Ngày 03-01-2012
 
Phụng Vụ - Mục Vụ
Ngước nhìn lên
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
08:44 03/01/2012
LỄ HIỂN LINH (Is 60, 1-6; Eph 3, 2-3a.5-6; Mt 2, 1-12).

Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở Đông Phương và chúng tôi đến để triều bái Người. Giáo Hội mừng Lễ Hiển Linh, Chúa tỏ mình ra cho các vị đại diện của dân ngoại. Thánh Matthêô gọi các vị này là các Đạo Sĩ. Chúng ta thường gọi là ba vua, mừng lễ Ba Vua. Có thời người ta gọi họ là các Nhà Chiêm Tinh, Thiên Văn hay là ba vị Khôn Ngoan. Các Ngài là những người thuộc dân ngoại nhưng cùng hướng nhìn lên cao để đi tìm nguồn chân lý. Các Ngài đã dõi theo ngôi sao lạ dẫn đường tìm đến thờ lạy Con Thiên Chúa giáng trần. Bước đi trong đêm tối của niềm hy vọng, dù đường xa vạn nẻo và gặp khó khăn trăm bề nơi đất lạ quê người, các nhà Đạo Sĩ một lòng kiếm tìm. Các Ngài đã không bị thất vọng: Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho (Mt 7,7). Với lòng chân thành và cung kính, các nhà Đạo Sĩ đã tìm nhận ra hình ảnh Con Chúa nơi một trẻ sơ sinh còn bọc trong khăn.

Niềm hy vọng mà tiên tri Isaia đã loan báo cách đó 5 thế kỷ, nay đã bừng sáng. Đấng Cứu Thế đã xuất hiện: Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi (Is 9,1). Ngôi Lời là ánh sáng và sự sống. Ai đi trong ánh sáng là đi trong đường lối của Chúa. Các vị Đạo Sĩ đã lần bước dõi theo sao sáng soi đường. Sao sáng khơi dậy từ chính trong tâm hồn đơn sơ và chân tình. Các Ngài đã tìm đến để thờ lạy và kính dâng lễ vật. Lễ vật đã được tiên tri tiên báo từ xa xưa. Các lễ vật đều mang ý nghĩa trong chương trình hiến dâng cứu độ: Phải, các hải đảo đợi chờ Ta: Có đoàn tàu Tác-sít dẫn đầu, chở con cái ngươi từ phương xa tới, mang theo vàng và bạc, để tôn vinh danh Thiên Chúa, Thiên Chúa của ngươi, để tôn vinh Đức Thánh của Ít-ra-en, vì Người đã làm cho ngươi được vinh hiển (Is 60,9).

Ngày mừng lễ Chúa Giáng Sinh, chúng ta đã chiêm ngắm hình ảnh Chúa Con nằm trong máng cỏ bò lừa. Các thiên thần chung lời ca chúc tụng vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời. Được các thiên thần loan tin, các mục đồng nghèo khó và đơn sơ vội vã chạy đến bái thờ Con Chúa. Đoàn súc vật vây quanh thở hơi sưởi ấm cho Ngài. Chúa đã tỏ mình ra cho những người đơn sơ bé mọn nơi hang lừa máng cỏ. Thật giản dị! Lễ Hiển Linh hôm nay, Giáo Hội cho chúng ta chiêm ngắm hình ảnh những vị đạo sĩ dân ngoại từ xa tới với các món quà dâng tiến. Họ là những vị có chức quyền, trí thức, giầu có, chân thành và muốn đi tìm nguồn ánh sáng. Theo ánh sao, họ đã tìm đến làng Belem bé nhỏ. Nhìn thấy trẻ sơ sinh bọc trong khăn và mẹ Ngài, họ bái quỳ thờ lạy và dâng của lễ là vàng, nhũ hương và mộc dược. Của lễ qúy báu cho ngôi vị Vua.

Trong đêm hồng phúc, dân thành Belem lặng lẽ ngủ yên. Qua những lời tiên báo của các tiên tri trong Kinh Thánh, dân chúng học biết rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến nhưng họ không biết Ngài sẽ đến viếng thăm vào lúc nào, ngày nào. Chúa đến một cách qúa khiêm tốn và âm thầm. Chúa không sinh ra nơi cung điện giầu sang phú quý. Không công bố và loan tin rầm rộ. Chúa hạ thân làm người và chung số phận với những người cô thế cô thân. Chúa muốn tìm gặp những tâm hồn đơn sơ và chân thật. Dân làng Belem đã bị lỡ hụt thời gian Chúa thăm. Cứ như thế, cái lỡ này kéo theo cái lỡ khác, họ lầm lũi tìm kiếm cả cuộc đời mà vẫn không gặp. Chúa đã đi vào lòng đời và đã đồng hành với mọi người nhưng chẳng mấy ai nhận ra Ngài. Chúa đến nhà các gia nhân mà các gia nhân không nhận ra người là thế.

Ngay cả các các Kinh sư diễn giải về Kinh Thánh, các Trưởng lão, Thượng tế, Luật sĩ, Tư tế và cả dân thành đều bị lỡ một cơ hội. Vua quan chính quyền cũng rơi vào những hoang mang lo lắng khi nghe tin Chúa Cứu Thế xuất hiện. Ai cũng khao khát và mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng ít ai muốn xả thân tìm kiếm và mở lòng đón Chúa. Chúng ta có thể hiểu rằng phần lớn trong dân đã bị các nhà lãnh đạo hướng dẫn sai lạc hoặc quan niệm sai lầm khác biệt về Chúa Cứu Thế. Con đường Thiên Chúa đi qúa khiêm nhường, đơn sơ nhưng cũng thật huyền nhiệm. Chúa chỉ mạc khải những mầu nhiệm cao siêu này cho những tâm hồn bé mọn và thiện tâm: Đức Giêssu cất tiếng nói: "Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn (Mt 11,25).

Ngước nhìn lên bầu trời bao la, chúng ta nhận ra ngay những kỳ công tuyệt diệu của Thượng Đế. Một vũ trụ ngút ngàn tưởng như không có cùng tận. Ngước nhìn lên trời, chúng ta có thể nhìn thấy giải ngân hà có hằng triệu triệu ngôi sao lấp lánh. Ai biết được nguồn ánh sáng chiếu dọi vào các tinh tú khổng lồ di động trong không gian đến từ đâu? Các thiên thể chuyển vận trong khoảng không hầu như vô tận. Cặp mắt và tâm trí của chúng ta bị giới hạn và thật bé nhỏ. Chúng ta phải ngước nhìn lên mới tìm được ngôi sao dẫn lối. Ngôi sao tỏa sáng chỉ có nơi những tâm hồn thanh tịnh biết hướng nhìn lên. Ngày xưa, các vị đạo sĩ đã buông bỏ mọi công ăn việc làm, quê hương xứ sở và gia đình thân tộc để lên đường. Các ngài luôn ngước nhìn lên tìm theo dấu vết của sao sáng. Các ngài sống trong niềm tin yêu phó thác, cậy trông và khát mong kiếm tìm. Chúa đã khấng nhận lòng tin tưởng của các ngài. Của lễ dâng mà các ngài chuẩn bị đã được trao đến cho chủ nhân, chính là Chúa Hài Nhi, Vua Vũ Trụ.

Khi đã gặp được Chúa Hài Nhi, các vị Đạo Sĩ đã theo lối khác mà trở về quê mình. Gặp được Chúa, đời các ngài đã thay đổi. Con đường Chúa đi là con đường của chính thật và yêu thương. Ngày từ những giây phút khởi đầu, Chúa đã muốn cộng đồng nhân loại được chung hưởng ơn cứu độ. Ơn cứu độ không chỉ dành riêng cho người Do-thái hay dân Chúa chọn. Tin vui đã được loan truyền rộng khắp. Thánh Phaolô trong thở gởi tín hữu Ephêsô đã công bố: Các dân ngoại nên đồng thừa tự, đồng một thân thể và đồng thông phần với lời hứa của Người.

Chúng ta cũng đã từng là dân ngoại theo dòng dõi. Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta cùng được thông phần vào Nhiệm Thể của Chúa Kitô. Chúng ta là thành viên của đại gia đình trong Chúa Kitô. Chúng ta đã mừng Lễ Chúa Giáng Sinh, đã được ân phúc gặp gỡ và có Chúa ở cùng. Chúng ta cũng có bổn phận mang tin vui đến cho mọi người. Tin vui phải được tỏa sáng qua môi trường sống trong gia đình, nơi trường học, trong nhà thờ, nơi xưởng thợ và những chỗ giao tế tiếp xúc hàng ngày. Đèn sáng phải đặt trên giá để soi chung. Ánh sáng phải từ trên cao dọi chiếu. Chúa Kitô là nguồn sáng thật. Chỉ có nguồn sáng của Chúa Kitô có thể dẫn dắt chúng ta vượt qua bóng đêm của sự dữ.

Nguồn sáng đích thực đến từ chính Chúa. Theo ba nhà đạo sĩ, chúng ta hãy ngước nhìn lên tìm về nguồn sáng thật. Nguồn cội của chúng ta là từ trên cao chứ không phải hoàn toàn từ dưới thấp. Chỉ những con thú vật mới mò tìm những thứ của ăn dưới mặt đất. Con người chúng ta có những ý hướng và mục đích cao thượng hơn. Con người mang hình ảnh của Đấng Tạo Hóa, chúng ta đã được trở nên con cái và là kẻ thừa tự. Cuộc lữ hành trần thế tạm bợ này sẽ qua đi và quê hương thật của chúng ta sẽ tới là ở trên trời.

Lạy Chúa, Chúa là mặt trời công chính và là ánh sáng thế gian, xin soi lòng mở trí để chúng con nhận ra những ánh sao trong cuộc đời. Nhờ những ngôi sao chỉ đường dẫn lối, chúng con sẽ không bị lạc chìm trong mê lầm của trần gian. Trải qua dòng đời, đã có biết bao nhiêu nhà đạo sĩ nối gót đã đến bái qùy thờ lạy Chúa. Xin cho chúng con dõi theo bước chân của các ngài, để cùng đến tôn thờ, cảm tạ và chúc khen danh thánh Chúa đến muôn muôn ngàn đời.
 
Đức Maria làm Mẹ Thiên Chúa
LM Fx Nguyễn hùng Oánh
08:57 03/01/2012
Thánh Mathêu viết gia phả của Chúa Kitô khởi đầu từ Abraham đến Giuse, đến Đức Maria. Như vậy, Thiên Chúa đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho Ngôi Hai nhập thể. Kết quả là Đức Maria là tinh hoa cao nhất của dân Israen trong công trình giáo dục dân Chúa đón nhận Ngôi Hai nhập thể, rồi các Tông đồ, các người nghèo của Giavê ….

Thì dụ chuyển biến một quan niệm sống, một truyền thống của dân Israen: con gái phải có chồng, mang tên chồng là một hạnh phúc, con gái ế chồng, không chồng là một hỗ nhục để dần dân người ta nhìn nhận đời sống độc thân, đồng trinh (Isaia 7,14): một phụ nữ (almah) sẽ thụ thai sinh con, bản Bảy Mươi dịch là: một nữ trinh (parthenos) sẽ thụ thai và sinh con. Điều nầy chắc chuẩn bị cho Đức Mẹ sống đồng trinh và đồng trinh sinh con.

Và đến giờ thực hiện mẩu nhiệm Nhập thể, thánh Luca chỉ cho biết ngày giờ, nơi chốn, hoàn cảnh liên quan tới ơn thiên triệu của Đức Mẹ. Mạc khải Đức Mẹ nhận được chỉ xoay quanh việc Đức Mẹ cưu mang mà không biết đến người nam, do quyển phép Chúa Thánh Thẩn và đứa trẻ do Đức Mẹ sinh ra là con Đấng Tối Cao, con Thiên Chúa, làm vua Israen (Lc 1,26-38). Đức Mẹ không biết con Đức Mẹ là Ngôi Hai Thiên Chúa, có bản tính Thiên Chúa, cũng không biết hoàn cảnh xảy ra sau nầy : sinh con ở hang bò lừa, chạy trốn sang Ai cập, sống nghèo ở Nagiarét, con chịu chết, sống lại. Không biết trước nhưng Đức Mẹ biết đón nhận các biến cố và suy gẫm để đáp ứng. Và như một số nhà chú giải hiện nay nói Đức Mẹ có mặt và đồng quan điểm với những người thân thích tới bắt Chúa Kytô về nhà vì cho rằng Ngài đã mất trí (Mc 3,21). Nếu đúng như vậy, Đức Mẹ càng phải nổ lực suy gẫm để vâng theo chương trình của Thiên Chúa. Và thật oai hùng, Đức Mẹ đứng vững bên Thánh giá dâng Chúa Kytô lên Chúa Cha .

Khi Chúa Kytô lên trời và Chúa Thánh Thẩn hiện xuống, Đức Mẹ đóng vai trò quan trọng ở giữa các Tông đồ, ở giữa Giáo hội mới thành lập và Đức Mẹ đã kết thúc đời sống trong ân phúc viên mãn để được Thiên Chúa dem về trờ cả hồn lẫn xác .

Chúng ta cũng có kinh nghiệm bản thân để hiểu về Đức Me . Thiên Chúa đựng nên ta giống hình ảnh Thiên Chúa (Stk 1,27) và Thiên Chúa đã tiền định cho chúng ta (Epheso 1,11) trong Đức Kytô ( Epheso 1, 4), làm con Thiên Chúa ( I Gioan 3,1) . Như vậy, không phải ta là bác sỹ, kỹ sư, là người châu Á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ trước rồi bây giờ ta đi Đạo Chúa , ta mới trở thành Kytô hữu . Thật ra, từ đời đời Chúa đã biết , đã chọn ta . Đức Mẹ cũng vậy, tự đời đời , Đức Mẹ đã được Chúa chọn . Một câu hỏi đặt ra : nếu Đức Me không nhận lời sứ thần truyển tin thì Thiên Chúa có thất bại không ? Chắc chắn là không vì Thiên Chúa toàn năng thông minh vô cùng , không phải dùng quyền bắt ép người ta ,nhưng là dùng tự do để giúp người ta tự do đáp ứng Tự do Chúa dùng giúp ta theo Chúa là một ân huệ nhưng không . Ngôi Hai xuống làm người là một quà tặng nhưng không cho loài ngừơi , ta có tự do đón nhận và giời thiệu cho người khác .

Tuy nhiên, Ân sủng của Chúa ban cho Đức Mẹ trội vượt chúng ta. Đức Mẹ không mắc tội Tổ Tông truyền, còn chúng ta mắc tội nầy làm cho chúng ta dể chiều về tội lổi. Đức Mẹ cũng không mắc các tội khác vì Chúa giữ gìn Đức Mẹ hoàn toàn trong sạch. Còn chúng ta không thể thoát khỏi tội nhẹ nghĩa là ai cũng phạm tội nhẹ hết còn tội nặng tội “aversio a Deo” (quay mặt với Chúa và bám lấy thụ tạo) ,người bám lấy Chúa dễ tránh khỏi .Nhưng mà Đức Mẹ cùng đi với ta trên con đường khám phá Chúa Kytô..Rõ ràng Đức Mẹ không hiểu lời nói của Chúa Kytô khi Đức Mẹ tìm được Chúa trong đền thánh :” Sao cha mẹ lại tìm con ! Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao? Nhưng ông bà không hiểu lời Người vừa nói" (Luca 2, 49-50). Cám ơn thánh Luca đã viết đúng sự thật, bây giờ chúng con đang từng bước khám phá con người Chúa Kitô và chúng con đang di trên con đường “một cuộc lần mò tiến bước trong đêm tối của đức tin (une progression à tâtons dans la nuit de la foi) . Chúng ta giông Đức Mẹ vì thế Đức Mẹ rất thương chúng ta lắm.

 
Tin Giáo Hội Hoàn Vũ
Mùa Vọng 2011 Giảng cho Giáo Triều Roma: ''Hãy đi khắp cùng thế giới'' (1)
LM Raniero Cantalamessa, ofm.
08:51 03/01/2012
BỐN BÀI GIẢNG CỦA CHA RANIERO CANTALAMESSA, OFM
CHO GIÁO TRIỀU VATICAN MÙA VỌNG NĂM 2011,
VỀ NHỮNG NỖ LỰC TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI HÔM QUA VÀ HÔM NAY


Với mong muốn đáp ứng phần nào lời mời gọi của Đức Thánh Cha BÊNÊĐICTÔ XVI về nỗ lực Truyền giáo và Tái truyền giáo của Giáo Hội hiện nay, xin trân trọng gửi đến quí vị độc giả bản dịch 4 bài giảng của linh mục Raniero Cantalamessa, ofmcap., giảng cho Giáo triều Vatican trong Mùa Vọng 2011 vừa qua (bản Việt ngữ của linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung, giáo phận Phan Thiết) :

BÀI I: “HÃY ĐI KHẮP CÙNG THẾ GIỚI”

Đợt sóng loan báo tin mừng thứ nhất.

Nhằm đáp ứng lời mời gọi của Đức Thánh Cha cần có những nỗ lực mới rao giảng tin mừng và chuẩn bị cho Thượng Hội đồng các Giám mục năm 2012, trong những bài suy niệm Mùa Vọng năm nay, về chủ đề nầy, tôi xin mạn phép được tự giới hạn trong 4 đợt sóng loan báo tin mừng mới, hay còn gọi là 4 thời đoạn mà trong lịch sử Giáo Hội vốn được ghi dấu bởi một sự tăng tốc hay lấy lại đà lực khá ngoạn mục trong nỗ lực dấn thân truyền giáo. Đây là 4 thời đoạn đó :

1- Ba thế kỷ truyền bá kitô-giáo đầu tiên, cho đến trước khi sắc lệnh của hoàng đế Constantin được ban hành : đây là thời kỳ mà các nhân vật then chốt trong nỗ lực nầy trước tiên đó là các ngôn sứ, rồi đến các giám mục;
2- Các thế kỷ từ VI đến IX, sau làn sóng xâm nhập châu Âu của các dân tộc man di : đây là thời kỳ chứng giám một đợt sóng loan báo tin mừng mới, chủ yếu nhờ vào các đan sĩ (moines);
3- Thế kỷ XVI, với việc khám phá và trở lại kitô-giáo của “tân thế giới” (“nouveau monde”), nhờ vào nỗ lực của các tu sĩ (religieux);
4- Thời kỳ hiện tại chứng giám việc Giáo Hội dấn thân vào một nỗ lực loan báo tin mừng mới ở phương Tây đang bị tục hóa, với sự tham gia có tính quyết định của hàng ngũ giáo dân.

