng trách này 8 năm tại Canada. Trước đó, vị tiền nhiệm của ngài là Đức Khâm Sứ Fortunato Baldelli, làm đại diện cho Tòa Thánh tại Pháp từ tháng 9 năm 1999 đến tháng 6 năm 2009.
« Giáo Hội Pháp quả là quan trọng và có một bề dầy lịch sử. Giáo Hội ấy thật gần gũi với Tòa Thánh và từng được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo Hội. Hiện nay Giáo Hội này đang gặp phải những vấn đề đặt ra cho những nước hiện đại như: đời sống đạo sa sút, sự thiếu hụt các linh mục… », Tân Sứ Thần nhận định. « Việc bổ nhiệm tôi vào chức vị này là một vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm không kém phần nặng nề ». « Trước tiên, tôi đã ngạc nhiên về tin này mà mình được lãnh nhận như là ghi dấu niềm tin tưởng của Đức Thánh Cha », ngài đã nhấn mạnh.
Qua bài phỏng vấn, Vị Đại Diện Đức Thánh Cha tại Pháp xác định việc đảm nhiệm trọng trách mới với « đôi tai biết lắng nghe ». « Tôi sẽ lắng nghe các Vị Bản Quyền trong khóa họp toàn thể tới đây, các thành viên của xã hội dân sự và của giới chính trị. Lắng nghe không có nghĩa là chỉ biết nghe mà còn phải biết cách đọc hoàn cảnh phát sinh », Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Pháp đánh giá.
Vị Giám chức cao cấp đã gợi lên tính cách thế tục, một hiện tượng « lịch sử » của Pháp, mà « chính Vị Tổng Thống Pháp đã mang đến điều mới mẻ, khi viếng thăm Roma dịp tháng 12 năm 2007 ». « Ngài Tổng Thống đã nói về điểm tích cực của tính cách thế tục ». Quan niệm về tính cách thế tục không kết tinh trong lịch sử, tuy nhiên người ta ghi nhận sự tiến triển ».
« Giáo Hội suy tư và tìm kiếm cũng như gia tăng đối thoại với xã hội hiện đại », Đức Cha Ventura giải thích. « Tính cách thế tục tích cực nhìn nhận chỗ đứng và giá trị của tôn giáo nhằm phục vụ xã hội ».
Liên quan đến những công việc cần giải quyết, Vị Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Pháp cho biết hiện tại cần có nhu cầu để thấm nhập vào hoàn cảnh của Giáo Hội. « Khi đọc các bản văn của các Giáo Phụ thuộc những thế kỷ đầu tiên, người ta nhận thấy rằng tuy ngữ cảnh khác nhau nhưng vấn đề đặt ra thời ấy và thời nay là như nhau: sống như thế nào, làm thế nào đi đến sự hiệp nhất… ».
Đức Khâm Sứ cũng đã gợi lại hồ sơ liên quan đến « việc nhìn nhận cấp bậc và văn bằng trong giảng dậy đại học ». « Tôi đã lưu ý rằng một cuộc đối thoại đầy hứa hẹn đã bắt đầu và nó đã thành công trong một vài điểm quan trọng ».
« Tại sao lại không nhìn nhận những gì mà thể chế Giáo Hội mang đến ? », Vị Sứ Thần đã tự đặt vấn đề. « Tôi nhớ đến một bài diễn văn của Đức Thánh Cha nhắc rằng các đan sĩ lưu giữ di sản lớn về văn hóa cổ điển, Latinh và Hy Lạp. Không một bất kỳ yêu sách nào, chính Giáo Hội đã có sáng kiến về đại học ».
(Nguồn: http://zenit.org/article-23497?l=french)
Vị Tân Sứ Thần Tòa Thánh 64 tuổi đã thi hành công vụ kể từ cuối tháng 12 vừa qua, sau khi nắm giữ trọng trách này 8 năm tại Canada. Trước đó, vị tiền nhiệm của ngài là Đức Khâm Sứ Fortunato Baldelli, làm đại diện cho Tòa Thánh tại Pháp từ tháng 9 năm 1999 đến tháng 6 năm 2009.
« Giáo Hội Pháp quả là quan trọng và có một bề dầy lịch sử. Giáo Hội ấy thật gần gũi với Tòa Thánh và từng được mệnh danh là trưởng nữ của Giáo Hội. Hiện nay Giáo Hội này đang gặp phải những vấn đề đặt ra cho những nước hiện đại như: đời sống đạo sa sút, sự thiếu hụt các linh mục… », Tân Sứ Thần nhận định. « Việc bổ nhiệm tôi vào chức vị này là một vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm không kém phần nặng nề ». « Trước tiên, tôi đã ngạc nhiên về tin này mà mình được lãnh nhận như là ghi dấu niềm tin tưởng của Đức Thánh Cha », ngài đã nhấn mạnh.
Qua bài phỏng vấn, Vị Đại Diện Đức Thánh Cha tại Pháp xác định việc đảm nhiệm trọng trách mới với « đôi tai biết lắng nghe ». « Tôi sẽ lắng nghe các Vị Bản Quyền trong khóa họp toàn thể tới đây, các thành viên của xã hội dân sự và của giới chính trị. Lắng nghe không có nghĩa là chỉ biết nghe mà còn phải biết cách đọc hoàn cảnh phát sinh », Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Pháp đánh giá.
Vị Giám chức cao cấp đã gợi lên tính cách thế tục, một hiện tượng « lịch sử » của Pháp, mà « chính Vị Tổng Thống Pháp đã mang đến điều mới mẻ, khi viếng thăm Roma dịp tháng 12 năm 2007 ». « Ngài Tổng Thống đã nói về điểm tích cực của tính cách thế tục ». Quan niệm về tính cách thế tục không kết tinh trong lịch sử, tuy nhiên người ta ghi nhận sự tiến triển ».
« Giáo Hội suy tư và tìm kiếm cũng như gia tăng đối thoại với xã hội hiện đại », Đức Cha Ventura giải thích. « Tính cách thế tục tích cực nhìn nhận chỗ đứng và giá trị của tôn giáo nhằm phục vụ xã hội ».
Liên quan đến những công việc cần giải quyết, Vị Tân Sứ Thần Tòa Thánh tại Pháp cho biết hiện tại cần có nhu cầu để thấm nhập vào hoàn cảnh của Giáo Hội. « Khi đọc các bản văn của các Giáo Phụ thuộc những thế kỷ đầu tiên, người ta nhận thấy rằng tuy ngữ cảnh khác nhau nhưng vấn đề đặt ra thời ấy và thời nay là như nhau: sống như thế nào, làm thế nào đi đến sự hiệp nhất… ».
Đức Khâm Sứ cũng đã gợi lại hồ sơ liên quan đến « việc nhìn nhận cấp bậc và văn bằng trong giảng dậy đại học ». « Tôi đã lưu ý rằng một cuộc đối thoại đầy hứa hẹn đã bắt đầu và nó đã thành công trong một vài điểm quan trọng ».
« Tại sao lại không nhìn nhận những gì mà thể chế Giáo Hội mang đến ? », Vị Sứ Thần đã tự đặt vấn đề. « Tôi nhớ đến một bài diễn văn của Đức Thánh Cha nhắc rằng các đan sĩ lưu giữ di sản lớn về văn hóa cổ điển, Latinh và Hy Lạp. Không một bất kỳ yêu sách nào, chính Giáo Hội đã có sáng kiến về đại học ».
(Nguồn: http://zenit.org/article-23497?l=french)
Hứa hẹn và thách đố đối với Giáo hội qua cuộc thăm dò giới trẻ
Phụng Nghi
12:43 12/02/2010
WASHINGTON (CNS) - Giới trẻ Công giáo Mỹ - những người dưới 30 tuổi – đã dấn thân hoạt động trong các lãnh vực bác ái và tình nguyện như những thế hệ lớn tuổi hơn, nhưng lại có khuynh hướng coi các vấn đề luân lý đạo đức chỉ có tinh cách “tương đối”. Đó là kết quả cuộc thăm dò mới đây của Hội Hiệp sĩ Columbus (Knights of Columbus) tiến hành cùng với Viện Đại học Marist về Công luận tại Poughkeepsie, N.Y. Cuộc thăm dò được thực hiện từ ngày 23 tháng 12 đến ngày 4 tháng giêng trên tổng cộng 2243 người Mỹ, trong số này có 1006 người được mệnh danh là “Millennials”, tức là những người trẻ, tuổi từ 18 đến 29.
Cuộc thăm dò đưa ra một loạt những câu hỏi trong nhiều lãnh vực, về ý thức hệ, thực hành tôn giáo, đức tin, mục tiêu trong cuộc sống, và cảm nghĩ về tương lai của đất nước, ngoài ra còn so sánh các câu trả lời giữa những người khác thế hệ, giữa người Công giáo nói chung, những người Công giáo hành đạo, tức là những người có tham dự các lễ nghi tôn giáo mỗi tháng ít nhất một lần, và cả người Mỹ nói chung nữa.
Sau đây là những điểm tích cực trong kết quả cuộc thăm dò:
Nhưng kết quả cuộc thăm dò cũng cho thấy những mặt tiêu cực:
Cuộc thăm dò còn hỏi người tham dự xác định xem một số chọn lựa nào là chấp nhận được về phương diện luân lý đạo đức, chọn lựa nào là sai lạc hoặc không phải là một vấn đề liên quan đến luân lý. Dưới đây là một số vấn đề:
Sai số của cuộc thăm dò là + hoặc – 2% đối với người Mỹ nói chung, và là + hoặc -3% đối người trẻ.
Theo lời Hiệp sĩ tối cao Carl Anderson, các nhà lãnh đạo Giáo hội cần tìm hiểu viễn cảnh của thế hệ những người Công giáo trưởng thành sắp tới đây.
Ông nhận định: “Người trẻ Công giáo ủng hộ những lời giảng huấn của Giáo hội trong nhiều lãnh vực rộng lớn, như đồng thuận trong các vấn đề phá thai và an tử. Trong các lãnh vực khác, chủ nghĩa tương đối về văn hóa mà Đức giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều lần đề cập, cho thấy là một điều rất hiển nhiên, và khẳng định sự khôn ngoan của ngài trong việc chú tâm đến vấn nạn này như là trọng tâm của công tác Tân Phúc âm hóa.”
Ông kết luận: “Có nhiều tin mừng cho Giáo hội trong cuộc thăm dò này, nhất là khi chúng ta thấy có tới 2 phần 3 số người trẻ Công giáo muốn học hỏi thêm về đức tin của họ. Giáo hội có cơ may lớn lao để rao truyền Tin mừng, và có nhiều điều để xây dựng đối với thế hệ những người Công giáo sắp tới, nhưng phải hành động và giảng huấn thế nào để làm sáng tỏ những lý do cho biết lời giáo huấn của Giáo hội là một trong những điều được Đức giáo hoàng gọi là lời đáp trả “Xin vâng” của chúng ta với tiếng gọi của Chúa Giêsu Kitô.
Toàn văn bản kết quả cuộc thăm dò có thể đọc tại:
www.kofc.org/un/cmf/resources/Communications/documents/poll_mil_religion.pdf
Cuộc thăm dò đưa ra một loạt những câu hỏi trong nhiều lãnh vực, về ý thức hệ, thực hành tôn giáo, đức tin, mục tiêu trong cuộc sống, và cảm nghĩ về tương lai của đất nước, ngoài ra còn so sánh các câu trả lời giữa những người khác thế hệ, giữa người Công giáo nói chung, những người Công giáo hành đạo, tức là những người có tham dự các lễ nghi tôn giáo mỗi tháng ít nhất một lần, và cả người Mỹ nói chung nữa.
Sau đây là những điểm tích cực trong kết quả cuộc thăm dò:
- Khi được hỏi hãy chọn lựa trong 5 mục tiêu dài hạn của cuộc sống, có 31% người trẻ (millennials) chọn “sống tâm linh hay mật thiết với Chúa” là mục tiêu cao nhất. Đây là tỷ lệ cao nhất nếu so sánh với các thế hệ khác.
- 67% (tức 2 phần 3) người trẻ và 71% người trẻ Công giáo cho biết trong 12 tháng vừa qua họ đã tình nguyện bỏ thì giờ để phục vụ. Tỷ lệ này gần bằng với các thế hệ khác.
- Đa số người trẻ (56%) và người trẻ Công giáo (52%) trong năm qua đã tặng tiền bạc cho một tổ chức bác ái. Tỷ lệ này là thấp hơn so với cả người Mỹ nói chung lẫn người Mỹ Công giáo nói riêng (67%), nhưng sự khác biệt có thể là vì người trẻ thường có lợi tức thấp hơn.
- Quá nửa số người trẻ (61%) và người trẻ Công giáo (65%) đã rất quan tâm hoặc ít ra cũng có quan tâm đến việc học hỏi thêm về đức tin của họ. Tỷ lệ này nơi số người Công giáo hành đạo là 84%.
Nhưng kết quả cuộc thăm dò cũng cho thấy những mặt tiêu cực:
- Gần 2 phần 3 (64%) người trẻ nói chung và 82% người trẻ Công giáo đồng ý với mệnh đề này, là “các vấn đề đạo đức, luân lý đều tương đối, tức là không triệt để đúng hay sai cho tất cả mọi người.” Đa số những loại người khác – ngoại trừ người Công giáo hành đạo với 46% -- đều đồng ý với mệnh đề đó.
- Chỉ có 33% người trẻ và 25% người trẻ Công giáo cho biết họ đã tham dự các nghi lễ tôn giáo mỗi tháng ít nhất một lần.
- Gần 2 phần 3 người trẻ Công giáo (64%) tự mô tả họ ít ra là người có “tâm linh (spiritual)” hơn là “sùng đạo (religious)”. Tỷ lệ này là 66% nơi người trẻ nói chung, và là 63% nơi người Mỹ nói chung.
- 61% người trẻ Công giáo tin rằng một người có đạo có thể cùng lúc thực hành nhiều tôn giáo khác. Tỷ lệ này là 54% nơi người Mỹ nói chung và 43% nơi người Công giáo hành đạo.
Cuộc thăm dò còn hỏi người tham dự xác định xem một số chọn lựa nào là chấp nhận được về phương diện luân lý đạo đức, chọn lựa nào là sai lạc hoặc không phải là một vấn đề liên quan đến luân lý. Dưới đây là một số vấn đề:
- Phá thai: Đa số người Mỹ nói chung (57%), người trẻ nói chung (58%), người Công giáo Mỹ (61%) và người trẻ Công giáo (66%) nói phá thai là điều sai lạc về luân lý.
- Cờ bạc: Quá nửa hay gần phân nửa số người trong mỗi nhóm nói rằng cờ bạc không phải là một vấn đề luân lý.
- Ăn cắp công trình của người khác: 90% số người trong mỗi nhóm đều cho đó là sai phạm về luân lý. Đây là tỷ lệ đồng thuận cao nhất.
- Không chung thủy trong hôn nhân: Được coi là sai phạm về luân lý với tỷ lệ từ 87% (người trẻ Công giáo) đến 90% (người Mỹ nói chung).
- Hôn nhân đồng giới: 54% người Mỹ nói chung, 48% người Mỹ Công giáo cho đó là sai phạm về luân lý, nhưng chỉ có 37% người trẻ Công giáo đồng ý với quan điểm đó.
Sai số của cuộc thăm dò là + hoặc – 2% đối với người Mỹ nói chung, và là + hoặc -3% đối người trẻ.
Theo lời Hiệp sĩ tối cao Carl Anderson, các nhà lãnh đạo Giáo hội cần tìm hiểu viễn cảnh của thế hệ những người Công giáo trưởng thành sắp tới đây.
Ông nhận định: “Người trẻ Công giáo ủng hộ những lời giảng huấn của Giáo hội trong nhiều lãnh vực rộng lớn, như đồng thuận trong các vấn đề phá thai và an tử. Trong các lãnh vực khác, chủ nghĩa tương đối về văn hóa mà Đức giáo hoàng Benedict XVI đã nhiều lần đề cập, cho thấy là một điều rất hiển nhiên, và khẳng định sự khôn ngoan của ngài trong việc chú tâm đến vấn nạn này như là trọng tâm của công tác Tân Phúc âm hóa.”
Ông kết luận: “Có nhiều tin mừng cho Giáo hội trong cuộc thăm dò này, nhất là khi chúng ta thấy có tới 2 phần 3 số người trẻ Công giáo muốn học hỏi thêm về đức tin của họ. Giáo hội có cơ may lớn lao để rao truyền Tin mừng, và có nhiều điều để xây dựng đối với thế hệ những người Công giáo sắp tới, nhưng phải hành động và giảng huấn thế nào để làm sáng tỏ những lý do cho biết lời giáo huấn của Giáo hội là một trong những điều được Đức giáo hoàng gọi là lời đáp trả “Xin vâng” của chúng ta với tiếng gọi của Chúa Giêsu Kitô.
Toàn văn bản kết quả cuộc thăm dò có thể đọc tại:
www.kofc.org/un/cmf/resources/Communications/documents/poll_mil_religion.pdf
Mùa Chay và Sinh Thái
Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng
14:00 12/02/2010
Hội Đồng Mục Vụ giáo phận Lyon, Pháp vừa công bố một văn kiện với nhan đề: « Một vài chiều hướng cho một Mùa Chay mang tính sinh thái học », nhằm gợi ý cho các tín hữu trong giáo phận những nghĩa cử cụ thể trước ngưỡng cửa Mùa Chay, giáo phận đã loan báo trong một thông cáo đề ngày 11 tháng hai.
« Những ý tưởng được giới thiệu ở đây không nhắm đến bất kỳ điều gì phi thường, nhưng bao hàm một vài chiều hướng nhằm tạo ra một phương cách sống, dựa trên sự tiết độ và tình liên đới », văn kiện được công bố trên trang điện tử giáo phận đánh giá.
Những đề xuất này khắc ghi trong khuôn khổ của Năm về Thân Xác, năm thứ nhất của một chu kỳ theo sáng kiến của Đức Hồng Y Philippe Barbarin với tựa đề: « Phục vụ con người toàn diện: thân xác, tinh thần và linh hồn ». Trong thực tế, « con người toàn diện » bao gồm những mối quan hệ mật thiết với môi trường.
Trong suốt hành trình Mùa Chay, giáo phận Lyon mời gọi mỗi người suy ngẫm về mối quan hệ của mình với Thiên Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua chiêm ngắm trực tiếp môi trường như là quà tặng của Người: thiên nhiên, tha nhân, đời sống cá nhân; về mối quan hệ với đồng loại và với môi trường: suy tư với nhau về sự hoán cải mang tính bền vững trong lối sống của mình, áp dụng những biện pháp thực tiễn; và cả trong mối tương quan với chính mình như: từ bỏ tích lũy của cải dư thừa, thực hành kinh nghiệm chay tịnh.
Ngày 17 tháng hai tới đây, với Thứ Tư Lễ Tro, người Công Giáo trên toàn thế giới sẽ bước vào Mùa Chay kéo dài 40 ngày, cũng là thời gian chuẩn bị để mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô.
Năm nay, tất cả Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo sẽ cử hành lễ Phục Sinh trong cùng một ngày.
« Những ý tưởng được giới thiệu ở đây không nhắm đến bất kỳ điều gì phi thường, nhưng bao hàm một vài chiều hướng nhằm tạo ra một phương cách sống, dựa trên sự tiết độ và tình liên đới », văn kiện được công bố trên trang điện tử giáo phận đánh giá.
Những đề xuất này khắc ghi trong khuôn khổ của Năm về Thân Xác, năm thứ nhất của một chu kỳ theo sáng kiến của Đức Hồng Y Philippe Barbarin với tựa đề: « Phục vụ con người toàn diện: thân xác, tinh thần và linh hồn ». Trong thực tế, « con người toàn diện » bao gồm những mối quan hệ mật thiết với môi trường.
Trong suốt hành trình Mùa Chay, giáo phận Lyon mời gọi mỗi người suy ngẫm về mối quan hệ của mình với Thiên Chúa mỗi ngày qua cầu nguyện, qua chiêm ngắm trực tiếp môi trường như là quà tặng của Người: thiên nhiên, tha nhân, đời sống cá nhân; về mối quan hệ với đồng loại và với môi trường: suy tư với nhau về sự hoán cải mang tính bền vững trong lối sống của mình, áp dụng những biện pháp thực tiễn; và cả trong mối tương quan với chính mình như: từ bỏ tích lũy của cải dư thừa, thực hành kinh nghiệm chay tịnh.
Ngày 17 tháng hai tới đây, với Thứ Tư Lễ Tro, người Công Giáo trên toàn thế giới sẽ bước vào Mùa Chay kéo dài 40 ngày, cũng là thời gian chuẩn bị để mừng lễ Phục Sinh của Đức Kitô.
Năm nay, tất cả Công Giáo, Tin Lành và Chính Thống Giáo sẽ cử hành lễ Phục Sinh trong cùng một ngày.
Đức Thánh Cha Benedict XVI tố cáo các cạm bẫy cho thể chế gia đình
Bùi Hữu Thư
18:27 12/02/2010
Chuyến phó hội ad limina của các Giám Mục Lỗ Mã Ni
Rôma, Thứ Sáu ngày 12 tháng 2, 2010 (Le Monde vu de Rome) – Trong một xã hội “tục hóa và lạc hướng”, có rất nhiều cạm bẫy bủa vây “cho thể chế gia đình,” Đức Thánh Cha Benedict XVI khẳng định như vậy khi ngài nhắc đến “việc phá thai,” “bệnh tham nhũng, “ hay “bệnh nghiền rượu,” và “ma túy.”
Đức Thánh Cha đã tiếp kiến ngày 12 tháng 2, các giám mục Lỗ Mã Ni về Rôma phó hội ad limina.
Trong diễn từ của ngài, Đức Thánh Cha đã nhắc rằng “sự phồn thịnh của ơn gọi linh mục và tu sĩ tuỳ thuộc phần lớn vào sức khỏe tinh thần và thiêng liêng của các gia đình Kitô hữu.” Ngài khẳng định: “Tiếc thay, ngày hôm nay, trong một xã hội tục hóa và lạc hướng, các cạm bẫy bủa vây thể chế gia đình đầy dẫy.”
“Các gia đình Công Giáo tại quốc gia quý vị, trong thời gian phải chịu nhiều thử thách, đã làm chứng tá cho sự trung thành với Phúc Âm, đôi khi phải trả một giá rất đắt, và không được bảo vệ chống các ung nhọt của sự phá thai, tham nhũng, nghiền rươu và ma túy, cũng như việc ngừa thai bằng các phương pháp nghịch lại với nhân phẩm con người.”
Muốn chống lại các thách đố này, Đức Thánh Cha ước muốn rằng người ta sẽ khuyến khích việc thành lập “các ban cố vấn tại các giáo xứ để đảm bảo một sự chuẩn bị thích nghi cho đời sống hôn nhân và gia đình, cũng như một tổ chức tốt đẹp hơn cho mục vụ giới trẻ.”
Đức Thánh Cha Benedict XVI ước mong: “Trên hết phải có một sự tham gia quyết liệt cho việc cổ võ cho các giá trị Kitô giáo trong xã hội, bằng cách phát triển các trung tâm đào tạo, tại nơi này giới trẻ có thể học biết các giá trị chân chính, và được làm cho giầu mạnh hơn nhờ nền văn hóa của quốc gia quý vị, để có thể làm nhân chứng trong các môi trường nơi họ sinh sống.”
“Giáo Hội muốn đóng góp rõ rệt cho việc xây dựng một xã hội hiệp nhất và hợp quần, có thể đối phó với các hoạt động tục hóa đang diễn tiến.” Tiếc thay, “sự cải biến hệ thống kỹ nghệ và canh nông, cuộc khủng hoảng về kinh tế, việc di dân sang ngoại quốc” không giúp cho “việc duy trì các giá trị truyền thống,” Đức Thánh Cha mong muốn rằng các giá trị này sẽ được tái đề xướng và tăng cường.
Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã nhắc đến nhu cầu phải có “một chứng tá về tình thân hữu giữa các người Công Giáo và Chính Thống Giáo” vượt trên các sự chia rẽ và bất đồng, và mở rộng các trái tim cho sự hòa giải.”
Ngài cũng khẳng định: ngày nay, “một lãnh vực hợp tác đặc biệt quan trọng giữa các người Chính Thống Giáo Và Công Giáo liên quan đến việc bảo vệ các gốc rễ Kitô của Âu Châu, và các giá trị Kitô và làm chứng tá chung về các chủ đề như gia đình, đạo đức sinh học, nhân quyền, sự ngay thẳng trong đời sống công cộng và môi sinh.”
Ngài nói, “Một sự tham gia đồng nhất vào những vấn đề như vậy sẽ cung cấp một đóng góp quan trọng cho việc tăng tiến về luân lý và dân sự cho xã hội.” “Một cuộc đối thoại xây dựng giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo sẽ chắc chắn là muối men cho việc hiệp nhất và hòa bình cho quốc gia quý vị và cho toàn thế giới.”
Rôma, Thứ Sáu ngày 12 tháng 2, 2010 (Le Monde vu de Rome) – Trong một xã hội “tục hóa và lạc hướng”, có rất nhiều cạm bẫy bủa vây “cho thể chế gia đình,” Đức Thánh Cha Benedict XVI khẳng định như vậy khi ngài nhắc đến “việc phá thai,” “bệnh tham nhũng, “ hay “bệnh nghiền rượu,” và “ma túy.”
Đức Thánh Cha đã tiếp kiến ngày 12 tháng 2, các giám mục Lỗ Mã Ni về Rôma phó hội ad limina.
Trong diễn từ của ngài, Đức Thánh Cha đã nhắc rằng “sự phồn thịnh của ơn gọi linh mục và tu sĩ tuỳ thuộc phần lớn vào sức khỏe tinh thần và thiêng liêng của các gia đình Kitô hữu.” Ngài khẳng định: “Tiếc thay, ngày hôm nay, trong một xã hội tục hóa và lạc hướng, các cạm bẫy bủa vây thể chế gia đình đầy dẫy.”
“Các gia đình Công Giáo tại quốc gia quý vị, trong thời gian phải chịu nhiều thử thách, đã làm chứng tá cho sự trung thành với Phúc Âm, đôi khi phải trả một giá rất đắt, và không được bảo vệ chống các ung nhọt của sự phá thai, tham nhũng, nghiền rươu và ma túy, cũng như việc ngừa thai bằng các phương pháp nghịch lại với nhân phẩm con người.”
Muốn chống lại các thách đố này, Đức Thánh Cha ước muốn rằng người ta sẽ khuyến khích việc thành lập “các ban cố vấn tại các giáo xứ để đảm bảo một sự chuẩn bị thích nghi cho đời sống hôn nhân và gia đình, cũng như một tổ chức tốt đẹp hơn cho mục vụ giới trẻ.”
Đức Thánh Cha Benedict XVI ước mong: “Trên hết phải có một sự tham gia quyết liệt cho việc cổ võ cho các giá trị Kitô giáo trong xã hội, bằng cách phát triển các trung tâm đào tạo, tại nơi này giới trẻ có thể học biết các giá trị chân chính, và được làm cho giầu mạnh hơn nhờ nền văn hóa của quốc gia quý vị, để có thể làm nhân chứng trong các môi trường nơi họ sinh sống.”
“Giáo Hội muốn đóng góp rõ rệt cho việc xây dựng một xã hội hiệp nhất và hợp quần, có thể đối phó với các hoạt động tục hóa đang diễn tiến.” Tiếc thay, “sự cải biến hệ thống kỹ nghệ và canh nông, cuộc khủng hoảng về kinh tế, việc di dân sang ngoại quốc” không giúp cho “việc duy trì các giá trị truyền thống,” Đức Thánh Cha mong muốn rằng các giá trị này sẽ được tái đề xướng và tăng cường.
Trong bối cảnh này, Đức Thánh Cha Benedict XVI đã nhắc đến nhu cầu phải có “một chứng tá về tình thân hữu giữa các người Công Giáo và Chính Thống Giáo” vượt trên các sự chia rẽ và bất đồng, và mở rộng các trái tim cho sự hòa giải.”
Ngài cũng khẳng định: ngày nay, “một lãnh vực hợp tác đặc biệt quan trọng giữa các người Chính Thống Giáo Và Công Giáo liên quan đến việc bảo vệ các gốc rễ Kitô của Âu Châu, và các giá trị Kitô và làm chứng tá chung về các chủ đề như gia đình, đạo đức sinh học, nhân quyền, sự ngay thẳng trong đời sống công cộng và môi sinh.”
Ngài nói, “Một sự tham gia đồng nhất vào những vấn đề như vậy sẽ cung cấp một đóng góp quan trọng cho việc tăng tiến về luân lý và dân sự cho xã hội.” “Một cuộc đối thoại xây dựng giữa Chính Thống Giáo và Công Giáo sẽ chắc chắn là muối men cho việc hiệp nhất và hòa bình cho quốc gia quý vị và cho toàn thế giới.”
Gia đình lành mạnh làm triển nở ơn gọi
Nguyễn Hoàng Thương
21:55 12/02/2010
Gia đình lành mạnh làm triển nở ơn gọi
Vatican (CNA) - “Sự triển nở của ơn gọi linh mục và tu sĩ tùy thuộc vào phần tốt đẹp về đời sống luân lý và tôn giáo lành mạnh của gia đình Kitô giáo”. Đây là huấn từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dành cho các giám mục Romani và Moldova trong buổi tiếp kiến các giám mục hôm 12/02 nhân chuyến viếng thăm Ad Limina 5 năm một lần của họ. Đức Thánh Cha cũng thúc giục họ đáp trả lại những thách đố mà gia đình phải đối diện nơi đất nước họ.
Trong huấn từ ban cho các giám mục trong ngày áp chót của chuyến thăm, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo giữa các giám mục và các linh mục cộng tác với mình như là “những người cộng tác quan trọng và quý giá”.
Đức Thánh Cha cũng cổ vũ các giám mục trở thành “những người cha đích thực” đối với linh mục của mình và bảo vệ sự hiệp thông giữa chư huynh đệ với họ trong bầu khí yêu mến, ân cần và đối thoại tôn trọng và huynh đệ”. Thêm vào đó, ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết để các giám mục chăm sóc linh mục về “các điều kiện tinh thần và vật chất để giúp họ cập nhật kiến thức trong các vấn đề mục vụ và thần học”.
Ơn gọi linh mục và tu sĩ cũng là điều nhắn gửi của Đức Thánh Cha khi ngài thúc giục các giám mục thăng tiến ơn gọi và bảo đảm rằng các ứng viên cho chức linh mục và đời sống tu sĩ nhận được sự đào tạo thành người xứng đáng về tu đức và tri thức. Việc đào tạo vững chắc cho các nữ tu thánh hiến cũng được Đức Thánh Cha đề cao.
Đức Thánh Cha hết sức nhấn mạnh: “Sự triển nở của ơn gọi linh mục và tu sĩ tùy thuộc vào phần tốt đẹp về đời sống luân lý và tôn giáo lành mạnh của gia đình Kitô giáo. Thật không may là trong thời đại chúng ta, có quá nhiều mối hiểm nguy cho gia đình trong xã hội tục hóa và mất phương hướng”.
Chỉ ra rằng sức mạnh của gia đình Công Giáo trong việc trung tín với Tin Mừng “suốt thời kỳ gian nan”, Đức Bênêđictô XVI cho hay rằng họ tiếp tục bị thử thách bởi “những tai họa phá thai, tham nhũng, nghiện rượu, ma túy và kiểm soát sinh sảnh bằng các phương pháp chống lại phẩm giá con người”. Như là một phương cách sửa trị, Đức Thánh Cha khuyên nhủ thăng tiến các sáng kiến giáo xứ để chuẩn bị tốt các các cặp đính hôn về việc kết hôn và đời sống gia đình của họ cũng như tổ chức tốt hơn mục vụ giới trẻ. Nhưng ngài nêu bật “trên hết, những gì cần thiết là quyết định dấn thân bênh vực cho sự hiện diện của các giá trị Kitô giáo trong xã hội...”.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “chứng nhân huynh đệ” giữa các cộng đoàn Công Giáo và Chính Thống giáo nơi đất nước này, nhất là liên quan đến “cội rễ Kitô giáo của Âu Châu và các giá trị Kitô giáo”. Ngài cũng nói thêm là công cuộc đối thoại mang tính cách xây dựng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo sẽ không ngừng gia tăng “tình đoàn kết và hòa hợp, không chỉ nơi đất nước chư huynh đệ, mà còn cho cả Âu Châu”.
Các thành viên của Hội đồng Giám Mục Romani đã đến Rôma từ hôm thứ Hai và sẽ kết thúc chuyến viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ vào ngày thứ Bảy với sự dẫn đầu của Đức Tổng Giám Mục của Bucharest Ioan Robu, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục.
Vatican (CNA) - “Sự triển nở của ơn gọi linh mục và tu sĩ tùy thuộc vào phần tốt đẹp về đời sống luân lý và tôn giáo lành mạnh của gia đình Kitô giáo”. Đây là huấn từ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI dành cho các giám mục Romani và Moldova trong buổi tiếp kiến các giám mục hôm 12/02 nhân chuyến viếng thăm Ad Limina 5 năm một lần của họ. Đức Thánh Cha cũng thúc giục họ đáp trả lại những thách đố mà gia đình phải đối diện nơi đất nước họ.
Trong huấn từ ban cho các giám mục trong ngày áp chót của chuyến thăm, Đức Thánh Cha đã nhấn mạnh đặc biệt đến tầm quan trọng của mối quan hệ hữu hảo giữa các giám mục và các linh mục cộng tác với mình như là “những người cộng tác quan trọng và quý giá”.
Đức Thánh Cha cũng cổ vũ các giám mục trở thành “những người cha đích thực” đối với linh mục của mình và bảo vệ sự hiệp thông giữa chư huynh đệ với họ trong bầu khí yêu mến, ân cần và đối thoại tôn trọng và huynh đệ”. Thêm vào đó, ngài cũng nhấn mạnh đến sự cần thiết để các giám mục chăm sóc linh mục về “các điều kiện tinh thần và vật chất để giúp họ cập nhật kiến thức trong các vấn đề mục vụ và thần học”.
Ơn gọi linh mục và tu sĩ cũng là điều nhắn gửi của Đức Thánh Cha khi ngài thúc giục các giám mục thăng tiến ơn gọi và bảo đảm rằng các ứng viên cho chức linh mục và đời sống tu sĩ nhận được sự đào tạo thành người xứng đáng về tu đức và tri thức. Việc đào tạo vững chắc cho các nữ tu thánh hiến cũng được Đức Thánh Cha đề cao.
Đức Thánh Cha hết sức nhấn mạnh: “Sự triển nở của ơn gọi linh mục và tu sĩ tùy thuộc vào phần tốt đẹp về đời sống luân lý và tôn giáo lành mạnh của gia đình Kitô giáo. Thật không may là trong thời đại chúng ta, có quá nhiều mối hiểm nguy cho gia đình trong xã hội tục hóa và mất phương hướng”.
Chỉ ra rằng sức mạnh của gia đình Công Giáo trong việc trung tín với Tin Mừng “suốt thời kỳ gian nan”, Đức Bênêđictô XVI cho hay rằng họ tiếp tục bị thử thách bởi “những tai họa phá thai, tham nhũng, nghiện rượu, ma túy và kiểm soát sinh sảnh bằng các phương pháp chống lại phẩm giá con người”. Như là một phương cách sửa trị, Đức Thánh Cha khuyên nhủ thăng tiến các sáng kiến giáo xứ để chuẩn bị tốt các các cặp đính hôn về việc kết hôn và đời sống gia đình của họ cũng như tổ chức tốt hơn mục vụ giới trẻ. Nhưng ngài nêu bật “trên hết, những gì cần thiết là quyết định dấn thân bênh vực cho sự hiện diện của các giá trị Kitô giáo trong xã hội...”.
Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của “chứng nhân huynh đệ” giữa các cộng đoàn Công Giáo và Chính Thống giáo nơi đất nước này, nhất là liên quan đến “cội rễ Kitô giáo của Âu Châu và các giá trị Kitô giáo”. Ngài cũng nói thêm là công cuộc đối thoại mang tính cách xây dựng giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo sẽ không ngừng gia tăng “tình đoàn kết và hòa hợp, không chỉ nơi đất nước chư huynh đệ, mà còn cho cả Âu Châu”.
Các thành viên của Hội đồng Giám Mục Romani đã đến Rôma từ hôm thứ Hai và sẽ kết thúc chuyến viếng mộ hai thánh Phêrô và Phaolô tông đồ vào ngày thứ Bảy với sự dẫn đầu của Đức Tổng Giám Mục của Bucharest Ioan Robu, Chủ tịch Hội đồng Giám Mục.
Tin Giáo Hội Việt Nam
Giới trẻ Bố Sơn vui tết với người nghèo
Caritas Vinh
10:48 12/02/2010
Ngày tết đang đến gần, các bạn trẻ của giáo xứ Bố Sơn đã ý thức khá cao về điều này. Bởi vậy, chỉ trong mọt ngày, các anh chị huynh trưởng đoàn Thiêu Nhi Thánh Thể giáo xứ và các anh chị gia đình Têrexa đã gói được trên 350 cặp bánh chưng thật xinh xắn. Dù là những việc làm đơn giản và tầm thường ấy, nhưng các bạn đã làm ấm lòng các ông bà già trong giáo xứ. Đặc biệt đối với các em trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể, các em rất vui. Lẽ ra niềm vui của chúng bây giờ đang là sân trường; là vui chơi trong công viên; là hái hoa, đuổi bướm…nhưng các em lại cùng với các anh chị gói những chiếc bánh, cùng nhau chia sẻ niềm vui với các ông bà.
Năm Thánh đã về với chúng ta, Ân Sủng Chúa đang đổ xuống cho giáo Hội Việt Nam. Với tâm tình sống Năm Hồng Ân này là: Mầu Nhiệm – Hiệp Thông và Sứ Vụ, ước gì mỗi người trong chúng ta cũng biết đến với nhau không chỉ là món quà vật chất như thế nhưng là cả tấm lòng sẻ chia, cảm thông và thương mến.
Liên Giáo Sĩ & Tu Sĩ Công Giáo Việt Nam tại Canada Chúc mừng Năm Mới
Lm Phêrô Trần Thế Tuyên
17:32 12/02/2010
Liên Giáo Sĩ & Tu Sĩ Công Giáo Việt Nam tại Canada Chúc mừng Năm Mới
Xuân Canh Dần 2010
Tôi, linh mục Phêrô Trần thế Tuyên, xin thay mặt cho 167 thành viên gồm linh mục và tu sĩ, trong tổ chức Liên Giáo Sĩ & Tu Sĩ Công Giáo Việt Nam tại Canada. Xin dâng lời nguyện đầu xuân lên Thiên Chúa là Chúa Xuân và xin gởi lời chúc mừng năm mới, mừng Xuân Canh Dần đến quê hương Việt Nam, đến Giáo Hội Mẹ Việt Nam, và đến quí Đức Cha, quí linh mục tu sĩ và đồng hương hải ngoại, đang sống rải rác trên các châu lục.
Lời nguyện cầu và chúc xuân đầu tiên xin dành cho quê hương Việt Nam thân yêu. Xin Thiên Chúa ban cho quê hương Việt Nam thanh bình, thạnh vượng và ấm no.
Nguyện cầu cho Nhà Nước Việt Nam biết lo cho dân có nước, có nhà, có nơi cư trú binh an, có điều kiện sinh sống thoải mái, có những quyền tự do căn bản của con người và được sống hạnh phúc.
Nguyện cầu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cho Đức Hồng Y, cho quí Đức Cha, quí linh mục, quí tu sĩ nam nữ và toàn thể tám triệu người Công Giáo Việt Nam: Được kiên cường trong đức tin đã được sinh ra trong máu đào tử đạo của Cha Ông; được kiên trì trong đức cậy không hề lay chuyển; và được tăng trưởng trong đức mến không bao giờ bị mai một.
Xin Thiên Chúa là Chúa Xuân ban cho Đức Hồng Y, quí Đức Cha, quí linh mục, quí tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân một mùa Xuân thật rạng rỡ gương chứng nhân anh hùng, một cái tết rộn ràng, hài hoà với tiết, với thời của Hóa Công và một năm mới thật canh tân qua ơn lành Năm Thánh 2010.
Nguyện xin Thiên Chúa, là Chúa tể của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ban cho hai triệu rưởi người Việt Nam, sống ngoài Việt Nam, rải rác trên khắp các châu lục được sức khỏe, may lành và công thành danh toại nơi xứ người. Xin Chúc tất cả được hưởng một cái Tết không vào mùa xuân, nhưng thật sự trẻ trung và đậm đà hương vị văn hoá quê hương Việt Nam.
Xin Chúa chúc lành cho quí Đức Cha, quí linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam hải ngoại. Chúng ta, người Việt Nam Công Giáo ly hương. Dù xa hương về không gian, nhưng tâm hồn bao giờ cũng gần gũi, gắn bó, đồng hành và hiệp thông với từng nhịp sống của Giáo Hội Mẹ Việt Nam. Cầu chúc tất cả được thánh thiện và được nhiều ơn lộc Chúa ban trong năm mới Canh Dần 2010.
Đối với Dức Cha Vinhsơn Nguyễn mạnh Hiếu, quí linh mục, quí tu sĩ và bà con giáo dân Việt Nam tại Canada. Trước hết, tôi xin cám tạ ơn Chúa cho và vì Đức Cha Vinhsơn Nguyễn mạnh Hiếu. Ngài như một nhánh mai của mùa Xuân Canh Dần 2010. Thật ít oi và nhỏ bé, chỉ có 167 thành viên linh mục và tu sĩ. Chỉ có hơn ba mươi ngàn giáo dân rải rác trên 20 cộng đoàn lớn nhỏ, trải dài trên đất nước rộng lớn và băng giá như Canada. Vậy mà Xuân vẫn đến trong tiết Đông, Mai vẫn vàng tươi trên tuyết trắng, tương lai vẫn rực nắng của thành công và hy vọng. Muôn ngàn đời cảm tạ Chúa xuân và xin cầu chúc:
Cho đàn chiên Việt ly hương
Trong vòng tay Chúa, yêu thương, giữ gìn.
Xin cho sống trọn chữ tình:
Cao xa tình Chúa, ân sâu tình người.
Cuối cùng, lời nguyện và lời chúc xuân của tôi xin dâng lên Chúa, xin gửi đến mọi người qua lời chuyển cầu của Mẹ La Vang, Mẹ Việt Nam. Mẹ là Mùa Xuân Thiên đàng. Lạy Mẹ La Vang, xin hãy lắng nghe tiếng con Việt Nam. Xin ban cho đàn con Việt một cái Tết thật cỗ truyền Việt Nam: Cái Tết có bánh chưng, có bánh dày, có Vuông Tròn, có Trời có Đất, có an vui thái hòa, có quà số đỏ, vận may, có cành mai sắc vàng xuân ân tình.
Cung chúc tân xuân! Chúc mừng năm mới, xuân Canh Dần 2010.
Xuân Canh Dần 2010
Lời nguyện cầu và chúc xuân đầu tiên xin dành cho quê hương Việt Nam thân yêu. Xin Thiên Chúa ban cho quê hương Việt Nam thanh bình, thạnh vượng và ấm no.
Nguyện cầu cho Nhà Nước Việt Nam biết lo cho dân có nước, có nhà, có nơi cư trú binh an, có điều kiện sinh sống thoải mái, có những quyền tự do căn bản của con người và được sống hạnh phúc.
Nguyện cầu cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, cho Đức Hồng Y, cho quí Đức Cha, quí linh mục, quí tu sĩ nam nữ và toàn thể tám triệu người Công Giáo Việt Nam: Được kiên cường trong đức tin đã được sinh ra trong máu đào tử đạo của Cha Ông; được kiên trì trong đức cậy không hề lay chuyển; và được tăng trưởng trong đức mến không bao giờ bị mai một.
Xin Thiên Chúa là Chúa Xuân ban cho Đức Hồng Y, quí Đức Cha, quí linh mục, quí tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân một mùa Xuân thật rạng rỡ gương chứng nhân anh hùng, một cái tết rộn ràng, hài hoà với tiết, với thời của Hóa Công và một năm mới thật canh tân qua ơn lành Năm Thánh 2010.
Nguyện xin Thiên Chúa, là Chúa tể của bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông ban cho hai triệu rưởi người Việt Nam, sống ngoài Việt Nam, rải rác trên khắp các châu lục được sức khỏe, may lành và công thành danh toại nơi xứ người. Xin Chúc tất cả được hưởng một cái Tết không vào mùa xuân, nhưng thật sự trẻ trung và đậm đà hương vị văn hoá quê hương Việt Nam.
Xin Chúa chúc lành cho quí Đức Cha, quí linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam hải ngoại. Chúng ta, người Việt Nam Công Giáo ly hương. Dù xa hương về không gian, nhưng tâm hồn bao giờ cũng gần gũi, gắn bó, đồng hành và hiệp thông với từng nhịp sống của Giáo Hội Mẹ Việt Nam. Cầu chúc tất cả được thánh thiện và được nhiều ơn lộc Chúa ban trong năm mới Canh Dần 2010.
Đối với Dức Cha Vinhsơn Nguyễn mạnh Hiếu, quí linh mục, quí tu sĩ và bà con giáo dân Việt Nam tại Canada. Trước hết, tôi xin cám tạ ơn Chúa cho và vì Đức Cha Vinhsơn Nguyễn mạnh Hiếu. Ngài như một nhánh mai của mùa Xuân Canh Dần 2010. Thật ít oi và nhỏ bé, chỉ có 167 thành viên linh mục và tu sĩ. Chỉ có hơn ba mươi ngàn giáo dân rải rác trên 20 cộng đoàn lớn nhỏ, trải dài trên đất nước rộng lớn và băng giá như Canada. Vậy mà Xuân vẫn đến trong tiết Đông, Mai vẫn vàng tươi trên tuyết trắng, tương lai vẫn rực nắng của thành công và hy vọng. Muôn ngàn đời cảm tạ Chúa xuân và xin cầu chúc:
Cho đàn chiên Việt ly hương
Trong vòng tay Chúa, yêu thương, giữ gìn.
Xin cho sống trọn chữ tình:
Cao xa tình Chúa, ân sâu tình người.
Cuối cùng, lời nguyện và lời chúc xuân của tôi xin dâng lên Chúa, xin gửi đến mọi người qua lời chuyển cầu của Mẹ La Vang, Mẹ Việt Nam. Mẹ là Mùa Xuân Thiên đàng. Lạy Mẹ La Vang, xin hãy lắng nghe tiếng con Việt Nam. Xin ban cho đàn con Việt một cái Tết thật cỗ truyền Việt Nam: Cái Tết có bánh chưng, có bánh dày, có Vuông Tròn, có Trời có Đất, có an vui thái hòa, có quà số đỏ, vận may, có cành mai sắc vàng xuân ân tình.
Cung chúc tân xuân! Chúc mừng năm mới, xuân Canh Dần 2010.
Đức TGM John Vlazny nghĩ gì về người Công Giáo VN tại Oregon nhân dịp năm mới
Nguyễn Long Thao (dịch)
19:08 12/02/2010
Đức TGM John Vlazny nghĩ gì về người Công Giáo VN tại Oregon nhân dịp năm mới
Đức TGM John Vlazny cai quan Tổng Giáo Phận Portland ở Oregon đã viết bài báo có tựa đề Another New Year, được đăng trong tờ Catholic Sentinel trong đó Ngài chúc tết và ca ngợi người Công Giáo Việt Nam tại Oregon. Ngài viết: "Sứ vụ loan báo tin mừng của Cộng Đồng Công Giáo miền tây tiểu bang Oregon được nâng cao bội phần nhờ sự hiện diện của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam ở giữa chúng ta. Chúng ta đã hân hoan chào đón họ khi họ bắt đầu đến đây vào năm 1975 khi Sàigòn bị thất thủ. Từ đó, họ đã đóng góp nhiều hơn mức công bình vào đời sống đức tin của cộng đồng chúng ta. (The evangelizing mission of our Catholic community here in western Oregon has been greatly enhanced by the presence of the Vietnamese Catholic community among us. We gave them a warm welcome when they first started arriving after the fall of Saigon in 1975. Since then they have contributed more than their fair share to the faith life of our community).
Chúng tôi xin dịch bài báo của Đức TGM để độc giả VietCatholic biết hàng giáo phẩm Hoa Kỳ nhận định thế nào về giáo dân Việt Nam
Tháng qua Sở Bưu Điện Hoa Kỳ đã ấn hành 12 con tem lưu niệm để chào mừng Tân Niên Âm Lịch: Cộng đồng người Á Châu trên khắp thế giới tiếp tục chia sẻ truyền thống và di sản văn hóa của họ tại những nơi mà họ định cư. Tôi hân hoan thấy Giáo Xứ Người Á Châu Vùng Đông Nam Á tại thánh đường Đức Mẹ La Vang vùng Portland, tiếp tục mừng ngày khởi đầu Tân Niên Âm Lịch. Năm nay là năm Canh Dần và giáo xứ sẽ cử hành thánh lễ Minh Niên vào đêm Giao Thừa, lúc 7 giờ tối, ngày 13 tháng Hai tại nhà thờ Đức Mẹ La Vang.
Năm Canh Dần tới đây bắt đầu vào ngày 14 tháng Hai năm 2010 và kết thúc vào ngày 2 tháng Hai năm 2011. Âm Lịch có 12 con giáp mỗi tên con giáp được dùng để đặt cho một năm và cứ chu kỳ 12 năm, tên con giáp đó lại trở lại một lần. Như tôi sinh vào năm con Trâu. Năm Âm Lịch sắp chấm dứt. Nhiều người Á Châu nghĩ rằng mình sinh vào năm con giáp nào thì mình sẽ có những đức tính của con vật đó. Người ta nói những người sinh vào năm con Cọp sẽ có đức tính can đảm và dũng mạnh như con cọp. Họ có vẻ chân thành về điều đó nhưng vẫn là điều bí ẩn đối với những người chung quanh
Mừng Năm Mới không phải là sự kiện tôn giáo, nhưng cộng đồng người Việt Nam cũng như những cộng đồng người Á Châu khác trên khắp thế giới đã nhân dịp này hoà trộn tinh thần đạo giáo vào ngày lễ thế tục trong năm. Qúy vị còn nhớ chuyện này giống y như những chuyện đã diễn ra trong các cộng đồng người Kitô Hữu thời xưa. Các nhà lãnh đạo lúc đó chọn ngày mừng lễ Chúa Giáng Sinh vào ngày dân chúng thời xưa mừng ngày Đông Chí.
Sứ vụ loan báo tin mừng của Cộng Đồng Công Giáo miền tây tiểu bang Oregon được nâng cao bội phần nhờ sự hiện diện của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam ở giữa chúng ta. Chúng ta đã hân hoan chào đón họ khi họ bắt đầu đến đây vào năm 1975 khi Sàigòn bị thất thủ. Từ đó, họ đã đóng góp nhiều hơn mức công bình vào đời sống đức tin của cộng đồng chúng ta.
Tháng 11 vừa qua, Đức Ông Morton Park, một Linh Mục của Tổng Giáo Phận đã qua đời. Ngài là Giám Đốc Cơ Quan Bác Ái lúc các người bạn láng giềng Việt Nam đến vùng Portland để tìm chỗ định cư và kiếm việc làm. Dưới sự điều hành của Ngài, cơ quan Bác Ái Công Giáo đã nỗ lực giúp họ định cư tại đây. Đức Tổng Giám Mục Cornelius Power đã thiết lập giáo xứ cho họ vào năm 1981.
Đức Giám Mục phó Paul Waldschmidt đã trở thành người bạn yêu qúy của giáo giáo dân Việt Nam. Họ thương yêu Ngài đến nỗi khi Ngài qua đời tại bệnh viện, một số Dì Phước đã hát những bản thánh ca bên ngoài hàng hiên phòng bệnh viện
Vào tháng 10 năm 1999, sau 34 năm thành lập Giáo Xứ, tôi được vinh dự thánh hiến Nhà Thờ Đức Mẹ La Vang của Giáo Xứ Người Á Châu Đông Nam Á. Ban đầu Cộng Đồng người Việt có thánh lễ song ngữ vào ngày Chúa Nhật tại giáo xứ lân cận Thánh Rosa Lima ở Portland. Nhiều người Công Giáo đã phải lái xe 30 dặm (48 cây số) để cùng với bạn bè láng giềng trong Cộng Đồng người Việt dự thánh lễ bằng tiếng Việt.
Hàng năm cứ vào Chúa Nhật đầu tháng 7, giáo xứ luôn luôn đứng ra tổ chức thánh lễ gọi là Thánh Lễ Tự Do (Freedom Mass) tại đền thờ quốc gia Đức Mẹ Sầu Bi tại Portland. Giáo xứ đã mời các nhóm sắc tộc thiểu số khác đến cùng tham dự và thánh lễ này đã trở thành sự kiện đa văn hóa, một niềm hãnh diện nói lên tính đa dạng nhưng hiệp nhất của Hiệp Chúng Quốc chúng ta
Nhân dịp năm mới, tôi xin chào mừng đến những người thiện tâm trong Giáo Xứ Người Á Châu Đông Nam Á và đặc biệt những người tham dự các nghi thức phụng vụ tại Nhà Thờ Đức Mẹ La Vang.
Cộng Đồng phát triển thì con số những thừa tác viên nói tiếng Việt cũng gia tăng. Ngoài Giáo xứ Đức Mẹ La Vang tại Portland, các nhà thờ như Thánh Joseph Church ở Salem, Nhà thờ Thánh Anthony ở Tigard, Cộng Đồng Công Giáo thánh Anrê Dũng Lạc cử hành thánh lễ tại nhà thờ Holy Trinity ở Beaverton, và nhà thờ Immaculate Heart of Mary Churc ở Portland đều là những trung tâm cử hành thánh lễ cho các người bạn Việt Nam của chúng ta.
Có hai cộng đồng nữ tu người Việt Nam đang hoạt động tại tổng giáo phận: Một cộng đồng của các chị dòng Mến Thánh Giá có trụ sở chính ở giáo Xứ Ascension vùng Portland và một cộng đồng các chị dòng Mến Thánh Giá khác có trụ sở tại Aloha. Hai cộng đồng này trẻ trung năng động, bao dung và tận tụy phục vụ. Một số phụ nữ Việt Nam cũng gia nhập các cộng đồng người Hoa Kỳ từng có mặt tại Tổng Giao phận Portland từ lâu.
Ngoài ra trong hơn 20 năm qua có 5 thanh niên trong giáo xứ đã được thu phong linh mục của tổng giáo phận. Rồi một số linh mục Việt Nam khác đã xin gia nhập tổng Giáo Phận. Mới đây nhất chúng ta được phúc có thêm 4 linh mục của Tu Hội Nhà Chúa đang phục vụ Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang và nhà thờ giáo xứ thánh James ở McMinnville. Hai đại chủng sinh của tổng giáo phận là con của gia đình Việt Nam trong giáo xứ và một số khác đang chuẩn bị hay nghĩ tới việc xin thụ phong làm thầy Sáu theo sự hướng dẫn của thầy Sáu An Vũ đang làm công tác mục vụ tại nhà thờ Đức Mẹ Sầu Bi ở Portland.
Chính nhờ Chương Trình Định Cư Người Tỵ Nạn Thuộc Bác Ái Công Giáo mà tổng giáo phận ở đây có được kết quả là có một công đồng đức tin Việt Nam sinh động. Ngày xưa, chúng ta đã gieo giống và những hạt giống đó đã thực sự trổ hoa biến thành ân sủng cho nhiều người. Những người tỵ nạn đầu tiên vào năm 1975 đã phải vượt qua biết bao nhiêu trở ngại để có thể làm quen được với vùng đất mới mà ngôn ngữ, truyền thống và cách sống, kể cả thời tiết khí hậu, cũng khác với những gì họ đã trải qua trước kia. Cũng ngày xưa, nhiều người Công Giáo ở vùng đất miền tây Oregon đã hân hoan đón chào và trợ giúp những người mới tới. Ngày nay họ trả nghiã lại cho chúng ta một cách hào hiệp và rộng rãi. Sau này, xin hãy nhớ chúng ta cũng được mời gọi hân hoan đón tiếp những người mới đến trong các cộng đồng chúng ta. Các tu sĩ nam nữ dòng Biển Đức đã nói đúng khi họ nhắc chúng ta rằng “Khi một người khách đến là lúc Chúa Kitô đến”.
Xin chúc mừng năm Canh Dần đến mọi người
Đức TGM John Vlazny của Portland,Oregon. |
Chúng tôi xin dịch bài báo của Đức TGM để độc giả VietCatholic biết hàng giáo phẩm Hoa Kỳ nhận định thế nào về giáo dân Việt Nam
Tháng qua Sở Bưu Điện Hoa Kỳ đã ấn hành 12 con tem lưu niệm để chào mừng Tân Niên Âm Lịch: Cộng đồng người Á Châu trên khắp thế giới tiếp tục chia sẻ truyền thống và di sản văn hóa của họ tại những nơi mà họ định cư. Tôi hân hoan thấy Giáo Xứ Người Á Châu Vùng Đông Nam Á tại thánh đường Đức Mẹ La Vang vùng Portland, tiếp tục mừng ngày khởi đầu Tân Niên Âm Lịch. Năm nay là năm Canh Dần và giáo xứ sẽ cử hành thánh lễ Minh Niên vào đêm Giao Thừa, lúc 7 giờ tối, ngày 13 tháng Hai tại nhà thờ Đức Mẹ La Vang.
Năm Canh Dần tới đây bắt đầu vào ngày 14 tháng Hai năm 2010 và kết thúc vào ngày 2 tháng Hai năm 2011. Âm Lịch có 12 con giáp mỗi tên con giáp được dùng để đặt cho một năm và cứ chu kỳ 12 năm, tên con giáp đó lại trở lại một lần. Như tôi sinh vào năm con Trâu. Năm Âm Lịch sắp chấm dứt. Nhiều người Á Châu nghĩ rằng mình sinh vào năm con giáp nào thì mình sẽ có những đức tính của con vật đó. Người ta nói những người sinh vào năm con Cọp sẽ có đức tính can đảm và dũng mạnh như con cọp. Họ có vẻ chân thành về điều đó nhưng vẫn là điều bí ẩn đối với những người chung quanh
Mừng Năm Mới không phải là sự kiện tôn giáo, nhưng cộng đồng người Việt Nam cũng như những cộng đồng người Á Châu khác trên khắp thế giới đã nhân dịp này hoà trộn tinh thần đạo giáo vào ngày lễ thế tục trong năm. Qúy vị còn nhớ chuyện này giống y như những chuyện đã diễn ra trong các cộng đồng người Kitô Hữu thời xưa. Các nhà lãnh đạo lúc đó chọn ngày mừng lễ Chúa Giáng Sinh vào ngày dân chúng thời xưa mừng ngày Đông Chí.
Sứ vụ loan báo tin mừng của Cộng Đồng Công Giáo miền tây tiểu bang Oregon được nâng cao bội phần nhờ sự hiện diện của Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam ở giữa chúng ta. Chúng ta đã hân hoan chào đón họ khi họ bắt đầu đến đây vào năm 1975 khi Sàigòn bị thất thủ. Từ đó, họ đã đóng góp nhiều hơn mức công bình vào đời sống đức tin của cộng đồng chúng ta.
Tháng 11 vừa qua, Đức Ông Morton Park, một Linh Mục của Tổng Giáo Phận đã qua đời. Ngài là Giám Đốc Cơ Quan Bác Ái lúc các người bạn láng giềng Việt Nam đến vùng Portland để tìm chỗ định cư và kiếm việc làm. Dưới sự điều hành của Ngài, cơ quan Bác Ái Công Giáo đã nỗ lực giúp họ định cư tại đây. Đức Tổng Giám Mục Cornelius Power đã thiết lập giáo xứ cho họ vào năm 1981.
Đức Giám Mục phó Paul Waldschmidt đã trở thành người bạn yêu qúy của giáo giáo dân Việt Nam. Họ thương yêu Ngài đến nỗi khi Ngài qua đời tại bệnh viện, một số Dì Phước đã hát những bản thánh ca bên ngoài hàng hiên phòng bệnh viện
Vào tháng 10 năm 1999, sau 34 năm thành lập Giáo Xứ, tôi được vinh dự thánh hiến Nhà Thờ Đức Mẹ La Vang của Giáo Xứ Người Á Châu Đông Nam Á. Ban đầu Cộng Đồng người Việt có thánh lễ song ngữ vào ngày Chúa Nhật tại giáo xứ lân cận Thánh Rosa Lima ở Portland. Nhiều người Công Giáo đã phải lái xe 30 dặm (48 cây số) để cùng với bạn bè láng giềng trong Cộng Đồng người Việt dự thánh lễ bằng tiếng Việt.
Hàng năm cứ vào Chúa Nhật đầu tháng 7, giáo xứ luôn luôn đứng ra tổ chức thánh lễ gọi là Thánh Lễ Tự Do (Freedom Mass) tại đền thờ quốc gia Đức Mẹ Sầu Bi tại Portland. Giáo xứ đã mời các nhóm sắc tộc thiểu số khác đến cùng tham dự và thánh lễ này đã trở thành sự kiện đa văn hóa, một niềm hãnh diện nói lên tính đa dạng nhưng hiệp nhất của Hiệp Chúng Quốc chúng ta
Nhân dịp năm mới, tôi xin chào mừng đến những người thiện tâm trong Giáo Xứ Người Á Châu Đông Nam Á và đặc biệt những người tham dự các nghi thức phụng vụ tại Nhà Thờ Đức Mẹ La Vang.
Cộng Đồng phát triển thì con số những thừa tác viên nói tiếng Việt cũng gia tăng. Ngoài Giáo xứ Đức Mẹ La Vang tại Portland, các nhà thờ như Thánh Joseph Church ở Salem, Nhà thờ Thánh Anthony ở Tigard, Cộng Đồng Công Giáo thánh Anrê Dũng Lạc cử hành thánh lễ tại nhà thờ Holy Trinity ở Beaverton, và nhà thờ Immaculate Heart of Mary Churc ở Portland đều là những trung tâm cử hành thánh lễ cho các người bạn Việt Nam của chúng ta.
Có hai cộng đồng nữ tu người Việt Nam đang hoạt động tại tổng giáo phận: Một cộng đồng của các chị dòng Mến Thánh Giá có trụ sở chính ở giáo Xứ Ascension vùng Portland và một cộng đồng các chị dòng Mến Thánh Giá khác có trụ sở tại Aloha. Hai cộng đồng này trẻ trung năng động, bao dung và tận tụy phục vụ. Một số phụ nữ Việt Nam cũng gia nhập các cộng đồng người Hoa Kỳ từng có mặt tại Tổng Giao phận Portland từ lâu.
Ngoài ra trong hơn 20 năm qua có 5 thanh niên trong giáo xứ đã được thu phong linh mục của tổng giáo phận. Rồi một số linh mục Việt Nam khác đã xin gia nhập tổng Giáo Phận. Mới đây nhất chúng ta được phúc có thêm 4 linh mục của Tu Hội Nhà Chúa đang phục vụ Giáo Xứ Đức Mẹ La Vang và nhà thờ giáo xứ thánh James ở McMinnville. Hai đại chủng sinh của tổng giáo phận là con của gia đình Việt Nam trong giáo xứ và một số khác đang chuẩn bị hay nghĩ tới việc xin thụ phong làm thầy Sáu theo sự hướng dẫn của thầy Sáu An Vũ đang làm công tác mục vụ tại nhà thờ Đức Mẹ Sầu Bi ở Portland.
Chính nhờ Chương Trình Định Cư Người Tỵ Nạn Thuộc Bác Ái Công Giáo mà tổng giáo phận ở đây có được kết quả là có một công đồng đức tin Việt Nam sinh động. Ngày xưa, chúng ta đã gieo giống và những hạt giống đó đã thực sự trổ hoa biến thành ân sủng cho nhiều người. Những người tỵ nạn đầu tiên vào năm 1975 đã phải vượt qua biết bao nhiêu trở ngại để có thể làm quen được với vùng đất mới mà ngôn ngữ, truyền thống và cách sống, kể cả thời tiết khí hậu, cũng khác với những gì họ đã trải qua trước kia. Cũng ngày xưa, nhiều người Công Giáo ở vùng đất miền tây Oregon đã hân hoan đón chào và trợ giúp những người mới tới. Ngày nay họ trả nghiã lại cho chúng ta một cách hào hiệp và rộng rãi. Sau này, xin hãy nhớ chúng ta cũng được mời gọi hân hoan đón tiếp những người mới đến trong các cộng đồng chúng ta. Các tu sĩ nam nữ dòng Biển Đức đã nói đúng khi họ nhắc chúng ta rằng “Khi một người khách đến là lúc Chúa Kitô đến”.
Xin chúc mừng năm Canh Dần đến mọi người
Bênh vực công lý và Giáo Hội
Đừng sợ làm nhân chứng cho phẩm giá của mỗi con người
Gioan Lê Quang Vinh
07:44 12/02/2010
ĐỪNG SỢ LÀM NHÂN CHỨNG CHO PHẨM GIÁ CỦA MỖI CON NGƯỜI
1. Tất niên với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Những ngày cuối năm thật buồn. Tết năm nay thiên hạ nghèo hơn, buôn bán ế ẩm, đường phố vẫn lung tung, chẳng mấy ai đủ tiền sắm Tết cho thoải mái. Càng buồn thêm khi nghĩ đến những người anh em trong Giáo Hội Việt nam, những nạn nhân và cả những người có trách nhiệm, cả những chủ chăn anh dũng và những chủ chăn dịu hiền.
Lúc đang buồn buồn như thế thì tôi mở nghe một bản nhạc của linh mục nhạc sĩ Phaolô Hoàng Kim Tốt, và trùng hợp bất ngờ là sau đó nhận được điện thoại cha Tốt, cùng hẹn hò ra thăm xứ Ma Lâm của ngài.
Tôi mở tủ sách, lấy cuốn sách ngài tặng nhiều năm trước: “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Bây giờ đọc lại cuốn sách vào dịp tất niên với cái nhìn mới và những biến cố mới trong Giáo Hội, tôi khám phá ra sự vĩ đại và tâm hồn cao cả của vị Giáo hoàng tuyệt vời.
Người Công giáo học giáo lý đến Thêm Sức là đã đủ. Nhiều xứ có lớp Kinh Thánh, lớp Đức Tin, lớp Vào Đời, nhưng dường như chưa có lớp giáo lý về Giáo huấn của Hội Thánh. Chúng ta vẫn nghĩ tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng là xa vời, là cao siêu chẳng mấy ai có thể nắm được và cũng không mấy thực tế. Nhưng khi đọc “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, người ta nhận thấy vị Giáo hoàng của Hội Thánh đang hiện diện gần gũi và chia sẻ cuộc đời người tín hữu một cách thân thiết như cha con ruột thịt.
Do đó, những ngày cuối năm của tôi thật ấm áp với tác phẩm tuyệt vời của người Cha chung. Nhưng bài viết này không phải là bài điểm sách, mà chỉ là đôi chút suy tư về hai từ “Đừng sợ” được Đức Thánh Cha nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
2. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy “Đừng sợ”
Phóng viên Vittorio Messori cơ quan R.A.I. Uno của đài truyền hình Ý đã phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II những câu hỏi thẳng thắn và như Đức Thánh Cha nhận xét, những câu hỏi “một phần do thấm nhuần một đức tin sống động, còn phần kia biểu lộ một nỗi lo âu nào đó”. Và câu hỏi đầu tiên của ký giả đã khiến Đức Thánh Cha “nhớ ngay đến lời huấn dụ” khi ngài bắt đầu sứ mệnh trên ngai toà Phêrô: “Anh chị em đừng sợ”.
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng đó là lời Thiên sứ nói với Đức Maria, với Thánh Cả Giuse và sau này Đức Giêsu cũng nói với Phêrô và các môn đệ nhiều lần. Hội Thánh cũng lặp lại lời ấy, bắt đầu từ bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô. Và Đức Thánh Cha hỏi: “Chúng ta không nên sợ gì?”.
Câu trả lời của chính ngài là “trước tiên không nên sợ sự thật về chính mình”. Sau đó ngài viết thêm: “Nói cách khác, đừng sợ người ta”.
Nỗi sợ bị người khác chê trách, bị lên án và bị ngược đãi v.v… là nỗi sợ gắn liền với phận người. Đa phần những việc con người làm là để hài lòng một ai đó. Càng thánh thiện người ta càng muốn làm hài lòng Thiên Chúa hơn là hài lòng người đời. Nhưng khổ thay, con người có lúc có cảm giác như lời Thánh Vịnh “kẻ thù bao vây tứ phía” (x.TV17,11) và họ lại quên rằng Chúa là Đấng “cứu ai trú ẩn dưới cánh tay Ngàikhỏi quân thù xông đánh” (TV 17,7).
Vì sợ hãi, người ta có khi không dám đứng về phía kẻ yếu thế, cô thân. Lịch sử Hội Thánh minh chứng rằng dù có những lúc nhiều giáo sĩ đi với cường quyền, nhưng Hội Thánh xét như toàn thể thì luôn đứng về phía người nghèo, người bị áp bức, vì đó là sứ mệnh thuộc bản chất Hội Thánh.
Đức Thánh Cha thật sâu sắc khi ngài muốn diễn đạt rằng nỗi sợ hãi trước tiên là do con người quá biết rõ về chính mình. Lẽ ra lúc biết về sự yếu đuối của mình, con người phải tin cậy vào Thiên Chúa, đàng này nhiều người lại dựa vào sức mạnh thế gian!
Thứ hai, Đức Thánh Cha dạy “đừng sợ Thiên Chúa đã làm người, đừng sợ gọi Thiên Chúa là Cha và hãy nên hoàn hảo như Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo”. Đức Thánh Cha bảo rằng “Phêrô không những không sợ vị Thiên Chúa làm người, ông còn lo sợ thay cho Đức Giêsu!”
Đức Thánh Cha muốn chúng ta hiểu rằng tương quan giữa Thiên Chúa với con người là tương quan cha con, và như vậy chúng ta cần vững lòng cậy trông. Chúa đã giao cho Phêrô và cho Giáo Hội trọng trách cao cả, thì những mục tử trong Giáo Hội cũng như Phêrô không thể chối Chúa lần nữa, mà kiên cường trong đức tin đến cùng.
Và Đức Thánh Cha nhắc nhở “đừng sợ làm nhân chứng cho phẩm giá của mỗi con người, từ lúc con người thụ thai cho đến khi chết”.
Có lẽ đây là điều mà hôm nay ngài muốn gợi lại cho Giáo Hội Việt Nam khi chúng ta đang hân hoan mừng Năm Thánh. Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng “Giáo Hội chu toàn sứ mạng công bố Tin Mừng là Giáo Hội làm chứng cho con người, nhân danh Đức Kitô: làm chứng cho phẩm giá của con người, cho ơn gọi sống hiệp thông giữa mọi người với nhau. Giáo Hội dạy cho con người biết các đòi hỏi của công lý và hoà bình phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (GLGHCG 2419).
Giáo Hội dạy “Thông điệp căn bản của Thánh Kinh cho biết con người là thụ tạo của Thiên Chúa (x. Tv 139,14-18), và theo thông điệp ấy, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người. (…) Bởi đó, “được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá của một ngôi vị” (HTXHCG, 108).
Như vậy, ơn cứu chuộc là ơn hoàn trả phẩm giá cao quý ấy cho con người sau ngày họ bất tuân lệnh Chúa. Và sứ mệnh Hội Thánh là gì nếu không phải là ra sức rao giảng cùng bênh vực cho phẩm giá cao quí của con người là hình ảnh của Thiên Chúa.
Mà rao giảng về phẩm giá con người sao được nếu cứ sợ hãi bóng tối của “thế gian điêu ngoa”?
3. “Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người”.
Học thuyết Xã Hội Công Giáo dạy rằng “Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người” (khoản 137).
Hội Thánh có “nghĩa vụ phải tố cáo mỗi khi tội có mặt: tội bất công và tội bạo lực, cách này hay cách khác, đang lan tràn qua xã hội và thâm nhập vào xã hội. Nhờ biết tố cáo, học thuyết xã hội trở nên giống các thẩm phán và các nhà bảo vệ những quyền lợi không được nhìn nhận và hay bị xâm phạm, nhất là các quyền lợi của người nghèo, người yếu kém”. (Hiến chế Mục Vụ Gaudium et Spes).
Nếu Hội Thánh im lặng trước bất công sự dữ, hay ngồi suy tư “nên nói hay nên im” thì Hội Thánh bắt đầu rời xa sứ mệnh làm ngôn sứ của mình. Như tiên tri Giôna ngày xưa, dù đã lỡ lánh mặt để trốn tránh sứ mệnh, thì phải có lúc Hội Thánh lên tiếng la lớn cho thế giới về Thiên Chúa, như cách diễn đạt của chị Chiara Lubich thuộc phong trào Focolare.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được yêu mến là bởi vì ngài đã hết lòng sống cho Thiên Chúa và con người trong sứ mệnh của ngài. Các mục tử muốn được lòng thế gian thì chắc chắn dân Chúa không thể ngước lên nhìn như họ ngước nhìn Đức Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Benedicto nói về vị tiền nhiệm của ngài như sau:
“Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tiếp tục tuốn đến kính viếng, và điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đã đi vào lòng người như thế nào, trước hết, là vì chứng từ yêu thương của ngài và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi ngài, chúng ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu của ngài, và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn đồng hành với ngài và bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó nhất và bi thảm nhất cuộc đời của ngài” (Huấn Từ Truyền Tin).
Nhân dịp xuân về, con xin kính chúc quí mục tử trong Hội Thánh luôn bình an, vững tin vào Thiên Chúa và luôn can đảm nói lên sự thật để rao truyền Tin Mừng, nâng cao phẩm giá con người và có được niềm tin yêu của dân Chúa.
(Viết kính tặng cha Giám Tỉnh và các Cha các Thầy
1. Tất niên với Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II
Những ngày cuối năm thật buồn. Tết năm nay thiên hạ nghèo hơn, buôn bán ế ẩm, đường phố vẫn lung tung, chẳng mấy ai đủ tiền sắm Tết cho thoải mái. Càng buồn thêm khi nghĩ đến những người anh em trong Giáo Hội Việt nam, những nạn nhân và cả những người có trách nhiệm, cả những chủ chăn anh dũng và những chủ chăn dịu hiền.
Lúc đang buồn buồn như thế thì tôi mở nghe một bản nhạc của linh mục nhạc sĩ Phaolô Hoàng Kim Tốt, và trùng hợp bất ngờ là sau đó nhận được điện thoại cha Tốt, cùng hẹn hò ra thăm xứ Ma Lâm của ngài.
Tôi mở tủ sách, lấy cuốn sách ngài tặng nhiều năm trước: “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng” của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Bây giờ đọc lại cuốn sách vào dịp tất niên với cái nhìn mới và những biến cố mới trong Giáo Hội, tôi khám phá ra sự vĩ đại và tâm hồn cao cả của vị Giáo hoàng tuyệt vời.
Người Công giáo học giáo lý đến Thêm Sức là đã đủ. Nhiều xứ có lớp Kinh Thánh, lớp Đức Tin, lớp Vào Đời, nhưng dường như chưa có lớp giáo lý về Giáo huấn của Hội Thánh. Chúng ta vẫn nghĩ tư tưởng của các Đức Giáo Hoàng là xa vời, là cao siêu chẳng mấy ai có thể nắm được và cũng không mấy thực tế. Nhưng khi đọc “Bước Qua Ngưỡng Cửa Hy Vọng”, người ta nhận thấy vị Giáo hoàng của Hội Thánh đang hiện diện gần gũi và chia sẻ cuộc đời người tín hữu một cách thân thiết như cha con ruột thịt.
Do đó, những ngày cuối năm của tôi thật ấm áp với tác phẩm tuyệt vời của người Cha chung. Nhưng bài viết này không phải là bài điểm sách, mà chỉ là đôi chút suy tư về hai từ “Đừng sợ” được Đức Thánh Cha nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
2. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II dạy “Đừng sợ”
Phóng viên Vittorio Messori cơ quan R.A.I. Uno của đài truyền hình Ý đã phỏng vấn Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II những câu hỏi thẳng thắn và như Đức Thánh Cha nhận xét, những câu hỏi “một phần do thấm nhuần một đức tin sống động, còn phần kia biểu lộ một nỗi lo âu nào đó”. Và câu hỏi đầu tiên của ký giả đã khiến Đức Thánh Cha “nhớ ngay đến lời huấn dụ” khi ngài bắt đầu sứ mệnh trên ngai toà Phêrô: “Anh chị em đừng sợ”.
Đức Thánh Cha nhắc lại rằng đó là lời Thiên sứ nói với Đức Maria, với Thánh Cả Giuse và sau này Đức Giêsu cũng nói với Phêrô và các môn đệ nhiều lần. Hội Thánh cũng lặp lại lời ấy, bắt đầu từ bài giảng đầu tiên của Thánh Phêrô. Và Đức Thánh Cha hỏi: “Chúng ta không nên sợ gì?”.
Câu trả lời của chính ngài là “trước tiên không nên sợ sự thật về chính mình”. Sau đó ngài viết thêm: “Nói cách khác, đừng sợ người ta”.
Nỗi sợ bị người khác chê trách, bị lên án và bị ngược đãi v.v… là nỗi sợ gắn liền với phận người. Đa phần những việc con người làm là để hài lòng một ai đó. Càng thánh thiện người ta càng muốn làm hài lòng Thiên Chúa hơn là hài lòng người đời. Nhưng khổ thay, con người có lúc có cảm giác như lời Thánh Vịnh “kẻ thù bao vây tứ phía” (x.TV17,11) và họ lại quên rằng Chúa là Đấng “cứu ai trú ẩn dưới cánh tay Ngàikhỏi quân thù xông đánh” (TV 17,7).
Vì sợ hãi, người ta có khi không dám đứng về phía kẻ yếu thế, cô thân. Lịch sử Hội Thánh minh chứng rằng dù có những lúc nhiều giáo sĩ đi với cường quyền, nhưng Hội Thánh xét như toàn thể thì luôn đứng về phía người nghèo, người bị áp bức, vì đó là sứ mệnh thuộc bản chất Hội Thánh.
Đức Thánh Cha thật sâu sắc khi ngài muốn diễn đạt rằng nỗi sợ hãi trước tiên là do con người quá biết rõ về chính mình. Lẽ ra lúc biết về sự yếu đuối của mình, con người phải tin cậy vào Thiên Chúa, đàng này nhiều người lại dựa vào sức mạnh thế gian!
Thứ hai, Đức Thánh Cha dạy “đừng sợ Thiên Chúa đã làm người, đừng sợ gọi Thiên Chúa là Cha và hãy nên hoàn hảo như Thiên Chúa là Đấng hoàn hảo”. Đức Thánh Cha bảo rằng “Phêrô không những không sợ vị Thiên Chúa làm người, ông còn lo sợ thay cho Đức Giêsu!”
Đức Thánh Cha muốn chúng ta hiểu rằng tương quan giữa Thiên Chúa với con người là tương quan cha con, và như vậy chúng ta cần vững lòng cậy trông. Chúa đã giao cho Phêrô và cho Giáo Hội trọng trách cao cả, thì những mục tử trong Giáo Hội cũng như Phêrô không thể chối Chúa lần nữa, mà kiên cường trong đức tin đến cùng.
Và Đức Thánh Cha nhắc nhở “đừng sợ làm nhân chứng cho phẩm giá của mỗi con người, từ lúc con người thụ thai cho đến khi chết”.
Có lẽ đây là điều mà hôm nay ngài muốn gợi lại cho Giáo Hội Việt Nam khi chúng ta đang hân hoan mừng Năm Thánh. Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo đã dạy rằng “Giáo Hội chu toàn sứ mạng công bố Tin Mừng là Giáo Hội làm chứng cho con người, nhân danh Đức Kitô: làm chứng cho phẩm giá của con người, cho ơn gọi sống hiệp thông giữa mọi người với nhau. Giáo Hội dạy cho con người biết các đòi hỏi của công lý và hoà bình phù hợp với sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (GLGHCG 2419).
Giáo Hội dạy “Thông điệp căn bản của Thánh Kinh cho biết con người là thụ tạo của Thiên Chúa (x. Tv 139,14-18), và theo thông điệp ấy, hình ảnh Thiên Chúa nơi con người chính là yếu tố định tính và phân biệt con người. (…) Bởi đó, “được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa, con người có phẩm giá của một ngôi vị” (HTXHCG, 108).
Như vậy, ơn cứu chuộc là ơn hoàn trả phẩm giá cao quý ấy cho con người sau ngày họ bất tuân lệnh Chúa. Và sứ mệnh Hội Thánh là gì nếu không phải là ra sức rao giảng cùng bênh vực cho phẩm giá cao quí của con người là hình ảnh của Thiên Chúa.
Mà rao giảng về phẩm giá con người sao được nếu cứ sợ hãi bóng tối của “thế gian điêu ngoa”?
3. “Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người”.
Học thuyết Xã Hội Công Giáo dạy rằng “Việc loại trừ bất công làm thăng tiến tự do và phẩm giá con người” (khoản 137).
Hội Thánh có “nghĩa vụ phải tố cáo mỗi khi tội có mặt: tội bất công và tội bạo lực, cách này hay cách khác, đang lan tràn qua xã hội và thâm nhập vào xã hội. Nhờ biết tố cáo, học thuyết xã hội trở nên giống các thẩm phán và các nhà bảo vệ những quyền lợi không được nhìn nhận và hay bị xâm phạm, nhất là các quyền lợi của người nghèo, người yếu kém”. (Hiến chế Mục Vụ Gaudium et Spes).
Nếu Hội Thánh im lặng trước bất công sự dữ, hay ngồi suy tư “nên nói hay nên im” thì Hội Thánh bắt đầu rời xa sứ mệnh làm ngôn sứ của mình. Như tiên tri Giôna ngày xưa, dù đã lỡ lánh mặt để trốn tránh sứ mệnh, thì phải có lúc Hội Thánh lên tiếng la lớn cho thế giới về Thiên Chúa, như cách diễn đạt của chị Chiara Lubich thuộc phong trào Focolare.
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II được yêu mến là bởi vì ngài đã hết lòng sống cho Thiên Chúa và con người trong sứ mệnh của ngài. Các mục tử muốn được lòng thế gian thì chắc chắn dân Chúa không thể ngước lên nhìn như họ ngước nhìn Đức Gioan Phaolô II.
Đức Thánh Cha Benedicto nói về vị tiền nhiệm của ngài như sau:
“Trước ngôi mộ của ngài trong hầm mộ Vatican, nhiều tín hữu vẫn không ngừng tiếp tục tuốn đến kính viếng, và điều này cho thấy một dấu hiệu hùng hồn là Đức Gioan Phaolô II yêu dấu của chúng ta đã đi vào lòng người như thế nào, trước hết, là vì chứng từ yêu thương của ngài và việc ngài sẵn sàng chấp nhận khổ đau. Nơi ngài, chúng ta có thể ca tụng sức mạnh của đức tin và lời nguyện cầu của ngài, và cách ngài hoàn toàn phó thác bản thân ngài cho Đức Maria Rất Thánh, vị luôn đồng hành với ngài và bảo vệ chở che ngài, nhất là trong những lúc khốn khó nhất và bi thảm nhất cuộc đời của ngài” (Huấn Từ Truyền Tin).
Nhân dịp xuân về, con xin kính chúc quí mục tử trong Hội Thánh luôn bình an, vững tin vào Thiên Chúa và luôn can đảm nói lên sự thật để rao truyền Tin Mừng, nâng cao phẩm giá con người và có được niềm tin yêu của dân Chúa.
(Viết kính tặng cha Giám Tỉnh và các Cha các Thầy
Rắc rối của Hà Nội còn sâu xa hơn giá trị của Đồng Tiền (VN)
Duy Hoàng / WSJ
07:55 12/02/2010
Đảng Cộng Sản Việt Nam một lần nữa đang lâm nạn. Khả năng quản lý kinh tế của họ đang bị tòa án công luận đưa ra xét xử, với bằng chứng được trưng ra là một tỷ giá hối đoái đang mất giá đều đặn trên thị trường chợ đen đã buộc Hà Nội phải cho giảm tỷ giá chính thức của tiền Đồng một cách định kỳ, mới nhất là 3,4% vào ngày hôm qua. Trong lúc đó lạm phát lại đang tăng vọt ở mức 7,6% vào tháng Giêng, so với dự báo trước đó của chính phủ chỉ có 7% cho cả năm.
Những áp lực kinh tế này là phần cộng thêm vào rắc rối khác đã có sẵn của Hà Nội. Dù cho (nguyên do) phát xuất từ nỗi căm giận của công chúng về cách xử sự của Hà Nội trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, hay những tranh chấp về số đất đai tịch thu của Giáo Hội Công Giáo, có rất nhiều lý do khiến Đảng CS đâm ra lúng túng. Và kết quả là cuộc đàn áp những nhà bất đồng chính kiến trở nên tệ hại hơn trước.
Bất kể tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ trong thập niên vừa qua, nền kinh tế hiện đang là một vấn đề đặc biệt. Phản ứng của Hà Nội trước cuộc suy thoái toàn cầu là đưa ra một kích thích tài chính, dẫn đưa sự thâm hụt ngân sách năm ngoái xuống còn khoảng 10% của tổng sản lượng quốc gia. Phần lớn của khoản kích thích này được truyền dẫn qua các ngân hàng nhà nước chuyên cấp vốn cho những doanh nghiệp nào nhà nước ưa thích vay mượn.
Thay vì kích thích tăng trưởng thực sự, số tiền dư thừa đã khiến cho giá cả tăng lên. Lạm phát cao và thâm hụt về mậu dịch và tài chính đã thúc đẩy người dân địa phương và các doanh nghiệp tư bỏ rơi tiền Đồng để theo tiền Đô la và vàng, trong lúc các doanh nghiệp nhà nước vật lộn với nạn thiếu hụt tiền Đô la.
Khả năng cần có của chế độ này trong việc quản lý nên kinh tế là một trong những tuyên bố của họ về tính chính danh của mình. Sự bất ổn về kinh tế được diễn dịch thành hành động thách thức đối với nhà cầm quyền.Theo thống kê chính thức, trong năm qua đã có hơn 200 cuộc đình công của giới lao động không được phép, với con số nhân công hãng xưởng ra về ngang xương lên đến hàng chục ngàn. Số nông dân kéo đến biểu tình trước các cửa quyền về việc trưng thu đất đai của họ đã trở thành một cảnh tượng thông thường.
Trong khi đó tuyên bố khác về sự chính danh của Đảng - là "sẽ đặt Việt Nam lên trên các thế lực ngọai bang" như thần thoại đã được họ dựng lên từ thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ- hiện cũng được đưa ra (cho dân) đặt câu hỏi.
Các tranh cãi về vụ khai thác mỏ bô xít do Trung Quốc đầu tư trên vùng cao nguyên trung phần đã làm rõ nghĩa vấn đề này. Nhiều nhà quan sát cho rằng kế hoạch khai thác trên chẳng hề mang ý nghĩa kinh tế, môi trường nào cả. Dự án 15 tỉ đô này đòi hỏi Việt Nam khai thác mỏ quặng bô xít và tinh chế Alumina (Ô xít nhôm) -trong tiến trình sản xuất nhôm- một tiến trình có độc tính cao. Số hợp chất Alumina sau đó sẽ được xuất cảng sang Trung Quốc. Nhiều blogger Việt Nam đã cáo buộc rằng Hà Nội đang xúc tiến cuộc mạo hiểm này cho việc làm giàu cá nhân của một số cán bộ cao cấp và để giảm bớt nhu cầu tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc.
Hà Nội cũng đang chịu áp lực vì đã tỏ ra yếu ớt trong những tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở Biển Đông, nơi Trung Quốc cũng tuyên bố thuộc chủ quyền của họ. Một số nhà hoạt động trong nước đã công bố các trường hợp của ngư dân Việt Nam bị tàu hải quân Trung Quốc bắn trong vùng biển Việt Nam, trong khi phương tiện truyền thông nhà nước thường làm ngơ trước những vụ nổ súng này hay nếu có đăng tin cũng chỉ nói quanh co.
Các lãnh đạo Đảng đều hiểu được mối đe dọa mà họ đang phải đương đầu. Đánh dấu 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản 02 tháng 2, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tuyên bố: "Chúng tôi đang hết sức cố gắng để duy trì tình trạng ổn định chính trị, và đấu tranh chống lại tất cả những thủ đoạn của các thế lực thù địch bằng cách ngăn chận không cho họ lợi dụng những vấn đề như dân chủ, nhân quyền, và tình trạng đa nguyên để phá hoại cuộc cách mạng Việt Nam. "
Như thế Đảng (CS) hiện đang rạn nứt.
Kể từ tháng mười vừa qua, nhà cầm quyền đã kết án 17 người hoạt động (dân chủ) trong một loạt phiên xử chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng một ngày về tội tuyên truyền chống phá, lật đổ nhà nước, và hành hung người khác. Tội hành hung người khác của tiểu thuyết gia nổi tiếng Trần Khải Thanh Thủy là một điển hình. Bà đã bị buộc tội hành hung một người hàng xóm. Trong thực tế, bà và chồng đã bị du đãng đánh đập với sự hỗ trợ của công an, trước sự chứng kiến của cô con gái 13 tuổi.
Thế nhưng cho đến nay những người đối nghịch với chế độ vẫn có vẻ không sợ sệt. Hệ thống Internet đã giúp họ, cho phép người dân Việt Nam tổ chức (mà không có sự cho phép của nhà cầm quyền) và chia sẻ tư tưởng. Trong khi chế độ cố gắng giam giữ blogger, họ vẫn không thể hạn chế được việc sử dụng Internet nhiều lắm bởi các doanh nghiệp đều phụ thuộc vào mạng lưới. Và nếu sự hạn chế của họ đi quá xa, Đảng Cộng sản sẽ gặp sự rủi ro là ly gián hàng triệu khách sử dụng Internet, trong đó có nhiều người trẻ, là những con em rất thành đạt của giới cầm quyền.
Năm ngoái, Hà Nội đã cố gắng cắt xén mạng lưới giao lưu rất phổ biến là Facebook. vào tháng Mười Một, nhà cầm quyền lặng lẽ ra lệnh cho những dịch vụ Internet địa phương thỉnh thoảng từ chối không cho khách vào mạng lưới Facebook nhằm làm "chảy máu" trang mạng khách sử dụng ưa thích. Tuy ban đầu số lượng người vào Facebook có giảm sút, nhưng bây giờ người Việt đang rục rịch quay lại vì đã biết cách phá vỡ sự hạn chế này và cũng vì những cơ sở cung cấp dịch vụ đã làm ngơ sắc lệnh của nhà nước.
Cũng có những dấu chỉ cho thấy việc các "tin tặc" cao cấp có trụ sở ngay tại Việt Nam, rất có thể chính là nhà cầm quyền,-căn cứ vào sự quy mô (của hoạt động) -đã bắt đầu tấn công các trang web chỉ trích chế độ. Nạn nhân nổi bật nhất là trang Bauxit Việt Nam, một trang web mà đã thu hút khoảng 20 triệu lượt xem khi chưa tròn một năm kể từ khi trang này bắt đầu chống đối cuộc mạo hiểm khai thác quặng mỏ của nhà nước. Nhưng nếu nhà cầm quyền cố gắng dập tắt phong trào này, họ có nguy cơ đọan tuyệt với một số lớn trí thức Việt Nam, và có lẽ làm gián đoạn một bước tiến trong chế độ.
Tuy sự thật là hầu hết công dân Việt Nam chưa được chuẩn bị để xuống đường, câu hỏi được đưa ra là bao nhiêu người sẽ tích cực hỗ trợ hệ thống (chính quyền) hiện tại nếu nền kinh tế tiếp tục đi xuống và các vấn đề chủ quyền cứ dây dưa như thế. Sự mất giá tiền tệ trong tuần này chỉ là một triệu chứng của một sự bất ổn to tát hơn nhiều.
(Nguồn: Duy Hoàng, http://online.wsj.com/article/SB10001424052748703382904575058671452503744.html?mod=googlenews_wsj * Hoa Trắng dịch)
Những áp lực kinh tế này là phần cộng thêm vào rắc rối khác đã có sẵn của Hà Nội. Dù cho (nguyên do) phát xuất từ nỗi căm giận của công chúng về cách xử sự của Hà Nội trong tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc, hay những tranh chấp về số đất đai tịch thu của Giáo Hội Công Giáo, có rất nhiều lý do khiến Đảng CS đâm ra lúng túng. Và kết quả là cuộc đàn áp những nhà bất đồng chính kiến trở nên tệ hại hơn trước.
Bất kể tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ trong thập niên vừa qua, nền kinh tế hiện đang là một vấn đề đặc biệt. Phản ứng của Hà Nội trước cuộc suy thoái toàn cầu là đưa ra một kích thích tài chính, dẫn đưa sự thâm hụt ngân sách năm ngoái xuống còn khoảng 10% của tổng sản lượng quốc gia. Phần lớn của khoản kích thích này được truyền dẫn qua các ngân hàng nhà nước chuyên cấp vốn cho những doanh nghiệp nào nhà nước ưa thích vay mượn.
Thay vì kích thích tăng trưởng thực sự, số tiền dư thừa đã khiến cho giá cả tăng lên. Lạm phát cao và thâm hụt về mậu dịch và tài chính đã thúc đẩy người dân địa phương và các doanh nghiệp tư bỏ rơi tiền Đồng để theo tiền Đô la và vàng, trong lúc các doanh nghiệp nhà nước vật lộn với nạn thiếu hụt tiền Đô la.
Khả năng cần có của chế độ này trong việc quản lý nên kinh tế là một trong những tuyên bố của họ về tính chính danh của mình. Sự bất ổn về kinh tế được diễn dịch thành hành động thách thức đối với nhà cầm quyền.Theo thống kê chính thức, trong năm qua đã có hơn 200 cuộc đình công của giới lao động không được phép, với con số nhân công hãng xưởng ra về ngang xương lên đến hàng chục ngàn. Số nông dân kéo đến biểu tình trước các cửa quyền về việc trưng thu đất đai của họ đã trở thành một cảnh tượng thông thường.
Trong khi đó tuyên bố khác về sự chính danh của Đảng - là "sẽ đặt Việt Nam lên trên các thế lực ngọai bang" như thần thoại đã được họ dựng lên từ thời kháng chiến chống Pháp và Mỹ- hiện cũng được đưa ra (cho dân) đặt câu hỏi.
Các tranh cãi về vụ khai thác mỏ bô xít do Trung Quốc đầu tư trên vùng cao nguyên trung phần đã làm rõ nghĩa vấn đề này. Nhiều nhà quan sát cho rằng kế hoạch khai thác trên chẳng hề mang ý nghĩa kinh tế, môi trường nào cả. Dự án 15 tỉ đô này đòi hỏi Việt Nam khai thác mỏ quặng bô xít và tinh chế Alumina (Ô xít nhôm) -trong tiến trình sản xuất nhôm- một tiến trình có độc tính cao. Số hợp chất Alumina sau đó sẽ được xuất cảng sang Trung Quốc. Nhiều blogger Việt Nam đã cáo buộc rằng Hà Nội đang xúc tiến cuộc mạo hiểm này cho việc làm giàu cá nhân của một số cán bộ cao cấp và để giảm bớt nhu cầu tài nguyên khoáng sản của Trung Quốc.
Hà Nội cũng đang chịu áp lực vì đã tỏ ra yếu ớt trong những tuyên bố về chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa ở Biển Đông, nơi Trung Quốc cũng tuyên bố thuộc chủ quyền của họ. Một số nhà hoạt động trong nước đã công bố các trường hợp của ngư dân Việt Nam bị tàu hải quân Trung Quốc bắn trong vùng biển Việt Nam, trong khi phương tiện truyền thông nhà nước thường làm ngơ trước những vụ nổ súng này hay nếu có đăng tin cũng chỉ nói quanh co.
Các lãnh đạo Đảng đều hiểu được mối đe dọa mà họ đang phải đương đầu. Đánh dấu 80 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản 02 tháng 2, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tuyên bố: "Chúng tôi đang hết sức cố gắng để duy trì tình trạng ổn định chính trị, và đấu tranh chống lại tất cả những thủ đoạn của các thế lực thù địch bằng cách ngăn chận không cho họ lợi dụng những vấn đề như dân chủ, nhân quyền, và tình trạng đa nguyên để phá hoại cuộc cách mạng Việt Nam. "
Như thế Đảng (CS) hiện đang rạn nứt.
Kể từ tháng mười vừa qua, nhà cầm quyền đã kết án 17 người hoạt động (dân chủ) trong một loạt phiên xử chỉ diễn ra vỏn vẹn trong vòng một ngày về tội tuyên truyền chống phá, lật đổ nhà nước, và hành hung người khác. Tội hành hung người khác của tiểu thuyết gia nổi tiếng Trần Khải Thanh Thủy là một điển hình. Bà đã bị buộc tội hành hung một người hàng xóm. Trong thực tế, bà và chồng đã bị du đãng đánh đập với sự hỗ trợ của công an, trước sự chứng kiến của cô con gái 13 tuổi.
Thế nhưng cho đến nay những người đối nghịch với chế độ vẫn có vẻ không sợ sệt. Hệ thống Internet đã giúp họ, cho phép người dân Việt Nam tổ chức (mà không có sự cho phép của nhà cầm quyền) và chia sẻ tư tưởng. Trong khi chế độ cố gắng giam giữ blogger, họ vẫn không thể hạn chế được việc sử dụng Internet nhiều lắm bởi các doanh nghiệp đều phụ thuộc vào mạng lưới. Và nếu sự hạn chế của họ đi quá xa, Đảng Cộng sản sẽ gặp sự rủi ro là ly gián hàng triệu khách sử dụng Internet, trong đó có nhiều người trẻ, là những con em rất thành đạt của giới cầm quyền.
Năm ngoái, Hà Nội đã cố gắng cắt xén mạng lưới giao lưu rất phổ biến là Facebook. vào tháng Mười Một, nhà cầm quyền lặng lẽ ra lệnh cho những dịch vụ Internet địa phương thỉnh thoảng từ chối không cho khách vào mạng lưới Facebook nhằm làm "chảy máu" trang mạng khách sử dụng ưa thích. Tuy ban đầu số lượng người vào Facebook có giảm sút, nhưng bây giờ người Việt đang rục rịch quay lại vì đã biết cách phá vỡ sự hạn chế này và cũng vì những cơ sở cung cấp dịch vụ đã làm ngơ sắc lệnh của nhà nước.
Cũng có những dấu chỉ cho thấy việc các "tin tặc" cao cấp có trụ sở ngay tại Việt Nam, rất có thể chính là nhà cầm quyền,-căn cứ vào sự quy mô (của hoạt động) -đã bắt đầu tấn công các trang web chỉ trích chế độ. Nạn nhân nổi bật nhất là trang Bauxit Việt Nam, một trang web mà đã thu hút khoảng 20 triệu lượt xem khi chưa tròn một năm kể từ khi trang này bắt đầu chống đối cuộc mạo hiểm khai thác quặng mỏ của nhà nước. Nhưng nếu nhà cầm quyền cố gắng dập tắt phong trào này, họ có nguy cơ đọan tuyệt với một số lớn trí thức Việt Nam, và có lẽ làm gián đoạn một bước tiến trong chế độ.
Tuy sự thật là hầu hết công dân Việt Nam chưa được chuẩn bị để xuống đường, câu hỏi được đưa ra là bao nhiêu người sẽ tích cực hỗ trợ hệ thống (chính quyền) hiện tại nếu nền kinh tế tiếp tục đi xuống và các vấn đề chủ quyền cứ dây dưa như thế. Sự mất giá tiền tệ trong tuần này chỉ là một triệu chứng của một sự bất ổn to tát hơn nhiều.
(Nguồn: Duy Hoàng, http://online.wsj.com/article/SB10001424052748703382904575058671452503744.html?mod=googlenews_wsj * Hoa Trắng dịch)
Hãy nên mở rộng lòng
Lykhách
08:13 12/02/2010
Hãy nên mở rộng lòng ra em ạ
Hà cớ chi phải đóng kín cửa lòng?
Đón nắng sớm mưa chiều gió lạ
Để biết tim mình rất mênh mông.
Hãy nên mở rộng tim ra em ạ
Để thương yêu không vất vả giam cầm
Mầm sẽ lên ngát thơm trời lúa mạ
Hạt giống rã rời cho cây trái đời xanh.
Chẳng phải người ta sống để yêu sao
Và yêu để sống vì ý sống là cho nhau
Ai chẳng vất vả đời cơm áo
Sống làm người ai tránh hết khổ đau?
Nhưng những nỗi khổ đau được chúc phúc
Sẽ thoát thai từ tù ngục tội tình
Giá đã trả từ khi tình trời chấp nhận hết
Thập tự khổ đau khải hoàn khúc phục sinh.
Người đến Người đi chỉ để lại chúng mình
Học yêu kẻ khác chính là sống đức tin
Bài giảng trên núi đẹp những lời công chính
Lời thơm tho siêu thoát ý nghĩa tình.
Đơn giản thế nhưng là khó sống
Bởi thế gian có muôn mặt muôn lòng
Nhưng tình yêu như trời cao đất rộng
Trái tim người có sức chứa mênh mông.
Thế nên mở rộng lòng ra em ạ
Chứa cho đầy mới biết còn vơi
Trái tim mình rất là kỳ lạ
Vũ trụ gói trong một trái tim người.
Nên càng yêu người càng thấy thiếu
Càng hy sinh càng thanh khiết tình yêu
Người phân loại nghĩa tình ra lắm kiểu
Trời chỉ đơn sơ thập giá một điều.
Điều chi? thôi chẳng cần giải nghĩa
Yêu là yêu chẳng “nhưng” “nếu” lôi thôi
Phân tích tình yêu như bắt cóc bỏ dĩa
Định nghĩa vòng vo chuyện ai cũng biết rồi!
Thế nên cần mở rộng lòng ra em ạ
Cho mại mềm muôn gỗ đá trong nhau
Chính trái tim mình là nơi cần khai phá
Để cây lên xanh cho hoa trái nhiệm mầu.
Có cần thiết mở rộng lòng không anh?
Quê hương cần thiết lắm chúng mình
Lệ khổ đau đến động lòng thần thánh
Xót phận người khốn khổ giữa nhân danh.
Ngoài nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Sau “Amen” mọi nhân danh khác chả cần
Khi ý thể hiện trên trời như dưới đất
Lối địa đàng tình mọc cánh thay chân.
Có cần thiết xót xa nhau không anh
Khi tội tù đang bịt miệng công chính
Trên con đường đi không bao giờ đến
Chủ nghĩa mơ hồ bám chằng chịt nhân danh.
Phải đem chôn những gì thuộc về xác chết
Với mộ bia ghi hàng chữ đúng họ tên
Công hay tội, hững hờ hay quý mến
Chính tình người thăm sẽ khiến sáng tỏ lên.
Hãy nên mở rộng lòng nhau anh em
Thắp cho quê hương một ánh lửa trong đêm
Lời công lý cháy lẻ loi từng ngọn nến
U uẩn lao tù hiu hắt bị bỏ quên.
Hãy nên mở rộng lòng ra anh em ạ
Hà cớ chi phải đóng kín cửa lòng?
Đón tình về nghe quê hương mới lạ
Để biết tim nhau còn thổn thức mênh mông!
Hà cớ chi phải đóng kín cửa lòng?
Đón nắng sớm mưa chiều gió lạ
Để biết tim mình rất mênh mông.
Hãy nên mở rộng tim ra em ạ
Để thương yêu không vất vả giam cầm
Mầm sẽ lên ngát thơm trời lúa mạ
Hạt giống rã rời cho cây trái đời xanh.
Chẳng phải người ta sống để yêu sao
Và yêu để sống vì ý sống là cho nhau
Ai chẳng vất vả đời cơm áo
Sống làm người ai tránh hết khổ đau?
Nhưng những nỗi khổ đau được chúc phúc
Sẽ thoát thai từ tù ngục tội tình
Giá đã trả từ khi tình trời chấp nhận hết
Thập tự khổ đau khải hoàn khúc phục sinh.
Người đến Người đi chỉ để lại chúng mình
Học yêu kẻ khác chính là sống đức tin
Bài giảng trên núi đẹp những lời công chính
Lời thơm tho siêu thoát ý nghĩa tình.
Đơn giản thế nhưng là khó sống
Bởi thế gian có muôn mặt muôn lòng
Nhưng tình yêu như trời cao đất rộng
Trái tim người có sức chứa mênh mông.
Thế nên mở rộng lòng ra em ạ
Chứa cho đầy mới biết còn vơi
Trái tim mình rất là kỳ lạ
Vũ trụ gói trong một trái tim người.
Nên càng yêu người càng thấy thiếu
Càng hy sinh càng thanh khiết tình yêu
Người phân loại nghĩa tình ra lắm kiểu
Trời chỉ đơn sơ thập giá một điều.
Điều chi? thôi chẳng cần giải nghĩa
Yêu là yêu chẳng “nhưng” “nếu” lôi thôi
Phân tích tình yêu như bắt cóc bỏ dĩa
Định nghĩa vòng vo chuyện ai cũng biết rồi!
Thế nên cần mở rộng lòng ra em ạ
Cho mại mềm muôn gỗ đá trong nhau
Chính trái tim mình là nơi cần khai phá
Để cây lên xanh cho hoa trái nhiệm mầu.
Có cần thiết mở rộng lòng không anh?
Quê hương cần thiết lắm chúng mình
Lệ khổ đau đến động lòng thần thánh
Xót phận người khốn khổ giữa nhân danh.
Ngoài nhân danh Cha và Con và Thánh Thần
Sau “Amen” mọi nhân danh khác chả cần
Khi ý thể hiện trên trời như dưới đất
Lối địa đàng tình mọc cánh thay chân.
Có cần thiết xót xa nhau không anh
Khi tội tù đang bịt miệng công chính
Trên con đường đi không bao giờ đến
Chủ nghĩa mơ hồ bám chằng chịt nhân danh.
Phải đem chôn những gì thuộc về xác chết
Với mộ bia ghi hàng chữ đúng họ tên
Công hay tội, hững hờ hay quý mến
Chính tình người thăm sẽ khiến sáng tỏ lên.
Hãy nên mở rộng lòng nhau anh em
Thắp cho quê hương một ánh lửa trong đêm
Lời công lý cháy lẻ loi từng ngọn nến
U uẩn lao tù hiu hắt bị bỏ quên.
Hãy nên mở rộng lòng ra anh em ạ
Hà cớ chi phải đóng kín cửa lòng?
Đón tình về nghe quê hương mới lạ
Để biết tim nhau còn thổn thức mênh mông!
Áo Dài và Tết ở xứ người
Trần Thu Miên
08:31 12/02/2010
Tết đang đến và con gái tôi sắp sửa mười lăm tuổi. Gần đây con hỏi, “Khi nào bố dẫn con đi may áo dài?” Câu hỏi ngắn gọn đơn sơ ấy như cơn gió mát thổi qua lòng người xa xứ. Thủa mười lăm, mỗi độ Tết về tôi đâu có xin bố mẹ mình mua giầy mới, hay quần áo mới. Bởi vì có xin cũng không được. Nhà nghèo lại đông anh em, bố mẹ tôi làm gì có tiền để may sắm cho hết mọi đứa con một lần.