Ở nơi mỗi thời kỳ, tôi sẽ cố gắng đưa ra ánh sáng điều mà chúng ta có thể học hỏi cho Giáo Hội ngày hôm nay : đâu là những sai lầm cần phải tránh, và đâu là những tấm gương sáng cần học hỏi bắt chước, và đâu là đóng góp đặc thù mà các đan sĩ, các tu sĩ sống đời sống tông đồ và các giáo dân đã có thể mang lại cho nỗ lực loan báo tin mừng nầy.

I- Kitô-giáo lan truyền, trong ba thế kỷ đầu tiên.

Chúng tôi sẽ bắt đầu với suy tư về nỗ lực loan báo tin mừng kitô trong ba thế kỷ đầu. Nhất là vì giai đoạn nầy trở thành như mô mẫu cho tất cả mọi thời. Đó là giai đoạn mà kitô-giáo tự mày mò để tim ra hướng đi, hoàn toàn chỉ dựa trên sức riêng của mình. Chẳng có “bàn tay thế tục nào” để mà nương tựa cả; các cuộc trở lại chẳng phải là do có sự hậu thuẫn nào từ bên ngoài, vật chất hay văn hóa; là kitô-hữu chẳng phải là do thói quen hay là vì đó là một thứ “mốt thời đại”, mà là một chọn lựa phải lội ngược giòng, và nguy cơ đến tính mạng thường luôn rình rập bên mình. Trong một nghĩa nào đó, đây cũng là thực tế mà một số kitô-hữu trong một số vùng đất nào đó của thế giới hôm nay vẫn còn đang phải đối diện với.

Niềm tin kitô nẫy sinh ra cùng lúc với việc Giáo Hội cởi mở ra với chiều kích toàn thể. Đức Giêsu đã nói với các môn đệ của Ngài là “hãy đi khắp cùng thế giới”” (Mc 16, 15), “hãy thu nạp các môn đệ từ khắp muôn dân” (Mt 28, 19), hãy là những chứng nhân của Ngài “đến tận mút cùng trái đất” (Cv 1, 8), hãy “loan báo cho chư dân vì danh Ngài mà hãy quay trở về để được thứ tha tội lỗi” (Lc 24, 47).

Việc áp dụng nguyên tắc dựa trên tính phổ quát nầy đã thấy xuất hiện ngay trong thế hệ các tông đồ, tuy nhiên, không phải là không có những khó khăn và cả những chia rẽ mất mát. Ngày Lễ Ngũ Tuần, rào cản đầu tiên được gỡ đi đó là rào cản chủng tộc (3000 người tòng giáo thuộc nhiều dân tôc khác nhau, nhưng tất cả đều là những tân tòng mới theo Do Thái giáo); trong nhà của Corneille và nơi Công đồng được gọi là “Giêrusalem”, nhất là dưới sức ép của Phaolô, rào cản khó khăn nhất trong tất cả mọi rào cản, đó là rào cản tôn giáo vốn chia cách giữa những người Do thái và lương dân, đã được vượt qua. Kể từ nay, trước mặt Tin Mừng là toàn thể thế giới, ngay như cho dù trước con mắt hiểu biết của những người đương thời, thế giới nầy chỉ giới hạn trong cái lòng chảo của miền Địa Trung hải, và ranh giới là biên thùy của Đế quốc Roma.

Vấn đề đi sát theo quá trình bành trướng của kitô-giáo cách cụ thể hay dựa trên địa lý trong suốt ba thế kỷ đầu, vốn là vấn đề phức tạp hơn nhiều, nhưng nói cho cùng, đó không phải là mục đích của chúng tôi ở đây. Nghiên cứu đầy đủ nhất hiện nay về chủ đề nầy là của Adolph von Harnack, “Mission et expansion du Christianisme aux trois premiers siècles” (Công cuộc truyền giáo và sự bành trướng của Kitô-giáo trong ba thế kỷ đầu). Trong Giáo Hội, hoạt động truyền giáo thấy được đẩy mạnh dưới thời hoàng đế Commode (180-192) và rồi trong hạ bán thế kỷ II, tức là ngay trước lúc diễn ra cơn bách hại lớn dưới triều Dioclétien (302). Không kể một vài cuộc bách hại lẻ tẻ nào đó mang tính cục bộ địa phương, đây quả là thời kỳ mà Giáo Hội sơ khai đã có thể tự ổn định về mặt nội bộ bên trong, và đang triển khai một sinh hoạt truyền giáo mang một dung mạo mới.

Chúng ta sẽ xem xét đâu là cơ sở của đặc tính mới mẻ nầy. Trong suốt hai thế kỷ đầu, việc truyền bá đức tin chủ yếu là sáng kiến của các cá nhân. Các ngôn sứ lang thang, mà sách Didaché có đề cập tới, di chuyển từ nơi nầy đến nơi khác; nhiều cuộc trở lại vốn là kết quả của những tiếp xúc cá nhân, giữa những người có cùng chung một ngành nghề nào đó, qua những chuyến hành trình chung và qua những quan hệ làm ăn buôn bán, qua việc cùng nhập ngũ với nhau hay qua những hoàn cảnh sống khác nữa bất kỳ. Origène cung cấp cho chúng ta một hình ảnh đầy xúc động về lòng nhiệt thành của những nhà truyền giáo tiên khởi như thế nầy :

“Các kitô-hữu đã làm hết sức mình tất cả gì có thể để truyền bá niềm tin trong thế giới. Mốt số người, nhằm mục đích nầy, đã chọn lối sống dành cả cuộc đời cho công việc truyền giáo, đi từ thành nầy sang thành khác, kể cả từ thị trấn nầy sang thị trấn khác và từ biệt thự nầy sang biệt thự khác, nhằm đưa được càng nhiều tín hữu mới về cho Đức Chúa. Và, tôi vẫn hy vọng thế, chẳng có ai lại đi nói rằng những người nầy làm thế là có ý nhằm mang lại một chút lợi lộc nào đó cho bản thân mình, bởi vì những người nầy vẫn khước từ ngay cả những gì cần thiết cho cuộc sống của mình.”.

Đã đến lúc, và lúc nầy đây, tức là trong hạ bán thế kỷ III, các sáng kiến cá nhân nầy dần dần ngày càng được điều phối lại nhằm mục đích chung và một phần được thay thế bởi cộng đoàn địa phương. Vị giám mục, có lẽ chỉ do bởi phản ứng chống lai những khuynh hướng phá hoại của lạc giáo ngộ đạo thuyết, đã được đưa đẩy đến chỗ vị trí còn vượt lên trên cả các thầy, đóng vai trò trung tâm trong đời sống bên trong của cộng đoàn, và như vậy còn trở thành đầu kéo của hoạt động truyền giáo. Cộng đoàn, kể từ đó, là chủ thể truyền giáo, đến độ một chuyên viên như Harnack, mà không ai có thể nghi ngờ thịnh tình của ông ta đối với cơ chế nầy, đã có thể khẳng định : “Chúng ta cần phải công nhận rằng việc kitô-giáo được lan truyền như vậy, nhân tố chính đó là sự hiện hữu và nỗ lực bền bĩ dẻo dai của từng mỗi cộng đoàn”.

Vào cuối thế kỷ III, niềm tin kitô trên thực tế đã xâm nhập được vào trong tất cả các giai tầng xã hội. Niềm tin kitô, kể từ nay, có nền văn chương riêng của mình bằng ngôn ngữ Hy lạp, và một nền văn chương khác nữa, vừa mới manh nha bắt đầu, bằng tiếng Latinh. Cơ cấu bên trong của niềm tin đó đã ổn định. Niềm tin kitô bắt đầu xây dựng được những công trình ngày càng rộng lớn hơn, đó là dấu chỉ cho thấy con số tín hữu đã ngày càng gia tăng. Cuộc bách hại đạo lớn dưới thời Dioclétien, ngoài việc có nhiều nạn nhân, càng chứng tỏ cho thấy kể từ nay niềm tin kitô đã là một sức mạnh không thể nào có thể kìm hãm được. Cánh tay sắt vừa mới vung ra đó giữa đế quốc và kitô-giáo chứng tỏ cho thấy điều đó.

Constantin, thực ra, chỉ làm cái việc hợp pháp hóa tương quan sức mạnh mới đó mà thôi. Không phải Constantin sẽ áp đặt kitô-giáo cho quần chúng, mà chính quần chúng sẽ áp đặt kitô-giáo cho Constantin. Những khẳng định như kiểu của Dan Brown trong cuốn tiểu thuyết của ông ta : “Da Vinci code” và những kẻ phổ biến khác, theo đó, Constantin, vì những lý do cá nhân, qua một sắc lệnh ân xá và với Công đồng Nicée, đã biến một giáo phái gốc Do thái giáo vốn không mấy ai biết đến trước đó thành tôn giáo của đế quốc, chứng tỏ đã hoàn toàn không biết gì về điều đã xẫy ra trước những biến cố nầy.

II- Những nguyên nhân dẫn đến thành công

Một vấn nạn vẫn luôn làm say mê các sử gia, đó là những lý do nào đã dẫn kitô-giáo đến chỗ chiến thắng khải hoàn như vậy. Một sứ điệp đã vang lên trong một xó góc tối tăm và bị khinh rẻ của đế quốc, giữa những đám dân đen giản đơn, không văn hóa và không quyền lực, mà trong chưa đầy 3 thế kỷ, đã lan tràn ra đến tận cả nơi thế giới vốn được nhiều người biết đến thời đó, và cuối cùng thống trị trên cả nền văn hóa đỉnh cao của những người Hy lạp và trên cả sức mạnh quyền lực vô địch của đế quốc Roma ! Giữa những lý do dẫn đến thành công khác nhau, một số người nhấn mạnh trên tình yêu kitô và việc tích cực thực thi đức bác ái, đến độ biến công việc thực thi bác ái nầy thành “yếu tố chủ đạo mạnh mẽ nhất, có một không hai, dẫn đến thành công của niềm tin kitô”, đến độ người ta còn qui kết cho hoàng đế Julien l’Apostat cái việc sau nầy vì muốn cạnh tranh với thành công của những người kitô-hữu đã chủ trương người ngoại giáo cũng cần phải có những công việc bác ái như vậy.

Harnack, về phần mình, gán một tầm quan trọng lớn cho điều mà ông ta gọi là bản chất “dung nạp” (la nature “syncrétiste”) của niềm tin kitô, tức là khả năng hòa hợp nơi mình những khuynh hướng vốn đối nghịch nhau và những giá trị khác nhau hiện diện trong các tôn giáo và trong nền văn hóa đương thời. Kitô-giáo, đồng thời, trong cùng lúc vừa hiển hiện ra như tôn giáo của Thần Khí và của sức mạnh, tức là còn được kèm theo bởi những dấu chỉ siêu nhiên, bởi những đặc sủng và những phép lạ, vừa như tôn giáo của lý trí và của Ngôi Lời toàn thể (Logos intégral), như là “nền triết học thực sự” (la vraie philosophie), theo lối nói của thánh tử đạo Justin. Các tác giả kitô là “những nhà duy lý về cái siêu nhiên”, Harnack khẳng định khi trích dẫn Phaolô và các lời nói của ngài về niềm tin được diễn tả như là “sự tôn thờ đích thực” (Rm 12, 1).

Theo cách đó, trong một tình trạng quân bình hoàn hảo, kitô-giáo đã tập hợp lại được trong mình điều mà triết gia Nietzsche đã định nghĩa như là sự liên kết giữa yếu tố thuộc thần Apolon và yếu tố thuộc Thần rượu của tôn giáo Hy lạp, giữa Lời (Logos) và Thần Khí (Pneuma), giữa trật tự và nhiệt tình, giữa chừng mực và thái quá. Đó chính là điều mà các Giáo Phụ, ít nhất là một phần, đã hiểu qua đề tài “cơn say ngất Thần Khí thanh nhã” (la “sobre ivresse de l’Esprit”).

“Ngay từ đầu, - nơi cuối cùng của công trình nghiên cứu đồ sộ của mình, Harnack viết – tôn giáo kitô đã để lộ cho thấy một thứ chiều kích phổ quát, vốn đã cho phép tôn giáo nầy thu nạp được vào mình toàn bộ đời sống, cùng với toàn bộ những chức năng, những chiều đi lên và những chiều sâu, những cung bậc tình cảm, những tư duy và những hành động của nó. Chính tinh thần phổ quát nầy đã bảo đảm cho kitô-giáo có được chiến thắng đó. Đó chính là điều đã dẫn kitô-giáo đến chỗ dám tuyên xưng rằng Đức Giêsu mà nó đang loan báo là Lời Thiên Chúa…Một tia sáng mới đang rọi soi cho nó, và sức cuốn hút mạnh mẽ mà đã khiến cho kitô-giáo đạt được đến chỗ hấp thu luôn cả Nền văn minh Hy lạp, khiến cho nền văn minh đó lụy phục mình, để lộ ra cho thấy đó như là một sự tất yếu. Tất cả gì, cách nào đó, vẫn còn có khả năng mang trong mình sự sống đều nhập được vào như một yếu tố trong cấu trúc của nó… Làm sao mà một tôn giáo như thế lại có thể không thành công được chứ ?”

Ấn tượng chung mà người ta có khi đọc tổng hợp nầy đó là thành công của kitô-giáo vốn tùy thuộc vào cả một tổ hợp bao gồm nhiều nhân tố. Một số người còn đi xa trong nỗ lực tìm kiếm những nguyên nhân của một thành công như vậy, đến độ đã tìm thấy có đến 20 lý do thuận lơi cho niềm tin và cũng từng ấy lý do cản trở sự phát triển của niềm tin, như kiểu lối thoát cuối cùng tùy thuộc vào chiến thắng của những yếu tố thuận lợi trên những yếu tố không thuận lợi.

Ngay bây giờ đây, tôi muốn chứng tỏ cho thấy hạn chế của một lối tiếp cận dựa trên lịch sử như vậy, mặc dù cung cách tiếp cận nầy có được tiến hành bởi những sử gia tín hữu như những người mà tôi đã nêu lên cho đến lúc nầy. Giới hạn nầy, vốn nằm ở nơi chính phương pháp lịch sử, đó là do người ta đã quá chú trọng đến chủ thể hơn là đối tượng của nỗ lực truyền giáo, đến những người loan báo tin mừng và những điều kiện trong đó nỗ lực truyền giáo diễn ra hơn là đến chính nội dung của nỗ lực nầy.

Lý do thúc đẩy tôi phải làm điều nầy, bởi vì giới hạn nầy cũng là giới hạn và nguy cơ mà người ta thường gặp thấy trong nhiều lối tiếp cận hiện nay và trên các phương tiện truyền thông, khi nói về nỗ lực mới rao giảng tin mừng. Người ta quên một điều hết sức đơn giản : đó là chính Đức Giêsu đã cho chúng ta biết trước một lối giải thích về việc lan truyền Tin Mừng của Ngài rồi, và mỗi lần muốn chuẩn bị cho một nỗ lực truyền giáo mới, chúng ta cần phải lại khởi đi từ đó.

Chúng ta hãy nghe lại 2 dụ ngôn ngắn của tin mừng, dụ ngôn hạt giống được gieo và lớn lên ngay cả trong đêm khuya và dụ ngôn hạt cải bé tí. “Đức Giêsu nói : ‘Chuyện Nước Thiên Chúa thì cũng tựa như chuyện một người vãi hạt giống xuống đất. Đêm hay ngày, người ấy có ngủ hay thức, thì hạt giống vẫn nẫy mầm và mọc lên, bằng cách nào, thì người ấy không biết. Đất tự động sinh ra hoa màu : trước hết cây lúa mọc lên, rồi trỗ đòng đòng , và sau cùng thành bông lúa nặng trĩu hạt. Lúa vừa chín, người ấy đem liềm hái ra gặt, vì đã đến mùa’.” (Mc 4, 26-29).

Dụ ngôn nầy, chỉ mình nó thôi, cũng đã đủ đế nói với chúng ta rằng lý do thành công chủ yếu của nỗ lực truyền giáo kitô không đến từ bên ngoài, mà đến từ bên trong, rằng công cuộc truyền giáo không phải là công trình của người gieo giống, cũng chẳng phải là của đất đai, mà là của chính hạt giống được gieo. Hạt giống không thể tự mình gieo xuống lòng đât, tuy nhiên, hạt giống cách tự động và tự mình nẫy mầm. Sau khi gieo hạt giống xuống đất, người gieo giống có thể an tâm đi ngủ, sự sống còn của hạt giống không còn lệ thuộc vào ông ta nữa. Khi hạt giống nầy là “hạt giống được gieo vào lòng đất và chết đi”, Đức Giêsu còn nói, thì chẳng có gì có thể ngăn cản nó “mang lại nhiều hoa trái”. Về những thứ hoa trái nầy người ta có thể đưa ra đủ thứ giải thích mà người ta muốn, những giải thích nầy dầu vậy vẫn luôn chỉ nằm ở bề mặt của vấn đề mà thôi, chứ không bao giờ nắm bắt được điều chính yếu.

Tông đồ Phaolô, cách sáng suốt, là người đã dành ưu tiên hàng đầu cho đối tượng của loan báo so với chủ thể : “Tôi trồng, Apollo tưới : nhưng chính Thiên Chúa mới là Đấng làm cho tăng trưởng”. Những lời nầy xem ra bình chú dụ ngôn của Đức Giêsu. Ba công việc nầy không phải có cùng mức độ quan trọng như nhau; thật vậy, vị tông đồ còn thêm : “Vì thế, kẻ gieo chẳng là gì, người tưới cũng chẳng là chi; duy chỉ có Đấng làm cho tăng trưởng mới là đáng kể !” (1 Cr 3, 6-7). Khoảng cách biệt trên cơ sở phẩm tính như thế giữa chủ thể và đối tượng của loan báo còn được tìm thấy trong một lời khác của Vị Tông đồ : “Nhưng kho tàng ấy, chúng tôi lại chứa đựng trong những bình sành, để chứng tỏ quyền năng phi thường phát xuất từ Thiên Chúa , chứ không phải từ chúng tôi” (2 Cr 4, 7). Tất cả điều đó được diễn dịch ra trong những tiếng kêu trần tình như đã được định sẵn trước : “Không phải chúng tôi rao giảng chính mình, mà là rao giảng Đức Giêsu-Kitô, Chúa chúng tôi !”; hay còn nữa : “Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh thập giá”.