Đã nhiều lần tôi hỏi vợ, “Khi nào mình dẫn con gái may áo dài?” Dĩ nhiên là vợ tôi muốn con gái mặc áo dài trong những ngày đại lễ. Lúc chúng tôi còn ở Cali, may áo dài là việc rất dễ làm nhưng con gái còn bé. Bây giờ con đang trở thành thiếu nữ và cũng đến lúc mang áo dài cho ra vẻ con gái Việt Nam, nhưng nơi chúng tôi đang sinh sống, tìm ra chỗ may áo dài không phải là việc dễ làm. Vợ giao trách nhiệm cho tôi đi “lùng” chỗ may áo dài cho con gái. Tôi nghĩ ngay đến các chị trong ca đoàn nhà thờ. Những ngày đại lễ, chị nào cũng diện áo dài đẹp, thế nào họ cũng biết chỗ may. Sau lễ Chủ Nhật, tôi lên chỗ ca đoàn, lâu quá rồi không lên chỗ ca đoàn đứng nên hơi “nhột.” Ngày xưa còn sinh viên độc thân, tôi và mấy đứa bạn vẫn thường hiên ngang lên đứng chung hay sau lưng ca đoàn để “chọc gái.” Lì đến độ ca trưởng và nam ca viên phải hết năn nỉ rồi dọa nạt, chúng tôi vẫn léng phéng đến “tán tỉnh” các em. Bây giờ nhiều ca đoàn trong các cộng đồng công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ không còn “các em” nữa, nhưng phần lớn là các “mẹ” trung niên hay các chị đã lớn lắm rồi. Tôi hỏi một chị đứng đầu hàng ghế, “Chị biết chỗ nào may áo dài không?”
“May cho ai vậy?”
-“Con gái tôi.”
“Bây giờ không ai làm nghề may áo dài nữa, vừa tốn giờ mà chẳng được bao nhiêu tiền. Đi làm ‘nêu” nhiều tiền hơn.”
-“Thế chị may áo ở đâu?”
“Việt Nam!”
Tôi hơi nản. Chắc các chị trong ca đoàn đã rủ nhau về Việt Nam may áo nên trông áo ai cũng na ná như nhau. Nhất định không bỏ dở dang “công trình” điều nghiên về nơi may áo dài trong vùng này, tôi tiếp tục “thu thập” dữ kiện. Hỏi tùm lum, hỏi không ngại là bí quyết điều nghiên hay nhất. Cuối cùng tôi tìm ra được một chị vẫn còn yêu nghề may vá trong một tiệm bán tạp hóa từ băng nhạc đến dầu cạo gió xanh. Phải đưa con gái đến tiệm ngay, nhỡ chị lại bỏ nghề đi làm “nêu” thì phiền lắm. Về Việt Nam hay sang Cali may chiếc áo dài là việc không tưởng.
Đứng trong tiệm nhìn con chọn vải may áo rồi tưởng tượng về tương lai của con. Không biết mai này ra sao? Chiếc áo dài không đủ làm con trở thành cô gái Việt Nam. Mình không có quyền bắt con mình trở thành người Việt Nam. Quê hương của mình là Việt Nam nhưng nơi chôn nhau cắt rốn của con mình là Hoa Kỳ. Con mình được nuôi dưỡng bằng huyền thọai và lịch sử Hoa Kỳ chứ không như mình lớn lên bằng những giấc mơ Quang Trung, bằng huyền sử Hùng Vương và niềm kiêu hãnh của Trần Hưng Đạo của Lê Lợi. Nhưng dù sao, nó vẫn có một phần gốc rễ Việt Nam bằng di truyền văn hóa-di truyền nhân chủng. Nỗi lo âu của mình cũng là nỗi lo âu của hàng triệu người di dân tha hương khắp trên địa cầu này. Mình tha hương nhưng con mình đâu có tha hương. Nó sinh ra và lớn lên ở quê hương này làm sao mình bắt nó phải “nhận” quê hương cũ của mình là quê hương của nó được. Vả lại chính trong trái tim mình quê hương cũ của mình cũng đang lu mờ. Nói vậy có nhiều người “yêu nước’ ảo tưởng lại kết tội mình là vong thân vong bản, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cả ngàn năm nay những người di dân như mình khi trở lại quê cũ đều mang cảm giác “khách lạ” ngay trên quê hương cũ của mình. Đúng là xa mặt cách lòng. Bây giờ mình muốn làm người Việt Nam thật sự, mình phải trở lại quê nhà học sống như người Việt Nam. Những Việt Kiều như mình có nhớ thương quê nhà cách mấy vẫn mang con tim khách lạ khi về thăm quê nhà rồi lại vội vã ra đi.
Sự gắn bó của mình với quê hương cũ bây giờ là sự gắn bó linh thiêng. Mình cũng chỉ mong là con mình cũng có được sự gắn bó linh thiêng với tổ tiên của bố mẹ nó ở một nơi gọi là Việt Nam, nơi con mình biết đến vì học lịch sử hay địa lý và kỷ niệm của những chuyến đi xa ngắn ngủi theo bố mẹ về Việt Nam; nơi thiếu nữ còn mặc áo dài đi học và phụ nữ còn mặc áo dài đi lễ hội. Biết đâu khi mang chiếc áo dài trên mình, sự liên hệ linh thiêng với Việt Nam sẽ dần già nẩy nở trong trái tim con. Biết đâu khi mặc áo dài, niềm hãnh diện về nguồn gốc của con mình sẽ được cưu mang. Biết đâu khi mặc áo dài, dấu ấn Việt nam sẽ nhẹ nhàng in vết lên tâm hồn con.
-“Cháu đừng chọn màu này, già quá, không hợp với tuổi cháu đâu.”
Giọng nói của cô thợ nay làm những suy nghĩ mông lung của tôi bị cắt đoạn. Cái giọng Sài Gòn nghe nhẹ nhàng và ngòn ngọt như trái “Chôm Chôm” ướt mọng làm mình tò mò xem con gái mình chọn màu áo ra sao.
-“Cô nói đúng đấy, con chọn màu khác đi.” Tôi nói theo cô thợ may.
“Nhưng không có màu con thích.” Con gái tôi phát biểu ý của nó. Bây giờ con sắp 15 và đang tập tành làm người lớn nên bắt đầu để lộ ra những cá tính riêng và ý nghĩ độc lập.
-“Con thích mặc màu vàng không?”
Cô thợ may vừa nói vừa kéo xấp vải màu vàng ra. Con gái tôi lắc đầu. Nó đâu có bao giờ đọc được thơ Nguyên Sa “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc” như bố mẹ nó mà thích áo dài vàng. Hay làm sao cảm được thơ Phạm Thiên Thư “Mùa xuân em mặc áo da trời” để mà yêu áo dài xanh. Tiệm may này nhỏ nên ít mặt hàng. Cô thợ may chỉ có một số vải thích hợp cho thế hệ phụ nữ Việt Kiều khác chứ không hợp nhãn mấy cháu gái người Mỹ gốc Việt như con gái tôi. Tôi nghĩ thầm, “Chọn đại một màu đi con, mẹ có trách cũng muộn. Chờ lần sau may áo khác. Sắp Tết rồi, may cho kịp mặc áo đi lễ Tết.” Nghĩ thế nhưng không dám nói. Tôi vẫn vui mừng kiên nhẫn chờ con đắn đo trước khi lựa chọn. Cuối cùng thì con chọn được một mẫu vải.
-“Con không thích mấy, nhưng không có màu khác.” Con tôi nhìn tôi giải thích.
“Không sao! Cứ may đi, mai kia có dịp con chọn màu khác.”
-“Màu này không tươi trẻ, nhưng không quá già.” Cô thợ may tỏ ra đồng ý với sự lựa chọn của con gái tôi.
“Khi nào xong cô?”
-“Cho em hai tuần!’
“Lâu thế!”
-“Không đâu! Hôm nay em đo rồi cắt áo cho cháu, tuần tới “bác,” xin lỗi, “anh” đưa cháu lại thử trước khi em may thành áo.”
“Phiền thế?”
-“Làm vậy cho chắc ăn.”
Nói thế, nhưng có phải đưa con gái lại đây mười lần để thử áo dài tôi vẫn đưa một cách vui vẻ hân hoan. Như thế là con gái tôi sẽ có áo dài. Ngày con còn bé, vợ tôi mua áo dài cho con mặc vài lần. Nhưng đó là quyết định của mẹ. Bây giờ thì khác. Chính con đã đi chọn màu vải để may chiếc áo dài lần đầu trong đời mình. Có lẽ bố xôn xao chờ áo may xong hơn là con. Chiếc áo dài không làm con trở thành thiếu nữ Việt Nam thuần túy, nhưng bố tin là khi con mặc áo dài, cái “hồn” Việt Nam từ trái tim bố mẹ sẽ được in dấu lên tâm hồn lên trái tim của con. Sự hãnh diện về nguồn gốc mình là hành trang tâm linh để con vào đời trong xã hội đa chủng Hoa Kỳ và thế giới mở rộng ngày nay.
Chờ con mặc áo dài đi lễ Tết, nhưng lòng mình không thấy Tết, không nhớ, không đợi tết. Thời mới viễn hương, có lần tôi nói với người bạn thân, “Linh hồn Việt Nam sẽ bị tẩy khỏi tâm thức mình một ngày nào đó khi mình suy nghĩ bằng ngôn ngữ của xứ người.” Câu nói vớ vẩn của mình thời trẻ là lời tiên tri cho chính thân phận mình. Cũng may mỗi lần ngồi viết lách lăng nhăng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ mình vẫn còn gắn bó với quê cũ bằng sợi giây linh thiêng và còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ mặc dù cách mình viết lách đã lai căn lâu rồi. Cái hiểm họa mất gốc đang xảy ra cho chính mình. Bây giờ Tết không còn là ngày linh thiêng hay quan trọng trong đời sống người viễn hương nữa. Ở chợ búa Việt Nam nơi tôi đang cư ngụ, người ta cũng bầy bánh, kẹo, mứt, hạt dưa và nhiều món hàng ngày Tết, nhưng chúng không gợi cho mình cảm giác về Tết.
Cách đây hơn ba mươi năm, tôi ăn Tết tha hương lần đầu với khoảng hai chục đồng hương ở Biloxi, Mississippi. Người đứng ra tổ chức là Anh Sơn. Gia đình anh có bốn cha con. Bố anh để lại vợ ở quê nhà còn chính anh Sơn, theo lời anh kể, cũng để lại Sài Gòn hai cô vợ. Hai người em của anh một người trạc tuổi tôi và một đứa khoảng mười tuổi. Bốn cha con anh ở trong căn nhà do một nhà thờ bảo trợ nên rộng rãi khang trang. Và có lẽ nhà chỉ toàn phái nam nên dễ tổ chức họp mặt. Đồng hương có gia đình đã mang theo các món ăn họ có thể làm được trong điều kiện rất eo hẹo, nhất là không có chợ thực phẩm Á Châu. Có người đã sang New Orleans tìm mua thức ăn Á Châu, hay nhờ bà con ở những nơi có đông người Á Châu gửi những gia vị để làm chả giò, hay món các món quen thuộc khác. Tết đầu tiên của tôi ở Biloxi không có bánh chưng-bánh tét. Không có mứt-không có hạt dưa. Nhưng mọi người đã mừng rỡ găp nhau. Có người mang biếu gia đình anh Sơn chai nước mắm của Phi như món quà Tết quí nhất. Một vị đàn anh, cựu sỹ quan Hải Quân thì phải, vỗ vai tôi thân thiện, “Chú mày phải nhớ là nước mắm còn là văn hóa Việt mình còn đấy.” Không ngờ nước mắm lại được đánh giá ngang hàng với “Truyện Kiều.” Tôi nghĩ thầm vị đàn anh nói giỡn, nhưng nghe cũng có lý vì văn hóa bao gồm mọi mặt đời sống con người, từ thực phẩm đến tâm linh. Bà con bàn về các món Tết họ có thể làm dễ dàng nhưng thiếu gia vị, thiếu các “thực liệu” cần thiết nên đành bó tay. Họ hứa là Tết sang năm phải có bánh chưng. Anh Sơn mang theo được mấy băng nhạc Việt Nam trên đường di tản và anh đã tổ chức khiêu vũ trong phòng khách-phòng ăn. Các vị cựu quan quyền, các chị lấy chồng Mỹ, và các vị dân thành phố quen khiêu vũ, đã dìu nhau khiêu vũ say mê. Tôi xuất thân từ ruộng đồng, lại được ăn học với các vị khổ tu Châu Sơn nên chân tay cứng ngắc đành đứng góc nhà nhìn thiên hạ nhấc chân, nghiêng người, lắc mông, xoay vai theo các điệu nhạc từ tỉ tê nát ruột đến dập dồn vó ngựa.
Trong một hai người “đứng bên lề” có cô gái tên Vân khoảng mười tám mười chín. Cô được các vị độc thân từ loại bất đắc dĩ đến độc thân “chân chính” như tôi để ý. Tất cả quí vị nam nhi trong phòng đều chìa tay mời cô nhảy, chỉ có tôi là không. Không phải là không thích, nhưng không biết khiêu vũ. Có vài chị lấy chồng Mỹ thuộc loại khiêu vũ chuyên nghiệp đã lôi tôi ra nhảy với họ. Tôi bị đẩy vào thế kẹt nên cũng rung mông, đá chân tùm lum theo điệu nhạc. Mọi người ăn tết vui vẻ. Lúc mọi người ngồi xả hơi sau khi khiêu vũ, vị cựu sỹ quan Hải Quân đề nghị làm văn nghệ bỏ túi cho vui. Nhà anh Sơn có cây đàn Ghita nhà thờ cho đứa em của anh và anh đã mang ra kêu gọi mọi người ca hát. Anh Sơn thuộc lọai tài hoa (thảo nào có đến hai cô vợ trẻ còn kẹt lại Sài Gòn), đã đệm đàn cho mọi người hát mấy bản nhạc mừng xuân. Tôi bị vị đàn anh “ca ngợi” nước mắm chỉ mặt bảo hát một bài cho vui. Chưa kịp trả lời mọi người đã vỗ tay tản thưởng ý kiến ấy. Dĩ nhiên là tôi hát không cần phải mời, dù tôi thuộc loại người chơi đàn không bao giờ đúng nhịp và hát luôn luôn sai cung. Tôi đã hát bài “Làng Tôi,” hát say sưa, hát rơi nước mắt. Có nhiều người cũng hát theo tôi và cũng khóc theo tôi dù chưa chắc họ đã sống ở làng quê “Có cây đa cao ngất từng xanh” hay “Có sông sâu lờ lững vờn quanh.” Tôi tin rằng cái Tết đầu tiên của dân Việt tha hương tại Hoa Kỳ hay bất cứ nơi nào trên mặt đất đã có nhiều người khóc và cũng có nhiều người hát bài nhạc ấy. Nhờ hát bài trúng tâm trạng mà mình đã gây được thiện cảm với mọi người. Lúc ra về, tôi được một bác gái gói cho một gói những món ăn còn dư để mang về. Sướng quá. Tôi nhận không ngại ngùng. Về nhà lại được ăn chả giò, giò thủ và dưa cải. Sướng hơn nữa là cô Vân đã đến nói nhỏ với tôi “Anh hát hay quá làm Vân khóc hết nước mắt.” Tôi cảm cơn Vân. Ra về sau tiệc Tết đầu tiên thấy lòng vừa mang mang nỗi nhớ quê nhà vừa lâng lâng cảm giác lưu luyến đồng hương.
Có lẽ Tết năm 1976 ở Biloxi là cái Tết tha hương có ý nghĩa nhất đối với tôi. Lúc ấy người Việt tha hương còn “yêu mến nhau.” Gặp nhau tay bắt mặt mừng. Ai cũng còn nghèo giống nhau, ai cũng còn nhớ nhà giống nhau. Sau này tôi vẫn nói với bạn bè đó là “thuở người Việt tha hương còn yêu mến nhau còn cần nhau;” mỗi lần gặp nhau là mỗi lần gặp được niềm vui lớn. Bây giờ mỗi lần người Việt tụ họp là mỗi lần có nhiều vấn đề nhiêu khê căng thẳng từ lễ Tết ở nhà thờ nhà chùa đến các hội chợ trong các cộng đoàn. Thật ra thì đó cũng là điều tự nhiên. Cộng đồng người Việt đã trưởng thành trên mọi hình thức nên có nhiều “tiếng nói,” có nhiều “ý thức hệ,” và có nhiều “chính kiến” khác nhau.
Còn hai tuần nữa Tết. Tôi đang có mặt tại New Orleans, thành phố đã cho tôi nhiều dấu ấn kỷ niệm. Con đường Bourbon, nơi 33 năm trước, nhiều đêm cuối tuần tôi và một người bạn đã lái xe từ Ocean Springs sang để rảo bộ trên đường không có mục đích gì cả. Không vào quán rượu nghe Jazz hay xem vũ khỏa thân vì không có tiền. Chúng tôi chỉ muốn trốn chạy sự cô độc của người di dân còn lạ lẫm với đời sống chung quanh. Tiếng nhạc Jazz, tiếng cười, tiếng la hét của khách du chơi dưới ánh đèn đêm rực rỡ tạo nên một không khí buông thả truy lạc lôi cuốn. Đã có đêm chúng tôi cứ rảo bộ từ đầu đường đến cuối rồi đi vòng lại tới khuya rồi tình cờ gặp vài di dân Việt Nam sống trong thành phố cũng lang thang vô định cho “hết đêm hoang vu” cô độc và những người đồng cảnh ngộ này đã rủ chúng tôi về phòng trọ uống bia rồi nằm ngủ co ro trên nền phòng trọ và buổi sáng chúng tôi chia tay hẹn găp lại nhau trên phố Bourbon những đêm cuối tuần cô độc.
New Orleans bây giờ đã đổi thay. Trận bão Katrina hằn lên khuôn mặt thành phố những tàn phá chưa sửa chữa xong sau ba năm ròng rã. Cộng đồng di dân Việt Nam ở đây cũng đã thay đổi hoàn toàn so với hơn ba mươi năm trước. Vùng này đã bị trận bão Katrina tàn phá nặng nhất so với những khu vực khác thuộc New Orleans. Di dân Việt Nam đã định cư tại khu vực này từ giữa thập niên bảy mươi. Khu phố Việt Nam nằm sát quốc lộ 90 hay còn gọi là xa lộ Đầu Bếp Menteur. Thời đó người Việt sống xen lẫn với các dân da màu nhất là da đen trong chung cư có tên Versailles. Dạo ấy chưa có tiệm ăn Việt Nam, một số đồng hương đã bán thức ăn Việt ngay trong phòng khách nhà mình để kiếm thêm tiền vào cuối tuần. Có nhiều sáng thứ bảy hay chủ nhật, tôi đã từ Ocean Springs, Mississippi mò mẫm đến những nơi ấy để ăn phở, ăn bún, hay bánh ướt. Tối qua tôi gặp ba người trẻ Việt Nam, Minh, John Nguyễn và Vy. Minh, mới xong Đại Học ngành Thị Trường Học, nhưng lại đam mê phục vụ cộng đồng. Anh đang quản trị một trung tâm phục vục giới trẻ nằm ngay trong trung tâm cộng đồng Việt Nam miền Đông của New Orleans. John đang học năm cuối ngành Á Châu học tại UCLA và tình nguyện sang đây phục vụ đồng bào Việt Nam qua chương trình hồi phục cộng đồng hậu Katrina. Cuối hè tới John sẽ trở lại Cali để hoàn tất chương trình cử nhân rồi sửa soạn nộp đơn theo cao học ngành Nhân Xã Vụ Học (Social Work) hay một ngành khác. Tôi gợi ý cho John là sẽ tìm cách giúp đỡ để John theo học tai Boston College, nơi tôi đang làm việc. Cả Minh và John đều hăng say và lý tưởng. Tôi nhìn thấy trong mắt họ sáng lên những hy vọng và nhiệt tâm của tuổi thanh niên. Trái tim họ đầy ắp những giấc mơ đẹp, giấc mơ phục vụ và làm đẹp cuộc đời. Vy đang chuẩn bị trình luận án Tiến Sĩ Xã Hội Học tại Đại Học Tulane, một đại học tư nằm ngay trong thành phố New Orleans. Vy muốn trình luận án về cộng đồng di dân Việt Nam tại New Orleans và vùng vịnh Gulf Coast của Mississippi. Trong ba người này, Vy có vẻ kín đáo và ít nói. Có lẽ cô đã lớn và trưởng thành hơn hai người kia. Cả ba đều không nói được tiếng Việt xuôi chảy, nhưng qua công việc và những dự tính tương lai, cả ba đều đang tìm lại với cái gốc Việt Nam của mình. Tôi mong cho con gái mình sau này có tâm hồn như ba người bạn trẻ này. Tôi cũng gặp một người trẻ Việt nam rất tài hoa. Cô ta sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến tại Việt Nam. Người bạn trẻ này đang sửa sọan trình luận án Tiến Sĩ Nhân Xã Vụ Học tai Đại Học, danh tiếng, Chicago. Có lẽ đây là lần đầu tiên một người Việt Nam “chính gốc” theo học tiến sĩ về ngành này tại Hoa Kỳ. Cô ta còn là một nhà văn đã có tác phẩm được giải thưởng văn học tại Việt Nam. Tôi hân hạnh được cô tặng cho tiểu thuyết đầu tay của mình.
Sáng thứ bảy, tôi một mình lái xe từ New Orleans sang Biloxi để ghé thăm thầy Thích Thiện Trí, một nhà sư trẻ tôi có duyên gặp gỡ ba năm trước trong một chuyến “tham quan” sửa sọan cho một dự án nghiên cứu cộng đồng Việt Nam tại vùng này. Nhà sư trẻ dáng người nhỏ bé, hai mắt sáng, giọng miền miền Nam nhỏ nhẹ, và nụ cười rất kín đáo. Vị sư trẻ này làm thơ lục bát rất hay. Ông gửi tặng tôi vài bài thơ trong đó có một bài về xuân và tôi đã cho anh bạn tôi-(Nhất Chi Vũ-một nhạc sỹ thánh ca)-đọc và anh đã soạn thành một ca khúc rất công phu. Thầy Thiện Trí xưng tên mình và gọi tôi bằng chú. Lần nào gặp nhau thầy cũng chắp tay “Mô Phật” mỉm cười hiền lành chào tôi. Và tôi cũng bắt chước thầy làm như thế. Thầy trụ ở chùa Vạn Đức lúc trận bão Katrina tàn phá cả vùng vịnh này. Lần đầu tôi gặp thầy, chùa đang được sửa sang. Càng ngày Chùa càng khang trang và ngăn nắp hơn. Tôi cũng hẹn đưa Vy đến gặp thầy để xin thầy hỗ trợ cho công trình tìm dữ kiện trong cộng đồng Việt Nam tai Biloxi để cô hoàn thành luận án tiến sĩ. Khi tôi dẫn Vy vào chùa, sân chùa ngập nắng vàng, và mùi nhang từ chính điện tỏa ra nhẹ nhàng rồi tan ngay vào gió biển. Chùa nằm không xa bờ vịnh nên thầy Thiện Trí kể khi nước biển đã dâng lên gần ngập nóc chùa trong trận bão Katrina, thầy và một số tín đồ đã ngồi trên nóc chùa niệm Thần Chú chờ chết, may quá, mọi người đã được cứu kịp thời.
Chúng tôi vào chùa, thầy Thiện Trí đang ngồi làm việc với ba tín đồ để sửa soạn cho lễ Tết sắp đến. Thầy vui vẻ đứng lên “Mô Phật” chào tôi và thầy tưởng Vy là con gái tôi nên cũng niềm nở đón tiếp. Chúng tôi ngồi uống trà trong phòng tiếp khách mới xây xong ngay sau Chính Điện. Tôi hỏi thăm thầy Thiện Trí về một nhà sư trẻ khác, thầy Đức Thành, người mà một sáng sớm hè năm ngoái tôi ghé chùa gặp ngay lúc thầy Đức Thành đang ngồi tụng kinh một mình trước bàn thờ Phật. Thầy mặc áo choàng màu nâu, cúi đầu trước pho kinh lớn, vừa gõ chuông vừa lẩm bẩm ngân nga những bài kệ nghe rất huyền bí. Hình ảnh thầy Đức Thành tụng kinh sáng đã để lại một ấn tượng rất đẹp và bình an trong trí nhớ tôi. Thầy Thiện Trí bảo thầy Đức Thành đang trên đường “du đạo.” Thầy đang có mặt bên Pháp rồi sẽ sang Ấn Độ. Chúng tôi ngồi uống trà “Thiết Quan Âm” một Phật Tử mới biếu thầy. Trà ngon và thơm tinh khiết.
-“Tiếc quá, chú không ở lại chùa ăn Tết năm nay.” Thầy Thiện Trí vừa nói vừa rót thêm trà nóng cho tôi.
“Nếu thầy còn trụ chùa này lâu, thế nào cũng có dịp tôi đưa vợ con về đây ăn tết với chùa.” Tôi vừa trả lời vừa nâng ly trà thầy mới rót lên môi.
-“Mời cháu Vy đến lễ Tết ở chùa nhé!” Nhà sư trẻ gọi thiếu nữ không thua ông bao nhiêu tuổi bằng cháu một cách dễ dàng.
Vy hình như không hiểu hết câu nói tiếng Việt của nhà sư, quay nhìn tôi.
-“Thầy mời Vy lên chùa lễ Tết!” Tôi thông dịch cho cô sinh viên đang tìm cách trở về với cái gốc Việt Nam của mình.
“Thưa con sẽ!” Cô gái Mỹ gốc Việt bập bẹ câu trả lời bằng tiếng mẹ đẻ.
-“Cháu nên đi chùa thường xuyên mà học tiếng Việt.” Tôi nói với Vy bằng Anh ngữ.
Chúng tôi chia tay nhà sư trẻ sau vài tuần trà trong chùa. Nắng tháng Giêng vàng lạnh ngoài sân chùa. Trời trong, xanh và cao vời vợi. Ra khỏi sân chùa tôi đi theo xa lộ 90 West để tẽ lên xa Lộ 10 West về lại New Orleans. Con đường tôi vẫn đi qua hơn ba mươi ba năm trước nay đã đổi thay hoàn toàn. Những xưởng đóng hộp tôm, nơi mùa hè 1976, tôi đã làm việc suốt ngày từ 3 giờ sáng đến khuya nay đã được thay thế bằng những sòng bài và khách sạn lớn. Tôi có cảm giác như người đi lạc ngay trên con đường quen thuộc.
Chiều thứ bảy, đường vắng thênh thang. Vào xa lộ 10, tôi cho xe lao theo tốc độ qui định để về Khách Sạn trước khi trời đổ tối. Mùa đông trời tối sớm. Xa lộ chạy xuyên giữa hai hàng thông xanh. Ngày xưa, lần nào đi trên xa lộ này tôi cũng nhớ về Đà Lạt. Bây giờ nỗi nhớ thương ấy không còn nữa cũng như nhiều nỗi nhớ thương khác đã bị chôn vùi trong những nấm mồ ký ức.
Về đến phố chính của New Orleans trời nhá nhem tối. Cho xe vào bến đậu của khách sạn rồi lên phòng nằm nghỉ. Có vài đồng nghiệp hẹn đi ăn tối, nhưng tôi từ chối vì muốn có thì giờ một mình đi lại con đường Bourbon. Vừa nằm nghỉ vài phút, điện thoại réo. Người ở đầu giây là Tim (Timothy), một sinh viên cũ của tôi, hiện nay đang dạy tại Đại Học Montana. Tim chỉ thua tôi hai tuổi nên tôi coi anh như một người bạn chứ không phải là học trò cũ. Lần nào đi tham dự các hội nghị trong nghành Tim cũng tìm cách liên lạc với tôi.
“Trần, anh làm gì sáng mai?” Tim hỏi.
-"Đi lễ!” Tôi trả lời không ngần ngừ.
”Ở đâu?”
-"Một nhà thờ Việt Nam ở phía đông New Orleans.”
Tim là người công giáo và cũng là nhạc sỹ thánh ca. Anh đã sáng tác một số ca khúc tâm linh và thỉnh thoảng lại gửi e-mail cho tôi sáng tác mới của anh. Tim chơi đàn ghita 12 dây rất điệu nghệ và có giọng hát ấm áp truyền cảm. Thời anh còn học lớp tôi, đã có lần tôi đưa anh đến hát cho một khóa tĩnh tâm của một số bạn trẻ công giáo Việt Nam trong vùng.
”Tôi đi theo được không?”
-”Dĩ nhiên. Sau lễ tôi sẽ mời anh ăn phở.”
”OK! Thế là quá đẹp.” Tim trả lời bằng giọng hân hoan.
-”Tôi sẽ chờ anh ở hành lang phía cổng vào của Khách Sạn khoảng mười giờ sáng.”
”Anh làm gì trước đó?” Tim hỏi.
-”Tôi có bài nói chuyện từ 8 đến 10 giờ sáng.”
”Tôi sẽ coi tờ chương trình của hội nghị tìm đến chỗ anh nói chuyện. Tôi sẽ có mặt khoảng 9:45 sáng”
-”Thế thì tốt, mình gặp lại sáng mai.” Tôi hẹn Tim rồi nằm dang dài chân tay trên nệm.
Khi giật mình dậy đã thấy mười giờ tối. Bụng đói nên tôi quyết đinh ra phố kiếm gì ăn rồi ghé qua đường Bourbon. Định ghé vào tiệm Acme Oyster House trên đường Iberville trong phố Tây (French Quarter) nơi mùa hè năm ngoái tôi đã đưa vợ con vào ăn trong chuyến xuôi nam nghỉ hè. Nhưng tiệm ăn đông nghẹt và khách phải xếp hàng dài chờ ngòai đường. Tôi tạt sang nhà hàng Felix’s phía bên kia đường. Tiệm cũng đông nhưng còn chỗ ngồi. Khách đứng chen nhau trước quầy sò sống. Một đĩa 12 con sò sống xấp xỉ hơn 15 đô la. Tương đối rẻ. Tôi chần chừ không biết có nên ăn sò sống hay không. Cuối cùng tôi gọi món súp rùa và một phần ăn thổ địa của New Oleans, món Bayou Platter Sampler, gồm đậu đỏ, cơm trộn xúc xích, và ”cháo đồ biển nấu với lọai tôm thổ sản (crawfish). Ngồi uống chai Abita Amber, một loại beer thổ địa rất nổi tiếng, dễ uống và có vị ngọt chứ không đắng như nhiều loại bia khác, tôi chăm chú nhìn khách ra vào và những người hầu bàn mặt căng thẳng bưng các món ăn còn bốc khói ra bàn trong không khí ồn ào tiếng nói cười và tiếng nhạc Jazz.
Ba mươi ba năm trước, nếu tôi có ghé vào tiệm ăn này chắc tôi đã ngồi một cách rụt rè. Hôm nay thì khác. Mình ngồi uống bia chờ thức ăn một cách bình thản, không ngại ai. Sau bữa ăn tối tôi rảo bộ trên đường Bourbon, số người la cà trên đường đã đông nghẹt. Những tay nhạc sỹ lề đường đứng trình diễn ngả nghiêng quay cuồng theo tiếng trống tiềng kèn. Những ban nhạc Jazz nhạc Rock cũng say mê trình diễn trong các vũ trường, các bar rượu. Hình các vũ nữ khỏa thân được phóng lớn dán kín cửa kính của các phòng khiêu vũ khỏa thân. Tiếng còi xe cứu thương, xe cảnh sát, xe chữa lửa cứ thình thoảng rú lên liên hồi. Bảng tên các cửa tiệm, nhà hàng, ba rượu, vũ trường nổi đèn màu đỏ màu xanh chớp lòe rực rỡ. Không ai có thể nói chuyện thì thầm với nhau. Mọi người đều cười to nói to trên quãng đường này. Càng về khuya càng có nhiều tay say rượu cười la nghiêng ngả trên đường. Những tay chiêu khách trước các vũ trường khỏa thân tìm mọi cách mời khách ghé vào xem thử. Ngày mới đến Mỹ có đôi lần tò mò ghé vào những vũ trường này, mình đứng rụt rè phía sau xem vì không có tiền mua bia và lúc nào cũng sợ như có người sắp sửa đánh mình bất ngờ. Bây giờ những tò mò thời thanh niên không còn nữa. Bất chợt mình nghĩ về Tết. Những ngày cuối năm lang thang trên con đường mình đã bước những bước chân cô độc thời trẻ. Có những nơi chốn mình đã đi qua tưởng không bao giờ trở về, và khi quay lại mình thấy nhiều đổi thay như giòng đời trôi nổi.
Sáng chủ nhật, mình thức dậy sớm. Rất muốn xuống phòng thể dục để vận động chân tay, nhưng khi rời nhà quên mang theo quần áo thể thao nên đành đứng vươn vai uốn người hít đất vài phút trước khi tắm. Thời trẻ ăn nhậu lung tung nên thân xác đã tồn trữ bao nhiêu thứ dư thừa hại sức khỏe. Nay tìm cách vất bỏ những dư thừa có hại khỏi thân xác mình quả là điều vô cùng khó khăn.
Đêm qua không theo dõi tin khí tượng nên không biết là sáng nay trời mưa. Đứng bên cửa sổ từ lầu 17 của khách sạn Marirott nằm ngay trung tâm New Orleans nhìn mưa rơi mù mù ngang thành phố. Cơn mưa mùa đông miền nam không lạnh như những cơn mưa tuyết và mưa băng đá mùa đông Boston. Bất chợt mình nhớ nắng mùa đông Cali. Nhớ những lần ăn Tết ở thủ đô di dân Việt Nam mà vẫn không thấy lòng mình có hơi ấm mùa xuân. Nhớ mấy cây đào cây mận nở hoa trong sân nhà cũ ở Cali những ngày sắp Tết. Mình có nửa giờ để ăn sáng trước khi vào phòng họp. Hôm nay là ngày cuối cùng của hội nghị nên chắc số người tham dự buổi thảo luận sẽ rất ít. Không sao. Bây giờ mình đã quen và rất thích những buổi giảng bài chỉ có vài sinh viên nên nếu buổi hội thảo vắng người cũng tốt thôi. Ít người tham dự, mọi người đều có cơ hội phát biểu, càng vui. Mà đúng vậy, buổi hội thảo có vỏn vẹn mười người và ai cũng hăng hái tham gia. Tôi và hai đồng nghiệp chịu trách nhiệm điều hợp buổi hội thảo. Mỗi người đến từ một trường Đại Học khác nhau nên chúng tôi chỉ có giờ gặp nhau bàn qua về buổi hội thảo vài phút trước khi bắt đầu. Một đồng nghiệp chịu trách nhiệm ghi chép ý kiến bằng laptop có máy dọi chữ lên màn ảnh cho mọi người biết những ý kiến đã được phát biểu. Một đồng nghiệp có trách nhiệm giới thiệu tổng quát mục đích của buổi hội thảo và coi giờ để mọi vấn đề chính được đưa ra bàn cãi. Tôi có nhiệm vụ gợi ý cho mọi người đặt câu hỏi. Tim ghé lại lúc buổi hội thảo gần chấm dứt. Thấy anh vào tôi biết mình nên sửa sọan kết thúc chương trình để kịp đi lễ.