Đức Giêsu còn công bố một dụ ngôn thứ hai trên cơ sở hình ảnh hạt cải, nhằm giải thích thành quả của công cuộc truyền giáo kitô, và vẫn còn đầy ý nghĩa đối với ngày hôm nay, khi mà Giáo hội đang đầu tư cho một nỗ lực mênh mông nhằm tái-tin mừng-hóa lại cái thế giới đang bị tục hóa nầy.

“Đức Giêsu nói : ‘Chúng ta ví Nước Thiên Chúa với cái gì đây ? Lấy dụ ngôn nào mà hình dung được ? Nước Thiên Chúa giống như hạt cải, lúc gieo xuống đất, nó là loại hạt nhỏ nhất trên mặt đất. Nhưng khi gieo rồi, thì nó mọc lên lớn hơn mọi thứ rau cỏ, cành lá xum xuê, đến nỗi chim trời có thể làm tổ dưới bóng.’.” (Mc 4, 30-32).

Giáo huấn mà Đức Giêsu muốn dạy ta qua dụ ngôn nầy đó là Tin Mừng của Ngài, chính Ngôi Vị của Ngài, là tất cả gì vốn rất nhỏ bé trên mặt đất nầy, vì rằng chẳng còn gì nhỏ bé hơn và yếu ớt hơn là một cuộc đời chấm dứt với một cái chết nhục nhã trên thập tự giá. Tuy nhiên, “hạt cải nhỏ bé nầy” lại đã được định phần để trở nên một cây to lớn, to lớn bao la đến độ các cành của nó có khả năng đón nhận tất cả mọi giống chim trời đến trú ngụ. Điều đó có nghĩa là toàn thể thụ tạo, đúng vậy, toàn thể, sẽ đến trú ẩn trên đó.

Một lối nhìn khác lạ biết bao so với những tái cấu trúc trình bày qua lăng kính lịch sử như đã được nêu lên trên đây ! Nơi những lối nhìn lịch sử đó, tất cả đều có vẻ không chắc chắn, bấp bênh, bị treo lơ lững giữa khả năng thành công và khả năng thất bại; còn ở đây, tất cả đều đã được quyết định và bảo đảm ngay từ đầu ! Trong đoản văn nói về việc xức dầu ở Béthanie, Đức Giêsu đã kết luận với những từ nầy : “Thầy bảo thật anh em : Tin Mừng nầy được loan báo bất cứ nơi nào trong khắp thiên hạ, thì người ta cũng sẽ kể lại việc cô vừa làm mà nhớ tới cô.” (Mt 26, 13). Cũng cùng một ý thức thanh thản đó rằng một ngày nào đó sứ điệp của mình sẽ được lan tỏa ra “trên khắp cùng thế giới”. Đã hẳn, đây không phải là một lời tiên tri “sau khi đã xãy ra sự việc” (“post eventum”), vì rằng ngay thời điểm lời nầy được nói ra tất cả cho thấy là tình hình có vẻ đi theo chiều hướng ngược lại.

Cả nơi điều nầy cũng vậy, giữa tất cả, Phaolô vẫn là người nắm bắt được cách tốt nhất “mầu nhiệm được dấu kín”. Có một sự kiện vẫn luôn luôn làm cho tôi cảm kích xúc động : Vị Tông đồ đã giảng đạo tại Quảng Trường tự do ở Athènes và đã phải chịu việc người ta từ chối sứ điệp của mình, cách khá lịch sự, kèm theo lời hứa là sẽ nghe lại một dịp khác. Ở Corinthe, nơi mà Phaolô đã đi tới ngay sau đó, ngài đã viết Thư gửi những Tín hữu Roma, trong đó ngài khẳng định đã nhận được mênh lệnh phải cố gắng dẫn đưa “mọi dân nước đến chỗ tuân phục đức tin” (Rm 1, 5-6). Thất bại ở Athènes không mảy may đụng chạm gì đến niềm tín thác mà ngài vẫn có nơi sứ điệp nầy : “Vâng, tôi không hổ thẹn vì Tin Mừng. Quả thế, Tin Mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ bất cứ ai có lòng tin, trước là người Do Thái, sau là người Hy lạp.” (Rm 1, 16).

“Mỗi thứ cây, - Đức Giêsu nói – được nhận ra nhờ nơi quả của nó.” (Lc 6, 44). Điều đó có giá trị đối với mọi thứ cây, ngoại trừ cây vốn xuất ra tự Ngài, cây Kitô-giáo (và thật vậy, ở đây Ngài nói về những con người); kitô-giáo là thứ cây duy nhất người ta không nhận ra được nhờ nơi các quả của nó, mà là nhờ nơi gốc rễ của nó. Trong kitô-giáo, tình trạng viên toàn không ở nơi cùng tận, như trong biện chứng pháp của Hégel về cái trở thành (“cái thật là tất cả”), mà đã có ngay tự ban đầu; chăng có trái trăng nào, thậm chí cả nơi các vị thánh vĩ đại nhất, thêm thắt được gì vào tình trạng hoàn hảo của mô mẫu. Trong chiều hướng nầy, quả là có lý kẻ đã khẳng định rằng “kitô-giáo không phải là cái gì có thể hoàn thiện” (“le christianisme n’est pas perfectible”).

III- Gieo hạt giống xuống, rồi…đi nằm ngủ

Điều mà các sử gia về kitô-giáo thời khai nguyên đã không lưu ý, hoặc đã đánh giá là không mấy quan trọng, đó là niềm xác tín không thể nào kiểm soát nổi mà các kitô-hữu ngày xưa, chí ít là những phần tử ưu tú trong bọn họ, đã có đối với cái vẻ tốt đẹp và chiến thắng cuối cùng của vụ việc của họ. “Các ông có thể giết chết chúng tôi, nhưng không bao giờ làm hại được chúng tôi”, thánh tử đạo Justin đã nói như vậy với vị quan tòa Roma đã kết án tử cho ngài. Sau cùng, chính niềm xác tín thanh thản đó đã bảo đảm chiến thắng cho các kitô-hữu sơ khai, đã khiến cho các thẩm quyền chính trị bị khuất phục để nhận ra được sự vô ích của những nỗ lực của họ nhằm loại bỏ niềm tin kitô.

Đó chính là điều mà ngày hôm nay chúng ta đang cần hơn cả : nơi các kitô-hữu, chí ít nơi những kẻ cho mình có nhiệm vụ cống hiến đời mình cho công trình loan báo tin mừng mới nầy, hãy đánh thức nơi họ niềm xác tín thâm sâu về sự thật của điều mà họ đang loan báo. “Giáo Hội, - một ngày kia Đức Thánh Cha PHAOLÔ VI đã nói,- có nhu cầu cần phải tìm lại nỗi thao thức ưu tư, sở thích và niềm xác tín chắc chắn về chân lý của mình”. Chúng ta phải là những người đầu tiên tin nơi điều mà chúng ta loan báo; nhưng phải tin thực sự mới được. Chúng ta phải có thể nói cùng với Phaolô : “Vì có được cùng một lòng tin, như đã chép : Tôi đã tin, nên tôi mới nói, thì chúng tôi cũng tin, nên chúng tôi mới nói.” (2 Cr 4, 13).

Công việc cụ thể mà hai dụ ngôn của Đức Giêsu trao phó cho chúng ta đó là gieo hạt giống. Gieo không tiếc tay, “lúc thuận cũng như lúc nghịch” (2 Tm 4, 2). Người gieo giống của dụ ngôn ra đi gieo hạt giống chẳng quan tâm gì đến chuyện một phần của hạt giống sẽ rơi trên đường đi và một phần khác rơi vào bụi gai, và phải nói rằng người gieo giống nầy, nằm ngoài dụ ngôn, chính là Đức Giêsu ! Vì chưng, trong trường hợp nầy, người ta không thể nào biết trước được đâu là mãnh đất tốt hay rắn cứng như đường rải nhựa và bóp nghẹt như một bụi gai. Đây chính là chỗ còn tùy vào tự do mà con người vốn không thể nào tiên liệu trước được và chính Thiên Chúa cũng chẳng muốn thô bạo can thiệp vào. Biết bao lần trong cuộc sống người ta đã chẳng khám phá ra rằng, giữa những người đã nghe bài giảng nào đó hay đã đọc một cuốn sách nào đó, kẻ thực sự nghiêm túc quan tâm tới nó và nhờ đó đã thay đổi được cuộc sống của mình, lại là kẻ mà người ta ít chờ đợi nhất, là kẻ đã có mặt ở đấy có khi chỉ cách tình cờ hay có khi chỉ vì miễn cưỡng ? Trong đời mình, tôi cũng đã chứng kiến cả hàng chục trường hợp như vậy.

Vì thế, hãy cứ gieo hạt giống xuống đất, và rồi sau đó…đi ngủ ! Nói cách khác, cứ gieo giống đi và rồi đừng cứ ở mãi đó để nhìn xem khi nào hạt giống mọc lên, ở đâu nó mọc lên, mỗi ngày nó mọc lên được bao nhiêu centimét. Việc bén rễ và tăng trưởng ra sao không phải là việc của chúng ta, mà là việc của Thiên Chúa và của kẻ nghe. Một nhà hài hước nổi tiêng nước Anh thế kỷ XIX, Jerome Klapka Jerome, có nói rằng cách tốt nhất để làm cho quá trình sôi chín trong một cái soong chậm lại đó là người ta cứ ở lại bên trên và thấp thỏm đợi chờ.

Làm ngược lại chỉ tổ gây ra bao lo âu và mất kiên nhẫn mà thôi : khi còn ở trên trái đất, Đức Giêsu đã không thích như thế và cũng không bao giờ làm thế. Các sách Tin Mừng cho thấy hình như Đức Giêsu không bao giờ tỏ ra vội vã. “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai : ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6, 34).

Về chuyện nầy, nhà thơ tín hữu Charles Péguy đặt vào môi miệng Thiên Chúa những lời mà cũng đáng cho chúng ta suy ngẫm :

“Người ta nói với Ta rằng có những con người
Lao động thì tốt mà ngủ thì không tốt.
Chúng không ngủ. Ôi ! Đó là dấu chỉ chúng không tín thác nơi Ta !
Đó là điều nghiêm trọng, vì thà rằng chúng không lao động mà ngủ còn hơn, vì tội lười biếng thì nhẹ hơn cái tội bất an…
Ta không nói về, Thiên Chúa phán, những con người
Không lao động mà cũng chẳng ngủ.
Đó là những con người tội lỗi, dĩ nhiên…
Ta nói về những kẻ lao động mà không ngù…
Ta phàn nàn về chúng. Ta oán giận chúng. Một chút. Chúng đã không tín thác vào Ta.

Ban ngày, chúng điều hành công việc của chúng rất tốt.
Nhưng ban đêm, chúng không muốn phó thác công việc điều hành ấy cho Ta…
Kẻ nào không ngủ là không trung thành với Đức Cậy…”.

Những suy tư, như đã được trình bày trong bài suy niệm nầy, cổ vũ chúng ta, như một kết thúc, hãy lấy Đức Tin và Đức Cậy mạnh mẽ làm nền tảng cho mọi dấn thân trong nỗ lực loan báo Tin Mừng mới, hãy gạt bỏ ra khỏi chúng ta mọi thứ cảm giác bất lực và nhẫn nhục cam chịu. Trước mắt chúng ta, thật vậy, là cả một thế giới đang bị tục hóa, đang say sưa vì những thành quả đạt được trong lãnh vực kỹ thuật và vì những khả thể mà khoa học có thể cống hiến cho, trơ lì với loan báo Tin Mừng. Nhưng, thế giới của những kitô-hữu đầu tiên – thế giới Hy lạp với kho tàng kiến thức đồ sộ của nó và đế quốc Roma với sức mạnh của nó – cách ngẫu nhiên trùng hợp, lại đã chẳng kém phần trơ lì với tin mừng đó sao ?

Nếu có một điều mà chúng ta có thể làm, sau khi “đã gieo hạt giống xuống đất”, thì đó là công việc, bằng kinh nguyện, “tưới nước” lên hạt giống đã gieo. Vì thế, chúng ta hãy kết thúc bài suy niệm nầy bằng kinh nguyện mà phụng vụ đã muốn cho chúng ta đọc trong Thánh Lễ “cầu nguyện cho việc loan báo Tin Mừng cho muôn dân” :

Lạy Thiên Chúa, Chúa vẫn hằng muốn tất cả mọi người đều được cứu độ
Và nhận biết được chân lý;
Xin Chúa hãy nhìn xem mùa màng bát ngát bao la biết bao nhiêu, và xin hãy sai các thợ gặt đến,
Để Tin Mừng được loan báo cho từng mỗi thụ tạo
Và để dân của Ngài, được qui tụ lại nhờ lời hằng sống
Và được khuôn đúc bởi sức mạnh của các bí tích, được tiến lên trên con đường cứu độ và tình yêu.
Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

[Bản Pháp ngữ của Zenit (Isabelle Cousturié), Bản Việt ngữ của linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung (giáo phận Phan Thiết)].
 
Mùa Vọng 2011 Giảng cho Giáo Triều Roma: ''Không còn phân biệt Hy Lạp hay do Thái...'' (2)
LM Raniero Cantalamessa, ofm.
08:53 03/01/2012
BỐN BÀI GIẢNG CỦA CHA RANIERO CANTALAMESSA, OFM
CHO GIÁO TRIỀU VATICAN MÙA VỌNG NĂM 2011,
VỀ NHỮNG NỖ LỰC TRUYỀN GIÁO CỦA GIÁO HỘI HÔM QUA VÀ HÔM NAY


Với mong muốn đáp ứng phần nào lời mời gọi của Đức Thánh Cha BÊNÊĐICTÔ XVI về nỗ lực Truyền giáo và Tái truyền giáo của Giáo Hội hiện nay, xin trân trọng gửi đến quí vị độc giả bản dịch 4 bài giảng của linh mục Raniero Cantalamessa, ofmcap., giảng cho Giáo triều Vatican trong Mùa Vọng 2011 vừa qua (bản Việt ngữ của linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung, giáo phận Phan Thiết) :

BÀI II : “KHÔNG CÒN CÓ SỰ PHÂN BIỆT HY LẠP HAY DO THÁI, MAN DI MỌI RỢ HAY NGOẠI GIÁO”

Đợt sóng loan báo Tin Mừng mạnh mẽ thứ hai sau khi châu Âu bị xâm nhập bởi những sắc dân man di.

Trong bài suy niệm nầy, tôi muốn nói về đợt sóng lớn thứ hai trong nỗ lực loan báo Tin Mừng, đợt sóng, mà trong lịch sử của Giáo Hội, tiếp ngay sau sự sụp đổ của đế quốc Roma và trong bối cảnh có một tình trạng lẫn lộn giữa các sắc dân được tạo ra bởi cuộc xâm lăng của những người man di, nhằm, lại một lần nữa, cách cụ thể xem xem điều gì mà ngày hôm nay chúng ta có thể học tập được từ đợt sóng loan báo Tin Mừng nầy. Ý thức rất rõ chiều kích rộng lớn của thời kỳ lịch sử nầy và giới hạn của một bài suy niệm, vì thế xin hãy coi đây như chỉ là một chuyến tham quan chớp nhoáng mà thôi.

I- Một quyết định ghi dấu lên toàn bộ cả một giai đoạn

Vào thời điểm cách chính thức đế quốc Roma coi như sụp đổ, năm 476, châu Âu, kể từ đó và lâu dài sau nữa, mang một khuôn mặt mới. Không còn đế quốc nữa, nhưng thay vào đó, cơ man nào là những vương quốc “man di” xuất hiện. Cách chung chung, khởi đi từ phía Bắc, tình hình là như sau : nơi vùng đất thuộc địa cũ của Roma ở Britania, người ta gặp thấy những sắc dân Angles và Saxons, trong những vùng thuộc địa cũ ở Gaule, người ta gặp thấy những sắc dân Francs, phía Đông sống Rhin, người ta gặp thấy những sắc dân Frisons và Alamans, trong bán đảo Ibérique (Tây ban nha và Bồ đào nha), người ta gặp thấy những sắc dân Wisigoths, ở Italia, người ta gặp thấy những sắc sân Ostrogoths, sau đó, còn có những sắc dân Lombards, và ở Bắc Phi, người ta gặp thấy những sắc dân Vandales. Ở phương Đông, đế quốc byzantin vẫn còn cầm cự được.

Giáo Hội đứng trước một quyết định mà sẽ ghi dấu ấn lên toàn bộ thời kỳ nầy : trước tình hình mới nầy, cần phải chọn thái độ nào đây ? Để có được một quyết định mà sẽ mở toang Giáo Hội ra với tương lai, không phải là câu chuyện một sớm một chiều và không tạo ra những rạn nứt bên trong nội bộ Giáo Hội. Cũng như đã từng xãy ra trong biến cố Giáo Hội sơ khai khi phải tách ra khỏi quĩ đạo Do thái giáo để đón nhận anh em lương dân vào với Giáo Hội, ở đây, có một chút gì đó tương tự cũng đang được lặp lại. Sự mất phương hướng chung của các kitô-hữu đã đạt đến tột đỉnh của nó khi thành phố Roma bị Alaric, vua của những người Goths, cướp phá, năm 410. Người ta cứ nghĩ rằng ngày tận cùng thế giới đã đến, vì người ta đồng hóa thế giới với thế giới Roma, và thế giới Roma với kitô-giáo. Tiếng kêu thảng thốt của thánh Jêrôme tiêu biểu cho tình trạng mất phương hướng chung chung nầy : “Ai mà lại có thể tin được, - ngài đã viết vậy - rằng Roma sẽ sụp đổ, một Roma mà biết bao chiến thắng hiển hách trên khắp toàn cầu đã xây dựng được những nền móng vững chắc như vậy ?”

Về mặt tri thức, người đã có nhiều đóng góp nhất cho việc đưa niềm tin đi vào được trong thế giới mới nầy, đó là Augustin, với tác phẩm “De civitate Dei” (Thành Đô của Thiên Chúa). Trong nhãn quan của ngài, vốn ghi dấu bước khởi đầu cho một thứ triết học về lịch sử, Thành Đô Thiên Chúa được phân biệt ra khỏi Thành Đô thế tục, mà có lúc (vì quá hăng trong quá trình tư duy) đã được ngài đồng hóa với Thành Đô Satan. Điều mà Augustin hiểu qua khái niệm Thành Đô thế tục đó là tất cả gì liên quan đến lãnh vực chính trị, ở đây phải hiểu luôn cả Thành Đô Roma. Vì thế, không có ngày cùng tận của Thế Giới, mà chỉ có ngày cùng tận của một thế giới nào đó mà thôi !

Cách cụ thể, chính Đức Giáo hoàng ở Roma mới là người đóng vai trò quyết định trong việc mở toang tôn giáo ra với thực tại mới nầy, và là người điều phối các sáng kiến lại với nhau.Thánh Giáo hoàng Léon Cả vốn ý thức rất rõ rằng Roma kitô vẫn sẽ còn tồn tại ngay cả sau khi Roma ngoại giáo đã bị tiêu diệt, hơn nữa, Roma kitô đó “sẽ vươn dài ảnh hưởng tôn giáo thần linh của mình ra còn bao la gấp nhiều lần so với ảnh hưởng mà nó đã tạo ra được do sự thống trị thế tục ”.

Dần dần, có một sự thay đổi nơi thái độ của các kitô-hữu đối với các dân tộc man di; không còn bị coi như những sinh vật hạ đẳng, không có khả năng hấp thụ văn minh, các sắc dân man di, từ nay, được coi như những con người có thể trở thành anh em trong đức tin. Ngày xưa, các dân tộc man di bị coi như một mối đe dọa thường xuyên, nay, dưới con mắt của các kitô-hữu, họ bắt đầu xuất hiện như một cánh đồng truyền giáo mới, mênh mông. Phaolô, cùng với Đức Giêsu-Kitô, đã công bố bãi bỏ các phân biệt về sắc tộc, về tôn giáo, về văn hóa và về giai cấp xã hội khi nói : “Vậy, không còn phải phân biệt Hy lạp hay Do thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người.” (Cl 3, 11); và đã có biết bao nhiêu nỗ lực mới đưa được công cuộc cách mạng nầy vào trong thực tế của lịch sử ! Và, đó không phải chỉ là chuyện ngày xưa !

II- Một nỗ lực tin mừng hóa mới cho châu Âu

Đối diện với các sắc dân man di, Giáo Hội trong cùng lúc phải lao vào hai cuộc chiến. Cuộc chiến thứ nhất, nhằm chống lại lạc giáo của Arius. Một số lớn các bộ tộc man di, nhất là những người thuộc sắc dân Goths, trong quá trình đi chinh phục, trước khi xâm nhập được vào trung tâm của đế quốc, đã có những giao tiếp, ở phương Đông, với kitô-giáo vốn đã bị lây nhiễm ít nhiều bởi lạc giáo của Arius, vì thế, ít nhiều gì họ cũng bị lây nhiễm bởi lối nhìn lệch lạc nầy, mà lúc đó vốn đang thịnh hành, nhất là do công trình của vị giám mục đang ở bên họ, là Wulfila (311-383), người đã dịch Thánh Kinh ra ngôn ngữ gothique. Một khi định cư trong những lãnh thổ phương Tây, những bộ tộc man di nầy cũng mang theo mình một thứ kitô-giáo lây nhiễm lạc giáo của Arius xưa.

Nhưng, lạc giáo của Arius vốn không có cơ cấu tổ chức trung ương tập quyền, cũng chẳng có một nền văn hóa hay một nền thần học có thể so sánh được với nên thần học của những người công giáo. Trong suốt thế kỷ VI, lần lượt, các vương quốc man di đã từ bỏ lạc giáo của Arius để gia nhập niềm tin công giáo, nhờ công trình của một số vị giám mục vĩ đại và những văn sĩ công giáo, đôi khi cũng do bởi những toan tính chính trị nữa. Công đồng Tolède, năm 589, đã là một thời điểm có tính quyết định. Với sự hậu thuẫn của Léandre de Séville, Công đồng đã xóa sổ khuynh hướng lạc giáo của Arius nơi các sắc dân wisigoth ở Tây ban nha và, thực sự là trên toàn bộ phương Tây.

Cuộc chiến chống lại lạc giáo của Arius, tuy vậy, không phải là điều gì mới mẻ. Cuộc chiến nầy thực ra đã bắt đầu trước đó, từ những năm 325. Tiến trình mới mẻ đích thực mà Giáo Hội đang dấn bước vào cho đến cùng, sau khi đế quốc Roma thoái trào đó là nỗ lực tin mừng hóa anh em lương dân. Nỗ lực tin mừng hóa nấy đi theo hai hướng : tạm gọi, là hướng nội và hướng ngoại, tức là nơi các dân tộc thuộc đế quốc cũ và nơi các dân tộc vừa mới xuất hiện trên diễn đàn sân khấu châu Âu. Trong những vùng đất của đế quốc cũ, Italia và các tỉnh thành, cho đến lúc nầy, Giáo Hội hầu như duy nhất chỉ cắm rễ trong các thành phố. Vấn đề bây giờ là làm sao vươn ra ngoài hiện diện được nơi cả các miền quê và các làng mạc. Hạn từ “lương dân” (“paien”), như người ta biết đấy, xuất phát từ “pagus” có nghĩa là làng quê, và hạn từ đó phải mang cái nghĩa đó như hiện nay là do việc tin mừng hóa các vùng quê, nói chung, đã diễn ra khá lâu sau việc tin mừng hóa các thành thị.

Đã hẳn, sẽ rất thú vị khi lần theo sợi chỉ đỏ nỗ lực tin mừng hóa và ngược dòng trở lại thời khai sinh và phát triển của hệ thống các giáo xứ, như là những phân bố nhỏ ra của giáo phận, thế nhưng, mục đích của tôi ở đây là giới hạn nơi hướng loan báo tin mừng khác, hướng hướng ngoại, tức là việc loan báo Tin Mừng cho các dân tộc man di, vốn đã định cư ổn định ở các đảo và ở trung tâm của châu Âu, nói cách khác, ở Anh, Hòa Lan, Pháp và Đức ngày nay.

Biến cố vua Clovis, thuộc dòng dõi mérovingien, tòng giáo và đã được thánh Rémi, giám mục thành Reims ban phép thánh tẩy cho vào đêm Noël, năm 498 hoặc 499, đã tạo ra một khúc quanh lịch sử hết sức quan trọng và có tính quyết định. Theo thông lệ của thời đó, biến cố nầy, như vậy, quyết định không chỉ tương lai tôn giáo của dân Franc, mà còn cả tương lai của các sắc dân khác mà nhà vua đã chinh phục được, bên nầy và bên kia sông Rhin. Lúc ban Bí tích Thánh tẩy cho vua Clovis, giám mục Rémi đã tuyên bố một câu thời danh : “Mitis depone colla, Sigamber; adora quod incendisti, incende quod adorasti” (“Nầy hỡi Sicambre, hãy khiêm tôn cúi đầu, thờ lạy cái mà ngươi đã đốt cháy, và đốt cháy đi cái mà người đã thờ lạy !”). Chính ở nơi biến cố nầy mà nước Pháp đã được gán cho tước hiệu “con gái đầu lòng của Giáo Hội”.

Nỗ lực kitô-giáo hóa lục địa châu Âu chấm dứt vào thế kỷ IX, cùng với việc trở lại của các sắc dân Slaves, nhờ công lao của hai thánh Cyrille và Méthode. Các sắc dân nầy đã đến xâm chiếm các vùng đất phía Đông châu Âu, mà các đợt sóng di dân trước kia đã vội bỏ qua để tiến nhanh về phía Tây.

Những điều kiện tin mừng hóa nơi các sắc dân man di hoàn toàn mang một hình thức khác, khác với những điều kiện mà người ta đã biết nơi thế giới Hy lạp và Roma, nơi mà đối tượng kitô-giáo hóa là một thế giới văn minh, có tổ chức hẳn hoi, có những qui tắc, những luật lệ, những thứ ngôn ngữ chung. Có thể nói là đã có cả một nền văn hóa để người ta đối thoại với và chạm trán với. Bây giờ đây, kitô-giáo sẽ phải trong cùng lúc đối mặt với hai công việc : văn minh hóa và tin mừng hóa. Phải dạy đọc và dạy viết cho họ, hoàn toàn chỉ với mục đích phục vụ cho việc tiếp thu giáo lý kitô. Việc hội nhập văn hóa phải được thực hiện theo một cách thức mà trước đây hoàn toàn chưa từng có.

III- Thiên anh hùng ca của các đan sĩ

Công trình đồ sộ mà ở đây tôi chỉ có thể phác họa những đường nét chính yếu mà thôi đã được tiến hành với sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong Giáo Hội. Trước tiên, đó là sự tham gia của Đức Giáo hoàng, kẻ mà nhờ sáng kiến trực tiếp của ngài khởi phát nỗ lực tin mừng hóa các sắc dân Angles, và là kẻ đã tích cực tham gia vào việc tin mừng hóa nước Đức vốn được tiến hành bởi thánh Boniface, và vào việc tin mừng hóa các sắc dân Slaves, được tiến hành bởi hai thánh Cyrille và Méthode; tiếp đến, là sự tham gia của các giám mục, các cha sở, tùy theo mức độ các cộng đoàn ngày càng được hình thành rõ nét hơn và trở nên ổn định hơn. Một số phụ nữ cũng đã đóng góp một vai trò tuy âm thầm nhưng mang tính quyết định. Đàng sau những cuộc trở lại quan trọng của các ông vua thuộc sắc tộc man di, thường thấy thấp thoáng bóng dáng ảnh hưởng của các bà vợ của họ : thánh nữ Clotilde đối với vua Clovis, thánh nữ Théodolinde đối với ông vua nhà lombard là Autharis, bà vợ công giáo của vua Edwin, người đã du nhập kitô-giáo vào miền Bắc nước Anh.

Nhưng, chính các đan sĩ mới là những diễn viên chính của công cuộc tái-tin mừng- hóa châu Âu, sau khi các sắc dân man di xâm nhập vào châu Âu. Ở phương Tây, phong trào đan viện, vốn đã bắt đâu từ thế kỷ IV, đã nhanh chóng lan rộng, nhưng qua hai thời kỳ và xuất phát từ hai hướng khác nhau. Đợt sóng thứ nhất khởi đi từ miền Nam và miền Trung của Gaule, nhất là từ Lérins (410) và từ Auxerre (418), và, nhờ công lao của thánh Patrick, vốn đã được đào tạo tại cả hai trung tâm đó, đợt sóng thứ nhất nầy đã thu về được Irlande, mà tất cả mọi hoa quả đời sống tôn giáo đều sẽ lệ thuộc vào nó. Từ đó, phong trào đan viện vượt qua đến vùng Ecosse, cùng với thánh Colomba, đấng sáng lập đan viện Iona (521-597), và cùng với thánh Cuhbert quê Lindisfarne (635-687), ở miền Bắc nước Anh, nơi mà ngài đã gieo trồng được một thứ kitô-giáo và một thứ phong trào đan viện mang màu sắc đặc thù celtique.

Những khởi đầu của đợt sóng đan viện thứ hai, chủ yếu là dành chiếm lại lợi thế trong cuộc chiến và hiệp nhất được các hình thái khác nhau của khuynh hướng đan viện phương Tây lại với nhau, có lẽ phải tính từ thời thánh Benoît (+547) như là khởi điểm. Thuộc về đợt sóng thứ hai nầy phải kể đan sĩ Augustin và các bạn bè của ông, vốn đã được thánh giáo hoàng Grégoire Cả sai đi. Những người nầy loan báo Tin Mừng cho mạn Nam nước Anh, mang lại cho vùng nầy một thứ kitô-giáo mẫu mã Roma, mà cuối cùng sẽ đánh bại thứ kitô-giáo theo kiểu celtique, và từ đó khiến cho kitô-giáo ở đây hài hòa được với phần còn lại của thế giới kitô-giáo, thí dụ như việc thống nhất được thời điểm của Ngày Lễ Phục Sinh.

Từ thế kỷ V đến thế kỷ VIII, châu Âu hoàn toàn bị bao vây bởi các đan viện, mà nhiều trong số đó sẽ đóng một vai trò hàng đầu trong việc hình thành lục địa nầy, trong việc định hình dung mạo tôn giáo và còn cả nghệ thuật, văn hóa và nông nghiệp. Chính trên cơ sở đó mà thánh Benoît đã được tuyên phong là Quan Thầy của châu Âu, và mà vì thế Đức Thánh Cha, năm 2005, đã chọn đan viện Subiaco làm nơi trình bày cách trọng thể về những gốc rễ kitô-giáo của châu Âu.

Hầu như tất cả các đan sĩ loan báo tin mừng vĩ đại đều xuất thân từ trào lưu được xếp hàng đầu trong hai trào lưu đã được kể ra trên đây, tức là trào lưu diễn ra trên lục địa Irlande và nước Anh. Những cái tên tiêu biểu nhất đó là thánh Colomban (542-651) và thánh Boniface (672-754). Vị thứ nhất, khởi đi từ Luxeuil, đã loan báo tin mừng cho nhiều vùng mạn Bắc Gaule và những bộ tộc miền Nam nước Đức, sang đến tận Bobbio, nước Italia; vị thứ hai, vốn được coi như nhà truyền bá tin mừng cho nước Đức, đã trãi dài hoạt động truyền giáo của mình đến tận vùng Frise, Hòa Lan hiện nay. Ngày 11 tháng 3 năm 2009, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI đã dành riêng một trong những bài giáo lý của ngài trong ngày thứ Tư cho vị thánh nầy (Boniface), nhằm nhấn mạnh đến những sợi dây liên kết chặt chẽ vẫn kết hợp vị thánh nầy với Giám mục Roma và đến hoạt động văn minh hóa mà vị thánh nầy đã khởi xướng nơi các sắc dân mà ngài đã loan báo tin mừng.

Khi đọc lại cuộc đời của hai vị thánh nầy, người ta có ấn tượng như đang sống lại cuộc phiêu lưu truyền giáo của tông đồ Phaolô ngày xưa : cũng cùng một niềm đam mê cháy bỏng mang tin mừng đến cho từng mỗi thụ tạo, cũng cùng một lòng dũng cảm dám đối diện với tất cả mọi thứ hiểm nguy và vất vả trên đường, cả đối với thánh Boniface và biết bao người khác nữa, cũng cùng một số phận kết thúc đó là tử vì đạo.

Những lỗ hổng trong nỗ lực loan báo tin mừng trên qui mô rộng lớn nầy vốn được biết đến nhiều, và chính khi so sánh với thánh Pholô mà người ta mới có thể thấy rõ được đâu là lỗ hổng chính trong những lỗ hổng nầy. Vị Tông Đồ, trong khi loan báo tin mừng, ở đâu ngài cũng canh cánh để thiết lập cho được một Giáo hội có thể bảo đảm được tính liên tục và sự phát triển đời sống kitô. Thông thường, vì thiếu phương tiện và vì những khó khăn không thể di chuyển được ngay bên trong một xã hội vẫn còn rối như bòng bong, nên các nhà tiên phong nầy vẫn chưa tìm ra được cách nào để bảo đảm được tính liên tục của công trình của mình.

Các dân tộc man di có khuynh hướng chỉ áp dụng một phần chương trình mà thánh Rémi đã vạch ra cho vua Clovis mà thôi : họ thờ lạy cái mà họ đã thiêu hủy, nhưng lại không thiêu hủy cái mà họ đã từng thờ lạy. Một phần hành trang thờ cúng ngẫu tượng và ngoại giáo vẫn còn đó, và chờ hễ có dịp lại ngóc đầu lên. Điều đó cũng giống như lối mòn của một số con đường trong rừng : không được bảo dưỡng và ít được đi lại, những con đường nầy nhanh chóng sẽ bị nuốt mất và xóa hết dấu vết bởi khu rừng rậm xung quanh. Duy chỉ có một công trình tồn tại lâu dài nhất nơi các nhà truyền bá tin mừng vĩ đại nầy đó là việc các ngài đã lập được nền móng cho cả một hệ thống các đan viện và, cùng với Augustin ở Anh và thánh Boniface ở Đức, thiết lập được những giáo phận và tổ chức được những nghị hội mà sau đó sẽ là một bảo đảm cho nỗ lực tái phục hồi lại một nỗ lực tin mừng hóa dài hơi hơn và đi vào chiều sâu hơn.

IV- Sứ vụ và chiêm niệm

Bây giờ đã đến lúc từ cái khung lịch sử nầy cần rút ra một vài chỉ dẫn cho ngày hôm nay. Điều trước tiên chúng ta cần ghi nhận đó là có một cái gì đó tương tự giữa thời kỳ mà chúng ta vừa mới viếng thăm và hoàn cảnh hiện nay. Vào thời đó, các dân di chuyển từ phía Đông sang phía Tây, còn bây giờ, di chuyển từ Nam lên Bắc. Giáo Hội, với thẩm quyền của mình, trong trường hơp nầy cũng vậy, đã chọn cho mình phạm vi hành động : cởi mở mình ra với cái mới và đón nhận những sắc dân mới.