Cơn mưa vội buổi sáng đã tạnh ráo và mặt trời đang rải nắng vàng nhạt của mùa đông xuống những con đường thành phố. Tôi ”bấm” địa chỉ vào máy dẫn đường (GPS) để đưa Tim đi lễ dù mình đã đến khu Vesailles nhiều lần và mùa hè rồi cũng ghé dự lễ chủ nhật tại nhà thờ này. Đây là lần đầu tiên Tim đi dự lễ trong nhà thờ Việt Nam. Chúng tôi vào nhà thờ vừa đến phần đọc sách Thánh Thư. Cả tôi và Tim đều ngạc nhiên vì thánh lễ được cử hành bằng cả Anh ngữ và Việt ngữ. Nhà thờ này do linh mục Viễn trông coi. Tôi đã gặp linh mục Nguyễn Thế Viễn vài lần và rất mến mộ ông. Một linh mục trung niên đầy nhiệt huyết và sáng kiến. Trận bão Katrina đã cho ông dịp để chứng minh khả năng lãnh đạo và tinh thần phục vụ của ông. Hôm nay đến dự thánh lễ lại càng mến phục ông hơn. Đa số những người tham dự thánh lễ còn trẻ. Họ là những người sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ hoặc di cư sang đây khi còn rất bé. Tôi chưa tham dự thánh lễ chủ nhật nào có nhiều người trẻ như thế. Các bài đọc trong lễ được đọc bằng Anh ngữ và Việt ngữ. Ca đoàn cũng thế. Họ hát bằng hai thứ tiếng và hát rất hay. Ở những cộng đoàn khác, tôi thấy đa số ca viên đã thuộc lứa trung niên. Những người trẻ nhất cũng xấp xỉ 30 mươi. Riêng ca đoàn này có đủ mọi lứa tuổi. Tôi nghĩ có lẽ cách cử hành và dâng lễ kiểu nàu sẽ trở thành khuôn mẫu cho các cộng đòan Công Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Sau lễ Tim nói cảm nghĩ của anh về thánh lễ cho tôi nghe và ý của anh cũng giống ý tôi.
Thật là một dịp may cho tôi và Tim vì ngay sau thánh lễ, có chợ hoa Tết trong khuôn viên nhà thờ. Những dẫy lều vải trắng được dương lên để biến khu đất sân nhà thờ thành chợ hoa. Tôi và Tim đi vào ngắm hoa và rất thích thú được nhìn thấy những chậu cảnh, những chậu hoa rực rỡ được bày lên sạp hàng. Chợ có hoa cúc vàng, hoa mai, và nhiều thứ hoa cảnh rực rỡ khác. Nếu không ở quá xa, tôi đã chọn mua vài chậu hoa cảnh mang về làm quà Tết. Cơn mưa buổi sáng đã rửa sạch bầu trời nên khi chợ Tết mở cửa trời quang đãng và nắng vàng mềm dịu sưởi ấm sân giáo đường. Bên ngoài chợ tết có mấy quầy bán thức ăn và tôi thích nhất là quầy bán bắp nướng. Tự nhiên thấy nhớ những hàng bán bắp nướng bên lề đường quanh chợ Đà Lạt năm xưa. Dạo đó có những chiều rảo bộ muốn ăn một cái bắp nướng mà túi không tiền nên hình ảnh những cái bắp nướng vàng ngậy mỡ thỉnh thoảng vẫn còn lãng đãng trong ký ức. Tôi và Tim đã có chương trình ăn trưa nên dù những cái bắp nướng trông hấp dẫn thật, chúng tôi không ăn. Vài năm trước đã có dịp coi chợ Hoa ở Little Saigon, nam Cali, nhưng không khí thiếu ấm cúng như chợ hoa trong sân nhà thờ khu Versailles. Hình như dân Việt Mình ở New Orleans vẫn còn mong đợi Tết về. Các nhà thờ, nhà chùa đều chuẩn bị những chương trình đón Tết.
Buổi tối tôi ghé khu Việt Nam ở quanh giáo xứ Lê Thị Thành bên mạn Tây của New Olreans. Chủ đích đến thăm linh mục nhà văn Trần Cao Tường dù biết cuối tuần ông rất bận. Mà đúng thế. Tôi ghé lại thăm ông đúng lúc ông đang có buổi họp với một số bạn trẻ. Tôi mở cửa rất nhẹ vào nhà để khỏi làm gián đọan buổi họp của ông. Đứng nép trong phòng bếp vài phút nghe lóm phiên họp rồi lại lẳng lặng ra đi. Định bụng sẽ điện thoại hay i-mêu (e-mail) ông khi về khách sạn. Thay vì trở lại Khách Sạn ngay, tôi lái xe sang sân nhà thờ xem có sinh họat gì không. Tôi đã đi lễ nhà thờ này hai năm trước, lúc đó cha Hân chưa về hưu, nhưng không có dịp quan sát sinh hoạt của bà con. May quá là sân nhà thờ còn xe đậu và có dấu hiệu bà con đang họp mặt trong hội trường nhà xứ. Đây là một ngôi thánh đường khang trang có cơ sở sinh hoạt cộng đoàn thuận tiện. Ngay trong khuôn viên nhà thờ có một khán đài đồ sộ nơi có lẽ dùng để cho những sinh hoạt văn nghệ lớn ngoài trời của cộng đoàn. Hình như mỗi giáo xứ Việt Nam ở vùng này đều có một khán đài Văn Nghệ hay lễ đài ngoài trời. Tôi đã có dịp ghé qua một số nhà thờ Việt Nam ở Texas và vài nơi khác, nhưng chưa thấy nơi nào có những công trình kiến trúc khán đài và lễ đài ngoài trời qui mô như bà con mình ở New Orleans.
Ở chốn thiên tai bão tố này đã trổ lên những bông hoa văn hóa quí trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Cái đẹp của văn hóa không phải là sự hào nhoáng nhộn nhịp bên ngoài, nhưng là vẻ đẹp tâm linh phát xuất ra từ những sinh hoạt cộng đồng còn đậm mối thân tình đồng hương. Cái nét Việt Nam dù khó diễn tả vẫn còn in dấu trên những công trình kiết trúc từ chùa đến nhà thờ. Những kiến trúc chùa, nhà thờ này có thể không theo khuôn mẫu cố định nào nhưng chắc chắn đã phát sinh ra từ sự tưởng tượng đậm tình Việt Nam của những người có công khởi dựng lên. Đẹp hơn nữa là từ những ngôi chùa và ngôi nhà thờ quanh đây hàng ngày vẫn còn vọng lên tiếng kinh kệ Việt Nam. Hè năm ngoái tôi có dịp dâng lễ cầu siêu (tôi nhớ mang máng thế) và đứng tụng kinh với một số chư vị đạo hữu trong chùa Vạn Hạnh tọa lạc ngay bên xa lộ 90 gần khu phố Việt Nam. Mình đứng ngân nga đọc kinh kệ, niệm nam mô trong mùi nhang khói và tiếng mõ gõ giữ nhịp cho bài kinh. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi đứng tụng kinh niệm Phật cung kính như thế dù Phật Giáo không phải là tôn giáo của mình, nhưng có lẽ cái hồn Phật Giáo từ ngàn năm xưa của tổ tiên mình vẫn còn dấu ấn trong vô thức nên mình đã hòa vào tiếng mõ tiếng ngân nga và mùi nhang khói thật dễ dàng thật hồn nhiên. Như vậy ở New Orleans, không chỉ có khu phố Tây nhộn nhịp, không chỉ có Cafe Du Monde, bánh chiên Beignet, súp rùa, cháo crawfish, thịt cá xấu chiên, hay mấy món cơm cháo tạp vị, nhưng còn có linh hồn Việt Nam ẩn hiện dưới sân chùa, trên mái nhà thờ, qua lời kinh kệ.
Tôi cho xe đậu rồi lững thững đi về phía cửa trước nhà thờ, định bụng nhìn cho kỹ lại ngôi giáo đường đã được dựng lên từ những tấm lòng Việt Nam-rất Việt Nam- trên mảnh đất xa lạ này. Vừa bước được vài bước tôi thấy có người đi về phía tôi. Trời đã nhá nhem tối nên phải lại thật gần mới nhìn ra được mặt. Vừa chạm mặt, tôi buột miệng chào không suy nghĩ, ”Chào cha Hân.”
”Ai đấy?” Vị linh mục vừa về hưu này không nhận ra tôi. Phải đứng kể lể lai lịch nhắc vài tên người quen lên làm bằng chứng, cha mới ngờ ngợ nhận ra tôi.
-”Vào đây ăn tối.”
”Thưa cha con ăn rồi!”
-“Ăn nữa cho vui. Chết đâu mà sợ.”
Cách nói chuyện của vị linh mục này làm tôi mến ông ngay. Hai năm trước có ghé lại ở nhà ông vài ngày, đúng lúc ông đi du lịch Trung Hoa về. Nghe ông kể chuyện về những nơi chốn ông đã đến, tôi đã khoái tai rồi, nhưng kiểu nói chuyện hồn nhiên cởi mở này làm tôi thêm lòng kính mến ông hơn. Trong đời này, có những người ngại mời khách lạ hay khách chưa quen thân lắm ngồi uống chai nước lạnh huống hồ rủ ăn cơm một cách không nghi ngại như thế. Tôi đi theo ông vào căn phòng có đèn sáng và bóng người lô nhô đi lại. Ông vừa mở cửa đã có hai ba người chạy tới vồn vã.
“Chào cha. Đợi cha lâu quá.” Cha Hân chưa kịp trả lời mọi người nhìn tôi cùng một lúc và chào,
-“Thưa cha mời cha vào bàn.”
“Tôi không phải linh mục. Đang đi ngoài sân nhà thờ được cha Hân rủ vào đây thôi.”
-“Vâng! xin mời vào.”
Một vị giáo dân nhanh nhẹn kéo ghế đưa tôi ngồi bên cạnh cha Hân. Là khách lạ phương xa nên tôi được mọi người để ý và hỏi han. Phải mất một hai phút tôi mới kể xong lý lịch và nơi chốn đang sinh sống cho mấy người ngồi cùng bàn nghe.
“Cha uống gì? Anh uống gì? Uống bia nhá?” Một giáo dân vồn vã hỏi cha Hân và tôi.
-“Có rượu chát không?” Cha Hân hỏi lại.
“Thưa cha có chứ.”
-“Tôi cũng uống rượu chát như cha Hân.” Tôi nói thêm vào.
Khoảng 30 giáo dân ngồi quanh ba bàn tròn có bày nhiều thức ăn và những chai bia đã cạn được để ngổn ngang trên bàn. Thế kỷ 21, hút thuốc không còn là hình ảnh lãng mạn nữa và đã bị cấm trong các nơi công cộng, nhưng giáo dân ở đây vừa nhậu vừa thả khói thoải mái. Hai ba giáo dân vội vã bưng lên những thức ăn còn bốc khói lên tiếp cha Hân và tôi. Có thịt nai xào lăn, lòng heo luộc, cháo lòng, gà rừng áp chảo, và cá trê kho để ăn cơm.
“Mời cha! Mời anh! Thịt nai và gà rừng mới săn về đấy! Cha và anh dùng ngay đi cho nóng.” Người đàn ông trung niên ngồi bên phải cha Hân vừa mời chúng tôi ăn vừa kể tên người săn nai và người bắn được gà rừng.
Trong khi các ông ngồi nhậu thoải mái, tôi thấy vẫn có bóng người qua lại dưới nhà bếp. Hỏi ra mới biết, hôm nay là ngày gói bánh chưng bánh tét và dọn dẹp nhà xứ sửa sọan cho hội chợ Tết sẽ khai mạc tuần tới. Thấy bà con cô báchăng hái sửa sọan đón Tến cũng làm lòng mình có gì ấy. Định bụng khuya nay về khách sạn sẽ điện thọai cho vợ bàn về ăn Tết năm nay. Như vậy Tết vẫn chưa thật sự chết trong hồn mình. Linh hồn Việt Nam có thể sống lại bất cứ lúc nào trong hồn mình nếu có ai, có sự việc hay biến cố nào bên ngoài thúc đẩhay gợi nhớ. Mình cứ tưởng không còn nơi nào người Việt xôn xao hân hoan chờ Tết, nhưng cứ dựa theo những gì mình thấy và nghe hôm nay, người ViệNam, ở New Oleans, thật sự chờ Tết đến. Có thể mình đã lầm tưởng Tết đãchết rồi. Hy vọng mình đã lầm thật. Vì nếu mình lầm thật thì văn hóa Việt Nam sẽ còn được nuôi dưỡng và giữ gìn trong trái tim của những cộng đoàn Việt Nam như ở New Orleans.
Tôi được bà con cứ vồn vã mời dùng thêm thịt nai và thịt gà rừng áp chảo dù bụng đã no. Ngồi uống rượu nghe bà con bàn tính việc cần phải làm để sửa sọan ăn mừng Tết mà thấy lòng mình cũng vui lây.
“Này sáng mai đi chặt mía đấy.” Một vị trung niên quay sang bảo người bạn ngồi bên cạnh mình.
-“Ối giời ơi! Đừng nhờ ông này làm gì. Năm ngoái ra vườn mía chặt bừa bãi, bắt người ta phải dọn.”
Chị ngồi chung bàn lên tiếng phản đối. Người đàn ông bị phê bình cười hề hề không nói gì và đưa chai bia lên uống hết phần còn lại.
-“Chặt mía làm gì vậy?” Tôi thắc mắc quay sang hỏi người đàn ông ngồi bên cạnh.
“Ép nước mía bán anh ạ. Mía rẻ và có khi xin được miễn phì từ các gia đình trong giáo xứ, và bán đến sáu đô la một cốc mà vẫn không đủ bán đấy,” người đàn ông nói giọng bắc kỳ gốc giải nghĩa thêm, “Năm ngoái không đủ mía mà bán đấy anh ạ.”
Bàn tôi ngồi còn vài ghế trống và có hai chị từ bếp lên ngồi. Mặt hai chị ửng hồng vì hơi nóng trong bếp và mồ hôi lớt phớt trên trán. Họ nhận ra tôi là khách lạ, gật đầu mỉm cười chào.
“Hai chị làm gì mà bây giờ mới dùng cơm?” Tôi hỏi.
-“Gói bánh chưng anh ạ.” Một chị nhanh nhẩu trả lời.
“Gói để biếu giáo dân hay sao?”
-“Không anh ạ. Mình gói bán cho bà con để gây qũy cho nhà thờ.”
“Tôi xuống bếp coi được không?”
-“Xin cứ tự nhiên.” Chị vừa bưng bát cơm lên vừa nói, “Mời cha! Mời anh dùng cơm.”
Tôi ngồi thêm một lúc để nghe câu chuyện về ăn Tết trong họ đạo di dân này rồi xin phép xuống nhà bếp coi các bà các chị gói bánh chưng.
Có khoảng mười phụ nữ đứng gói bánh chưng, bánh tét trong nhà bếp. Họ vừa gói bánh vừa cười nói rộn rã. Những mảng lá chuối xanh tươi đã được rửa sạch để lót vào khuôn gỗ hình vuông dùng gói bánh chưng. Trên mặt bàn bếp có gạo nếp, đậu xanh bóc vỏ đã được ngâm và những thau thịt ba rọi xào sẵn làm nhân cho bánh chưng. Các bà rải một lớp gạo trên lá chuối đã trải sẵn trong khuông gỗ, lấy bàn tay gạt gạo ra cho đều, bốc một vốc đậu rải lên lớp gạo, lấy một miếng thịt ba rọi cắt dày khoảng ba đốt ngón tay bỏ vào chính giữa, rồi rải lên một lớp gạo nữa. Sau cùng thì lá chuối được cuốn lại theo khuôn gổ và được cột lại bằng những sợi giây nhựa màu đỏ, lọai dây có sức kháng nhiệt nên có thể luộc trong nước sôi mà không đứt.
-“Ngày xưa ở nhà quê Việt Nam, người ta dùng những sợi dây “lạt” được chẻ ra từ thân cây tre để làm dây buộc. Sang đây có dây nhựa như thế này vừa tiện vừa dễ buộc anh ạ.”
Người đàn bà thấy tôi đứng chăm chú nhìn cách bà gói bánh ngước mặt lên giải thích cho tôi với nụ cười thật chất phác trên môi.
-“Bà ngâm gạo lâu không?” Tôi thắc mắc.
“Em nhớ là ở Việt Nam người ta ngâm gạo cho đến khi nước thấm cũng mất sáu bảy tiếng, bây giờ mình đun nước gần sôi, cho gạo vào ngâm chừng một giờ đồng hồ là được.” Người đàn bà gói bánh giải thích.
Trong ký ức của tôi không có hình ảnh rõ ràng về những ngày Tết ở quê nhà và những nồi bánh chưng mẹ tôi luộc thời thơ ấu. Tôi ở một làng nông dân Công Giáo di cư từ Bắc vào Nam trong cuộc di cư 1954. Nông phẩm chính trong làng tôi thời ấy là lúa gạo. Nhà nào cũng trồng lúa để có gạo ăn chứ không phải để bán lấy tiền. Người ta chỉ bán lúa khi thặng dư hay khi cần tiền để làm việc gì khẩn cấp. Mẹ tôi có năm phải bán lúa đi để lấy tiền đóng tiền cho tôi đi học. Làng tôi ở chỉ có vài năm thanh bình khi tôi còn bé và dân làng đã thức đêm luộc bánh chưng chờ Tết. Sau này vì giặc dã nên không ai dám thức đêm đốt bếp luộc bánh chưng như tôi đọc trên báo chí hay tiểu thuyết. Trong vài năm thanh bình ấy, những bữa ăn Tết của nhà tôi cũng không có gì sang trọng nhưng hình như ngon hơn nhiều gia đình khác trong làng vì anh em tôi được ăn thịt heo thỏa thuê. Mẹ tôi thường giết heo để ăn Tết. Nhiều người trong làng đến đặt mua thịt và mẹ tôi tính xem phải “hạ” mấy con “lợn” mới đủ chia phần cho khách. Chính vì thế mà anh em chúng tôi được ăn những thứ mà mẹ tôi cho là ngon nhất của con lợn. Bố tôi thì bao giờ cũng làm hai món chính khi con heo vừa được giết xong: Tiết Canh và Nem. Món tiết canh heo của bố tôi thật đặc biệt vì bố lấy những miếng thịt có “sụn’ như cổ heo để trộn với tiết nên khi ăn nghe sồn sột trong miệng. Còn món Nem theo kiểu nhà quê của bố tôi là thịt heo luộc có da, thái thật mỏng rồi trộn với thính. Chỉ có thế thôi nhưng đó là món ăn truyền thống trong nhà tôi. Bây giờ hàng năm giỗ bố, tôi cũng làm món Nem này nhậu lai rai trong ngày giỗ với gia đình và bạn bè. Còn món tiết canh heo thì tôi chưa bao giờ làm và từ ngày sang Mỹ đến giờ, tôi cũng chưa bao giờ ăn và có lẽ sẽ chẳng bao giờ ăn nữa. Thêm vào hai món truyền thống đó là giò thủ do chính tay bố tôi “bó.” Gọi là bó vì thịt đầu heo cắt miếng bằng hai ngón tay đem xào lên rồi gói lại hay bó lại thật chặt bằng lá chuối như người ta gói bánh Tét. Ngoài mấy món thịt heo này ra tôi không còn nhớ được gì nữa. Có những món ăn mà phải sang tới Mỹ tôi mới được ăn lần đầu hay ăn dư thừa như chả giò, giò lụa, giò bì vân vân. Ngày tôi còn bé, nhà tôi chưa bao giờ ăn dưa “món.’ Mẹ tôi chỉ biết làm dưa cải thôi. Bây giờ lang bạt tha hương tôi mới được ăn dưa món ngày Tết kể từ ngày lấy vợ. Cũng may vợ tôi thích học hỏi nấu nướng và làm các món nhậu nên Tết đết dù trái tim tôi không còn những rung động quê nhà, vợ tôi vẫn phải mua và làm những món ăn Tết được gọi là truyền thống của gia đình hay từ những ảnh hưởng bên ngoài.
“Nhà anh có nấu bánh chưng không?” Người đàn bà gói bánh hỏi làm tôi giật mình.
-“Không, nhưng tôi có người anh, năm nào anh cũng gói bánh chưng và cho gia đình tôi.”
“Sang Mỹ rồi, mua về nhà cho tiện.” Chị gói bánh mỉm cười và tay cứ liên tục làm những động tác gói bánh một cách mềm mại nhưng chắc chắn và chính xác.
-“Tôi muốn biết công thức để Tết sang năm sẽ rủ vợ tôi gói bánh chưng.”
“Anh có mấy cháu rồi?”
-“Hai.”
“Các cháu có thích ăn bánh chưng không?”
-“Thích lắm, hai đứa con của tôi đều thích ăn xôi và bánh chưng.”
“Vậy thì gói ở nhà cho các cháu ăn tốt hơn. Bánh ngoài tiệm cho bột ngọt vào nhân mà lại không được tươi đâu.”
-“Đúng thế!”
Tôi đến gần chỗ một chị đang gói bánh tét nhìn làm chị hơi e thẹn. Để làm chị bớt ngại tôi nói, “Chị khéo tay quá, bánh không cần khuôn mà vẫn gói được.”
-“Ai mà dùng khuôn để gói bánh tét bao giờ!” Chị trả lời và mỉm cười thân thiện hơn.
“Gói bánh chưng hay gói bánh tét thứ nào khó hơn?” Tôi hỏi.
-“Em cũng chả biết nữa. Làm gì quen nấy anh ạ. Em chuyên gói bánh Tét nên thấy dễ hơn.”
Tôi đi quanh quẩn trong bếp nhìn các bà trong giáo xứ Lê Thị Thành hăng say vui vẻ gói bánh chưng bánh Tét cho hội chợ Tết mà cũng thấy vui lây. Ngày mai trở về Boston không biết ý nghĩ ăn Tết còn trong đầu mình nữa không!
Hơn ba mươi lần ăn Tết ở xứ người, thời gian đã xóa nhòa những nỗi xôn xao mong chờ. Tết quê người không như Tết quê nhà. Nơi tôi đang sinh sống, sân nhà còn ngập tuyết trắng. Cây xơ xác dưới bầu trời xam xám buồn vô độ. Các nhà thờ nhà chùa và hội đoàn người Việt vẫn tổ chức ăn Tết. Mỗi nơi cử hành những nghi lễ cổ truyền khác nhau. Mình cũng chẳng biết lễ Tết nào thật sự “truyền thống” và nghi lễ nào đã được “sáng chế” hay “cải biên” từ trí tưởng tượng của người tổ chức. Thế hệ đầu tiên của di dân Việt Nam đang già theo năm tháng. Những người Việt tha hương mang nặng trái tim Việt Nam đang dần dà dẫn nhau về cõi thiên thu. Những thế hệ trẻ chỉ bập bẹ hay không nói được tiếng Việt sẽ ăn Tết ra sao? Con gái tôi sau này lớn lên sẽ ăn Tết ra sao?
(Tản mạn trên một chuyến đi xa cuối năm, tháng Giêng 2009)
Đã nhiều lần tôi hỏi vợ, “Khi nào mình dẫn con gái may áo dài?” Dĩ nhiên là vợ tôi muốn con gái mặc áo dài trong những ngày đại lễ. Lúc chúng tôi còn ở Cali, may áo dài là việc rất dễ làm nhưng con gái còn bé. Bây giờ con đang trở thành thiếu nữ và cũng đến lúc mang áo dài cho ra vẻ con gái Việt Nam, nhưng nơi chúng tôi đang sinh sống, tìm ra chỗ may áo dài không phải là việc dễ làm. Vợ giao trách nhiệm cho tôi đi “lùng” chỗ may áo dài cho con gái. Tôi nghĩ ngay đến các chị trong ca đoàn nhà thờ. Những ngày đại lễ, chị nào cũng diện áo dài đẹp, thế nào họ cũng biết chỗ may. Sau lễ Chủ Nhật, tôi lên chỗ ca đoàn, lâu quá rồi không lên chỗ ca đoàn đứng nên hơi “nhột.” Ngày xưa còn sinh viên độc thân, tôi và mấy đứa bạn vẫn thường hiên ngang lên đứng chung hay sau lưng ca đoàn để “chọc gái.” Lì đến độ ca trưởng và nam ca viên phải hết năn nỉ rồi dọa nạt, chúng tôi vẫn léng phéng đến “tán tỉnh” các em. Bây giờ nhiều ca đoàn trong các cộng đồng công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ không còn “các em” nữa, nhưng phần lớn là các “mẹ” trung niên hay các chị đã lớn lắm rồi. Tôi hỏi một chị đứng đầu hàng ghế, “Chị biết chỗ nào may áo dài không?”
“May cho ai vậy?”
-“Con gái tôi.”
“Bây giờ không ai làm nghề may áo dài nữa, vừa tốn giờ mà chẳng được bao nhiêu tiền. Đi làm ‘nêu” nhiều tiền hơn.”
-“Thế chị may áo ở đâu?”
“Việt Nam!”
Tôi hơi nản. Chắc các chị trong ca đoàn đã rủ nhau về Việt Nam may áo nên trông áo ai cũng na ná như nhau. Nhất định không bỏ dở dang “công trình” điều nghiên về nơi may áo dài trong vùng này, tôi tiếp tục “thu thập” dữ kiện. Hỏi tùm lum, hỏi không ngại là bí quyết điều nghiên hay nhất. Cuối cùng tôi tìm ra được một chị vẫn còn yêu nghề may vá trong một tiệm bán tạp hóa từ băng nhạc đến dầu cạo gió xanh. Phải đưa con gái đến tiệm ngay, nhỡ chị lại bỏ nghề đi làm “nêu” thì phiền lắm. Về Việt Nam hay sang Cali may chiếc áo dài là việc không tưởng.
Đứng trong tiệm nhìn con chọn vải may áo rồi tưởng tượng về tương lai của con. Không biết mai này ra sao? Chiếc áo dài không đủ làm con trở thành cô gái Việt Nam. Mình không có quyền bắt con mình trở thành người Việt Nam. Quê hương của mình là Việt Nam nhưng nơi chôn nhau cắt rốn của con mình là Hoa Kỳ. Con mình được nuôi dưỡng bằng huyền thọai và lịch sử Hoa Kỳ chứ không như mình lớn lên bằng những giấc mơ Quang Trung, bằng huyền sử Hùng Vương và niềm kiêu hãnh của Trần Hưng Đạo của Lê Lợi. Nhưng dù sao, nó vẫn có một phần gốc rễ Việt Nam bằng di truyền văn hóa-di truyền nhân chủng. Nỗi lo âu của mình cũng là nỗi lo âu của hàng triệu người di dân tha hương khắp trên địa cầu này. Mình tha hương nhưng con mình đâu có tha hương. Nó sinh ra và lớn lên ở quê hương này làm sao mình bắt nó phải “nhận” quê hương cũ của mình là quê hương của nó được. Vả lại chính trong trái tim mình quê hương cũ của mình cũng đang lu mờ. Nói vậy có nhiều người “yêu nước’ ảo tưởng lại kết tội mình là vong thân vong bản, nhưng sự thật vẫn là sự thật. Cả ngàn năm nay những người di dân như mình khi trở lại quê cũ đều mang cảm giác “khách lạ” ngay trên quê hương cũ của mình. Đúng là xa mặt cách lòng. Bây giờ mình muốn làm người Việt Nam thật sự, mình phải trở lại quê nhà học sống như người Việt Nam. Những Việt Kiều như mình có nhớ thương quê nhà cách mấy vẫn mang con tim khách lạ khi về thăm quê nhà rồi lại vội vã ra đi.
Sự gắn bó của mình với quê hương cũ bây giờ là sự gắn bó linh thiêng. Mình cũng chỉ mong là con mình cũng có được sự gắn bó linh thiêng với tổ tiên của bố mẹ nó ở một nơi gọi là Việt Nam, nơi con mình biết đến vì học lịch sử hay địa lý và kỷ niệm của những chuyến đi xa ngắn ngủi theo bố mẹ về Việt Nam; nơi thiếu nữ còn mặc áo dài đi học và phụ nữ còn mặc áo dài đi lễ hội. Biết đâu khi mang chiếc áo dài trên mình, sự liên hệ linh thiêng với Việt Nam sẽ dần già nẩy nở trong trái tim con. Biết đâu khi mặc áo dài, niềm hãnh diện về nguồn gốc của con mình sẽ được cưu mang. Biết đâu khi mặc áo dài, dấu ấn Việt nam sẽ nhẹ nhàng in vết lên tâm hồn con.
-“Cháu đừng chọn màu này, già quá, không hợp với tuổi cháu đâu.”
Giọng nói của cô thợ nay làm những suy nghĩ mông lung của tôi bị cắt đoạn. Cái giọng Sài Gòn nghe nhẹ nhàng và ngòn ngọt như trái “Chôm Chôm” ướt mọng làm mình tò mò xem con gái mình chọn màu áo ra sao.
-“Cô nói đúng đấy, con chọn màu khác đi.” Tôi nói theo cô thợ may.
“Nhưng không có màu con thích.” Con gái tôi phát biểu ý của nó. Bây giờ con sắp 15 và đang tập tành làm người lớn nên bắt đầu để lộ ra những cá tính riêng và ý nghĩ độc lập.
-“Con thích mặc màu vàng không?”
Cô thợ may vừa nói vừa kéo xấp vải màu vàng ra. Con gái tôi lắc đầu. Nó đâu có bao giờ đọc được thơ Nguyên Sa “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc” như bố mẹ nó mà thích áo dài vàng. Hay làm sao cảm được thơ Phạm Thiên Thư “Mùa xuân em mặc áo da trời” để mà yêu áo dài xanh. Tiệm may này nhỏ nên ít mặt hàng. Cô thợ may chỉ có một số vải thích hợp cho thế hệ phụ nữ Việt Kiều khác chứ không hợp nhãn mấy cháu gái người Mỹ gốc Việt như con gái tôi. Tôi nghĩ thầm, “Chọn đại một màu đi con, mẹ có trách cũng muộn. Chờ lần sau may áo khác. Sắp Tết rồi, may cho kịp mặc áo đi lễ Tết.” Nghĩ thế nhưng không dám nói. Tôi vẫn vui mừng kiên nhẫn chờ con đắn đo trước khi lựa chọn. Cuối cùng thì con chọn được một mẫu vải.
-“Con không thích mấy, nhưng không có màu khác.” Con tôi nhìn tôi giải thích.
“Không sao! Cứ may đi, mai kia có dịp con chọn màu khác.”
-“Màu này không tươi trẻ, nhưng không quá già.” Cô thợ may tỏ ra đồng ý với sự lựa chọn của con gái tôi.
“Khi nào xong cô?”
-“Cho em hai tuần!’
“Lâu thế!”
-“Không đâu! Hôm nay em đo rồi cắt áo cho cháu, tuần tới “bác,” xin lỗi, “anh” đưa cháu lại thử trước khi em may thành áo.”
“Phiền thế?”
-“Làm vậy cho chắc ăn.”
Nói thế, nhưng có phải đưa con gái lại đây mười lần để thử áo dài tôi vẫn đưa một cách vui vẻ hân hoan. Như thế là con gái tôi sẽ có áo dài. Ngày con còn bé, vợ tôi mua áo dài cho con mặc vài lần. Nhưng đó là quyết định của mẹ. Bây giờ thì khác. Chính con đã đi chọn màu vải để may chiếc áo dài lần đầu trong đời mình. Có lẽ bố xôn xao chờ áo may xong hơn là con. Chiếc áo dài không làm con trở thành thiếu nữ Việt Nam thuần túy, nhưng bố tin là khi con mặc áo dài, cái “hồn” Việt Nam từ trái tim bố mẹ sẽ được in dấu lên tâm hồn lên trái tim của con. Sự hãnh diện về nguồn gốc mình là hành trang tâm linh để con vào đời trong xã hội đa chủng Hoa Kỳ và thế giới mở rộng ngày nay.
Chờ con mặc áo dài đi lễ Tết, nhưng lòng mình không thấy Tết, không nhớ, không đợi tết. Thời mới viễn hương, có lần tôi nói với người bạn thân, “Linh hồn Việt Nam sẽ bị tẩy khỏi tâm thức mình một ngày nào đó khi mình suy nghĩ bằng ngôn ngữ của xứ người.” Câu nói vớ vẩn của mình thời trẻ là lời tiên tri cho chính thân phận mình. Cũng may mỗi lần ngồi viết lách lăng nhăng bằng ngôn ngữ mẹ đẻ mình vẫn còn gắn bó với quê cũ bằng sợi giây linh thiêng và còn suy nghĩ bằng ngôn ngữ mẹ đẻ mặc dù cách mình viết lách đã lai căn lâu rồi. Cái hiểm họa mất gốc đang xảy ra cho chính mình. Bây giờ Tết không còn là ngày linh thiêng hay quan trọng trong đời sống người viễn hương nữa. Ở chợ búa Việt Nam nơi tôi đang cư ngụ, người ta cũng bầy bánh, kẹo, mứt, hạt dưa và nhiều món hàng ngày Tết, nhưng chúng không gợi cho mình cảm giác về Tết.
Cách đây hơn ba mươi năm, tôi ăn Tết tha hương lần đầu với khoảng hai chục đồng hương ở Biloxi, Mississippi. Người đứng ra tổ chức là Anh Sơn. Gia đình anh có bốn cha con. Bố anh để lại vợ ở quê nhà còn chính anh Sơn, theo lời anh kể, cũng để lại Sài Gòn hai cô vợ. Hai người em của anh một người trạc tuổi tôi và một đứa khoảng mười tuổi. Bốn cha con anh ở trong căn nhà do một nhà thờ bảo trợ nên rộng rãi khang trang. Và có lẽ nhà chỉ toàn phái nam nên dễ tổ chức họp mặt. Đồng hương có gia đình đã mang theo các món ăn họ có thể làm được trong điều kiện rất eo hẹo, nhất là không có chợ thực phẩm Á Châu. Có người đã sang New Orleans tìm mua thức ăn Á Châu, hay nhờ bà con ở những nơi có đông người Á Châu gửi những gia vị để làm chả giò, hay món các món quen thuộc khác. Tết đầu tiên của tôi ở Biloxi không có bánh chưng-bánh tét. Không có mứt-không có hạt dưa. Nhưng mọi người đã mừng rỡ găp nhau. Có người mang biếu gia đình anh Sơn chai nước mắm của Phi như món quà Tết quí nhất. Một vị đàn anh, cựu sỹ quan Hải Quân thì phải, vỗ vai tôi thân thiện, “Chú mày phải nhớ là nước mắm còn là văn hóa Việt mình còn đấy.” Không ngờ nước mắm lại được đánh giá ngang hàng với “Truyện Kiều.” Tôi nghĩ thầm vị đàn anh nói giỡn, nhưng nghe cũng có lý vì văn hóa bao gồm mọi mặt đời sống con người, từ thực phẩm đến tâm linh. Bà con bàn về các món Tết họ có thể làm dễ dàng nhưng thiếu gia vị, thiếu các “thực liệu” cần thiết nên đành bó tay. Họ hứa là Tết sang năm phải có bánh chưng. Anh Sơn mang theo được mấy băng nhạc Việt Nam trên đường di tản và anh đã tổ chức khiêu vũ trong phòng khách-phòng ăn. Các vị cựu quan quyền, các chị lấy chồng Mỹ, và các vị dân thành phố quen khiêu vũ, đã dìu nhau khiêu vũ say mê. Tôi xuất thân từ ruộng đồng, lại được ăn học với các vị khổ tu Châu Sơn nên chân tay cứng ngắc đành đứng góc nhà nhìn thiên hạ nhấc chân, nghiêng người, lắc mông, xoay vai theo các điệu nhạc từ tỉ tê nát ruột đến dập dồn vó ngựa.