Cái khác là ngày hôm nay đó không phải là những sắc dân ngoại giáo hay những kitô-hữu lạc giáo đến châu Âu, mà thường đó lại là những sắc dân đã có một tôn giáo được cơ cấu hẳn hoi và ý thức được mình là ai. Cái mới ở đây, vì thế, là nỗ lực đối thoại không đi ngược lại với việc loan báo tin mừng, mà là xác định phong cách của nỗ lực nầy. Chân phước giáo hoàng Jean-Paul II, trong thông điệp “Redemptoris missio” (“Sứ vụ của Đấng Cứu chuộc”) nói về giá trị thường hằng của mệnh lệnh truyền giáo, đã trình bày cách rõ ràng như thế nầy :

“Sự đối thoại liên tôn là một thành phần nằm ngay trong sứ vụ loan báo tin mừng của Giáo Hội. Được hiểu như một phương pháp và như phương tiện nhằm có một sự hiểu biết lẫn nhau và làm giàu lẫn cho nhau, sự đối thoại liên tôn không chống lại sứ vụ loan báo tin mừng cho muôn dân, trái lại, cách biệt loại, nó liên kết với sứ vụ nầy và là một cách thế diễn tả sứ vụ đó… Dưới ánh sáng của kế đồ cứu độ, Giáo Hội đánh giá chẳng có gì mâu thuẫn giữa việc loan báo Đức Kitô và sự đối thoại liên tôn, nhưng, Giáo Hội cảm thấy có sự cần thiết là phảilàm sao điều phối được cả hai nỗ lực nầy lại với nhau và đưa được vào trong cái khung của sứ vụ loan báo tin mừng cho muôn dân của Giáo Hội. Thật vậy, phải làm sao để cả hai nỗ lực nầy trong cùng lúc vừa liên kết mật thiết với nhau, vừa tách biệt nhau, và chính vì thế, người ta không được lẫn lộn chúng với nhau, không được lợi dụng nhau, cũng không được đánh đồng coi chúng như là tương đương với nhau, như kiểu chúng có thể thay đổi qua lại được cho nhau.”

Điều đã xẫy ra nơi châu Âu sau khi các sắc dân man di xâm nhập vào chứng tỏ cho chúng ta thấy một điều hết sức quan trọng đó là vai trò của đời sống chiêm niệm trong nỗ lực loan báo tin mừng. Đây là điều mà sắc lệnh công đồng “Ad gentes” (“Đến với muôn dân”) khi bàn về hoạt động truyền giáo của Giáo Hội muốn nói với chúng ta :

“Những sáng kiến đa dạng nhằm mục đích cắm rễ sâu trong đời sống chiêm niệm quả đáng phải có một lưu ý đặc biệt : một số thiết chế, trong khi vẫn giữ những yếu tố cốt yếu của đời sống đan viện, đang nỗ lực để cấy trồng lại truyền thống rất phong phú của dòng tu của họ; một số khác quay trở lại với những hình thái đơn giản hơn của truyền thống đan viện xưa; tuy nhiên, tất cả đều phải nỗ lực cố gắng để tim cho ra một con đường thích nghi thực sự với những điều kiện nơi địa phương mình đang sống. Đời sống chiêm niệm mà vốn đã từng đóng góp nhiều vào quá trinh phát triển của sự hiện diện của Giáo Hội cách đầy đủ cần phải được tái lập lại khắp nơi trong các Giáo Hội trẻ.”

Lời mời gọi nầy, mời gọi tìm kiếm những hình thái mới của đời sống đan viện nhằm phục vụ cho nỗ lực loan báo tin mừng, vốn được gợi hứng từ khuynh hướng đan viện xưa, không nằm yên trong sách vở, như những thứ chữ chết.

Một trong những hình thái nhằm đáp ứng cho niềm mơ ước nầy đã được thực hiện bởi “Fraternités monastiques de Jérusalem” (“Các huynh đoàn đan sĩ ở Giêrusalem”), vốn được biết đến như những nam đan sĩ và nữ đan sĩ của các thành thị. Người sáng lập những huynh đoàn nầy, cha Pierre-Marie Delfieux, sau khi đã sống hai năm trong sa mạc Sahara, mà bạn đồng hành chỉ có Thánh Thể và cuốn Thánh Kinh, đã hiểu ra rằng ngày hôm nay các thành phố lớn đã bị tục hóa cũng chính là những sa mạc. Được giới thiệu ở Paris, năm 1975, ngày Lễ Kính Các Thánh Nam Nữ, các huynh đoàn nầy từ nay hiện diện trong nhiều thành phố lớn của châu Âu, kể cả ở Roma, nơi mà các huynh đoàn nầy phụ trách nhà thờ “la Trinité-des-Monts”. Đặc sủng riêng của họ là loan báo tin mừng thông qua cái đẹp của nghệ thuật và của phụng vụ. Tu phục của họ, lối sống của họ, đơn giản và nhặt nhiệm, thời gian mà họ chia ra giữa lao động và kinh nguyện, tất cả đều mang dáng dấp của một đời sống đan viện. Cái mới ở đây, đó là họ định cư ngay giữa trung tâm các thành phố, nói chung, trong những ngôi nhà thờ cổ kính và có giá trị nghệ thuật lớn, và sự cộng tác giữa các sư huynh và các nữ tu trong lãnh vực phụng vụ chẳng tước đi giữa họ sự độc lập trong vấn đề cư trú và thẩm quyền. Con số những cuộc trở lại và những kitô-hữu trở lại với đức tin, chung quanh những nơi nầy, không phải là ít.

Và rồi, còn có đan viện Bose, ở Italia, thuộc loại hoàn toàn khác, nhưng cũng nằm trong bối cảnh trăm hoa đua nở những hình thái đan viện mới. Và, trong lãnh vực đại kết, chúng ta có đan viện Taizé, ở Pháp, vốn là một thí dụ điển hình trong nỗ lực đưa đời sống chiêm niệm trực tiếp đi vào trong những nỗ lực loan báo tin mừng.

Ngày 1 tháng 11 năm 1982, tại Avila, Đức Thánh Cha Jean-Paul II, khi tiếp một phái đoàn lớn các đại biểu nữ tu sống đời sống chiêm niệm, đã đề xuất với các nữ tu dòng kín có thể có một sự dấn thân trực tiếp hơn vào công cuộc loan báo tin mừng của Giáo Hội.

“Các đan viện của các con – Đức Thánh Cha đã nói – là những cộng đoàn cầu nguyện giữa các cộng đoàn kitô, mà các con hẳn mang lại cho họ sự trợ giúp, lương thực và niềm hy vọng. Đó là những nơi chốn đã được thánh hiến và chúng cũng có thể là những trung tâm kitô đón nhận các con người, nhất là những người trẻ, mà vốn thường đang tìm kiếm một cuộc sống thực sự giản đơn và trong suốt, ngược lại với những gì mà cuộc sống mà xã hội tiêu thụ đã cung cấp cho họ.”.

Lời kêu gọi của Đức Thánh Cha không phải chỉ là tiếng kêu trong hoang mạc mà đã được đáp ứng lại do bởi những sáng kiến xuất phát từ các nữ tu có đời sống chiêm niệm, sẵn sàng với công việc loan báo tin mừng. Một trong những sáng kiến đó đã có dịp được biết đến nhân hội nghị mà Hội đồng giáo hoàng phụ trách công cuộc tân-tin mừng-hóa đã tổ chức tại Vatican. Tất cả các hình thái mới nầy không nhằm thay thế các thực thể đan viện truyền thống xưa, mà nhiều trong số đó vốn là những trung tâm tỏa sáng những giá trị thuộc linh và loan báo tin mừng, mà là nhằm song hành bên nhau và làm phong phú hóa cho nhau.

Sẽ là thiếu sót nếu trong Giáo Hội có tình trạng tách biệt rành rẽ giữa những con người thì tận hiến cho chiêm niệm và những người khác thì tận hiến cho sứ vụ truyền giáo; cần phải tổng hợp hai điều nầy lại với nhau nơi đời sống của từng mỗi nhà truyền giáo. Nói cách khác, cầu nguyện “cho” các nhà truyền giáo không đủ, cần phải có lời cầu nguyện “của” các nhà truyền giáo. Những đan sĩ vĩ đại đã tái-tin mừng-hóa châu Âu sau khi các dân man di xâm nhập vào, vốn đã là những con người đã đi ra khỏi sự thinh lặng của đời sống chiêm niệm và quay trở về lại ngay từ khi hoàn cảnh cho phép. Hay đúng hơn, trong trái tim mình, họ không bao giờ hoàn toàn đi ra khỏi đan viện của mình. Họ như vậy là đã áp dụng trước lời khuyên mà thánh François d’Assise đã đưa ra cho các anh em của mình khi sai họ ra đi trên những nẽo đường thế giới : “Dù chúng ta ở đâu, dù chúng ta đi đâu, chúng ta cũng mang theo mình cái xà lim của chúng ta. Cái xà lim đó chính là người anh em thân thể nầy, và tâm hồn chúng ta là nhà ẩn sĩ đang cư ngụ trong cái xà lim nầy để cầu nguyện Thiên Chúa và suy niệm.”.

Về điều đó, chúng ta có một thí dụ có thẩm quyền hơn. Một ngày của Đức Giêsu là một chuỗi xen kẽ nhau giữa cầu nguyện và suy niệm. Đức Giêsu không cầu nguyên chỉ trước khi rao giảng, Ngài cầu nguyện để biết điều gì cần phải rao giảng, để kín múc nơi kinh nguyện những điều cần phải loan báo cho thế giới : “Vậy, những gì tôi nói, thì tôi nói đúng như Chúa Cha đã nói với tôi.” (Ga 12, 50b). “Thẩm quyền” mà Ngài có khi nói và mà đã gây ấn tượng đến thế vốn phát xuất từ đó.

Những nỗ lực mới loan báo tin mừng sẽ phải đối diện với hai nguy cơ. Nguy cơ thứ nhất đó là tình trạng án binh bất động, lười biếng, chẳng làm gì cả và hoàn toàn phó thác cho người khác Nguy cơ thứ hai là cứ vội vàng lao mình vào, lăng xăng, cuống cuồng, rối rít và tâm hồn trống rỗng theo cách loài người, và rồi kết thúc với tình trạng ngày càng ít đi khả năng tiếp xúc được với nguồn suối của lời và tính hiệu quả của nó. Người ta nói : “Nhưng làm thế nào mà cứ ngồi vậy được chứ, cứ lặng thinh cầu nguyện, trong khi có biết bao nhu cầu đang đòi hỏi phải có sự hiện diện của chúng ta, làm thế nào mà không phải chạy nhanh lên khi căn nhà đang cháy chứ ?”. Đúng vậy, nhưng chúng ta cứ thử tưởng tượng điều gì sẽ xãy ra nếu nhóm lính cứu hỏa vội vội vàng vàng chạy đi dập tắt đám cháy, nhưng khi đến nơi, bỗng phát hiện ra rằng chẳng còn một giọt nước nào trong bồn dự trữ cả ! Đó cũng là hoàn cảnh chúng ta thường gặp phải, khi chúng ta vội vàng tất bật chạy đi rao giảng tin mừng mà lại không cầu nguyện. Kinh nguyện vốn là vấn đề mấu chốt trong nỗ lực loan báo tin mừng, bởi vì “mục đích ưu tiên số một của công việc loan báo kitô không phải là nhằm truyền bá một mớ giáo lý, mà là truyền thông cái cụ thể liên quan đến hiện sinh”. Kẻ cầu nguyện mà không nói thì loan báo tin mừng nhiều hơn là kẻ nói mà không cầu nguyện.

V- Mẹ Maria, ngôi sao loan báo tin mừng

Chúng ta hãy chấm dứt bài suy niệm nầy với một tư tưởng mà thời gian phụng vụ của những ngày nầy và Ngày Lễ kính Đức Maria vô nhiễm mà chúng ta vừa cử hành hôm qua gợi lên cho chúng ta. Một ngày nọ, trong một cuộc đối thoại đại kết, một người anh em Tin lành đã hỏi tôi, mục đích không phải có ý tranh cãi, mà chỉ là muốn tìm hiểu thôi : “Tại sao các ngài, những người công giáo, lại nói rằng Đức Maria là ‘Ngôi Sao loan báo tin mừng’ ? Đức Maria đã làm gì để xứng đáng với tước hiệu đó?” Câu hỏi nầy đã là một cơ hội để tôi đào sâu vấn đề nầy, và tôi đã nhanh chóng tìm ra lý do sâu xa của nó. Đức Maria là Ngôi Sao loan báo tin mừng, bởi vì Mẹ đã mang trong mình chính Lời, không phải chỉ cho dân tộc nầy hay dân tộc nọ, mà là cho toàn thể thế giới !

Nhưng, không chỉ vì thế. Mẹ Maria đã mang Lời trong lòng dạ của mình, chứ không phải trên môi miệng. Mẹ, cách thể lý, đã ngập tràn Đức Kitô và đã làm cho Đức Kitô tỏa sáng ra bên ngoài bằng chính sự hiện diện của Ngài nơi mình. Đức Giêsu đã tỏa sáng ra nơi đôi mắt của Mẹ, nơi khuôn mặt của Mẹ, nơi toàn thể ngôi vị của Mẹ. Khi một ai đó xức dầu thơm, chẳng cần phải nói gì, cứ ở gần bên người đó thôi là cảm nhận được hương thơm, và Mẹ Maria, nhất là trong thời kỳ Mẹ mang Đức Kitô trong lòng dạ của mình, cũng tràn ngập hương thơm là Đức Giêsu-Kitô như vậy. Người ta có thể nói rằng Mẹ Maria là khu nội cấm đầu tiên của Giáo Hội. Sau Lễ Ngũ Tuần, Mẹ Maria như nhập vào khu nội cấm. Nhờ các thư của các tông đồ, chúng ta biết được cơ man nào là các nhân vật, nhưng cũng có từng ấy phụ nữ nơi cộng đoàn kitô tiên khởi. Ở nơi một thời điểm nào đó, người ta có nói tới một Maria nào đó (xem Rm 16, 6), nhưng đó không phải là Mẹ Maria. Về Maria, Mẹ của Đức Giêsu, chẳng thấy nói gì cả. Mẹ đã biến đi mất tăm mất tích vào trong chốn sâu thẳm nhất của cõi lặng thinh. Nhưng, được luôn có Mẹ bên cạnh khi viết sách Tin Mừng, điều nầy liệu có ý nghĩa gì đối với Tông đồ Gioan, và điều đó liệu cũng có thể có ý nghĩa gì chăng đối với chúng ta khi chúng ta loan báo cũng chính Tin Mừng đó mà luôn có Mẹ kề bên ! “Đóa hoa Tin Mừng – Origène viết – đó là Tin Mừng của Gioan, mà ý nghĩa sâu xa của nó chỉ kẻ nào đã từng được tựa đầu vào ngực của Đức Giêsu và đã từng từ Ngài được nhận Đức Maria như là Mẹ của mình, mới có thể nắm bắt được”.

Trong Giáo Hội, Đức Maria đã khai mào tâm hồn hay ơn gọi thứ hai nầy, tức là tâm hồn ẩn khuất và cầu nguyện, bên cạnh tâm hồn tông đồ hay hoạt động. Bức tranh truyền thống diễn tả biến cố Thăng Thiên, treo trên bức tường phải của ngôi nhà nguyện Redemptoris Mater (Mẹ Đấng Cứu Chuộc) nầy, là một diễn tả tuyệt vời cho điều đó. Đức Maria đứng, hai tay giang rộng, trong tư thế cầu nguyện. Chung quanh Mẹ, các tông đồ, tất cả đều trong tư thế một chân và một tay giơ lên, nói cách khác, là đang trong tư thế chuyển dịch, nhằm diễn tả Giáo Hội đang lên đường ra đi làm sứ vụ, nói và hành động. Đức Maria đứng bất động, bên dưới Chúa Giêsu, ngay tại nơi mà Đức Giêsu được dưa lên Trời, như muốn nói để ghi dấu mãi kỷ niệm nầy và đợi chờ ngày Đức Giêsu trở lại.

Chúng ta hãy kết thúc bài suy niệm nầy bằng cách nghe lại những lời cuối cùng trong thông điệp “Evangelii nuntiandi” (“Tin Mừng cần phải loan báo”) của Đức Thánh Cha Phaolô VI, nơi mà lần đầu tiên trong những tài liệu giáo hoàng, tên Mẹ Maria được đi kèm theo với tước hiệu “Ngôi Sao loan báo Tin Mừng” : “Vào buổi sáng ngày Lễ Ngũ Tuần, Mẹ Maria đã chủ tọa trong buổi cầu kinh để bắt đầu nỗ lực loan báo tin mừng, dưới tác động của Thánh Thần. Ước gì Mẹ là Ngôi Sao của nỗ lực loan báo tin mừng, vốn luôn được làm cho mới mẻ, mà Giáo Hội, vâng theo lệnh truyền của Đức Chúa của mình, cần phải động viên cổ vũ và phải hoàn tất, nhất là trong thời buổi khó khăn nhưng cũng tràn đầy hy vọng nầy !”

Ghi chú :

1- S. Jérôme, Comm. Sur Ezéchiel, III, 25, préf.; cf. Lettres LX, 18; CXXIII, 15-16; CXXVI, 2.
2- S. Léon le Grand, Sermon 82.
3- Grégoire de Tours, Historia Francorum, II, 31.
4- Jean-Paul II, Redemptoris missio, 55.
5- L.G., 18.
6- Legenda Perugina, 80 (FF, 1636).
7- Origène, Commentaire sur l’Evangile de Jean, I, 6, 23 (SCh, 120, p. 70).

[Bản Pháp ngữ của Zenit (Isabelle Cousturié), Bản Việt ngữ của linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung (giáo phận Phan Thiết)].
 
Khi nào hát thánh thi Te Deum
Nguyễn Trọng Đa
09:30 03/01/2012
Khi nào hát thánh thi TE DEUM?

"(TE DEUM) Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi hát mừng, tuyên xưng Ngài là Ðức Chúa”

VATICAN – Trong giờ kinh Chiều ngày 31-12-2011, ĐTC Biển Đức XVI đã nói: “Giáo Hội gợi ý rằng chúng ta không nên kết thúc năm cũ mà không bày tỏ lời cám tạ Chúa, vì những ơn lành của Ngài cho chúng ta”.

Và buổi đọc kinh Chiều này kết thúc với thánh thi Te Deum (Lạy Thiên Chúa).

Bài thánh thi cổ được một chuyên viên phụng vụ của hãng tin Zenit giải thích trong một bài viết năm 2010. Chúng tôi xin đăng lại lời giải thích này, kèm theo bản dịch tiếng Anh và tiếng Việt.