Trong một hai người “đứng bên lề” có cô gái tên Vân khoảng mười tám mười chín. Cô được các vị độc thân từ loại bất đắc dĩ đến độc thân “chân chính” như tôi để ý. Tất cả quí vị nam nhi trong phòng đều chìa tay mời cô nhảy, chỉ có tôi là không. Không phải là không thích, nhưng không biết khiêu vũ. Có vài chị lấy chồng Mỹ thuộc loại khiêu vũ chuyên nghiệp đã lôi tôi ra nhảy với họ. Tôi bị đẩy vào thế kẹt nên cũng rung mông, đá chân tùm lum theo điệu nhạc. Mọi người ăn tết vui vẻ. Lúc mọi người ngồi xả hơi sau khi khiêu vũ, vị cựu sỹ quan Hải Quân đề nghị làm văn nghệ bỏ túi cho vui. Nhà anh Sơn có cây đàn Ghita nhà thờ cho đứa em của anh và anh đã mang ra kêu gọi mọi người ca hát. Anh Sơn thuộc lọai tài hoa (thảo nào có đến hai cô vợ trẻ còn kẹt lại Sài Gòn), đã đệm đàn cho mọi người hát mấy bản nhạc mừng xuân. Tôi bị vị đàn anh “ca ngợi” nước mắm chỉ mặt bảo hát một bài cho vui. Chưa kịp trả lời mọi người đã vỗ tay tản thưởng ý kiến ấy. Dĩ nhiên là tôi hát không cần phải mời, dù tôi thuộc loại người chơi đàn không bao giờ đúng nhịp và hát luôn luôn sai cung. Tôi đã hát bài “Làng Tôi,” hát say sưa, hát rơi nước mắt. Có nhiều người cũng hát theo tôi và cũng khóc theo tôi dù chưa chắc họ đã sống ở làng quê “Có cây đa cao ngất từng xanh” hay “Có sông sâu lờ lững vờn quanh.” Tôi tin rằng cái Tết đầu tiên của dân Việt tha hương tại Hoa Kỳ hay bất cứ nơi nào trên mặt đất đã có nhiều người khóc và cũng có nhiều người hát bài nhạc ấy. Nhờ hát bài trúng tâm trạng mà mình đã gây được thiện cảm với mọi người. Lúc ra về, tôi được một bác gái gói cho một gói những món ăn còn dư để mang về. Sướng quá. Tôi nhận không ngại ngùng. Về nhà lại được ăn chả giò, giò thủ và dưa cải. Sướng hơn nữa là cô Vân đã đến nói nhỏ với tôi “Anh hát hay quá làm Vân khóc hết nước mắt.” Tôi cảm cơn Vân. Ra về sau tiệc Tết đầu tiên thấy lòng vừa mang mang nỗi nhớ quê nhà vừa lâng lâng cảm giác lưu luyến đồng hương.
Có lẽ Tết năm 1976 ở Biloxi là cái Tết tha hương có ý nghĩa nhất đối với tôi. Lúc ấy người Việt tha hương còn “yêu mến nhau.” Gặp nhau tay bắt mặt mừng. Ai cũng còn nghèo giống nhau, ai cũng còn nhớ nhà giống nhau. Sau này tôi vẫn nói với bạn bè đó là “thuở người Việt tha hương còn yêu mến nhau còn cần nhau;” mỗi lần gặp nhau là mỗi lần gặp được niềm vui lớn. Bây giờ mỗi lần người Việt tụ họp là mỗi lần có nhiều vấn đề nhiêu khê căng thẳng từ lễ Tết ở nhà thờ nhà chùa đến các hội chợ trong các cộng đoàn. Thật ra thì đó cũng là điều tự nhiên. Cộng đồng người Việt đã trưởng thành trên mọi hình thức nên có nhiều “tiếng nói,” có nhiều “ý thức hệ,” và có nhiều “chính kiến” khác nhau.
Còn hai tuần nữa Tết. Tôi đang có mặt tại New Orleans, thành phố đã cho tôi nhiều dấu ấn kỷ niệm. Con đường Bourbon, nơi 33 năm trước, nhiều đêm cuối tuần tôi và một người bạn đã lái xe từ Ocean Springs sang để rảo bộ trên đường không có mục đích gì cả. Không vào quán rượu nghe Jazz hay xem vũ khỏa thân vì không có tiền. Chúng tôi chỉ muốn trốn chạy sự cô độc của người di dân còn lạ lẫm với đời sống chung quanh. Tiếng nhạc Jazz, tiếng cười, tiếng la hét của khách du chơi dưới ánh đèn đêm rực rỡ tạo nên một không khí buông thả truy lạc lôi cuốn. Đã có đêm chúng tôi cứ rảo bộ từ đầu đường đến cuối rồi đi vòng lại tới khuya rồi tình cờ gặp vài di dân Việt Nam sống trong thành phố cũng lang thang vô định cho “hết đêm hoang vu” cô độc và những người đồng cảnh ngộ này đã rủ chúng tôi về phòng trọ uống bia rồi nằm ngủ co ro trên nền phòng trọ và buổi sáng chúng tôi chia tay hẹn găp lại nhau trên phố Bourbon những đêm cuối tuần cô độc.
New Orleans bây giờ đã đổi thay. Trận bão Katrina hằn lên khuôn mặt thành phố những tàn phá chưa sửa chữa xong sau ba năm ròng rã. Cộng đồng di dân Việt Nam ở đây cũng đã thay đổi hoàn toàn so với hơn ba mươi năm trước. Vùng này đã bị trận bão Katrina tàn phá nặng nhất so với những khu vực khác thuộc New Orleans. Di dân Việt Nam đã định cư tại khu vực này từ giữa thập niên bảy mươi. Khu phố Việt Nam nằm sát quốc lộ 90 hay còn gọi là xa lộ Đầu Bếp Menteur. Thời đó người Việt sống xen lẫn với các dân da màu nhất là da đen trong chung cư có tên Versailles. Dạo ấy chưa có tiệm ăn Việt Nam, một số đồng hương đã bán thức ăn Việt ngay trong phòng khách nhà mình để kiếm thêm tiền vào cuối tuần. Có nhiều sáng thứ bảy hay chủ nhật, tôi đã từ Ocean Springs, Mississippi mò mẫm đến những nơi ấy để ăn phở, ăn bún, hay bánh ướt. Tối qua tôi gặp ba người trẻ Việt Nam, Minh, John Nguyễn và Vy. Minh, mới xong Đại Học ngành Thị Trường Học, nhưng lại đam mê phục vụ cộng đồng. Anh đang quản trị một trung tâm phục vục giới trẻ nằm ngay trong trung tâm cộng đồng Việt Nam miền Đông của New Orleans. John đang học năm cuối ngành Á Châu học tại UCLA và tình nguyện sang đây phục vụ đồng bào Việt Nam qua chương trình hồi phục cộng đồng hậu Katrina. Cuối hè tới John sẽ trở lại Cali để hoàn tất chương trình cử nhân rồi sửa soạn nộp đơn theo cao học ngành Nhân Xã Vụ Học (Social Work) hay một ngành khác. Tôi gợi ý cho John là sẽ tìm cách giúp đỡ để John theo học tai Boston College, nơi tôi đang làm việc. Cả Minh và John đều hăng say và lý tưởng. Tôi nhìn thấy trong mắt họ sáng lên những hy vọng và nhiệt tâm của tuổi thanh niên. Trái tim họ đầy ắp những giấc mơ đẹp, giấc mơ phục vụ và làm đẹp cuộc đời. Vy đang chuẩn bị trình luận án Tiến Sĩ Xã Hội Học tại Đại Học Tulane, một đại học tư nằm ngay trong thành phố New Orleans. Vy muốn trình luận án về cộng đồng di dân Việt Nam tại New Orleans và vùng vịnh Gulf Coast của Mississippi. Trong ba người này, Vy có vẻ kín đáo và ít nói. Có lẽ cô đã lớn và trưởng thành hơn hai người kia. Cả ba đều không nói được tiếng Việt xuôi chảy, nhưng qua công việc và những dự tính tương lai, cả ba đều đang tìm lại với cái gốc Việt Nam của mình. Tôi mong cho con gái mình sau này có tâm hồn như ba người bạn trẻ này. Tôi cũng gặp một người trẻ Việt nam rất tài hoa. Cô ta sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến tại Việt Nam. Người bạn trẻ này đang sửa sọan trình luận án Tiến Sĩ Nhân Xã Vụ Học tai Đại Học, danh tiếng, Chicago. Có lẽ đây là lần đầu tiên một người Việt Nam “chính gốc” theo học tiến sĩ về ngành này tại Hoa Kỳ. Cô ta còn là một nhà văn đã có tác phẩm được giải thưởng văn học tại Việt Nam. Tôi hân hạnh được cô tặng cho tiểu thuyết đầu tay của mình.
Sáng thứ bảy, tôi một mình lái xe từ New Orleans sang Biloxi để ghé thăm thầy Thích Thiện Trí, một nhà sư trẻ tôi có duyên gặp gỡ ba năm trước trong một chuyến “tham quan” sửa sọan cho một dự án nghiên cứu cộng đồng Việt Nam tại vùng này. Nhà sư trẻ dáng người nhỏ bé, hai mắt sáng, giọng miền miền Nam nhỏ nhẹ, và nụ cười rất kín đáo. Vị sư trẻ này làm thơ lục bát rất hay. Ông gửi tặng tôi vài bài thơ trong đó có một bài về xuân và tôi đã cho anh bạn tôi-(Nhất Chi Vũ-một nhạc sỹ thánh ca)-đọc và anh đã soạn thành một ca khúc rất công phu. Thầy Thiện Trí xưng tên mình và gọi tôi bằng chú. Lần nào gặp nhau thầy cũng chắp tay “Mô Phật” mỉm cười hiền lành chào tôi. Và tôi cũng bắt chước thầy làm như thế. Thầy trụ ở chùa Vạn Đức lúc trận bão Katrina tàn phá cả vùng vịnh này. Lần đầu tôi gặp thầy, chùa đang được sửa sang. Càng ngày Chùa càng khang trang và ngăn nắp hơn. Tôi cũng hẹn đưa Vy đến gặp thầy để xin thầy hỗ trợ cho công trình tìm dữ kiện trong cộng đồng Việt Nam tai Biloxi để cô hoàn thành luận án tiến sĩ. Khi tôi dẫn Vy vào chùa, sân chùa ngập nắng vàng, và mùi nhang từ chính điện tỏa ra nhẹ nhàng rồi tan ngay vào gió biển. Chùa nằm không xa bờ vịnh nên thầy Thiện Trí kể khi nước biển đã dâng lên gần ngập nóc chùa trong trận bão Katrina, thầy và một số tín đồ đã ngồi trên nóc chùa niệm Thần Chú chờ chết, may quá, mọi người đã được cứu kịp thời.
Chúng tôi vào chùa, thầy Thiện Trí đang ngồi làm việc với ba tín đồ để sửa soạn cho lễ Tết sắp đến. Thầy vui vẻ đứng lên “Mô Phật” chào tôi và thầy tưởng Vy là con gái tôi nên cũng niềm nở đón tiếp. Chúng tôi ngồi uống trà trong phòng tiếp khách mới xây xong ngay sau Chính Điện. Tôi hỏi thăm thầy Thiện Trí về một nhà sư trẻ khác, thầy Đức Thành, người mà một sáng sớm hè năm ngoái tôi ghé chùa gặp ngay lúc thầy Đức Thành đang ngồi tụng kinh một mình trước bàn thờ Phật. Thầy mặc áo choàng màu nâu, cúi đầu trước pho kinh lớn, vừa gõ chuông vừa lẩm bẩm ngân nga những bài kệ nghe rất huyền bí. Hình ảnh thầy Đức Thành tụng kinh sáng đã để lại một ấn tượng rất đẹp và bình an trong trí nhớ tôi. Thầy Thiện Trí bảo thầy Đức Thành đang trên đường “du đạo.” Thầy đang có mặt bên Pháp rồi sẽ sang Ấn Độ. Chúng tôi ngồi uống trà “Thiết Quan Âm” một Phật Tử mới biếu thầy. Trà ngon và thơm tinh khiết.
-“Tiếc quá, chú không ở lại chùa ăn Tết năm nay.” Thầy Thiện Trí vừa nói vừa rót thêm trà nóng cho tôi.
“Nếu thầy còn trụ chùa này lâu, thế nào cũng có dịp tôi đưa vợ con về đây ăn tết với chùa.” Tôi vừa trả lời vừa nâng ly trà thầy mới rót lên môi.
-“Mời cháu Vy đến lễ Tết ở chùa nhé!” Nhà sư trẻ gọi thiếu nữ không thua ông bao nhiêu tuổi bằng cháu một cách dễ dàng.
Vy hình như không hiểu hết câu nói tiếng Việt của nhà sư, quay nhìn tôi.
-“Thầy mời Vy lên chùa lễ Tết!” Tôi thông dịch cho cô sinh viên đang tìm cách trở về với cái gốc Việt Nam của mình.
“Thưa con sẽ!” Cô gái Mỹ gốc Việt bập bẹ câu trả lời bằng tiếng mẹ đẻ.
-“Cháu nên đi chùa thường xuyên mà học tiếng Việt.” Tôi nói với Vy bằng Anh ngữ.
Chúng tôi chia tay nhà sư trẻ sau vài tuần trà trong chùa. Nắng tháng Giêng vàng lạnh ngoài sân chùa. Trời trong, xanh và cao vời vợi. Ra khỏi sân chùa tôi đi theo xa lộ 90 West để tẽ lên xa Lộ 10 West về lại New Orleans. Con đường tôi vẫn đi qua hơn ba mươi ba năm trước nay đã đổi thay hoàn toàn. Những xưởng đóng hộp tôm, nơi mùa hè 1976, tôi đã làm việc suốt ngày từ 3 giờ sáng đến khuya nay đã được thay thế bằng những sòng bài và khách sạn lớn. Tôi có cảm giác như người đi lạc ngay trên con đường quen thuộc.
Chiều thứ bảy, đường vắng thênh thang. Vào xa lộ 10, tôi cho xe lao theo tốc độ qui định để về Khách Sạn trước khi trời đổ tối. Mùa đông trời tối sớm. Xa lộ chạy xuyên giữa hai hàng thông xanh. Ngày xưa, lần nào đi trên xa lộ này tôi cũng nhớ về Đà Lạt. Bây giờ nỗi nhớ thương ấy không còn nữa cũng như nhiều nỗi nhớ thương khác đã bị chôn vùi trong những nấm mồ ký ức.
Về đến phố chính của New Orleans trời nhá nhem tối. Cho xe vào bến đậu của khách sạn rồi lên phòng nằm nghỉ. Có vài đồng nghiệp hẹn đi ăn tối, nhưng tôi từ chối vì muốn có thì giờ một mình đi lại con đường Bourbon. Vừa nằm nghỉ vài phút, điện thoại réo. Người ở đầu giây là Tim (Timothy), một sinh viên cũ của tôi, hiện nay đang dạy tại Đại Học Montana. Tim chỉ thua tôi hai tuổi nên tôi coi anh như một người bạn chứ không phải là học trò cũ. Lần nào đi tham dự các hội nghị trong nghành Tim cũng tìm cách liên lạc với tôi.
“Trần, anh làm gì sáng mai?” Tim hỏi.
-"Đi lễ!” Tôi trả lời không ngần ngừ.
”Ở đâu?”
-"Một nhà thờ Việt Nam ở phía đông New Orleans.”
Tim là người công giáo và cũng là nhạc sỹ thánh ca. Anh đã sáng tác một số ca khúc tâm linh và thỉnh thoảng lại gửi e-mail cho tôi sáng tác mới của anh. Tim chơi đàn ghita 12 dây rất điệu nghệ và có giọng hát ấm áp truyền cảm. Thời anh còn học lớp tôi, đã có lần tôi đưa anh đến hát cho một khóa tĩnh tâm của một số bạn trẻ công giáo Việt Nam trong vùng.
”Tôi đi theo được không?”
-”Dĩ nhiên. Sau lễ tôi sẽ mời anh ăn phở.”
”OK! Thế là quá đẹp.” Tim trả lời bằng giọng hân hoan.
-”Tôi sẽ chờ anh ở hành lang phía cổng vào của Khách Sạn khoảng mười giờ sáng.”
”Anh làm gì trước đó?” Tim hỏi.
-”Tôi có bài nói chuyện từ 8 đến 10 giờ sáng.”
”Tôi sẽ coi tờ chương trình của hội nghị tìm đến chỗ anh nói chuyện. Tôi sẽ có mặt khoảng 9:45 sáng”
-”Thế thì tốt, mình gặp lại sáng mai.” Tôi hẹn Tim rồi nằm dang dài chân tay trên nệm.
Khi giật mình dậy đã thấy mười giờ tối. Bụng đói nên tôi quyết đinh ra phố kiếm gì ăn rồi ghé qua đường Bourbon. Định ghé vào tiệm Acme Oyster House trên đường Iberville trong phố Tây (French Quarter) nơi mùa hè năm ngoái tôi đã đưa vợ con vào ăn trong chuyến xuôi nam nghỉ hè. Nhưng tiệm ăn đông nghẹt và khách phải xếp hàng dài chờ ngòai đường. Tôi tạt sang nhà hàng Felix’s phía bên kia đường. Tiệm cũng đông nhưng còn chỗ ngồi. Khách đứng chen nhau trước quầy sò sống. Một đĩa 12 con sò sống xấp xỉ hơn 15 đô la. Tương đối rẻ. Tôi chần chừ không biết có nên ăn sò sống hay không. Cuối cùng tôi gọi món súp rùa và một phần ăn thổ địa của New Oleans, món Bayou Platter Sampler, gồm đậu đỏ, cơm trộn xúc xích, và ”cháo đồ biển nấu với lọai tôm thổ sản (crawfish). Ngồi uống chai Abita Amber, một loại beer thổ địa rất nổi tiếng, dễ uống và có vị ngọt chứ không đắng như nhiều loại bia khác, tôi chăm chú nhìn khách ra vào và những người hầu bàn mặt căng thẳng bưng các món ăn còn bốc khói ra bàn trong không khí ồn ào tiếng nói cười và tiếng nhạc Jazz.
Ba mươi ba năm trước, nếu tôi có ghé vào tiệm ăn này chắc tôi đã ngồi một cách rụt rè. Hôm nay thì khác. Mình ngồi uống bia chờ thức ăn một cách bình thản, không ngại ai. Sau bữa ăn tối tôi rảo bộ trên đường Bourbon, số người la cà trên đường đã đông nghẹt. Những tay nhạc sỹ lề đường đứng trình diễn ngả nghiêng quay cuồng theo tiếng trống tiềng kèn. Những ban nhạc Jazz nhạc Rock cũng say mê trình diễn trong các vũ trường, các bar rượu. Hình các vũ nữ khỏa thân được phóng lớn dán kín cửa kính của các phòng khiêu vũ khỏa thân. Tiếng còi xe cứu thương, xe cảnh sát, xe chữa lửa cứ thình thoảng rú lên liên hồi. Bảng tên các cửa tiệm, nhà hàng, ba rượu, vũ trường nổi đèn màu đỏ màu xanh chớp lòe rực rỡ. Không ai có thể nói chuyện thì thầm với nhau. Mọi người đều cười to nói to trên quãng đường này. Càng về khuya càng có nhiều tay say rượu cười la nghiêng ngả trên đường. Những tay chiêu khách trước các vũ trường khỏa thân tìm mọi cách mời khách ghé vào xem thử. Ngày mới đến Mỹ có đôi lần tò mò ghé vào những vũ trường này, mình đứng rụt rè phía sau xem vì không có tiền mua bia và lúc nào cũng sợ như có người sắp sửa đánh mình bất ngờ. Bây giờ những tò mò thời thanh niên không còn nữa. Bất chợt mình nghĩ về Tết. Những ngày cuối năm lang thang trên con đường mình đã bước những bước chân cô độc thời trẻ. Có những nơi chốn mình đã đi qua tưởng không bao giờ trở về, và khi quay lại mình thấy nhiều đổi thay như giòng đời trôi nổi.
Sáng chủ nhật, mình thức dậy sớm. Rất muốn xuống phòng thể dục để vận động chân tay, nhưng khi rời nhà quên mang theo quần áo thể thao nên đành đứng vươn vai uốn người hít đất vài phút trước khi tắm. Thời trẻ ăn nhậu lung tung nên thân xác đã tồn trữ bao nhiêu thứ dư thừa hại sức khỏe. Nay tìm cách vất bỏ những dư thừa có hại khỏi thân xác mình quả là điều vô cùng khó khăn.
Đêm qua không theo dõi tin khí tượng nên không biết là sáng nay trời mưa. Đứng bên cửa sổ từ lầu 17 của khách sạn Marirott nằm ngay trung tâm New Orleans nhìn mưa rơi mù mù ngang thành phố. Cơn mưa mùa đông miền nam không lạnh như những cơn mưa tuyết và mưa băng đá mùa đông Boston. Bất chợt mình nhớ nắng mùa đông Cali. Nhớ những lần ăn Tết ở thủ đô di dân Việt Nam mà vẫn không thấy lòng mình có hơi ấm mùa xuân. Nhớ mấy cây đào cây mận nở hoa trong sân nhà cũ ở Cali những ngày sắp Tết. Mình có nửa giờ để ăn sáng trước khi vào phòng họp. Hôm nay là ngày cuối cùng của hội nghị nên chắc số người tham dự buổi thảo luận sẽ rất ít. Không sao. Bây giờ mình đã quen và rất thích những buổi giảng bài chỉ có vài sinh viên nên nếu buổi hội thảo vắng người cũng tốt thôi. Ít người tham dự, mọi người đều có cơ hội phát biểu, càng vui. Mà đúng vậy, buổi hội thảo có vỏn vẹn mười người và ai cũng hăng hái tham gia. Tôi và hai đồng nghiệp chịu trách nhiệm điều hợp buổi hội thảo. Mỗi người đến từ một trường Đại Học khác nhau nên chúng tôi chỉ có giờ gặp nhau bàn qua về buổi hội thảo vài phút trước khi bắt đầu. Một đồng nghiệp chịu trách nhiệm ghi chép ý kiến bằng laptop có máy dọi chữ lên màn ảnh cho mọi người biết những ý kiến đã được phát biểu. Một đồng nghiệp có trách nhiệm giới thiệu tổng quát mục đích của buổi hội thảo và coi giờ để mọi vấn đề chính được đưa ra bàn cãi. Tôi có nhiệm vụ gợi ý cho mọi người đặt câu hỏi. Tim ghé lại lúc buổi hội thảo gần chấm dứt. Thấy anh vào tôi biết mình nên sửa sọan kết thúc chương trình để kịp đi lễ.
Cơn mưa vội buổi sáng đã tạnh ráo và mặt trời đang rải nắng vàng nhạt của mùa đông xuống những con đường thành phố. Tôi ”bấm” địa chỉ vào máy dẫn đường (GPS) để đưa Tim đi lễ dù mình đã đến khu Vesailles nhiều lần và mùa hè rồi cũng ghé dự lễ chủ nhật tại nhà thờ này. Đây là lần đầu tiên Tim đi dự lễ trong nhà thờ Việt Nam. Chúng tôi vào nhà thờ vừa đến phần đọc sách Thánh Thư. Cả tôi và Tim đều ngạc nhiên vì thánh lễ được cử hành bằng cả Anh ngữ và Việt ngữ. Nhà thờ này do linh mục Viễn trông coi. Tôi đã gặp linh mục Nguyễn Thế Viễn vài lần và rất mến mộ ông. Một linh mục trung niên đầy nhiệt huyết và sáng kiến. Trận bão Katrina đã cho ông dịp để chứng minh khả năng lãnh đạo và tinh thần phục vụ của ông. Hôm nay đến dự thánh lễ lại càng mến phục ông hơn. Đa số những người tham dự thánh lễ còn trẻ. Họ là những người sinh ra và lớn lên tại Hoa Kỳ hoặc di cư sang đây khi còn rất bé. Tôi chưa tham dự thánh lễ chủ nhật nào có nhiều người trẻ như thế. Các bài đọc trong lễ được đọc bằng Anh ngữ và Việt ngữ. Ca đoàn cũng thế. Họ hát bằng hai thứ tiếng và hát rất hay. Ở những cộng đoàn khác, tôi thấy đa số ca viên đã thuộc lứa trung niên. Những người trẻ nhất cũng xấp xỉ 30 mươi. Riêng ca đoàn này có đủ mọi lứa tuổi. Tôi nghĩ có lẽ cách cử hành và dâng lễ kiểu nàu sẽ trở thành khuôn mẫu cho các cộng đòan Công Giáo Việt Nam tại hải ngoại. Sau lễ Tim nói cảm nghĩ của anh về thánh lễ cho tôi nghe và ý của anh cũng giống ý tôi.
Thật là một dịp may cho tôi và Tim vì ngay sau thánh lễ, có chợ hoa Tết trong khuôn viên nhà thờ. Những dẫy lều vải trắng được dương lên để biến khu đất sân nhà thờ thành chợ hoa. Tôi và Tim đi vào ngắm hoa và rất thích thú được nhìn thấy những chậu cảnh, những chậu hoa rực rỡ được bày lên sạp hàng. Chợ có hoa cúc vàng, hoa mai, và nhiều thứ hoa cảnh rực rỡ khác. Nếu không ở quá xa, tôi đã chọn mua vài chậu hoa cảnh mang về làm quà Tết. Cơn mưa buổi sáng đã rửa sạch bầu trời nên khi chợ Tết mở cửa trời quang đãng và nắng vàng mềm dịu sưởi ấm sân giáo đường. Bên ngoài chợ tết có mấy quầy bán thức ăn và tôi thích nhất là quầy bán bắp nướng. Tự nhiên thấy nhớ những hàng bán bắp nướng bên lề đường quanh chợ Đà Lạt năm xưa. Dạo đó có những chiều rảo bộ muốn ăn một cái bắp nướng mà túi không tiền nên hình ảnh những cái bắp nướng vàng ngậy mỡ thỉnh thoảng vẫn còn lãng đãng trong ký ức. Tôi và Tim đã có chương trình ăn trưa nên dù những cái bắp nướng trông hấp dẫn thật, chúng tôi không ăn. Vài năm trước đã có dịp coi chợ Hoa ở Little Saigon, nam Cali, nhưng không khí thiếu ấm cúng như chợ hoa trong sân nhà thờ khu Versailles. Hình như dân Việt Mình ở New Orleans vẫn còn mong đợi Tết về. Các nhà thờ, nhà chùa đều chuẩn bị những chương trình đón Tết.
Buổi tối tôi ghé khu Việt Nam ở quanh giáo xứ Lê Thị Thành bên mạn Tây của New Olreans. Chủ đích đến thăm linh mục nhà văn Trần Cao Tường dù biết cuối tuần ông rất bận. Mà đúng thế. Tôi ghé lại thăm ông đúng lúc ông đang có buổi họp với một số bạn trẻ. Tôi mở cửa rất nhẹ vào nhà để khỏi làm gián đọan buổi họp của ông. Đứng nép trong phòng bếp vài phút nghe lóm phiên họp rồi lại lẳng lặng ra đi. Định bụng sẽ điện thoại hay i-mêu (e-mail) ông khi về khách sạn. Thay vì trở lại Khách Sạn ngay, tôi lái xe sang sân nhà thờ xem có sinh họat gì không. Tôi đã đi lễ nhà thờ này hai năm trước, lúc đó cha Hân chưa về hưu, nhưng không có dịp quan sát sinh hoạt của bà con. May quá là sân nhà thờ còn xe đậu và có dấu hiệu bà con đang họp mặt trong hội trường nhà xứ. Đây là một ngôi thánh đường khang trang có cơ sở sinh hoạt cộng đoàn thuận tiện. Ngay trong khuôn viên nhà thờ có một khán đài đồ sộ nơi có lẽ dùng để cho những sinh hoạt văn nghệ lớn ngoài trời của cộng đoàn. Hình như mỗi giáo xứ Việt Nam ở vùng này đều có một khán đài Văn Nghệ hay lễ đài ngoài trời. Tôi đã có dịp ghé qua một số nhà thờ Việt Nam ở Texas và vài nơi khác, nhưng chưa thấy nơi nào có những công trình kiến trúc khán đài và lễ đài ngoài trời qui mô như bà con mình ở New Orleans.
Ở chốn thiên tai bão tố này đã trổ lên những bông hoa văn hóa quí trong cộng đồng Việt Nam hải ngoại. Cái đẹp của văn hóa không phải là sự hào nhoáng nhộn nhịp bên ngoài, nhưng là vẻ đẹp tâm linh phát xuất ra từ những sinh hoạt cộng đồng còn đậm mối thân tình đồng hương. Cái nét Việt Nam dù khó diễn tả vẫn còn in dấu trên những công trình kiết trúc từ chùa đến nhà thờ. Những kiến trúc chùa, nhà thờ này có thể không theo khuôn mẫu cố định nào nhưng chắc chắn đã phát sinh ra từ sự tưởng tượng đậm tình Việt Nam của những người có công khởi dựng lên. Đẹp hơn nữa là từ những ngôi chùa và ngôi nhà thờ quanh đây hàng ngày vẫn còn vọng lên tiếng kinh kệ Việt Nam. Hè năm ngoái tôi có dịp dâng lễ cầu siêu (tôi nhớ mang máng thế) và đứng tụng kinh với một số chư vị đạo hữu trong chùa Vạn Hạnh tọa lạc ngay bên xa lộ 90 gần khu phố Việt Nam. Mình đứng ngân nga đọc kinh kệ, niệm nam mô trong mùi nhang khói và tiếng mõ gõ giữ nhịp cho bài kinh. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi đứng tụng kinh niệm Phật cung kính như thế dù Phật Giáo không phải là tôn giáo của mình, nhưng có lẽ cái hồn Phật Giáo từ ngàn năm xưa của tổ tiên mình vẫn còn dấu ấn trong vô thức nên mình đã hòa vào tiếng mõ tiếng ngân nga và mùi nhang khói thật dễ dàng thật hồn nhiên. Như vậy ở New Orleans, không chỉ có khu phố Tây nhộn nhịp, không chỉ có Cafe Du Monde, bánh chiên Beignet, súp rùa, cháo crawfish, thịt cá xấu chiên, hay mấy món cơm cháo tạp vị, nhưng còn có linh hồn Việt Nam ẩn hiện dưới sân chùa, trên mái nhà thờ, qua lời kinh kệ.
Tôi cho xe đậu rồi lững thững đi về phía cửa trước nhà thờ, định bụng nhìn cho kỹ lại ngôi giáo đường đã được dựng lên từ những tấm lòng Việt Nam-rất Việt Nam- trên mảnh đất xa lạ này. Vừa bước được vài bước tôi thấy có người đi về phía tôi. Trời đã nhá nhem tối nên phải lại thật gần mới nhìn ra được mặt. Vừa chạm mặt, tôi buột miệng chào không suy nghĩ, ”Chào cha Hân.”
”Ai đấy?” Vị linh mục vừa về hưu này không nhận ra tôi. Phải đứng kể lể lai lịch nhắc vài tên người quen lên làm bằng chứng, cha mới ngờ ngợ nhận ra tôi.
-”Vào đây ăn tối.”
”Thưa cha con ăn rồi!”
-“Ăn nữa cho vui. Chết đâu mà sợ.”
Cách nói chuyện của vị linh mục này làm tôi mến ông ngay. Hai năm trước có ghé lại ở nhà ông vài ngày, đúng lúc ông đi du lịch Trung Hoa về. Nghe ông kể chuyện về những nơi chốn ông đã đến, tôi đã khoái tai rồi, nhưng kiểu nói chuyện hồn nhiên cởi mở này làm tôi thêm lòng kính mến ông hơn. Trong đời này, có những người ngại mời khách lạ hay khách chưa quen thân lắm ngồi uống chai nước lạnh huống hồ rủ ăn cơm một cách không nghi ngại như thế. Tôi đi theo ông vào căn phòng có đèn sáng và bóng người lô nhô đi lại. Ông vừa mở cửa đã có hai ba người chạy tới vồn vã.
“Chào cha. Đợi cha lâu quá.” Cha Hân chưa kịp trả lời mọi người nhìn tôi cùng một lúc và chào,
-“Thưa cha mời cha vào bàn.”
“Tôi không phải linh mục. Đang đi ngoài sân nhà thờ được cha Hân rủ vào đây thôi.”
-“Vâng! xin mời vào.”
Một vị giáo dân nhanh nhẹn kéo ghế đưa tôi ngồi bên cạnh cha Hân. Là khách lạ phương xa nên tôi được mọi người để ý và hỏi han. Phải mất một hai phút tôi mới kể xong lý lịch và nơi chốn đang sinh sống cho mấy người ngồi cùng bàn nghe.
“Cha uống gì? Anh uống gì? Uống bia nhá?” Một giáo dân vồn vã hỏi cha Hân và tôi.
-“Có rượu chát không?” Cha Hân hỏi lại.
“Thưa cha có chứ.”
-“Tôi cũng uống rượu chát như cha Hân.” Tôi nói thêm vào.
Khoảng 30 giáo dân ngồi quanh ba bàn tròn có bày nhiều thức ăn và những chai bia đã cạn được để ngổn ngang trên bàn. Thế kỷ 21, hút thuốc không còn là hình ảnh lãng mạn nữa và đã bị cấm trong các nơi công cộng, nhưng giáo dân ở đây vừa nhậu vừa thả khói thoải mái. Hai ba giáo dân vội vã bưng lên những thức ăn còn bốc khói lên tiếp cha Hân và tôi. Có thịt nai xào lăn, lòng heo luộc, cháo lòng, gà rừng áp chảo, và cá trê kho để ăn cơm.
“Mời cha! Mời anh! Thịt nai và gà rừng mới săn về đấy! Cha và anh dùng ngay đi cho nóng.” Người đàn ông trung niên ngồi bên phải cha Hân vừa mời chúng tôi ăn vừa kể tên người săn nai và người bắn được gà rừng.
Trong khi các ông ngồi nhậu thoải mái, tôi thấy vẫn có bóng người qua lại dưới nhà bếp. Hỏi ra mới biết, hôm nay là ngày gói bánh chưng bánh tét và dọn dẹp nhà xứ sửa sọan cho hội chợ Tết sẽ khai mạc tuần tới. Thấy bà con cô báchăng hái sửa sọan đón Tến cũng làm lòng mình có gì ấy. Định bụng khuya nay về khách sạn sẽ điện thọai cho vợ bàn về ăn Tết năm nay. Như vậy Tết vẫn chưa thật sự chết trong hồn mình. Linh hồn Việt Nam có thể sống lại bất cứ lúc nào trong hồn mình nếu có ai, có sự việc hay biến cố nào bên ngoài thúc đẩhay gợi nhớ. Mình cứ tưởng không còn nơi nào người Việt xôn xao hân hoan chờ Tết, nhưng cứ dựa theo những gì mình thấy và nghe hôm nay, người ViệNam, ở New Oleans, thật sự chờ Tết đến. Có thể mình đã lầm tưởng Tết đãchết rồi. Hy vọng mình đã lầm thật. Vì nếu mình lầm thật thì văn hóa Việt Nam sẽ còn được nuôi dưỡng và giữ gìn trong trái tim của những cộng đoàn Việt Nam như ở New Orleans.
Tôi được bà con cứ vồn vã mời dùng thêm thịt nai và thịt gà rừng áp chảo dù bụng đã no. Ngồi uống rượu nghe bà con bàn tính việc cần phải làm để sửa sọan ăn mừng Tết mà thấy lòng mình cũng vui lây.
“Này sáng mai đi chặt mía đấy.” Một vị trung niên quay sang bảo người bạn ngồi bên cạnh mình.
-“Ối giời ơi! Đừng nhờ ông này làm gì. Năm ngoái ra vườn mía chặt bừa bãi, bắt người ta phải dọn.”
Chị ngồi chung bàn lên tiếng phản đối. Người đàn ông bị phê bình cười hề hề không nói gì và đưa chai bia lên uống hết phần còn lại.
-“Chặt mía làm gì vậy?” Tôi thắc mắc quay sang hỏi người đàn ông ngồi bên cạnh.
“Ép nước mía bán anh ạ. Mía rẻ và có khi xin được miễn phì từ các gia đình trong giáo xứ, và bán đến sáu đô la một cốc mà vẫn không đủ bán đấy,” người đàn ông nói giọng bắc kỳ gốc giải nghĩa thêm, “Năm ngoái không đủ mía mà bán đấy anh ạ.”
Bàn tôi ngồi còn vài ghế trống và có hai chị từ bếp lên ngồi. Mặt hai chị ửng hồng vì hơi nóng trong bếp và mồ hôi lớt phớt trên trán. Họ nhận ra tôi là khách lạ, gật đầu mỉm cười chào.
“Hai chị làm gì mà bây giờ mới dùng cơm?” Tôi hỏi.
-“Gói bánh chưng anh ạ.” Một chị nhanh nhẩu trả lời.
“Gói để biếu giáo dân hay sao?”
-“Không anh ạ. Mình gói bán cho bà con để gây qũy cho nhà thờ.”
“Tôi xuống bếp coi được không?”
-“Xin cứ tự nhiên.” Chị vừa bưng bát cơm lên vừa nói, “Mời cha! Mời anh dùng cơm.”
Tôi ngồi thêm một lúc để nghe câu chuyện về ăn Tết trong họ đạo di dân này rồi xin phép xuống nhà bếp coi các bà các chị gói bánh chưng.
Có khoảng mười phụ nữ đứng gói bánh chưng, bánh tét trong nhà bếp. Họ vừa gói bánh vừa cười nói rộn rã. Những mảng lá chuối xanh tươi đã được rửa sạch để lót vào khuôn gỗ hình vuông dùng gói bánh chưng. Trên mặt bàn bếp có gạo nếp, đậu xanh bóc vỏ đã được ngâm và những thau thịt ba rọi xào sẵn làm nhân cho bánh chưng. Các bà rải một lớp gạo trên lá chuối đã trải sẵn trong khuông gỗ, lấy bàn tay gạt gạo ra cho đều, bốc một vốc đậu rải lên lớp gạo, lấy một miếng thịt ba rọi cắt dày khoảng ba đốt ngón tay bỏ vào chính giữa, rồi rải lên một lớp gạo nữa. Sau cùng thì lá chuối được cuốn lại theo khuôn gổ và được cột lại bằng những sợi giây nhựa màu đỏ, lọai dây có sức kháng nhiệt nên có thể luộc trong nước sôi mà không đứt.
-“Ngày xưa ở nhà quê Việt Nam, người ta dùng những sợi dây “lạt” được chẻ ra từ thân cây tre để làm dây buộc. Sang đây có dây nhựa như thế này vừa tiện vừa dễ buộc anh ạ.”
Người đàn bà thấy tôi đứng chăm chú nhìn cách bà gói bánh ngước mặt lên giải thích cho tôi với nụ cười thật chất phác trên môi.
-“Bà ngâm gạo lâu không?” Tôi thắc mắc.
“Em nhớ là ở Việt Nam người ta ngâm gạo cho đến khi nước thấm cũng mất sáu bảy tiếng, bây giờ mình đun nước gần sôi, cho gạo vào ngâm chừng một giờ đồng hồ là được.” Người đàn bà gói bánh giải thích.
Trong ký ức của tôi không có hình ảnh rõ ràng về những ngày Tết ở quê nhà và những nồi bánh chưng mẹ tôi luộc thời thơ ấu. Tôi ở một làng nông dân Công Giáo di cư từ Bắc vào Nam trong cuộc di cư 1954. Nông phẩm chính trong làng tôi thời ấy là lúa gạo. Nhà nào cũng trồng lúa để có gạo ăn chứ không phải để bán lấy tiền. Người ta chỉ bán lúa khi thặng dư hay khi cần tiền để làm việc gì khẩn cấp. Mẹ tôi có năm phải bán lúa đi để lấy tiền đóng tiền cho tôi đi học. Làng tôi ở chỉ có vài năm thanh bình khi tôi còn bé và dân làng đã thức đêm luộc bánh chưng chờ Tết. Sau này vì giặc dã nên không ai dám thức đêm đốt bếp luộc bánh chưng như tôi đọc trên báo chí hay tiểu thuyết. Trong vài năm thanh bình ấy, những bữa ăn Tết của nhà tôi cũng không có gì sang trọng nhưng hình như ngon hơn nhiều gia đình khác trong làng vì anh em tôi được ăn thịt heo thỏa thuê. Mẹ tôi thường giết heo để ăn Tết. Nhiều người trong làng đến đặt mua thịt và mẹ tôi tính xem phải “hạ” mấy con “lợn” mới đủ chia phần cho khách. Chính vì thế mà anh em chúng tôi được ăn những thứ mà mẹ tôi cho là ngon nhất của con lợn. Bố tôi thì bao giờ cũng làm hai món chính khi con heo vừa được giết xong: Tiết Canh và Nem. Món tiết canh heo của bố tôi thật đặc biệt vì bố lấy những miếng thịt có “sụn’ như cổ heo để trộn với tiết nên khi ăn nghe sồn sột trong miệng. Còn món Nem theo kiểu nhà quê của bố tôi là thịt heo luộc có da, thái thật mỏng rồi trộn với thính. Chỉ có thế thôi nhưng đó là món ăn truyền thống trong nhà tôi. Bây giờ hàng năm giỗ bố, tôi cũng làm món Nem này nhậu lai rai trong ngày giỗ với gia đình và bạn bè. Còn món tiết canh heo thì tôi chưa bao giờ làm và từ ngày sang Mỹ đến giờ, tôi cũng chưa bao giờ ăn và có lẽ sẽ chẳng bao giờ ăn nữa. Thêm vào hai món truyền thống đó là giò thủ do chính tay bố tôi “bó.” Gọi là bó vì thịt đầu heo cắt miếng bằng hai ngón tay đem xào lên rồi gói lại hay bó lại thật chặt bằng lá chuối như người ta gói bánh Tét. Ngoài mấy món thịt heo này ra tôi không còn nhớ được gì nữa. Có những món ăn mà phải sang tới Mỹ tôi mới được ăn lần đầu hay ăn dư thừa như chả giò, giò lụa, giò bì vân vân. Ngày tôi còn bé, nhà tôi chưa bao giờ ăn dưa “món.’ Mẹ tôi chỉ biết làm dưa cải thôi. Bây giờ lang bạt tha hương tôi mới được ăn dưa món ngày Tết kể từ ngày lấy vợ. Cũng may vợ tôi thích học hỏi nấu nướng và làm các món nhậu nên Tết đết dù trái tim tôi không còn những rung động quê nhà, vợ tôi vẫn phải mua và làm những món ăn Tết được gọi là truyền thống của gia đình hay từ những ảnh hưởng bên ngoài.
“Nhà anh có nấu bánh chưng không?” Người đàn bà gói bánh hỏi làm tôi giật mình.
-“Không, nhưng tôi có người anh, năm nào anh cũng gói bánh chưng và cho gia đình tôi.”
“Sang Mỹ rồi, mua về nhà cho tiện.” Chị gói bánh mỉm cười và tay cứ liên tục làm những động tác gói bánh một cách mềm mại nhưng chắc chắn và chính xác.
-“Tôi muốn biết công thức để Tết sang năm sẽ rủ vợ tôi gói bánh chưng.”
“Anh có mấy cháu rồi?”
-“Hai.”
“Các cháu có thích ăn bánh chưng không?”
-“Thích lắm, hai đứa con của tôi đều thích ăn xôi và bánh chưng.”
“Vậy thì gói ở nhà cho các cháu ăn tốt hơn. Bánh ngoài tiệm cho bột ngọt vào nhân mà lại không được tươi đâu.”
-“Đúng thế!”
Tôi đến gần chỗ một chị đang gói bánh tét nhìn làm chị hơi e thẹn. Để làm chị bớt ngại tôi nói, “Chị khéo tay quá, bánh không cần khuôn mà vẫn gói được.”
-“Ai mà dùng khuôn để gói bánh tét bao giờ!” Chị trả lời và mỉm cười thân thiện hơn.
“Gói bánh chưng hay gói bánh tét thứ nào khó hơn?” Tôi hỏi.
-“Em cũng chả biết nữa. Làm gì quen nấy anh ạ. Em chuyên gói bánh Tét nên thấy dễ hơn.”
Tôi đi quanh quẩn trong bếp nhìn các bà trong giáo xứ Lê Thị Thành hăng say vui vẻ gói bánh chưng bánh Tét cho hội chợ Tết mà cũng thấy vui lây. Ngày mai trở về Boston không biết ý nghĩ ăn Tết còn trong đầu mình nữa không!
Hơn ba mươi lần ăn Tết ở xứ người, thời gian đã xóa nhòa những nỗi xôn xao mong chờ. Tết quê người không như Tết quê nhà. Nơi tôi đang sinh sống, sân nhà còn ngập tuyết trắng. Cây xơ xác dưới bầu trời xam xám buồn vô độ. Các nhà thờ nhà chùa và hội đoàn người Việt vẫn tổ chức ăn Tết. Mỗi nơi cử hành những nghi lễ cổ truyền khác nhau. Mình cũng chẳng biết lễ Tết nào thật sự “truyền thống” và nghi lễ nào đã được “sáng chế” hay “cải biên” từ trí tưởng tượng của người tổ chức. Thế hệ đầu tiên của di dân Việt Nam đang già theo năm tháng. Những người Việt tha hương mang nặng trái tim Việt Nam đang dần dà dẫn nhau về cõi thiên thu. Những thế hệ trẻ chỉ bập bẹ hay không nói được tiếng Việt sẽ ăn Tết ra sao? Con gái tôi sau này lớn lên sẽ ăn Tết ra sao?
(Tản mạn trên một chuyến đi xa cuối năm, tháng Giêng 2009)
Tài Liệu - Sưu Khảo
Năm Mới nói chuyện: niên đại, ngày và đêm
Jos. Tú Nạc, NMS
08:45 12/02/2010
Niên Đại
Mỗi năm đều có một con số. Để nói về niên đại (dates) của một sự việc xảy ra, chúng ta đưa ra con số của năm đó. Chẳng hạn khi chúng ta nói rằng Kha Luân Bố đã tìm ra Mỹ châu năm 1492.
Các năm đã được tính số từ năm được giả định là năm mà Chúa Giê-su giáng sinh. Để tính những niên đại xảy ra trước đó, chúng ta đếm ngược lại từ năm thứ nhất. Đoạn chúng ta đặt chữ B.C sau số chỉ năm. “B.C” có nghĩa là “trước Chúa Giê-su/ before Christ”. Những ngày tháng xảy ra sau sinh nhật Chúa Giê-su đôi khi có chữ A.D (sau Chúa giáng sinh / anno Domini) trước con số đó.
Năm thứ nhất sau Chúa giáng sinh thật ra không phải là năm Chúa Giê-su được sinh ra. Một sự nhầm lẫn đã xảy ra. Chúa Giê-su sinh ra trước đó ít nhất là bốn năm. Nhưng khi sai lầm này được phát hiện, nó đã quá muộn cho việc thay đổi lịch. Cách tính năm mãi đến vài trăm năm sau cuộc tử nạn của Chúa Giê-su mới được bắt đầu. Trước đó có những cách khác để tính năm tháng.
Những người La Mã đã tính năm của họ từ ngày sáng lập thành Rome. Những người Hy Lạp tính năm của họ từ ngày Đại hội thể thao Olympic lần thứ nhất.
Vào thời kỳ xa xưa hơn nữa, những năm thường được đặt tên thay vì đánh số. Một phương án nữa là cách tính năm theo triều đại của người trị vì. Trong Kinh Thánh, một niên đại là “vào năm thứ nhất của Cyrus, Vua Ba Tư.” “Vào năm thứ tư của triều đại Salomon xứ Israel” cũng là một niên đại Kinh Thánh. Làm thế nào chúng ta có thể biết một cách tường tận những danh sách của những nhà cai trị nếu chúng ta giờ đây có những niên đại như thế này!
Ngày và Đêm
Từ “ngày/ day” có hai nghĩa. Khi chúng ta nói về số ngày trong một năm chúng ta dùng “ngày/ day” với nghĩa 24 giờ. Nhưng khi chúng ta nó về ngày đêm chúng ta dùng “ngày/ day” với nghĩa thời gian giữa lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn – tức thời gian khi mà mặt trời ở phía trên chân trời.
Vì trái đất có hình dáng như một quả bóng, nên mặt trời chỉ có thể chiếu sáng cùng lúc trên một nửa của nó. Luôn luôn một nửa của trái đất là ngày (day) và môt nửa là đêm (night). Một nơi được chuyển từ ngày sang đêm và từ đêm tới ngày lặp đi lặp lại do sự quay tròn của trái đất.
Tại vùng xích đạo, ngày và đêm luôn dài bằng nhau. Chúng kéo dài 12 giờ cho ban ngày và ban đêm. Mặt trời mọc vào lúc 6 giờ sáng và lặn vào lúc 6 giờ chiều.
Vào hai ngày hàng năm – khoảng 20 tháng Ba và 23 tháng Chín – trên khắp trái đất ngày và đêm thời gian dài bằng nhau. Ngày và đêm của trái đất luôn luôn dài bằng nhau ở bất cứ nơi nào nếu nó khgong6 vì độ nghiêng của trái đất khi nó quay tròn. Sáu tháng Bắc Cực nghiêng về phía mặt trời. Trong những tháng này, bắc bán cầu nhận nhiều giờ ánh sáng hơn nam bán cầu. Ngày dài hơn đêm. Phía nam xích đạo đêm dài hơn ngày.
Sáu tháng còn lại, Bắc Cực bị lệch khác hướng mặt trời. Do đó phía nam bán cầu nhận ánh sáng nhiều hơn. Ngày dài hơn đêm. Mọi nơi, mùa thu và mùa đông là những mùa của đêm dài. Mùa xuân và mùa hạ là những mùa của ngày dài.
Mặc dù suốt mùa xuân và mùa hạ ngày dài hơn đêm. Tất cả chúng không có độ dài như nhau. Ở Nữu Ước, cũng như trên toàn trên đất, ngày đầu tiên của mùa xuân là ngày kéo dài 12 giờ. Ngày càng kéo dài cho đến ngày 21 tháng Sáu. Vào ngày này, thời gian kéo dài khoảng 15 giờ giữa mặt trời mọc và mặt trời lặn.
Xa hơn về phương bắc ngày càng dài hơn, ngày dài nhất là ở đây. Phía bắc của Bắc cực, trong “vùng đất của mặt trời nửa đêm” có những ngày hoặc những tuần hoặc thậm chí những tháng, mặt trời không bao giờ lặn cả. Bắc cực suốt sáu tháng liên tục là ngày.
Câu chuyện về mùa thu và mùa đông hoàn toàn đối nghịch với mùa xuân và mùa hạ. Bắc cực trong những tháng này có đêm liên tục. Dĩ nhiên mặt trời sau đó chiếu sáng trên Nam Cực 24 trên 24 giờ. Vào ngày Giáng Sinh Quito, thủ đô Ecuador, nơi mà phần lớn nằm ở vùng xích đạo, có 12 giờ ban ngày. Melbourne, Úc Đại Lợi, có 15 giờ. Ở Hammerfest, Na Uy, mặt trời không xuất hiện suốt cả ngày. Vào ngày thứ tư của tháng Bảy ngoại trừ đối với Quito thì sự kiện hoàn toàn khác. Melbourne chỉ có 9 giờ ban ngày. Còn Hammerfest không hề có đêm.
Thời gian trên hành tinh của chúng ta là như thế. Có niên đại, có ngày và có đêm. Và hôm nay, chúng ta nhộn nhịp đón xuân về. Lại một năm mới.
(Nguồn: “Dates, Day and Night” – the Golden Book Encyclopedia – New York)
Mỗi năm đều có một con số. Để nói về niên đại (dates) của một sự việc xảy ra, chúng ta đưa ra con số của năm đó. Chẳng hạn khi chúng ta nói rằng Kha Luân Bố đã tìm ra Mỹ châu năm 1492.
Các năm đã được tính số từ năm được giả định là năm mà Chúa Giê-su giáng sinh. Để tính những niên đại xảy ra trước đó, chúng ta đếm ngược lại từ năm thứ nhất. Đoạn chúng ta đặt chữ B.C sau số chỉ năm. “B.C” có nghĩa là “trước Chúa Giê-su/ before Christ”. Những ngày tháng xảy ra sau sinh nhật Chúa Giê-su đôi khi có chữ A.D (sau Chúa giáng sinh / anno Domini) trước con số đó.
Năm thứ nhất sau Chúa giáng sinh thật ra không phải là năm Chúa Giê-su được sinh ra. Một sự nhầm lẫn đã xảy ra. Chúa Giê-su sinh ra trước đó ít nhất là bốn năm. Nhưng khi sai lầm này được phát hiện, nó đã quá muộn cho việc thay đổi lịch. Cách tính năm mãi đến vài trăm năm sau cuộc tử nạn của Chúa Giê-su mới được bắt đầu. Trước đó có những cách khác để tính năm tháng.
Những người La Mã đã tính năm của họ từ ngày sáng lập thành Rome. Những người Hy Lạp tính năm của họ từ ngày Đại hội thể thao Olympic lần thứ nhất.
Vào thời kỳ xa xưa hơn nữa, những năm thường được đặt tên thay vì đánh số. Một phương án nữa là cách tính năm theo triều đại của người trị vì. Trong Kinh Thánh, một niên đại là “vào năm thứ nhất của Cyrus, Vua Ba Tư.” “Vào năm thứ tư của triều đại Salomon xứ Israel” cũng là một niên đại Kinh Thánh. Làm thế nào chúng ta có thể biết một cách tường tận những danh sách của những nhà cai trị nếu chúng ta giờ đây có những niên đại như thế này!
Ngày và Đêm
Từ “ngày/ day” có hai nghĩa. Khi chúng ta nói về số ngày trong một năm chúng ta dùng “ngày/ day” với nghĩa 24 giờ. Nhưng khi chúng ta nó về ngày đêm chúng ta dùng “ngày/ day” với nghĩa thời gian giữa lúc mặt trời mọc đến lúc mặt trời lặn – tức thời gian khi mà mặt trời ở phía trên chân trời.
Vì trái đất có hình dáng như một quả bóng, nên mặt trời chỉ có thể chiếu sáng cùng lúc trên một nửa của nó. Luôn luôn một nửa của trái đất là ngày (day) và môt nửa là đêm (night). Một nơi được chuyển từ ngày sang đêm và từ đêm tới ngày lặp đi lặp lại do sự quay tròn của trái đất.
Tại vùng xích đạo, ngày và đêm luôn dài bằng nhau. Chúng kéo dài 12 giờ cho ban ngày và ban đêm. Mặt trời mọc vào lúc 6 giờ sáng và lặn vào lúc 6 giờ chiều.
Vào hai ngày hàng năm – khoảng 20 tháng Ba và 23 tháng Chín – trên khắp trái đất ngày và đêm thời gian dài bằng nhau. Ngày và đêm của trái đất luôn luôn dài bằng nhau ở bất cứ nơi nào nếu nó khgong6 vì độ nghiêng của trái đất khi nó quay tròn. Sáu tháng Bắc Cực nghiêng về phía mặt trời. Trong những tháng này, bắc bán cầu nhận nhiều giờ ánh sáng hơn nam bán cầu. Ngày dài hơn đêm. Phía nam xích đạo đêm dài hơn ngày.
Sáu tháng còn lại, Bắc Cực bị lệch khác hướng mặt trời. Do đó phía nam bán cầu nhận ánh sáng nhiều hơn. Ngày dài hơn đêm. Mọi nơi, mùa thu và mùa đông là những mùa của đêm dài. Mùa xuân và mùa hạ là những mùa của ngày dài.
Mặc dù suốt mùa xuân và mùa hạ ngày dài hơn đêm. Tất cả chúng không có độ dài như nhau. Ở Nữu Ước, cũng như trên toàn trên đất, ngày đầu tiên của mùa xuân là ngày kéo dài 12 giờ. Ngày càng kéo dài cho đến ngày 21 tháng Sáu. Vào ngày này, thời gian kéo dài khoảng 15 giờ giữa mặt trời mọc và mặt trời lặn.
Xa hơn về phương bắc ngày càng dài hơn, ngày dài nhất là ở đây. Phía bắc của Bắc cực, trong “vùng đất của mặt trời nửa đêm” có những ngày hoặc những tuần hoặc thậm chí những tháng, mặt trời không bao giờ lặn cả. Bắc cực suốt sáu tháng liên tục là ngày.
Câu chuyện về mùa thu và mùa đông hoàn toàn đối nghịch với mùa xuân và mùa hạ. Bắc cực trong những tháng này có đêm liên tục. Dĩ nhiên mặt trời sau đó chiếu sáng trên Nam Cực 24 trên 24 giờ. Vào ngày Giáng Sinh Quito, thủ đô Ecuador, nơi mà phần lớn nằm ở vùng xích đạo, có 12 giờ ban ngày. Melbourne, Úc Đại Lợi, có 15 giờ. Ở Hammerfest, Na Uy, mặt trời không xuất hiện suốt cả ngày. Vào ngày thứ tư của tháng Bảy ngoại trừ đối với Quito thì sự kiện hoàn toàn khác. Melbourne chỉ có 9 giờ ban ngày. Còn Hammerfest không hề có đêm.
Thời gian trên hành tinh của chúng ta là như thế. Có niên đại, có ngày và có đêm. Và hôm nay, chúng ta nhộn nhịp đón xuân về. Lại một năm mới.
(Nguồn: “Dates, Day and Night” – the Golden Book Encyclopedia – New York)
Nhân ngày Tết trùng vào ngày Valentine. Nói về cổ tích thánh Valentine
Trần Mạnh Trác
13:26 12/02/2010
(theo Kristen Moulton, The Salt Lake Tribune)
Thánh Valentine, trên phương diện pháp lý, không phải là một vị thánh.
Bởi vì có quá ít bút tích viết về nhân vật có tên là Valentinus này, ông là một linh mục hay giám mục gì đó sống trong thế kỷ thứ Ba, và một thời được coi là thánh bảo trợ của những người yêu nhau.
Trong thế kỷ 20 vừa qua, khi Giáo hội Công giáo La Mã chính thức hoá các điều kiện phong thánh, thánh Valentine đã bị đưa ra khỏi danh sách các vị thánh vì thiếu bằng chứng bằng văn bản.
Tuy nhiên, một số ít văn bản và nhiều câu chuyện truyền miệng cho biết rằng Valentine là một giám mục hay linh mục dưới triều hoàng đế La Mã Claudius II vào thế kỷ thứ ba.
Claudius, nổi tiếng là người bách hại Kitô hữu, lúc đó đang cố gắng xây dựng một quân đội nên ra lệnh cấm kết hôn vì ông ta muốn những thanh niên trở thành những chiến sĩ không bị ràng buộc.
Truyền thuyết cho rằng nhiều cặp vợ chồng trẻ La Mã đã bí mật tìm Valentine để kết hôn và để tránh bị động viên. Khi bị khám phá ra, ông đã bị chặt đầu.
Một truyền thuyết khác, theo The Catholic Encyclopedia, thì Valentine đã chữa lành cô con gái mù cuả viên cai tù và vào đêm trước ngày bị hành hình, ông đã viết một lời chia tay với cô, ký tên "Từ Valentine của em." ("From your Valentine.")
”Dù là ai chăng nữa, thì nhân vật Valentine vẫn có thật bởi vì mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được một hầm mộ La Mã có ghi tên ông và một nhà thờ kính thánh Valentine. “
"Năm 496 AD, Đức Giáo hoàng Gelasius đã định ngày 14 tháng 2 để kính vị thánh tử đạo này."
Có thể ĐGH đã chọn ngày này vì đây là đêm áp lễ Lupercalia cuả Rome, là ngày lễ hội cho sự thanh tẩy và khả năng sinh sản.
Giáo hội lúc ban đầu thường dựa trên những ngày lễ ngoại giáo để cử hành các lễ nghi Kitô giáo, nhằm mục đích lôi kéo người dân.
Trong thời Trung Cổ sau này, ngày 14 tháng 2 đánh dấu sự khởi đầu cuả mùa giao phối của loài chim, lễ Valentine được phổ biến ở Pháp và Anh và thêm vào chút lãng mạn.
Tại Anh, ngày Valentine bắt đầu phổ biến từ đầu thế kỷ 17. Đến giữa thế kỷ 18, thơ hoặc thẻ viết tay đã được trao đổi giữa bạn bè và những người yêu. Thẻ in bắt đầu thông dụng đầu thế kỷ sau.
Vậy thì, trong khi ngày lễ vẫn mang tên một nhân vật Công Giáo, nó không còn là một ngày lễ tôn giáo.
Và, "Khi nhà thờ bỏ rơi ông Valentine, thì hãng Hallmark lại đưa ông ta lên."
Thánh Valentine, trên phương diện pháp lý, không phải là một vị thánh.
Bởi vì có quá ít bút tích viết về nhân vật có tên là Valentinus này, ông là một linh mục hay giám mục gì đó sống trong thế kỷ thứ Ba, và một thời được coi là thánh bảo trợ của những người yêu nhau.
Trong thế kỷ 20 vừa qua, khi Giáo hội Công giáo La Mã chính thức hoá các điều kiện phong thánh, thánh Valentine đã bị đưa ra khỏi danh sách các vị thánh vì thiếu bằng chứng bằng văn bản.
Tuy nhiên, một số ít văn bản và nhiều câu chuyện truyền miệng cho biết rằng Valentine là một giám mục hay linh mục dưới triều hoàng đế La Mã Claudius II vào thế kỷ thứ ba.
Claudius, nổi tiếng là người bách hại Kitô hữu, lúc đó đang cố gắng xây dựng một quân đội nên ra lệnh cấm kết hôn vì ông ta muốn những thanh niên trở thành những chiến sĩ không bị ràng buộc.
Truyền thuyết cho rằng nhiều cặp vợ chồng trẻ La Mã đã bí mật tìm Valentine để kết hôn và để tránh bị động viên. Khi bị khám phá ra, ông đã bị chặt đầu.
Một truyền thuyết khác, theo The Catholic Encyclopedia, thì Valentine đã chữa lành cô con gái mù cuả viên cai tù và vào đêm trước ngày bị hành hình, ông đã viết một lời chia tay với cô, ký tên "Từ Valentine của em." ("From your Valentine.")
”Dù là ai chăng nữa, thì nhân vật Valentine vẫn có thật bởi vì mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được một hầm mộ La Mã có ghi tên ông và một nhà thờ kính thánh Valentine. “
"Năm 496 AD, Đức Giáo hoàng Gelasius đã định ngày 14 tháng 2 để kính vị thánh tử đạo này."
Có thể ĐGH đã chọn ngày này vì đây là đêm áp lễ Lupercalia cuả Rome, là ngày lễ hội cho sự thanh tẩy và khả năng sinh sản.
Giáo hội lúc ban đầu thường dựa trên những ngày lễ ngoại giáo để cử hành các lễ nghi Kitô giáo, nhằm mục đích lôi kéo người dân.
Trong thời Trung Cổ sau này, ngày 14 tháng 2 đánh dấu sự khởi đầu cuả mùa giao phối của loài chim, lễ Valentine được phổ biến ở Pháp và Anh và thêm vào chút lãng mạn.
Tại Anh, ngày Valentine bắt đầu phổ biến từ đầu thế kỷ 17. Đến giữa thế kỷ 18, thơ hoặc thẻ viết tay đã được trao đổi giữa bạn bè và những người yêu. Thẻ in bắt đầu thông dụng đầu thế kỷ sau.
Vậy thì, trong khi ngày lễ vẫn mang tên một nhân vật Công Giáo, nó không còn là một ngày lễ tôn giáo.
Và, "Khi nhà thờ bỏ rơi ông Valentine, thì hãng Hallmark lại đưa ông ta lên."
Thông Báo
Lời Chúc Tết từ Adelaide của Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam Nam Úc
Đức Ông Phaolô Nguyễn Minh Tâm
06:52 12/02/2010
Lời Chúc Tết của VietCatholic từ thành phố Melbourne Australia
Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng
07:01 12/02/2010
Lời Chúc Tết của Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam từ Sydney Australia
Lm Nhạc Sĩ Văn Chi
07:08 12/02/2010
TÂM THƯ CHÚC XUÂN CỦA LIÊN HIỆP TRUYỀN THÔNG CÔNG GIÁO VIỆT NAM.
Trọng Kính Đức Hồng Y, Quý Tổng Giám Mục, Quý Giám Mục, Quý Đức Ông, Quý Linh Mục, Quý Thầy Phó Tế và Quý Tu Sĩ Nam Nữ,
Kính thưa Quý Vị Lãnh Đạo Tinh Thần Quý Tôn Giáo,
Quý Vị Đại Diện các Phong Trào, Hội Đoàn, Đoàn Thể,
Kính Thưa Quý Tác Giả, Quý Cộng Tác Viên, Quý Khách viếng thăm Vietcatholic, Quý Cơ Quan Truyền Thông Công Giáo Việt Nam, và Quý Cơ Quan Truyền Thông thế giới.
Kính Thưa Quý vị Đồng Hương, Và Toàn Thể Anh Chị Em Công Giáo Việt Nam.
Trước Thềm năm mới Canh Dần năm 2010, Đại Diện Anh Chị Em trong Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam, chúng con xin kính chúc Quý Vị một năm mới khang an, thịnh vượng, hạnh phúc, thành công, và tràn đầy hồng ân của Chúa Xuân Canh Dần.
Mùa Xuân mang đến nhiều ý nghĩa linh thiêng và cao quý của dân tộc Việt Nam với tâm tình tạ ơn Trời Đất, với tấm lòng biết ơn Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, những người đã sinh thành dưỡng dục, với tâm tình nhớ ơn Quý Tiền Nhân anh dũng, và đồng thời, với tấm lòng yêu thương gắn bó cùng nhau trong máu đỏ da vàng từ khắp năm châu bốn bể trong tâm tình hiệp thông chia sẻ.
Nhân dịp này, chúng con cũng xin chân thành cám ơn tất cả quý vị, đã cầu nguyện, yêu thương nâng đỡ và đồng hành với Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam chúng con trong suốt năm vừa qua, để cùng nhau xây dựng một cộng đồng Việt Nam Công Giáo tốt đẹp trong yêu thương đoàn kết và gắn bó, đồng thời, tích cực cầu nguyện và hiệp thông với Giáo Hội Mẹ Việt Nam trong những hoàn cảnh cụ thể đặc biệt.
Chúng con tha thiết kính mong quý vị tiếp tục nâng đỡ, đồng hành, và đóng góp bài vở cũng như cầu nguyện cho chúng con.
Chúng con nguyện xin Chúa của Mùa Xuân Canh Dần và Mẹ Maria dịu hiền ban muôn hồng phúc trên toàn thể quý vị trong Năm Mới Canh Dần này.
Một lần nữa, chúng con hân hoan và trân trọng chúc mừng Năm Mới Canh Dần 2010 với tràn đầy hồng ân và hạnh phúc.
Cung Chúc Tân Xuân.
Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam.
Trọng Kính Đức Hồng Y, Quý Tổng Giám Mục, Quý Giám Mục, Quý Đức Ông, Quý Linh Mục, Quý Thầy Phó Tế và Quý Tu Sĩ Nam Nữ,
Kính thưa Quý Vị Lãnh Đạo Tinh Thần Quý Tôn Giáo,
Quý Vị Đại Diện các Phong Trào, Hội Đoàn, Đoàn Thể,
Kính Thưa Quý Tác Giả, Quý Cộng Tác Viên, Quý Khách viếng thăm Vietcatholic, Quý Cơ Quan Truyền Thông Công Giáo Việt Nam, và Quý Cơ Quan Truyền Thông thế giới.
Kính Thưa Quý vị Đồng Hương, Và Toàn Thể Anh Chị Em Công Giáo Việt Nam.
Trước Thềm năm mới Canh Dần năm 2010, Đại Diện Anh Chị Em trong Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam, chúng con xin kính chúc Quý Vị một năm mới khang an, thịnh vượng, hạnh phúc, thành công, và tràn đầy hồng ân của Chúa Xuân Canh Dần.
Mùa Xuân mang đến nhiều ý nghĩa linh thiêng và cao quý của dân tộc Việt Nam với tâm tình tạ ơn Trời Đất, với tấm lòng biết ơn Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ, những người đã sinh thành dưỡng dục, với tâm tình nhớ ơn Quý Tiền Nhân anh dũng, và đồng thời, với tấm lòng yêu thương gắn bó cùng nhau trong máu đỏ da vàng từ khắp năm châu bốn bể trong tâm tình hiệp thông chia sẻ.
Nhân dịp này, chúng con cũng xin chân thành cám ơn tất cả quý vị, đã cầu nguyện, yêu thương nâng đỡ và đồng hành với Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam chúng con trong suốt năm vừa qua, để cùng nhau xây dựng một cộng đồng Việt Nam Công Giáo tốt đẹp trong yêu thương đoàn kết và gắn bó, đồng thời, tích cực cầu nguyện và hiệp thông với Giáo Hội Mẹ Việt Nam trong những hoàn cảnh cụ thể đặc biệt.
Chúng con tha thiết kính mong quý vị tiếp tục nâng đỡ, đồng hành, và đóng góp bài vở cũng như cầu nguyện cho chúng con.
Chúng con nguyện xin Chúa của Mùa Xuân Canh Dần và Mẹ Maria dịu hiền ban muôn hồng phúc trên toàn thể quý vị trong Năm Mới Canh Dần này.
Một lần nữa, chúng con hân hoan và trân trọng chúc mừng Năm Mới Canh Dần 2010 với tràn đầy hồng ân và hạnh phúc.
Cung Chúc Tân Xuân.
Liên Hiệp Truyền Thông Công Giáo Việt Nam.
Phân Ưu: Nữ tu Ixave Solange Huỳnh Thi Thu Ba vừa tạ thế tại Quy Nhơn
Trần Thanh Việt
08:06 12/02/2010
Chúng tôi được tin:
Sơ Ixave Solange Huỳnh Thi Thu Ba
một sơ lớn tuồi nhất của Dòng Mến Thánh Giá Quy Nhơn
vừa qua đời lúc 10 giờ sáng ngày 12/2 (29 Tết) giờ VN tại Quy Nhơn
hưởng thọ 100 tuổi.
Lễ an táng sẽ được cữ hành vào ngày mai 13/2 (30 tết)
tại Nhà Dưỡng Lão Dòng Mến Thánh Gia Quy Nhơn
64 Hàn Mạc Tử Gềnh Ráng Quy Nhơn.
Xin cùng góp lời cầu nguyện cho linh hồn Ixave Huỳnh Thi Thu Ba
được mau hưởng danh thánh Chúa trên Thiên Đàng
Văn Hóa
Đã đến lúc người Việt nam cần nhìn lại Văn hóa của chúng ta
Đinh Phúc
11:23 12/02/2010
Chẳng cần phải giới thiệu thì anh em cũng biết tôi là người Việt nam. Nhưng thiết tưởng cũng nên nói ngay rằng tôi là một người Công Giáo Việt Nam. Đọc những bài viết về quê hương, ở trong mọi mặt báo, tôi có được nhiều niềm vui, và cũng không thiếu những nỗi buồn, cộng thêm những lo lắng cho tương lai. Chính vì thế, tôi đã chọn tự đề cho suy nghĩ nhỏ này của mình là đã đến lúc người Viêt nam chúng ta cần nhìn lại văn hóa của mình. Lý do, vì chính nơi đây mình đã được sinh ra. Và cũng chính nơi đây tôi làm một người Việt nam. Được nuôi dưỡng, lớn lên, với những giá trị riêng và đặc biệt của người Việt. Kinh nghiệm học đường, lịch sử và qua giao tiếp dạy tôi một điều này là những con người đã làm rạng danh cái non nước Việt, là những người yêu mến và đắm chìm trong cái văn hóa Việt của chúng ta. Nó cũng cho chúng ta thấy rằng những kẻ đã làm nhục non sông Việt và tương lai Việt, là những kẻ đã hủy hoại cái giá trị Việt của chúng ta. Bằng chứng thì kể sao cho siết. Mở mặt báo nào mà chúng ta chẳng bị bội thực với những Tin Tức sống động này.
Tôi muốn chia sẻ ở đây cái suy nghĩ của tôi về Vấn Nạn Thánh Giá Đồng Chiêm. Đã có nhiều rồi những tâm tư của những tâm hồn Việt được phô bày và diễn tả. Ở đây tôi chỉ nhìn về khía cạnh văn hóa Việt của chúng ta.