* * *

Giải đáp của Cha Edward McNamara, Dòng Đạo Binh Chúa Kitô, giáo sư phụng vụ tại đại học Regina Apostolorum (Nữ vương các thánh Tông đồ), Roma.

Hỏi: Tôi đã đọc và rất quan tâm bài viết của cha về thánh thi Adoro Te Devote. Tôi tự hỏi liệu cha có thể giúp giải thích kiểu như thế về thánh thi Te Deum không. Tôi xem thánh thi này là một thánh ca đẹp và muốn biết thêm về lịch sử và việc sử dụng thánh thi này. Xin cha giúp, cám on cha. - B.D., Columbia, Indiana (Mỹ)

Đáp: So với lịch sử rối rắm của thánh thi Te Deum, lịch sử của thánh thi Adoro Te Devote (Con tôn thờ Chúa hết lòng) khá đơn giản hơn nhiều.

Thánh thi Te Deum, một bài thánh thi Latinh cổ xưa bằng văn xuôi có nhịp điệu, có lẽ là một sự kết hợp từ ba nguồn. Thực vậy, có các nhịp điệu ba khổ, và ba giai điệu khác biệt trong một bài. Trong nhiều cách, thánh thi này giống một bài thánh ca văn xuôi phụng vụ cổ khác, là bài Gloria in Excelsis Deo (Kinh Vinh Danh: Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời).

Các giai điệu thánh thi là thuộc phong cách tiền Gregorian và phong cách Gregorian. Các phiên bản đa âm được sáng tác bởi nhiều nhạc sĩ, trong số đó có: G. Palestrina, GF Handel, Henry Purcell, Ralph Vaughan Williams, ML Cherubini, Benjamin Britten, H. Berlioz, A. Bruckner và A. Dvorak. Nhiều bản dịch tiếng Anh đã được thực hiện, trong đó có bài của nhà thơ John Dryden (1631-1700). Thánh thi nổi tiếng “Lạy Thiên Chúa, chúng con xin ca ngợi Danh Ngài”, mà nguồn gốc là một thánh thi năm 1775 của Hội thánh Lutherô bằng tiếng Đức, cũng dựa vào bài Te Deum.

Chúng tôi trình bày bản Latinh, bản dịch tiếng Anh được xuất bản trong Phụng Vụ Các Giờ Kinh năm 1975 (kèm theo bản dịch tiếng Việt). Vì lợi ích sự rõ ràng của thánh thi, chúng tôi đã phân chia nó thành ba phần như đã nói ở trên.

"Te deum laudamus te dominum confitemur / Te aeternum patrem omnis terra veneratur / Tibi omnes angeli Tibi caeli et universae potestates / Tibi cherubim et seraphim incessabili voce proclamant / Sanctus sanctus sanctus dominus deus sabaoth / Pleni sunt celi et terra maiestatis gloriae tuae / Te gloriosus apostolorum chorus / Te prophetarum laudabilis numerus / Te martyrum candidatus laudat exercitus / Te per orbem terrarum sancta confitetur ecclesia / Patrem inmense maiestatis / Venerandum tuum verum unicum filium / Sanctum quoque paraclytum spiritum.

"Tu rex gloriae christe / Tu patris sempiternus es filius / Tu ad liberandum suscepisti hominem non horruisti virginis uterum / Tu devicto mortis aculeo aperuisti credentibus regna caelorum / Tu ad dexteram dei sedes in gloria patris / Iudex crederis esse venturus / Te ergo quaesumus tuis famulis subveni quos pretioso sanguine redemisti / Aeterna fac cum sanctis tuis gloria numerari.

"Salvum fac populum tuum domine et benedic hereditati tuae / Et rege eos et extolle illos usque in aeternum / Per singulos dies benedicimus te / Et laudamus nomen tuum in saeculum et in saeculum saeculi / Dignare domine die isto, sine peccato nos custodire / Miserere nostri domine miserere nostri / Fiat misericordia tua domine super nos quemadmodum speravimus in te / In te domine speravi non confundar in aeternum"


Bản tiếng Anh: "You are God: we praise you; You are the Lord: we acclaim you; / You are the eternal Father: All creation worships you./ To you all angels, all the powers of heaven, / Cherubim and Seraphim, sing in endless praise: / Holy, holy, holy, Lord, God of power and might,/ heaven and earth are full of your glory./ The glorious company of apostles praise you./ The noble fellowship of prophets praise you. / The white-robed army of martyrs praises you. / Throughout the world the holy Church acclaims you:/ Father, of majesty unbounded, / your true and only Son, worthy of all worship, / and the Holy Spirit, advocate and guide.

“You, Christ, are the king of glory,/ the eternal Son of the Father./ When you became man to set us free / you did not spurn the Virgin's womb. / You overcame the sting of death, and opened the kingdom of heaven to all believers. / You are seated at God's right hand in glory./ We believe that you will come, and be our judge./ Come then, Lord, and help your people, bought with the price of your own blood, / and bring us with your saints to glory everlasting.

“Save your people, Lord, and bless your inheritance./ Govern and uphold them now and always./ Day by day we bless you./ We praise your name for ever. / Keep us today, Lord, from all sin. / Have mercy on us, Lord, have mercy. / Lord, show us your love and mercy; / for we put our trust in you. / In you, Lord, is our hope: / And we shall never hope in vain."


Bản dịch tiếng Việt: “Lạy Thiên Chúa, / Chúng con xin ca ngợi hát mừng, / Tuyên xưng Ngài là Ðức Chúa. / Chúa là Cha, Ðấng trường tồn vạn đại, / Hoàn vũ này kính cẩn suy tôn. / Trước nhan Chúa, các tổng thần phủ phục, / Mọi thiên thần và đạo binh thiên quốc, / Ðều cảm tạ và cung chúc tôn thờ, / Chẳng khi ngừng vang dậy tiếng tung hô: / Thánh! Thánh! Chí Thánh! / Chúa tể càn khôn là Ðấng Thánh! / Trời đất rạng ngời vinh quang Chúa uy linh. / Bậc Tông Ðồ đồng thanh ca ngợi Chúa, / Bao vị ngôn sứ tán tụng Ngài. / Ðoàn tử đạo quang huy hùng dũng, / Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài, / Và trải rộng khắp nơi trần thế, / Hội Thánh Ngài hoan hỷ tuyên xưng: / Chúa là Cha lẫm liệt uy hùng, / Và Con Một Ngài chí tôn chí ái, / Cùng Thánh Thần, Ðấng an ủi yêu thương.

“Lạy Ðức Kitô, Con Chúa Trời hằng sống, / Ngài là Chúa hiển vinh / Ðã chẳng nề mặc lấy xác phàm / Nơi cung lòng Trinh Nữ / Hầu giải phóng nhân loại lầm than. / Ngài đã ra tay chiến thắng tử thần, / Mở cửa trời cho những ai tin tưởng. / Ngài hiển trị bên hữu Chúa Cha, / Ngày cuối cùng sẽ giáng lâm thẩm phán. / Cúi lạy Chúa, xin phù hộ bề tôi / Ngài cứu chuộc bằng bửu huyết tuôn tràn. / Xin được hợp đoàn cùng muôn thần thánh, / Phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang.” (Nhóm CGKPV)


Như chúng tôi đã nói ở trên, chúng tôi có thể xử lý ba phần thánh thi khác biệt thành một bài. Phần đầu tiên hướng về Chúa Cha và kết thúc với một vinh tụng ca Ba Ngôi. Nó có thể là một bài sống sót hiếm hoi của các thánh thi được phổ biến trước Công đồng chung Nicea năm 325. Có nhiều qui chiếu đến bài này trong các tác phẩm của Thánh Cyprianô thành Carthage, và trong cuộc Khổ nạn của Thánh Perpetua, như thế nó chắc là được sáng tác trước năm 250.

Phần thứ hai, hoàn toàn hướng về Chúa Kitô, là rõ ràng muộn hơn và phản ánh các cuộc tranh luận xung quanh lạc giáo Arius trong thế kỷ thứ tư. Nó cũng là phần hoàn hảo hơn trong việc tôn trọng các quy tắc hùng biện văn chương Latinh.

Phần thứ ba được hình thành từ một loạt các câu Thánh Vịnh. Có thể rằng các câu này được đưa thêm vào như là một kinh cầu vào cuối bài thánh thi. Một điều gì tương tự xảy ra ngày hôm nay khi người ta thêm câu "Ngài đã cho họ bánh bởi trời ..." sau thánh ca Tantum Ergo. Kinh cầu cũng đã trở thành một phần của bài thánh thi. Thật vậy, trong nghi lễ Ambrosian ở Milan, thánh thi Te Deum kết thúc với câu "Aeterna fac cum sanctis tuis gloria [Munerari]” (Xin được hợp đoàn cùng muôn thần thánh, phúc miên trường vui hưởng ánh vinh quang). Chữ đỏ hiện nay cũng cho phép này xoá bỏ phần này trong nghi lễ Roma.

Có nhiều thuyết về tác giả của thánh thi, đặc biệt là đối với người sáng tác phần thứ hai và thêm nó vào phần đầu tiên. Các ứng viên sáng giá là Nicetas (khoảng 335-414), Giám mục giáo phận Remesiana, tức là giáo phận Bela Palanka ở Serbia ngày nay. Tài năng thơ ca của vị giám mục truyền giáo nhiệt thành này đã được công nhận bởi các người đương thời, như thánh Jerome và thánh Paulinus thành Nola, cũng như Gennadius khoảng 75 năm sau đó. Tác giả Nicetas được chứng thực bởi khoảng 10 bản thảo, bản sớm nhất vào thế kỷ thứ 10 và hầu hết có nguồn gốc Ireland. Dường như sự cô lập của Ireland có thể duy trì một sự gán tên tác giá cổ xưa, trong khi ở lục địa châu Âu, bài thánh thi đã được gán cho các người nổi tiếng hơn, chẳng hạn Thánh Hilary và Thánh Ambrôsiô. Một cuộc thảo luận chi tiết hơn về vấn đề quyền tác giả và bản dịch của văn bản có thể được tìm thấy trong Bách khoa từ điển Công giáo trực tuyến.

Bằng chứng sớm nhất cho việc sử dụng bài thánh thi này trong Thần Vụ được tìm thấy ở Thánh Caesarius thành Arles năm 502. Thánh Biển Đức (qua đời năm 526) cũng quy định như thế cho các tu sĩ của mình. Chữ đỏ tổng quát của sách Thần Vụ ngày nay chỉ định việc đọc thánh thi Te Deum trước lời nguyện kết thúc của Kinh Sách trong mọi Chủ nhật ngoài mùa Chay, trong tuần bát nhật lễ Phục sinh và lễ Giáng sinh, trong các lễ trọng và lễ buộc.

Người ta cũng thường hát thánh thi Te Deum như một bài thánh ca tạ ơn Thiên Chúa vào những dịp đặc biệt tôn giáo và dân sự. Các dịp lễ tôn giáo là chẳng hạn như cuộc bầu cử Giáo Hoàng, lễ tấn phong Giám mục, lễ phong thánh, lễ khấn Dòng, và các dịp quan trọng khác.

Tại nhiều quốc gia Công Giáo theo truyền thống, thường chính quyền dân sự tham dự một nghi thức tạ ơn đặc biệt với việc hát thánh thi Te Deum, chẳng hạn dịp lễ đăng quang Nhà Vua, lễ nhậm chức tổng thống, lễ ký hiệp ước hòa bình và các ngày kỷ niệm lịch sử quan trọng. Truyền thống này đôi khi được qui định bởi nghi thức nghiêm ngặt. Ví dụ, khi Tướng Charles de Gaulle hân hoan chiến thắng bước vào thủ đô Paris được giải phóng, trong Chiến tranh thế giới thứ hai, các Kinh sĩ Nhà thờ chính toà Đức Bà tranh luận liệu nhà lãnh đạo Pháp được công nhận cũng là quốc trưởng hợp pháp không. Thánh thi Te Deum chỉ có thể được hát cho vị quốc trưởng hợp pháp của nhà nước, do đó tình hình pháp lý đã bối rối. Vì vậy, khi tướng De Gaulle bước vào nhà thờ, các Kinh sĩ đón tiếp ông một cách ngoại giao bằng cách hát bài Magnificat (Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa).

Cuối cùng, theo truyền thống, thánh thi Te Deum được hát ngày 31-12 để tạ ơn Chúa vì một năm cũ sắp qua đi. Giáo Hội ban ơn toàn xá cho những người tham gia việc hát hay đọc công khai thánh thi Te Deum trong ngày này. (Zenit.org 1-1-2012)

Nguyễn Trọng Đa
 
Sứ Điệp Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế Giới các bệnh nhân 2012
LM Trần Đức Anh OP
11:13 03/01/2012
VATICAN - ĐTC Biển Đức 16 kêu gọi các tín hữu nêu cao giá trị của các bí tích chữa lành là bí tích Thống Hối hòa giải và bí tích xức dầu bệnh nhân.

Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong Sứ điệp công bố hôm 3-1-2012, nhân Ngày Thế giới các bệnh nhân lần thứ 20 sẽ được cử hành vào ngày 11-2 tới đây với chủ đề ”Hãy đứng lên và đi; đức tin của con đã cứu con!” (Lc 17,19).

Trong Sứ điệp, ĐTC cho biết năm nay cũng là dịp chuẩn bị gần cho việc cử hành trọng thể Ngày Thế giới các bệnh nhân vào năm tới, 11-2-2013 tại Đức. Ngài nhắc đến sự tích Chúa Giêsu chữa lành 10 người phong cùi và chỉ có 1 người được trở lại cảm tạ Chúa, như được trình thuật trong Phúc Âm theo thánh Luca (Lc 17,11-19). Trong dịp đó Chúa nói với người phong: ”Hãy đứng lên và đi, đức tin của con đã cứu con!”. Những điều này giúp ý thức tầm quan trọng của đức tin đối với những người đang chịu đau khổ và bệnh tật mà đến gần Chúa. Trong cuộc gặp gỡ Chúa, họ có thể thực sự cảm nghiệm rằng ai tin tưởng thì không bao giờ lẻ loi!.. Ai ở trong đau khổ và bệnh tật mà kêu cầu Chúa, thì chắc chắn tình yêu của Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi họ, và cả tình yêu của Giáo Hội sẽ không bao giờ thiếu, tình yêu này chính là sự kéo dài trong thời gian công trình cứu độ của Chúa”.

ĐTC đề cao vai trò của bí tích Thống Hối nơi các bệnh nhân và những người đau khổ. Ngài viết: ”Thời điểm mà bệnh nhân dễ bị cám dỗ rơi vào tình trạng nản chí và tuyệt vọng ấy có thể biến thành một thời điểm ân phúc, giúp họ trở về với chính mình, và như người con hoang đàng, nghĩ lại cuộc sống của mình, nhìn nhận những lỗi lầm và thiếu sót, nhớ nhung vòng tay ấp ủ của người Cha, và tái khám phá con đường về Nhà Cha”.

ĐTC cảnh giác chống lại quan niệm coi bí tích xức dầu bệnh nhân chỉ là một bí tích ”hạng nhỏ” so với các bí tích khác. Ngài viết ”Sự quan tâm và chăm sóc mục vụ cho các bệnh nhân, một đàng là dấu chỉ sự dịu hiền của Thiên Chúa đối với người đang đau khổ, và đàng khác mang lại lợi điểm tinh thần cho cả các LM và toàn thể cộng đoàn Kitô, với ý thức rằng những gì được làm cho người bé nhỏ nhất, chính là làm cho Chúa Giêsu” (Xc Mt 25,40).
ĐTC cũng nhấn mạnh rằng ”bí tích xức dầu bệnh nhân là những phương thế quí giá của ân thánh Chúa, giúp các bệnh nhân ngày càng trở nên đồng hình dạng với Mầu Nhiệm sự chết và phục sinh của Chúa Kitô”.

ĐTC liên kết hai bí tích Thống Hối và xức dầu bệnh nhân với bí tích Thánh Thể, và ngài khích lệ các LM khi mang Mình Thánh Chúa cho các bệnh nhân, hãy ý thức mình thực sự là những thừa tác viên của các bệnh nhân, là dấu chỉ và là phương tiện của lòng từ bi Chúa Kitô, phải được biểu lộ cho mọi người đang chịu đau khổ.

Sau cùng, ĐTC nhắc đến ”Năm Đức Tin” sẽ bắt đầu từ ngày 11-10-2012 và ngài gọi đây là dịp thuận tiện và quý giá để tái khám phá sức mạnh và vẻ đẹp của đức tin, để đào sâu nội dung đức tin cũng như để làm chứng đức tin trong đời sống thường nhật. Ngài viết: ”Tôi muốn khuyến khích các bệnh nhân và những người đau khổ luôn tìm thấy một chiếc neo chắc chắn trong đức tin, được nuôi dưỡng bằng sự lắng nghe Lời Chúa, bằng kinh nguyện bản thân và các bí tích, trong khi tôi mời gọi các vị Mục Tử hãy luôn sẵn sàng cử hành đức tin cho các bệnh nhân. Theo gương Vị Mục Tử Nhân Lành và trong tư cách là những người dẫn dắt đoàn chiên đã được ủy thác, các linh mục hãy đầy vui mừng, ân cần đối với những người yếu đuối nhất, những người đơn sơ và tội nhân, biểu lộ cho họ lòng từ bi vô biên của Thiên Chúa với những lời đầy hy vọng” (Xc S. Augustino, Lettera 95, 1: PL 33, 351-352) (SD 3-1-2012)
 
Kitô hữu Nigeria nạn nhân của lực lượng hồi cuồng tín Boko Haram
Linh Tiến Khải
11:17 03/01/2012
Phỏng vấn Đức Tổng Giám Mục Augustin Kasujja, Sứ Thần Tòa Thánh tại Nigeria, và ông Stanley Ukeni, chuyên viên phân tích tình hình chính trị, về các vụ khủng bố tấn công các nhà thờ kitô tại Nigeria, trong dịp lễ Giáng Sinh 2011.

Trong ngày lễ Giáng Sinh 2011 lực lượng hồi giáo cuồng tín Boko Haram đã tấn công một số các nhà thờ kitô trong các tỉnh Abuja, Jos, Gadaka và Damaturi bên Nigeria, khiến cho 200 tín hữu bị chết và hàng trăm người khác bị thương. Tất cả các thành phố nói trên đều ở miền bắc Nigeria, là vùng có đa số dân theo Hồi giáo, và luật Sharia đã được áp dụng trên cuộc sống của người dân tại 12 trên tổng số 37 tiểu bang. Ngày 26-12-2011 lại đã xảy ra nhiều vụ đốt phá hàng quán của các tín hữu kitô: ít nhất đã có 30 hàng quán bị các nhóm hồi cuồng tín tấn công, khiến cho hàng trăm kitô hữu phải chạy trốn.

Lực lượng Boko Haram được Imam Mohammed Yusuf thành lập cách đây hơn 10 năm và quy tụ nhiều giáo phái hồi nhỏ, được định nghĩa là ”các người Taleban Nigeria”. Lãnh tụ Yusuf đã qua đời trong tù cách đây 2 năm.

Trong tiếng Hausa ”Boko Haram” có nghĩa là ”giáo dục tây phương bị cấm”, để nói rằng chỉ có nền giáo dục hồi dựa trên kinh Coran là có giá trị và được phép. Từ hơn mười năm qua lực lượng hồi cuồng tín này đã khiến cho hơn 3.000 người bị chết, đa số là tín hữu kitô.

Hồi cuối thập niên 1990 và đầu năm 2000 các nhóm hồi cuồng tín này đã bị chính quyền Nigeria đánh dẹp tại miền bắc. Từ đó đến nay, họ rút lui về Maiduguri, thủ phủ tiểu bang Borno, ở mạn đông bắc Nigeria. Ông Abubakar Mùazu, giáo sư truyền thông thuộc đại học Maiduguri, cho biết lực lượng Boko Haram được lãnh đạo bởi một một nhóm người cấu kết với tổ chức khủng bố hồi giáo quốc tế Al Qaeda, càng ngày càng có nhiều khả năng tài chánh cũng như kỹ thuật. Đây là lần thứ hai lực lượng Boko Haram cho nổ bom tại Abuja, sau vụ tấn cống trụ sở Liên Hiệp Quốc ngày 26 tháng 8 năm 2011 khiến cho 24 người thiệt mạng.

Tổng thống Goodluck Jonathan, là tín hữu công giáo, đã gặp gỡ các lãnh tụ hồi giáo, trong đó có Sultan Sokoro, lãnh tụ tối cao của Hồi giáo tại Nigeria. Bình luận về các vụ khủng bố ngày lễ Giáng Sinh vừa qua, tổng thống nói: ”Các hành động chống lại thường dân không phương thế tự vệ này là một tấn kích chống lại sự tự do và nền an ninh quốc gia của chúng ta, và là điều không thể biện minh được”. Tổng thống cho biết sẽ triệu tập một cuộc họp thượng đỉnh về an ninh vào dầu tháng giêng năm 2012.

Ông Muhamadu Buhari, nguyên lãnh tụ quân đội đã thất cử trong cuộc đầu hiếu hồi tháng 4 năm 2011, đã chỉ trích chính quyền là chậm chạp và thờ ơ không muốn giải quyết vấn đề. Theo ông đây là sự thất bại rõ ràng của giới lãnh đạo chính trị Nigeria.

Đức Cha John Olorunfemi Onayekan, Tổng Giám Mục Abuja, thì tuyên bố: ”Đa số các tín hữu kitô và hồi giáo muốn sống trong hòa bình với nhau. Chúng tôi đã nỗ lực rất nhiều để khích lệ và thăng tiến một cuộc sống hòa hợp và tôn trọng lẫn nhau với cộng đoàn hồi giáo. Chúng tôi phải tiếp tục hy vọng, mặc dù đã xảy ra các biến cố đáng buồn như trên, nhưng tiếp tục con đường đối thoại và hòa giải là điều đáng công”. Đức Cha cũng cho biết có nhiều người trẻ rất giận dữ trước các vụ khủng bố như thế này. Và ngài đã nói với chính quyền rằng, kiểu duy nhất giúp trấn an người trẻ đó là phải nhận diện và loại trừ các nhóm hồi cuồng tín này khỏi Nigeria.

Liên bang cộng hòa Nigeria rộng 923.768 cây số vuông, gồm 37 tiểu bang, có 167 triệu dân thuộc hơn 250 chủng tộc, với các ngôn ngữ và tập tục khác nhau. Các chủng tộc Fulani-Hausa, Yoruba và Igbo chiếm 68% tổng số dân; các chủng tộc Edo, Ijaw, Kanuri và Ibibio chiếm 27% và các chủng tộc còn lại chiếm 7%. Trên bình diện ngôn ngữ thực ra Nigeria có tới 521 tiếng nói khác nhau, trong đó có 510 ngôn ngữ còn sống, 2 ngôn ngữ không có người bản địa nói, và 9 ngôn ngữ chết. Vì Nigeria là cựu thuộc địa của anh quốc nên tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ chính. Trên bình diện tôn giáo, 50% dân theo Hồi giáo, đa số sống trong các tiểu bang miền bắc, 40% theo Kitô giáo, đa số sống trong các tiểu bang miền nam, và 10% theo đạo thờ vật linh và các tôn giáo khác.

Sau đây chúng tôi xin gửi tới qúy vị và các bạn một số nhận định của Đức Tổng Giám Mục Augustin Kasujja, Sứ Thần Tòa Thánh tại Nigeria, và ông Stanley Ukeni, chuyên viên phân tích tình hình chính trị, về các vụ khủng bố tấn công các nhà thờ kitô nói trên.

Hỏi: Thưa Đức Tổng Giám Mục Kasujja, Đức Tổng Giám Mục nghĩ gì về các vụ tấn công các nhà thờ kitô tại Nigeria trong ngày lễ Giáng Sinh 25-12 năm vừa qua?

Đáp: Cuộc tấn công các nhà thờ kitô trong ngày lễ Giáng Sinh Chúa Nhật 25-12 năm vừa qua xem ra cho thấy ”một chứng ung thư” cần phải được nhổ tận gốc rễ ngay lập tức, không phải chỉ bởi các kitô hữu và các chính trị gia mà thôi, mà bởi toàn dân Nigeria. Có lẽ cũng cần có một cuộc họp của Ủy ban liên tôn quốc gia giữa các tín hữu kitô và tín hữu hồi, để cùng nhau nghiên cứu xem phải phòng ngừa các hành động bạo lực ấy như thế nào. Như chính quyền địa phương đã cho biết, nếu qủa bom mạnh như vậy được đem đặt trong nhà thờ, thì chắc chắn nó đã được chuẩn bị ở một chỗ nào đó, và hẳn đã có người nào đó đã biết hay đã trông thấy.

Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh, hiện nay tình hình Nigeria ra sao sau các vụ tấn công các nhà thờ kitô nói trên?

Đáp: Sau vụ tấn công nhà thờ công giáo thánh Terexa và các nhà thờ khác, người dân đã rất bị kích động và giận dữ nữa. Tôi đã đến thăm nhà thờ kính thánh nữ Terexa hôm sau đó, sau khi đã viếng thăm các người bị thương tại nhà thương Abuja để an ủi họ và đem tới cho họ sự hiện diện liên đới của Giáo Hội. Thế rồi còn có sứ điệp của Đức Thánh Cha Biển Đức XVI trong ngày lễ Giáng Sinh và trong lễ kính thánh Stêphanô; sứ điệp đã trấn an tín hữu đặc biệt tại những nơi đã xảy ra các vụ tấn công. Các lời của Đức Thánh Cha đã không chỉ an ủi các nạn nhân, mà còn giúp nhận định những gĩ đã xảy ra với tinh thần trách nhiệm hơn là với bạo lực. Chính lễ kính thánh Stêphanô, vị tử đạo đầu tiên của Giáo Hội, đã là một bài giảng cho người dân đang đau khổ trong chính ngày lễ Giáng Sinh. Trong thánh lễ kính thánh Stêphanô trong nhà thờ thánh nữ Terexa, tức hôm sau ngày xảy ra vụ mưu sát, đã có rất đông tín hữu hiện diện. Điều này có nghĩa là sứ điệp của Đức Thánh Cha đã khích lệ họ rất nhiều.

Hỏi: Một kiểu đọc hiểu hời hợt điều đã xảy ra tại Nigeria có thể khiến cho người ta nghĩ rằng đây là một cuộc chiến tôn giáo. Thực ra thì không phải như vậy. Vậy thì có các lý do nào khác gắn liền với các sự kiện thê thảm như thế, thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh?

Đáp: Nhiều quan sát viên khác nhau nói rằng đàng sau các vụ tấn công như thế cũng có các lý do chính trị. Nhưng đây là điều cần phải kiểm thực... Cách đây một tháng, khi người ta bắt được một phát ngôn viên của lực lượng Boko Haram, xem ra người này đã tiết lộ cho biết lực lượng có vài tiếp xúc với các giới chức chính trị Nigeria. Có các giới chức chính trị ẩn nấp đàng sau lệnh của những người này.

Hỏi: Như thế có nghĩa là lực lượng Boko Haram có các tiếp xúc với giới chức chính trị tại Nigeria, có phải thế không thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh?

Đáp: Dựa trên những gì phát ngôn viên thành viên của lực lượng Boko Haram bị bắt cách đây một tháng cho biết, thì xem ra đó là điều có thật. Ông này đã bị kết án tù 3 năm.

Hỏi: Vậy đâu là các lợi lộc mà giới chức chính trị có được khi dưỡng nuôi các bạo lực này trong nước?

Đáp: Xem ra thì từ khi có các cuộc bầu cử chính trị hồi tháng 4 năm 2011, nhóm Boko Haram đã được củng cố thế lực nhiều hơn. Ngay sau các cuộc bầu cử, các vụ bạo lực đã gia tăng, nhất là tại miền bắc Nigeria. Có người nói rằng vài giới chức chính trị miền bắc không hài lòng, vì tổng thống đắc cử là người miền nam Nigeria, mà lại là một kitô hữu...

Hỏi: Thưa Đức Sứ Thần Tòa Thánh, vùng Phi châu nam sa mạc Sahara có nguy cơ ngày càng nằm dưới ảnh hưởng của tổ chức Al Qaeda và phong trào Hồi giáo cuồng tín hay không?

Đáp: Boko Haram là một nhóm hồi cuồng tín được thành lập năm 2002 và đang lớn mạnh. Các phương tiện họ có hồi đó bây giờ đã trở thành tinh vi hơn. Và điều này có nghĩa là có ai đó để cho các phương tiện ấy vào được trong nước. Nhưng nếu có ý chí, thì cũng có thể ngăn chặn được nhóm này.

** Sau đây là một số nhận định của ông Stanley Ukeni, người bất đồng ý kiến với chính quyền Nigeria, hiện sống lưu vong và là chuyên viên phân tích tình hình chính trị Nigeria.

Hỏi: Thưa ông Ukeni, có cái gì đàng sau chương trình bạo lực của tổ chức Boko Haram này hay không?

Đáp: Đàng sau các vụ bạo lực khủng bố đó có tham vọng quyền bính chính trị của các giới chức miền bắc đã mất tổng thống của họ là ông Umaru Yar' Ardua và đã thua trong các cuộc bầu cử hồi tháng 4 năm 2011. Chính vì thế nên họ sẵn sàng đánh phạt tổng thống Goodluck Jonathan để tái chiếm việc kiểm soát chính quyền.

Hỏi: Vậy thì làm sao giải thích được yêu sách tôn giáo của lực lượng khủng bố này?

Đáp: Tổ chức Boko Haram chỉ là một trong các dụng cụ được các giới chức chính trị sử dụng để tấn công chính quyền hiện nay tại Nigeria. Đối với những kẻ tài trợ cho các chiến binh hồi giáo thì số người chết trong tiến trình này không có gì quan trọng.

Hỏi: Các vụ đặt bom các nhà thờ kitô trong ngày lễ Giáng Sinh vừa qua đã được chuẩn bị từ lâu trước đó, hay chỉ là phản ứng chống lại các biện pháp an ninh của chính quyền, thưa ông?

Đáp: Mặc dù có các hoạt động bảo vệ an ninh của chính quyền, họ đã giết hại rất nhiều thường dân. Các vụ khủng bố đã được chuẩn bị từ rất lâu trước đó. Các thủ lãnh của phong trào Boko Haram cũng đã báo trước cho dân chúng biết ý định của họ.

Hỏi: Thế thì tại sao họ lại tấn công các nhà thờ kitô, mà không phải là các đồn bốt cảnh sát, như họ đã làm trong qúa khứ?

Đáp: Họ muốn đánh trúng tim của các kitô hữu chiếm đa số tại miền nam Nigeria, và qua đó tấn công chính quyền. Ngoài ra họ còn muốn lôi kéo sự chú ý của cộng đồng quốc tế, và rất tiếc là họ đã thành công.

Hỏi: Vậy phải tìm những kẻ có trách nhiệm đối với các vụ bạo lực này tại Nigeria hay sao thưa ông?

Đáp: Một vài người có trách nhiệm đối với các vụ bạo lực này đang giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền và cơ quan mật vụ Nigeria. Những người khác sống ngoài Nigeria. Các vụ khủng bố loại này thường được chuẩn bị bên ngoài vùng đất chúng cố ý tàn phá.

Hỏi: Thưa ông, cuộc xung đột này chỉ liên quan tới nước Nigeria hay còn liên quan tới các quốc gia nào khác nữa?

Đáp: Chắc chắn là nó không chỉ liên quan tới nước Nigeria. Nigeria là quốc gia sản xuất nhiều dầu hỏa nhất Phi châu. Vì thế tôi xác tín rằng nó bị sử dụng như bãi chiến trường bởi cả các cường lực ngoại quốc nữa. Chẳng hạn như Iran có thể là quốc gia muốn trông thấy Nigeria bị bất ổn để gây thiệt hại cho các vụ làm ăn trong lãnh vực dầu hỏa với Hoa Kỳ là kẻ thù của họ.

Hỏi: Thưa ông, vậy cuộc đối thoại với phe đối lập có thể giúp giải quyết cuộc khủng hoảng trong một cách thế nào đó hay không?

Đáp: Những kẻ sẵn sàng sát hại biết bao người vô tội như thế, thì họ không muốn đối thoại. Đàng khác, việc trả đũa cứng rắn của chính quyền Nigeria không giúp giải quyết cuộc khủng hoảng một cách an bình. Điều mà phe đối lập muốn chính là tình trạng bất ổn này, hầu như là một cuộc nội chiến, như đã xảy ra hồi năm 1967. Trong bối cảnh này, giải pháp duy nhất là chính quyền củng cố và bảo đảm việc tôn trọng luật lệ, bằng cách trừng phạt những kẻ có trách nhiệm đối với các vụ bạo lực này một cách thích đáng. Nhưng trái lại, tại Nigeria những kẻ có tội ấy lại không bị trừng phạt.

(RG 28-12-2011; Avvenire 27-12-2011)
 
Top Stories
Birmanie - Combats dans l’Etat Kachin: « Toute paix durable doit se construire sur une réconciliation nationale »
Eglises d'Asie
11:33 03/01/2012
Directeur de Karuna Lashio Social Services, branche de la Caritas attachée au diocèse de Lashio, le P. Christopher Raj est extérieur au conflit qui se joue dans l’Etat Kachin, entre l’armée gouvernementale et la Kachin Independence Army. Lashio est en effet situé dans la partie nord de l’Etat Shan, au sud de l’Etat Kachin. Dans une récente tribune...

... publiée sur les fils de l’agence Ucanews (1), il évoque le conflit et les conditions qui permettraient l’apparition d’une paix durable dans l’Etat Kachin ainsi que, de manière plus générale, entre le pouvoir central et les minorités ethniques de Birmanie.

Reprenant l’histoire du conflit entre le pouvoir birman et les Kachin, le P. Christopher Raj estime que la paix ne pourra être durable qu’au prix d’une réelle entente entre les parties en présence. Il rappelle qu’en 1994, la KIA fut la première rébellion ethnique armée de Birmanie à conclure un cessez-le-feu avec le gouvernement central. Si les combats ont repris en juin 2011, c’est notamment parce que le projet gouvernemental d’intégration des rébellions armées dans un corps de garde-frontières était mal accepté par la KIA et que les intérêts des Kachin n’étaient pas suffisamment pris en compte, notamment en matière de défense de l’environnement et de partage des ressources naturelles.

« Lors d’une période de cessez-le-feu, on constate que les différentes parties en présence se lancent dans les affaires, que ce soit l’exploitation des forêts, les ressources minières ou d’autres ressources naturelles, mais les militaires comme les minorités ne parviennent pas à de véritables relations de confiance. La paix n’est donc que de surface et les tensions apparaissent vite autour de la nécessaire régulation de l’exploitation des ressources naturelles. Sans régulation, c’est l’appât du gain qui prévaut et qui aboutit au pillage de ces ressources », explique le P. Christopher Raj. De fait, ces dernières années, dans l’Etat Kachin, la déforestation a été très importante et s’est accompagnée d’inondations, de glissements de terrain et d’autres désastres naturels.

Selon le prêtre catholique pour qui « la paix est bien plus que l’absence de la guerre », la Birmanie n’a plus les moyens de conclure un cessez-le-feu comme celui de 1994, qui se traduirait par un nouveau boom des affaires, une surexploitation des ressources et, au final, un clash des intérêts en présence. Pour parvenir à une paix durable, les différentes parties doivent s’entendre sur la protection des ressources naturelles pour les générations à venir. Elles doivent également dépasser les rancunes du passé pour aller de l’avant. A titre d’exemple, le ‘Jour de l’Union’, le ‘Jour de l’Indépendance’, le ‘Jour des Martyrs’ ou la fête nationale ne doivent pas être seulement célébrés par les Birmans tandis que les minorités célèbrent de leur côté les diverses fêtes liées à chacune de leurs ethnies respectives. Chaque communauté doit apprendre à connaître et respecter les richesses culturelles de l’autre, indique le prêtre, pour qui la réconciliation nationale est un chantier préalable à toute paix durable.

Les propos du P. Christopher Raj s’inscrivent en écho à ceux du pape Benoît XVI, qui, le 25 décembre dernier à l’occasion de son traditionnel message Urbi et Orbi, a nommément évoqué la Birmanie en ces termes : « Puisse la naissance du Sauveur soutenir les perspectives de dialogue et de collaboration au Myanmar, pour la recherche de solutions partagées. »

A ce jour, les nouvelles qui parviennent de l’Etat Kachin sont en partie contradictoires. Malgré l’annonce, le 12 décembre dernier, par le président Thein Sein de l’arrêt des « opérations offensives » de l’armée birmane dans l’Etat Kachin (2), des informations de sources ecclésiales évoquent au contraire une situation qui va en s’aggravant, notamment d’un point de vue humanitaire.

Certaines évoquent le fait que l’armée birmane reste désormais cantonnée dans ses bases et que ses soldats ne tirent plus que pour défendre une zone de sécurité autour de leurs campements. D’autres, citant des officiers supérieurs, affirment que l’ordre présidentiel du 12 décembre n’est pas parvenu sur le terrain et que les combats entre la KIA (Kachin Independence Army) et les troupes gouvernementales se poursuivent.

Selon Mgr Raymond Sumlut Gam, évêque du diocèse catholique de Banmaw (dont le territoire couvre la moitié sud de l’Etat Kachin), des milliers de soldats, appuyés par des blindés et des hélicoptères, sont toujours déployés dans la région, et des combats « à l’arme lourde » se poursuivent. L’évêque fait part de la situation de plus en plus précaire des populations déplacées. Prisonnières des combats, leurs habitations incendiées par l’armée, ces populations civiles kachin se trouvent « prises au piège, bloquées le long de la frontière [avec la Chine populaire, qui interdit le passage sur son sol, NLDR] ».

L’évêque en appelle à la communauté internationale, dans la perspective d’une visite prochaine en Birmanie de William Hague, ministre britannique des Affaires étrangères. « Nous demandons à la communauté internationale et aux gouvernements étrangers d’œuvrer en faveur de l’arrêt immédiat des combats afin d’engager un processus de paix et de réconciliation », a notamment déclaré Mgr Raymond le 17 décembre 2011 à l’agence Fides. Dans un diocèse qui compte 29 000 catholiques pour environ 400 000 habitants, les secours apportés aux personnes déplacées pèsent lourds sur les ressources alimentaires et financières disponibles. La Caritas locale a en effet pris en charge près de 14 000 personnes, réparties en plusieurs camps et aidées par les prêtres locaux et les religieuses, notamment les franciscaines missionnaires de Marie.

(1) Ucanews, 3 janvier 2012.
(2) Voir dépêche EDA du 14 décembre 2011 : http://eglasie.mepasie.org/asie-du-sud-est/birmanie-myanmar/au-moment-ou-le-president-birman-ordonne-a-son-armee-de-cesser-les-combats-contre-la-kia-l2019eglise-sur-place-constate-un-afflux-de-refugies.

(Source: Eglises d'Asie, 3 janvier 2012)
 
Tin Giáo Hội Việt Nam
Hình ảnh ĐC Mai Thanh Lương và Cha GĐ Nguyễn Thái thăm Catalina
Joseph Nguyễn Tài
14:50 03/01/2012
Cuối tuần vừa qua trước khi bước sang Năm Mới 2012, giáo xứ St. Catherine ở đảo Santa Catalina và Lm Trần Công Nghị hân hạnh tiếp đón Đức cha Dominic Mai Thanh Lương, giám mục phụ tá Orange, và Cha Giuse Nguyễn Thái, Linh mục Điều hành Trung Tâm Công Giáo Việt Nam GP Orange, và một số thân hữu của hai vị đến thăm và nghỉ lại vài ngày dưỡng sức.

Được biết Đức Cha Dominic Lương và LM Gioan Nghị từng là bạn lâu năm từ thời còn du học tại Hoa Kỳ từ đầu thập niên 1970. Sau biến cố 1975, Cha Nghị được cử làm Tuyên uý trưởng tại Fort Chaffee trông coi từng 100,000 người Việt tị nạn và sau đó Ngài được bổ nhiệm làm Giám đốc tiên khởi Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam tại TGP New Orleans định cư cho chừng 6,000 người Việt tị nạn ơ đó với các làng Việt Nam đầu tiên trên đất Mỹ. Đến cuối năm 1977 khi Cha Nghị được học bổng trở lại Roma học tiếp chương trình tiến sĩ thần học, Cha đã mời LM Mai thanh Lương đến New Orleans thay thế trong cương vị là Giám đốc Mục Vụ New Orleans.

Các Vị khách qúi thuộc cùng Little Saigòn đã lấy tầu Catalina Express trực tiếp đi từ New Port Beach ở Orange County, vs3 từ đó đến thành phố du lịch Avalon đi đúng 1 giờ 5 phút thì tới nơi.

Ở Orange County thủ đô thị nạn Việt Nam ngoài cảng New Port Beach còn có cảng Dana Point có tầu express đi tới Avalon. Ngoài ra từ Los Angeles cũng có 2 bến tầu có tầu express đi tới Avalon, Catilina là cảng San Pedro và cảng Long Beach. Trung bình từ các cảng này tầu Express chạy chuyến tốc hành ra Avalon, Catalina, mất một giờ đồng hồ. Và nếu lấu trực thăng bay 15 phút thì tới nơi.
 
Giáo xứ Tân Hương: Liên đới Lòng Chúa Thương Xót
Trầm Thiên Thu
11:38 03/01/2012
TGP SAIGON – Giáo xứ Tân Hương thuộc giáo hạt Tân Sơn Nhì, TGP Saigon, nằm trên đường Tân Hương thuộc quận Tân Phú, Saigòn, được thành lập từ năm 1972, vị sáng lập là một linh mục người Pháp đã đưa dân từ Campuchia về Việt Nam.

LM quản xứ hiện nay là LM Phanxicô Assisi Lê Quang Đăng, kiêm hạt trưởng hạt Tân Sơn Nhì. Số giáo dân hiện nay hơn 9.000 người, trong đó có khoảng 130 người tham gia cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót (CĐ LCTX), một con số có thể gọi là đông so với nhiều giáo xứ khác trong TGP Saigon.

Chiều ngày 3-1-2012, nhằm ngày lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu, các CĐ LCTX từ các giáo xứ trong hạt Tân Sơn Nhì quy tụ tại nhà thờ Tân Hương để dâng lễ tạ ơn LCTX, và đặc biệt để chính thức “ra mắt” vị tổng linh hướng CĐ LCTX của giáo hạt Tân Sơn Nhì là LM Đa Minh Vũ Ngọc Thủ, quản xứ Tân Việt (*).

Thánh lễ bắt đầu lúc 15 giờ – giờ của LCTX. Chủ tế là LM Đa Minh Vũ Ngọc Thủ, đồng tế là LM Giuse Ngô Vũ Anh Tuấn (phụ tá Gx Tân Việt). Tham dự thánh lễ có khoảng 400 người. Đây là dịp không chỉ để biết nhau, làm quen nhau, mà chính là để cùng nhau công tác rao truyền LCTX theo Ý Chúa Giêsu đã mặc khải cho thánh nữ Faustina, và cùng “nối vòng tay lớn” của LCTX. Đây thực sự là tình liên đới LCTX của giáo hạt Tân Sơn Nhì. Mong ước cho mọi người nên MỘT trong tình hiệp thông của Thiên Chúa và Giáo hội, hôm nay và mãi mãi!

Tháng Giêng là tháng kính Thánh Danh Chúa Giêsu. Dâng lễ tạ ơn LCTX vào chính ngày lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu là sự trùng hợp kỳ lạ. Kinh thánh nói về Đức Kitô: “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ; vì dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ” (Cv 4:12). Thánh Danh Chúa Giêsu liên quan mật thiết với LCTX. Thánh Danh Chúa Giêsu Kitô vô cùng cao trọng, thế nhưng chúng ta vẫn thường xuyên chưa thực sự chú trọng. Sau các lời nguyện trong phụng vụ, Giáo hội luôn kết thúc bằng câu: “Chúng con cầu xin nhơ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng con”, các tín đồ Tin Lành cũng luôn kết thúc lời cầu nguyện của họ bằng cách tương tự, nhưng người Công giáo hầu như không cầu nguyện nhờ Thánh Danh Đức Kitô. Và Chúa Giêsu đã có lần cảnh báo: “Cho đến nay, anh chị em đã chẳng xin gì nhân danh Thầy” (Ga 16:23). Sự thật này có lẽ không oan chút nào vậy!

Dâng lễ được ca đoàn hát bài “Ca Khúc Trầm Hương” của LM NS Dao Kim: “Lời con như trầm hương bay lên tới thiên đường, bay lên tới thiên đường cho lung linh ánh nhiệm mầu…”. Hương trầm được sử dụng để tỏ lòng tôn kính, thế nên trong các lễ trọng thường có nghi thức xông hương. Lời cầu nguyện của chúng ta được ví như hương trầm bay tỏa thơm ngát tới Thiên tòa, nhẹ nhàng và thành kính, chắc chắn Ngài sẽ vui nhậm lời như lời Ngài đã hứa đối với những ai tôn kính và truyền bá LCTX.

Phúc âm lễ kính Thánh Danh Chúa Giêsu nói đến thánh Gioan Tẩy giả tuyên xưng Đức Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian” (Ga 1:29). Gioan Tẩy giả được Chúa Giêsu gọi là vị ngôn sứ lớn nhất, nhưng ông lại là người khiêm nhường, chỉ nhận mình là “tiếng hô trong hoang địa” (Ga 1:23) và “không đáng cởi quai dép cho Chúa Giêsu” (Ga 1:27). Ông muốn Chúa phải LỚN lên, còn ông phải NHỎ lại. Thánh Gioan Tẩy giả là tấm gương sáng cho chúng ta khi làm việc tông đồ, vì nếu không khéo thì chúng ta hành động chỉ để “sáng danh mình chứ không vì sáng Danh Chúa”.

Thật vậy, châm ngôn Pháp có câu: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối kẻ khác”. Còn thánh Gioan Vianney, “sư phụ” của các linh mục, giải thích: “Lý do chúng ta không có cách giải quyết tốt là vì chúng ta chú trọng đến mình quá nhiều”. Một câu nói “chạm” đến mọi lớp người!

Trong bài giảng, LM Thủ nói: “Chúng ta cố gắng trở thành chứng nhân như thánh Gioan Tẩy giả. Lần chuỗi LCTX xong, về nhà cố gắng sống dễ thương hơn, mời gọi nhiều người khác tham gia để CĐ LCTX đông hơn. Sống dễ thương, bao dung và tha thứ là chất-men-tông-đồ. Hoán cải người khác thì trước hết phải hoán cải chính mình. Chúng ta thường chúc nhau ‘vạn sự như ý’, tức là theo ý mình, không nên như vậy mà phải xin cho vạn sự theo Ý Chúa”.

Phần hiệp lễ, ca đoàn hát bài “Chuỗi Lòng Thương Xót” của NS Chí Nhân: “Lòng Thương Xót Chúa là nơi tín thác thân xác tâm can, bụi trần gian lấp phủ linh hồn, ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, cho dù đời con hoang phế. Lòng Thương Xót Chúa bàn tay âu yếm, tháng ngày đồng hành dẫn con đi, nhiều khi con chẳng chung tình. Tưởng rằng sẽ bước chơi vơi, tay Chúa lại nâng đỡ con về. Con xin được hợp với muôn lòng thắp lên ngọn nến 3 giờ thiêng liêng, dìm vào lòng Đại dương Thương xót Chúa, khát mong xoa dịu trái tim Người, dủ lòng thương xót chúng con, nhân loại này còn bao đắng cay”. Giai điệu nhẹ nhàng hòa quyện với ca từ sâu lắng trong âm thể Gm (Sol thứ) nghe thật sâu lắng, man mác nỗi buồn nhưng vẫn ấm lòng thánh thiện.

Xin được nói thêm một chút. Khi vào nhà thờ Tân Hương, tôi chú ý ngay 2 điều: (1) Cách làm hang đá giản dị và giữ được ý nghĩa của mầu nhiệm Chúa giáng sinh; (2) Trên cung thánh có câu “Xây dựng nền Văn hóa Sự sống và Văn minh Tình thương”, đây là câu nói lên tinh thần của Hội đồng Giám mục Việt Nam và Công nghị TGP Saigòn đã đề ra từ năm 2011. Giáo dân nhìn hàng ngày thì cũng sẽ thấm dần. Một cách làm rất “thực tế”, đáng noi gương.

Dư âm giáng sinh vẫn còn. Mầu nhiệm Nhập thể là bằng chứng của Tình Yêu Thiên Chúa, vì “Thiên Chúa là Tình yêu” (1 Ga 4:8), và chính “Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1 Ga 4:9). Như vậy, nói đến Tình Yêu Thiên Chúa là nói đến LCTX, đồng thời cũng liên quan Ơn Cứu Độ. Tuy cách nói có khác nhau nhưng vẫn là một. Lần chuỗi LCTX thì phải sống LCTX, tức là phải thể hiện LCTX với hết mọi người.
 
Đại Hội Thanh Sinh Công Việt Nam tại New Orleans, Hoa Kỳ
LM Hoàng Xuân Viện, SDB
11:44 03/01/2012
NEW ORLEANS - Hằng năm Phong Trào Thanh Sinh Công Việt Nam tại Hoa Kỳ tụ họp nhau lại để hun đúc và củng cố Phong Trào qua những sinh hoạt và những buổi thảo luận.

Xin bấm vào đây để xem hình ảnh

Năm nay, sau những ngày nghỉ Giáng Sinh, Phong Trào đã mở Đại Hội thường niên tại Giáo Xứ Maria Nữ Vương Việt Nam, New Orleans, từ 29/12 tới 1/1.

Để kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Phong Trào tại New Orleans, Đại Hội đã chọn chủ đề “Thanh Sinh Công Reconnect” với mục đích giúp các đoàn viên tái khám phá nguồn gốc và cội rễ của Phong Trào. Bốn ngày Đại Hội qua đi mau chóng và gặt hái nhiều thành công. Ngoài những cố gắng của ban tổ chức, chúng tôi cũng chân thành ghi ơn Giáo Xứ Maria Nữ Vương Việt Nam, New Orleans, cha xứ Nguyễn Văn Nghiêm, và cha Nguyễn Văn Nguyên đã quảng đại cung cấp và tạo điều kiện thuận lợi cho Phong Trào. Đồng thời cũng không quên cám ơn quý Sơ Dòng Mân Côi New Orleans đã cử những tu sỹ xuất sắc của dòng để tới tham dự và thuyết trình những đề tài nóng bỏng của giới trẻ trong xã hội ngày nay.

Tuyên Úy Phong Trào TSC New Orleans.
 
Thánh Lễ Tất Niên Liên Đoàn Sinh viên Công giáo Việt Nam tại Hà Nội
Thanh Thái
17:36 03/01/2012
HÀ NỘI - Trong không khí của những ngày cuối năm , vào tối ngày 3 tháng 1 năm 2012 , tức ngày 9 tháng chạp năm Tân Mão, Liên Đoàn Sinh viên Công giáo Việt Nam đã tổ chức Thánh Lễ tất niên đặc biệt để tạ ơn Thiên Chúa và cầu nguyện cho các bạn sinh viên, là những người hiện đang điều hành các cộng đoàn, các hội, các nhóm sinh viên đang sinh hoạt tại Thái Hà.

XEm hình ảnh

Đây là dịp rất đáng quý để anh chị em làm công tác điều hành có cơ hội được gặp nhau, chia sẻ với nhau những thành công và những khó khăn trong công tác điều hành, quản lý các hoạt động sinh viên Công giáo. Hơn thế nữa, đó còn là dịp để thể hiện tinh thần hiệp nhất giữa các hội đoàn sinh viên với nhau trong tình huynh đệ.

Thánh Lễ có sự hiện diện rất quý báu của Cha Mattheu Vũ Khởi Phụng - Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, Cha Giuse Đinh Tiến Đức - Quản lý Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, Cha Giuse Nguyễn Văn Thật - Nguyên quản lý Dòng Chúa Cứu Thế Hà Nội, Cha Gioan Lưu Ngọc Quỳnh - Phụ trách các sinh hoạt hội đoàn tại nhà thờ Thái Hà.

Ngoài ra, Thánh Lễ còn vinh dự có sự hiện diện của quý Soer đến từ nước bạn Ấn độ, một dấu chỉ thể hiện sự hiệp nhất của Giáo Hội trên khắp hoàn cầu. Sự có mặt của các anh chị doanh nhân, trí thức cũng thể hiện sự nối kết đặc biệt giữa các thế hệ của những nhà trí thức Công giáo. Đặc biệt, Thánh Lễ quy tụ đầy đủ hơn 60 bạn sinh viên, là những người điều hành của các hội đoàn sinh viên.

Xuất phát từ Thông điệp hòa bình của Đức Thánh Cha Benedict XVI, Cha Bề trên đã chia sẻ trong bài giảng Lễ về thực trạng xã hội, yêu cầu cần thiết và cấp bách của Thông điệp về Công lý và Hòa bình mà Đức Thánh Cha đã gợi mở và sự cần thiết của Công lý đối với con người trong bối cảnh hiện nay. Qua đó Ngài nhắn nhủ với mỗi bạn sinh viên là những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước, của Giáo Hội: “Các bạn không chỉ lĩnh hội tri thức nhân loại, mà còn phải có cái tâm, để đưa hội đoàn của mình theo những đường hướng mà Chúa đã vạch ra cho mỗi người, đồng thời các bạn hãy dùng chính những tri thức mà các bạn có được, để xây dựng một nền hòa bình đích thực trên quê hương của mình”.

Sau Thánh Lễ, Ban đại diện Liên đoàn đã tổ chức bữa tiệc mừng tất niên để chia tay mọi người trước khi trở về quê ăn Tết. Sự có mặt của quý Cha, quý khách đã làm tăng bầu khí vui tươi của bữa tiệc. Những bài hát, những tiếng hò reo, sự trẻ trung, nhiệt tình của các bạn sinh viên đã làm ấm lòng tất cả mọi người tham dự.

Nhân đây, anh Giuse Nguyễn Tiến Đạt - Trưởng Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo Việt Nam đã chia sẻ: “Thật vui mừng khi thấy sự phát triển của các hội đoàn sinh viên Công