Nhìn trên phương diện quốc gia Việt, tôi thấy việc đánh bom Thánh Giá là vấn đề vô đạo đức. Người nào ra lệnh hoặc thi hành việc này, vì bất cứ lý do gì, thì không xứng đáng làm một người Việt nam. Vì lẽ, cái đạo đức căn bản nhất của Việt ta là sự tôn trọng lẫn nhau. Nên nhớ rằng đấy là cái lý do tại sao ông tổ của chúng ta lại là người ngư phủ (Lạc Long Quân) và bà cố tổ của chúng ta lại là cô Sơn Tiên (bà Âu Cơ). Vì thế dù khác biệt về văn hóa, tín ngưỡng, địa dư… chúng ta vẫn gọi nhau là Đồng Bào. Ngay từ khi lọt lòng mẹ, chẳng phải chúng ta đã được dạy điều đó. Tôi muốn nói rằng, giả như mà những người xúc phạm Đồng Bào, tín ngưỡng, không có cha đẻ đi nữa, thì cũng được mẹ ưu ái dạy những điều tối căn bản Việt này ngay từ ấu thơ. Rồi lớn nên, lại được dạy ở học đường. Thế thì những người vô giáo dục, vô văn hóa, bất hiếu, phản quốc, quên ơn sinh thành dưỡng dục này, có đáng được gọi là Việt nữa không? Và nếu không đáng được gọi là Việt nữa, thì liệu rằng họ sẽ làm gì với cái mảnh đất đầy yêu thương này? Và họ sẽ để lại cái ảnh hưởng gì cho thế hệ sau đây? Tôi đọc cái bài về giáo dục đạo đức ở trên báo Vietnamexpress, nghĩ về vấn đề này, tôi thấy thương cho quôc gia Việt và cái thế hệ đàn em của tôi. Họ sẽ đi về đâu? Câu trả lời tôi để cho chính đương sự và các bạn.
Nhìn sâu hơn về khía cạnh văn hóa này tôi thấy đau. Vì lẽ, nó không chỉ những kẻ trực tiếp phản văn hóa Việt, phản Đạo Đức Việt, bất hiếu và dĩ nhiên phản quốc đã không tôn trọng Đồng Bào mình, đã xúc phạm đến biểu tượng của niềm tin là cốt lõi của cuộc sống làm người. Nhưng tôi thấy đau hơn nhiều, vì chẳng thấy những con người được gọi là lãnh đạo hướng dẫn quốc gia, Thầy dạy cũng không dám nói lên cái cốt lõi Đạo Đức Việt của mình. Chẳng lẽ cái văn hóa Đồng Bào, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau Việt của chúng ta đấy đã thực sự bị hủy hoại và không còn nữa? Nếu đúng là như thế, thì liệu rằng còn có nghĩa gì khi đặt vấn đề về giáo dục Đạo Đức tại trường học? Và nếu đúng như thế thì thử hỏi cái quốc gia yêu mến của chúng ta đây sẽ đi về đâu? Tương lai của các em nhỏ sẽ đi về đâu, khi mà chúng tôi đã phá hủy cái Văn Việt và Đức Việt của các em? Tôi không trách các em, vì chúng tôi có còn cái đó để trao lại đâu?
Chính vì thế, những chuyện động trời về xúc phạm nhân phẩm, văn hóa và tín ngưỡng không thể coi là chuyện cá nhân, địa phương, tôn giáo… Nó là chuyện Việt của chúng ta, nó là cái Việt của chúng ta, và nó là gia sản thiêng liêng độc đáo Việt của chúng ta. Vì thế tôi không nghĩ rằng, vì bất cứ lý do gì, những nhà lãnh đạo lại không xem xét, không nên tiếng, ngoại trừ chính những con người đó cũng không còn cái Việt là Đồng Bào!
Nói về điều này nó sẽ gây khó chịu hơn khi mà cái cốt lõi văn hóa Việt cũng là tôn giáo Việt. Nếu tôi nhớ không lầm, thì cái bản chất Việt của chúng ta là làm tội gì mấy cũng có thể tha thứ, nhưng đừng bao giờ đụng đến nơi thờ tự, vật thờ tự, nơi thánh thiêng… đền, miếu, chùa chiền, nhà nguyện, nhà thờ... Lý do, bởi vì những thứ đó không chỉ là biểu tượng của tôn giáo, mà còn là chính “Thần và Thánh,” cái làm cho chúng ta sống, vì điều đó mà chúng ta sống cho ra người. Và thế thì có lẽ càng đau long hơn khi mà chúng ta, vì lý do này nọ, không dám nói lên lập trường Việt của chúng ta. Rất có thể không chỉ cái văn hóa Việt, mà còn cái Tôn Giáo Việt cũng chỉ còn là một đồ trang sức.
Nhìn trong nhãn quan rất Việt này, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta phải thẳng thắn ngồi lại và nhìn lại cái Việt của chúng ta. Và có thể nói rằng để bảo vệ cho cái Việt này, dù chúng ta co thể mất tất cả, chúng ta vẫn phải làm. Vì lẽ, đây là cái mà tương lai Đất Việt sẽ tồn tại hay đi vào quên lãng. Là cái mà thế hệ tiếp sau sẽ được hưởng nhờ, sẽ còn là Việt hay không. Đây chỉ là một suy tư nhỏ của cá nhân tôi, vì thế nếu nó nói được điều gì, tôi xin cám ơn. Còn nếu nó gây hại điều gì, cho tôi sự chỉ bảo và tha thứ. Một điều rất chân thành là tôi muốn nói lên cái Việt của chúng ta.
Tôi muốn chia sẻ ở đây cái suy nghĩ của tôi về Vấn Nạn Thánh Giá Đồng Chiêm. Đã có nhiều rồi những tâm tư của những tâm hồn Việt được phô bày và diễn tả. Ở đây tôi chỉ nhìn về khía cạnh văn hóa Việt của chúng ta.
Nhìn trên phương diện quốc gia Việt, tôi thấy việc đánh bom Thánh Giá là vấn đề vô đạo đức. Người nào ra lệnh hoặc thi hành việc này, vì bất cứ lý do gì, thì không xứng đáng làm một người Việt nam. Vì lẽ, cái đạo đức căn bản nhất của Việt ta là sự tôn trọng lẫn nhau. Nên nhớ rằng đấy là cái lý do tại sao ông tổ của chúng ta lại là người ngư phủ (Lạc Long Quân) và bà cố tổ của chúng ta lại là cô Sơn Tiên (bà Âu Cơ). Vì thế dù khác biệt về văn hóa, tín ngưỡng, địa dư… chúng ta vẫn gọi nhau là Đồng Bào. Ngay từ khi lọt lòng mẹ, chẳng phải chúng ta đã được dạy điều đó. Tôi muốn nói rằng, giả như mà những người xúc phạm Đồng Bào, tín ngưỡng, không có cha đẻ đi nữa, thì cũng được mẹ ưu ái dạy những điều tối căn bản Việt này ngay từ ấu thơ. Rồi lớn nên, lại được dạy ở học đường. Thế thì những người vô giáo dục, vô văn hóa, bất hiếu, phản quốc, quên ơn sinh thành dưỡng dục này, có đáng được gọi là Việt nữa không? Và nếu không đáng được gọi là Việt nữa, thì liệu rằng họ sẽ làm gì với cái mảnh đất đầy yêu thương này? Và họ sẽ để lại cái ảnh hưởng gì cho thế hệ sau đây? Tôi đọc cái bài về giáo dục đạo đức ở trên báo Vietnamexpress, nghĩ về vấn đề này, tôi thấy thương cho quôc gia Việt và cái thế hệ đàn em của tôi. Họ sẽ đi về đâu? Câu trả lời tôi để cho chính đương sự và các bạn.
Nhìn sâu hơn về khía cạnh văn hóa này tôi thấy đau. Vì lẽ, nó không chỉ những kẻ trực tiếp phản văn hóa Việt, phản Đạo Đức Việt, bất hiếu và dĩ nhiên phản quốc đã không tôn trọng Đồng Bào mình, đã xúc phạm đến biểu tượng của niềm tin là cốt lõi của cuộc sống làm người. Nhưng tôi thấy đau hơn nhiều, vì chẳng thấy những con người được gọi là lãnh đạo hướng dẫn quốc gia, Thầy dạy cũng không dám nói lên cái cốt lõi Đạo Đức Việt của mình. Chẳng lẽ cái văn hóa Đồng Bào, yêu thương, tôn trọng lẫn nhau Việt của chúng ta đấy đã thực sự bị hủy hoại và không còn nữa? Nếu đúng là như thế, thì liệu rằng còn có nghĩa gì khi đặt vấn đề về giáo dục Đạo Đức tại trường học? Và nếu đúng như thế thì thử hỏi cái quốc gia yêu mến của chúng ta đây sẽ đi về đâu? Tương lai của các em nhỏ sẽ đi về đâu, khi mà chúng tôi đã phá hủy cái Văn Việt và Đức Việt của các em? Tôi không trách các em, vì chúng tôi có còn cái đó để trao lại đâu?
Chính vì thế, những chuyện động trời về xúc phạm nhân phẩm, văn hóa và tín ngưỡng không thể coi là chuyện cá nhân, địa phương, tôn giáo… Nó là chuyện Việt của chúng ta, nó là cái Việt của chúng ta, và nó là gia sản thiêng liêng độc đáo Việt của chúng ta. Vì thế tôi không nghĩ rằng, vì bất cứ lý do gì, những nhà lãnh đạo lại không xem xét, không nên tiếng, ngoại trừ chính những con người đó cũng không còn cái Việt là Đồng Bào!
Nói về điều này nó sẽ gây khó chịu hơn khi mà cái cốt lõi văn hóa Việt cũng là tôn giáo Việt. Nếu tôi nhớ không lầm, thì cái bản chất Việt của chúng ta là làm tội gì mấy cũng có thể tha thứ, nhưng đừng bao giờ đụng đến nơi thờ tự, vật thờ tự, nơi thánh thiêng… đền, miếu, chùa chiền, nhà nguyện, nhà thờ... Lý do, bởi vì những thứ đó không chỉ là biểu tượng của tôn giáo, mà còn là chính “Thần và Thánh,” cái làm cho chúng ta sống, vì điều đó mà chúng ta sống cho ra người. Và thế thì có lẽ càng đau long hơn khi mà chúng ta, vì lý do này nọ, không dám nói lên lập trường Việt của chúng ta. Rất có thể không chỉ cái văn hóa Việt, mà còn cái Tôn Giáo Việt cũng chỉ còn là một đồ trang sức.
Nhìn trong nhãn quan rất Việt này, tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta phải thẳng thắn ngồi lại và nhìn lại cái Việt của chúng ta. Và có thể nói rằng để bảo vệ cho cái Việt này, dù chúng ta co thể mất tất cả, chúng ta vẫn phải làm. Vì lẽ, đây là cái mà tương lai Đất Việt sẽ tồn tại hay đi vào quên lãng. Là cái mà thế hệ tiếp sau sẽ được hưởng nhờ, sẽ còn là Việt hay không. Đây chỉ là một suy tư nhỏ của cá nhân tôi, vì thế nếu nó nói được điều gì, tôi xin cám ơn. Còn nếu nó gây hại điều gì, cho tôi sự chỉ bảo và tha thứ. Một điều rất chân thành là tôi muốn nói lên cái Việt của chúng ta.
Ngày Tết nhớ Mẹ
Trương Phú Thứ
20:36 12/02/2010
Lúc tôi “gõ” những dòng chữ này thì nơi quê nhà chắc u tôi đang thẫn thờ nhìn thiên hạ tất bật đón tết. U tôi tươi cười thong dong đi tới ngày sinh nhật thứ một trăm. Ngày xưa giấy tờ hộ tịch không được rõ ràng và chính xác nhưng theo bà em út của u tôi thì đến tết Tân Mão u tôi sẽ được một trăm tuổi. Cõi nhân sinh có mấy ai sống đến tuổi trăm. Mấy năm nay, u tôi bị lẫn nhiều. Đầu óc gần như không còn hoạt động gì nữa nhưng sức khỏe cũng không có gì đáng quan ngại. U tôi có nhiều năm sống ở Mỹ. Gặp những người từ Mỹ về đến thăm, u tôi luôn hỏi thăm ông Lin-Tân có khỏe không. Cựu Tổng Thống Clinton mà biết chuyện thì chắc là cảm động lắm. Những chuyện bốn năm chục năm về trước, u tôi nhớ đến từng chi tiết. Chuyện gì mới xẩy ra ngày hôm nay hoặc cách vài ba năm thì lại quên, chẳng biết đâu vào đâu. U tôi vẫn đi lại ăn uống bình thường và không hề phải dùng bất cứ loại thuốc men gì. Mỗi ngày u tôi còn nhai nát mấy quả cau. Lúc nào u tôi cũng cười, môi đỏ tươi, chuyện trò rôm rả, “Cốt trầu đỏ thắm làn môi mẹ”. Ở vào tuổi của u tôi mà có được sức khoẻ như vậy cũng hiếm lắm. Ông chú tôi cứ nói đùa "ngày trước, mỗi lần sinh các anh chị thì bác uống đến mấy chục bát nước đái nên bây giờ mới được như vậy". Cách đây có đến hơn mười năm, ông Thủ Tướng Ấn Ðộ khuyên dân chúng mỗi ngày nên uống lấy một bát nước đái. Bản thân ông ngày nào cũng đái vào cái ly rồi uống chính nước đái của ông. Chắc là ông Thủ Tướng phải kinh qua những kinh nghiệm bản thân cũng như có nhiều dữ kiện chắc chắn nên mới khuyên bảo dân chúng như vậy.
Cả cuộc đời của u tôi là một chuỗi ngày vất vả khó nhọc. Đến tuổi già cũng được an nhàn, các con cháu hết lòng phụng dưỡng nên u tôi cũng phần nào được an ủi và yên lòng. Trải qua bao nhiêu cay đắng nhục nhằn của cuộc đời, u tôi vẫn luôn vui vẻ chịu đựng và phó thác tất cả trong sự quan phòng của Thiên Chúa. U tôi ngoan đạo lắm, ngày nào cũng đi nhà thờ vài ba lần. Trong nhà lúc nào cũng rầm rì câu kinh nguyện, buổi sáng lúc vừa thức dậy, buổi tối trước khi đi ngủ. U tôi thuộc nhiều bài hát đạo, thỉnh thoảng cất tiếng hát một mình rất nhỏ nhẹ và cung kính. Thời con gái u tôi cũng đã là một ca viên trong hội hát của nhà thờ. Tiếng hát xuân thì của u tôi chắc phải mượt mà như giải luạ dưới nắng Xuân, phải tinh khôi trong suốt như khối thủy tinh trong nắng Hè.
Năm mới đến với những ngày Tết vui tươi rộn ràng. Người giầu có Tết của người lắm tiền nhiều của với cỗ bàn đủ món, quần áo luạ là đủ bộ. Người nghèo manh áo vá che thân, ngày đầu năm dè dặt đụng đũa miếng thịt gọi là hơi hướm Tết Nhất. Nhưng giầu hay nghèo thì ai cũng hy vọng, cũng mơ ước vào ngày tháng trong năm mới được khoẻ mạnh hơn, may mắn hơn, cơm no hơn và áo ấm hơn.
Những ngày Tết năm xưa đang chạy nhẩy trong tôi, quê hương mến thương xa đến nửa vòng trái đất và lại không được ngồi bên cạnh người mẹ yêu qúy trong giây phút giao hoà của Trời Đất. Quang cảnh chợ Tết và bao nhiêu niềm vui của ngày Tết lúc tôi mới lên năm tuổi đang lao xao chạy nhẩy trên chuyến xe u tôi cõng tôi đưa về miền dĩ vãng. U tôi dắt tay tôi đi chợ Tết, tay kia xách một cái bị cói. Hôm nay u tôi diện đẹp lắm. Khăn nhung quần lĩnh, áo len mầu đỏ thẫm, lưng thắt ruột tượng mầu xanh da trời buông thõng bên hông. Chiếc nón lá treo lững lờ trên lưng. Đường đê dưới cơn mưa phùn ở miền Bắc chỉ hơi ẩm ướt. U tôi rón rén bước đi nhẹ nhàng dưới làn nước mờ sương của buổi sớm mai lúc Trời Đất chuyển mình bước sang Xuân. Tiếng người gọi nhau nói cười rộn rã, ai cũng hớn hở chờ đón những ngày tháng tràn đầy phúc lộc và thật nhiều may mắn trong năm mới. Con đê đến chợ huyện tràn ngập những xôn xao rộn ràng của một mùa Xuân mới. Tết đến ai cũng xuôi ngược mua bán sắm sửa cho có chút hương vị của những ngày đầu năm.
Đến chợ Huyện, u tôi mua cho tôi hai cái bánh rán. Chiếc bánh rán tròn như quả quít, lớp mật bóng nhẫy dưới những hạt vừng óng ả vàng rộm. Nhân đậu xanh ngậy mùi đường mía thơm ngào ngạt. Tôi bám áo u tôi đi xem chợ, vừa ăn bánh vừa xem một ông già làm những con tò-he đủ mầu sắc với nhiều hình thù muông thú. Phiên chợ ngày Tết chắc hẳn phải nhiều người mua bán hơn những buổi chợ quanh năm. Người đi người đến ai cũng có vẻ vội vàng. Gặp những người trong làng, u tôi đều đứng lại chuyện trò một lúc. Chuyện mùa màng, chuyện sắm sửa những vật dụng và đồ ăn thức uống cho ba ngày Tết.
Chợ Tết ở nơi thôn dã nghèo nàn nhưng thật vui vẻ. Mọi người ai cũng muốn quên đi những khó nhọc vất vả trong năm, những buồn phiền lo lắng cũng được xếp lại một xó để có được một niềm vui sau những ngày dầm mưa giãi nắng ngoài đồng ruộng, “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Cô hàng xén cười tươi, áo nâu non quần lĩnh đen nhánh, cất lời chào hỏi mời mọc mua bán. Giọng chào hàng thật trong trẻo duyên dáng của cô hàng xén như cầm chân đám trai tráng ngẩn ngơ nhìn. Những chiếc bút máy bên một chồng vở còn thơm mùi giấy của cô hàng xén là một ước ao của tôi nhưng ước ao ấy chỉ là mộng mơ vào những ngày mới chập chững đánh vần tập đọc. Ông hàng thịt mặt mũi bóng nhẫy, tay dao tay thớt hò hét sai bảo vợ con. Thày u tôi đánh đụng với chú tôi con lợn gần một tạ, đủ thịt để làm giò nem ninh mọc trong suốt cả những ngày Tết kéo dài cho đến giữa tháng Giêng. U tôi đi ngang qua hàng thịt nhưng cũng đứng lại hỏi han xem giá cả ra sao. Cụ lang ngồi giữa hai bồ đựng thuốc Nam bắt mạch hốt thuốc, mùi thơm của những vị thuốc Bắc thoang thoảng trong cơn gió nhẹ. Ông thầy bói ngồi chồm hổm ngáp vặt chờ thân chủ, đôi kính đen như mờ mịt sau cây nhang đã gần tàn, hai cái chân gà khô khẳng khiu trong một cái đĩa đặt trên mặt tráp nhìn thật trơ trọi như vận may rủi của chính ông thầy. Chỗ ngồi của người bán rau quả chiếm gần nửa chợ. Những bó cải ngồng non xanh biếc bên cạnh rổ quýt vàng thẫm. Rau thơm rau mùi chẳng thiếu thứ nào. Mấy bà hàng rau khăn mỏ quạ kín đầu, bã trầu đỏ thắm cắn răng chuyện trò ầm ĩ. Mấy tiếng cãi nhau lọt thỏm vào tiếng nói tiếng cười hớn hở mừng Xuân đón Tết.
Đến gần trưa, u tôi dẫn tôi đến khu hàng quán ăn uống. Gánh phở, hàng thịt chó, hàng bán lòng lợn tiết canh và nhiều thức ăn uống khác. U tôi xà vào một gánh bún riêu có vẻ quen thuộc. Gọi là gánh bún riêu nhưng khi cô hàng dọn lên chiếc mẹt có một nắm rau chuối rau thơm thì hai bát “bún” lại là bánh đúc thái nhỏ. Gạch cua đồng nổi lềnh bềnh trên bát lấm tấm vàng. Nước canh cua ngọt lịm thơm ngai ngái mùi đất. Chắc là những con cua từ trong hang bò ra chưa kịp rũ sạch bùn đất đã bò vào nồi làm món ăn ngọt ngào thơm ngon cho người dân quê. Tôi cũng được ăn một bát to như bát của u tôi, húp cạn bát mà vẫn thòm thèm. Ăn xong cô hàng bún cho tôi một cái kẹo bột và mời u tôi miếng trầu. Chuyện trò qua lại với cô hàng bún một lúc rồi u tôi dẫn tôi sang chỗ bán đồ chơi cho trẻ con. U tôi mua cho tôi một con gà làm bằng đất. Con gà trống có cái mào đỏ chót và bộ lông vàng mượt. Trên lưng con gà có một cái ống còn thơm mùi tre. Tôi ưỡn ngực thổi hết hơi vào, con gà gáy vang trời. Thích quá! U tôi còn mua cho tôi bức tranh Tết vẽ một đám lợn con đang bú mẹ. Con lợn xề nằm lim dim mắt âu yếm đàn con. Năm nay tôi đã biết đọc biết viết nhưng đêm đến tôi vẫn rúc vào nách u tôi ngủ mê mệt. Hơi ấm của u tôi là bếp lửa mến yêu, dạt dào lòng mẹ bao bọc chở che.
Sắm sửa Tết cho tôi xong rồi, u tôi mới đến chỗ bán mật. Bà bán mật gặp khách hàng quen cầm tay u tôi mời chào rối rít. U tôi lấy trong bị cói ra một cái lọ sành mua đầy mật rồi cũng mua một lọ chè Tầu và vài loại mứt cho ngày Tết. Đến hàng bán vải vóc thì u tôi mới thực sự bận rộn so sánh hàng tốt xấu và giá cả cho khỏi bị hớ. Tiếng xé những vuông vải đủ mầu xoàn xoạt trong gió. U tôi mua vải cho cả nhà để sang Xuân gọi thợ may đến đo cắt. U tôi cũng không quên mua vải để khâu cho bà nội tôi cái áo bông.
Chợ búa mua sắm xong thì cũng đã đến giờ phải đi về. U tôi một tay xách cái bị cói, tay kia cặp những xấp vải còn thơm bột hồ đi trên đường đê. Tôi nắm áo u tôi nhẩy chân sáo giữa những người đi người về. Ai cũng cười cợt chuyện trò to tiếng. Các bà mời nhau ăn trầu, các ông dừng chân bên bờ đê mang cái điếu cầy ra hút thuốc lào khói mù mịt. Lúc xuống khỏi bờ đê rẽ xuống con đường ngay đình làng, u tôi bảo đến mùng năm Tết có phường hát đến “làm trò”. Tôi chưa được xem “làm trò” bao giờ nên cũng không có gì thích thú. Tôi thích ở nhà thổi con gà trống gáy và chơi cục pháo xiết. Tiếng gáy của con gà trống và tiếng lẹt đẹt của cục pháo xiết là Tết, là mùa Xuân mới rộn ràng của tôi.
Ngày Tết không được ngồi bên mẹ, không được nắm bàn tay gầy guộc của mẹ, không được bóp chân cho mẹ, không được ngửi mùi chanh mùi sả từ mái tóc bạc phơ thưa thớt của mẹ. Tôi gọi điện thoại về chúc thọ và mừng tuổi u tôi:
“U có khoẻ không? U ăn Tết có to không”
Tiếng nói của u tôi vẫn to và khỏe, giọng thật vui:
“Cám ơn ông, Chúa thương tôi vẫn khỏe. Chiều nay mời ông về sơi cơm nhá.”
U tôi đã không nhận ra được tiếng nói của đứa con mà u đã mang nặng đẻ đau. Tôi ngậm ngùi chưa biết nói gì thì u tôi tiếp:
“Cây quít nhà mình sai quả lắm. Mấy con lợn chóng nhớn quá.”
Cây quít và mấy con lợn u tôi nói đến là chuyện ngày xửa ngày xưa, nơi chốn mà u tôi đã cầm tay dắt tôi đi chợ Tết, một làng quê nhỏ bé nghèo nàn dưới chân núi Gôi cạnh dòng sông Lò Gạch bốn mùa nước đỏ quạch như nhuộm phẩm. U tôi vẫn còn những ngày Tết đầy hương sắc với một trời kỷ niệm và một mùa Xuân vui tươi chan hoà Hồng Ân.
Cả cuộc đời của u tôi là một chuỗi ngày vất vả khó nhọc. Đến tuổi già cũng được an nhàn, các con cháu hết lòng phụng dưỡng nên u tôi cũng phần nào được an ủi và yên lòng. Trải qua bao nhiêu cay đắng nhục nhằn của cuộc đời, u tôi vẫn luôn vui vẻ chịu đựng và phó thác tất cả trong sự quan phòng của Thiên Chúa. U tôi ngoan đạo lắm, ngày nào cũng đi nhà thờ vài ba lần. Trong nhà lúc nào cũng rầm rì câu kinh nguyện, buổi sáng lúc vừa thức dậy, buổi tối trước khi đi ngủ. U tôi thuộc nhiều bài hát đạo, thỉnh thoảng cất tiếng hát một mình rất nhỏ nhẹ và cung kính. Thời con gái u tôi cũng đã là một ca viên trong hội hát của nhà thờ. Tiếng hát xuân thì của u tôi chắc phải mượt mà như giải luạ dưới nắng Xuân, phải tinh khôi trong suốt như khối thủy tinh trong nắng Hè.
Năm mới đến với những ngày Tết vui tươi rộn ràng. Người giầu có Tết của người lắm tiền nhiều của với cỗ bàn đủ món, quần áo luạ là đủ bộ. Người nghèo manh áo vá che thân, ngày đầu năm dè dặt đụng đũa miếng thịt gọi là hơi hướm Tết Nhất. Nhưng giầu hay nghèo thì ai cũng hy vọng, cũng mơ ước vào ngày tháng trong năm mới được khoẻ mạnh hơn, may mắn hơn, cơm no hơn và áo ấm hơn.
Những ngày Tết năm xưa đang chạy nhẩy trong tôi, quê hương mến thương xa đến nửa vòng trái đất và lại không được ngồi bên cạnh người mẹ yêu qúy trong giây phút giao hoà của Trời Đất. Quang cảnh chợ Tết và bao nhiêu niềm vui của ngày Tết lúc tôi mới lên năm tuổi đang lao xao chạy nhẩy trên chuyến xe u tôi cõng tôi đưa về miền dĩ vãng. U tôi dắt tay tôi đi chợ Tết, tay kia xách một cái bị cói. Hôm nay u tôi diện đẹp lắm. Khăn nhung quần lĩnh, áo len mầu đỏ thẫm, lưng thắt ruột tượng mầu xanh da trời buông thõng bên hông. Chiếc nón lá treo lững lờ trên lưng. Đường đê dưới cơn mưa phùn ở miền Bắc chỉ hơi ẩm ướt. U tôi rón rén bước đi nhẹ nhàng dưới làn nước mờ sương của buổi sớm mai lúc Trời Đất chuyển mình bước sang Xuân. Tiếng người gọi nhau nói cười rộn rã, ai cũng hớn hở chờ đón những ngày tháng tràn đầy phúc lộc và thật nhiều may mắn trong năm mới. Con đê đến chợ huyện tràn ngập những xôn xao rộn ràng của một mùa Xuân mới. Tết đến ai cũng xuôi ngược mua bán sắm sửa cho có chút hương vị của những ngày đầu năm.
Đến chợ Huyện, u tôi mua cho tôi hai cái bánh rán. Chiếc bánh rán tròn như quả quít, lớp mật bóng nhẫy dưới những hạt vừng óng ả vàng rộm. Nhân đậu xanh ngậy mùi đường mía thơm ngào ngạt. Tôi bám áo u tôi đi xem chợ, vừa ăn bánh vừa xem một ông già làm những con tò-he đủ mầu sắc với nhiều hình thù muông thú. Phiên chợ ngày Tết chắc hẳn phải nhiều người mua bán hơn những buổi chợ quanh năm. Người đi người đến ai cũng có vẻ vội vàng. Gặp những người trong làng, u tôi đều đứng lại chuyện trò một lúc. Chuyện mùa màng, chuyện sắm sửa những vật dụng và đồ ăn thức uống cho ba ngày Tết.
Chợ Tết ở nơi thôn dã nghèo nàn nhưng thật vui vẻ. Mọi người ai cũng muốn quên đi những khó nhọc vất vả trong năm, những buồn phiền lo lắng cũng được xếp lại một xó để có được một niềm vui sau những ngày dầm mưa giãi nắng ngoài đồng ruộng, “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”. Cô hàng xén cười tươi, áo nâu non quần lĩnh đen nhánh, cất lời chào hỏi mời mọc mua bán. Giọng chào hàng thật trong trẻo duyên dáng của cô hàng xén như cầm chân đám trai tráng ngẩn ngơ nhìn. Những chiếc bút máy bên một chồng vở còn thơm mùi giấy của cô hàng xén là một ước ao của tôi nhưng ước ao ấy chỉ là mộng mơ vào những ngày mới chập chững đánh vần tập đọc. Ông hàng thịt mặt mũi bóng nhẫy, tay dao tay thớt hò hét sai bảo vợ con. Thày u tôi đánh đụng với chú tôi con lợn gần một tạ, đủ thịt để làm giò nem ninh mọc trong suốt cả những ngày Tết kéo dài cho đến giữa tháng Giêng. U tôi đi ngang qua hàng thịt nhưng cũng đứng lại hỏi han xem giá cả ra sao. Cụ lang ngồi giữa hai bồ đựng thuốc Nam bắt mạch hốt thuốc, mùi thơm của những vị thuốc Bắc thoang thoảng trong cơn gió nhẹ. Ông thầy bói ngồi chồm hổm ngáp vặt chờ thân chủ, đôi kính đen như mờ mịt sau cây nhang đã gần tàn, hai cái chân gà khô khẳng khiu trong một cái đĩa đặt trên mặt tráp nhìn thật trơ trọi như vận may rủi của chính ông thầy. Chỗ ngồi của người bán rau quả chiếm gần nửa chợ. Những bó cải ngồng non xanh biếc bên cạnh rổ quýt vàng thẫm. Rau thơm rau mùi chẳng thiếu thứ nào. Mấy bà hàng rau khăn mỏ quạ kín đầu, bã trầu đỏ thắm cắn răng chuyện trò ầm ĩ. Mấy tiếng cãi nhau lọt thỏm vào tiếng nói tiếng cười hớn hở mừng Xuân đón Tết.
Đến gần trưa, u tôi dẫn tôi đến khu hàng quán ăn uống. Gánh phở, hàng thịt chó, hàng bán lòng lợn tiết canh và nhiều thức ăn uống khác. U tôi xà vào một gánh bún riêu có vẻ quen thuộc. Gọi là gánh bún riêu nhưng khi cô hàng dọn lên chiếc mẹt có một nắm rau chuối rau thơm thì hai bát “bún” lại là bánh đúc thái nhỏ. Gạch cua đồng nổi lềnh bềnh trên bát lấm tấm vàng. Nước canh cua ngọt lịm thơm ngai ngái mùi đất. Chắc là những con cua từ trong hang bò ra chưa kịp rũ sạch bùn đất đã bò vào nồi làm món ăn ngọt ngào thơm ngon cho người dân quê. Tôi cũng được ăn một bát to như bát của u tôi, húp cạn bát mà vẫn thòm thèm. Ăn xong cô hàng bún cho tôi một cái kẹo bột và mời u tôi miếng trầu. Chuyện trò qua lại với cô hàng bún một lúc rồi u tôi dẫn tôi sang chỗ bán đồ chơi cho trẻ con. U tôi mua cho tôi một con gà làm bằng đất. Con gà trống có cái mào đỏ chót và bộ lông vàng mượt. Trên lưng con gà có một cái ống còn thơm mùi tre. Tôi ưỡn ngực thổi hết hơi vào, con gà gáy vang trời. Thích quá! U tôi còn mua cho tôi bức tranh Tết vẽ một đám lợn con đang bú mẹ. Con lợn xề nằm lim dim mắt âu yếm đàn con. Năm nay tôi đã biết đọc biết viết nhưng đêm đến tôi vẫn rúc vào nách u tôi ngủ mê mệt. Hơi ấm của u tôi là bếp lửa mến yêu, dạt dào lòng mẹ bao bọc chở che.
Sắm sửa Tết cho tôi xong rồi, u tôi mới đến chỗ bán mật. Bà bán mật gặp khách hàng quen cầm tay u tôi mời chào rối rít. U tôi lấy trong bị cói ra một cái lọ sành mua đầy mật rồi cũng mua một lọ chè Tầu và vài loại mứt cho ngày Tết. Đến hàng bán vải vóc thì u tôi mới thực sự bận rộn so sánh hàng tốt xấu và giá cả cho khỏi bị hớ. Tiếng xé những vuông vải đủ mầu xoàn xoạt trong gió. U tôi mua vải cho cả nhà để sang Xuân gọi thợ may đến đo cắt. U tôi cũng không quên mua vải để khâu cho bà nội tôi cái áo bông.
Chợ búa mua sắm xong thì cũng đã đến giờ phải đi về. U tôi một tay xách cái bị cói, tay kia cặp những xấp vải còn thơm bột hồ đi trên đường đê. Tôi nắm áo u tôi nhẩy chân sáo giữa những người đi người về. Ai cũng cười cợt chuyện trò to tiếng. Các bà mời nhau ăn trầu, các ông dừng chân bên bờ đê mang cái điếu cầy ra hút thuốc lào khói mù mịt. Lúc xuống khỏi bờ đê rẽ xuống con đường ngay đình làng, u tôi bảo đến mùng năm Tết có phường hát đến “làm trò”. Tôi chưa được xem “làm trò” bao giờ nên cũng không có gì thích thú. Tôi thích ở nhà thổi con gà trống gáy và chơi cục pháo xiết. Tiếng gáy của con gà trống và tiếng lẹt đẹt của cục pháo xiết là Tết, là mùa Xuân mới rộn ràng của tôi.
Ngày Tết không được ngồi bên mẹ, không được nắm bàn tay gầy guộc của mẹ, không được bóp chân cho mẹ, không được ngửi mùi chanh mùi sả từ mái tóc bạc phơ thưa thớt của mẹ. Tôi gọi điện thoại về chúc thọ và mừng tuổi u tôi:
“U có khoẻ không? U ăn Tết có to không”
Tiếng nói của u tôi vẫn to và khỏe, giọng thật vui:
“Cám ơn ông, Chúa thương tôi vẫn khỏe. Chiều nay mời ông về sơi cơm nhá.”
U tôi đã không nhận ra được tiếng nói của đứa con mà u đã mang nặng đẻ đau. Tôi ngậm ngùi chưa biết nói gì thì u tôi tiếp:
“Cây quít nhà mình sai quả lắm. Mấy con lợn chóng nhớn quá.”
Cây quít và mấy con lợn u tôi nói đến là chuyện ngày xửa ngày xưa, nơi chốn mà u tôi đã cầm tay dắt tôi đi chợ Tết, một làng quê nhỏ bé nghèo nàn dưới chân núi Gôi cạnh dòng sông Lò Gạch bốn mùa nước đỏ quạch như nhuộm phẩm. U tôi vẫn còn những ngày Tết đầy hương sắc với một trời kỷ niệm và một mùa Xuân vui tươi chan hoà Hồng Ân.
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền: Những Đóa Hoa Đầu Xuân
Nguyễn Đức Cung
23:45 12/02/2010
NHỮNG ĐÓA HOA ĐẦU XUÂN - Spring Flowers
Ảnh của Nguyễn Đức Cung
Qua sự vận chuyển huyền diệu của Thượng Đế, mùa Xuân lại đến và bên thềm năm mới,
Trang Ảnh Chiêm/Niệm/Thiền trang trọng:
Kính Chúc Qui Vị và Gia Quyến Một Năm Canh Dần An-Bình, Hạnh-Phúc và muôn vàn Như Ý.
Cầu Chúc Quê Hương Việt Nam sớm có Tự Do Tôn Giáo, Nhân Quyền và Toàn Dân Ấm No Hạnh Phúc.
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền
Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng Ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền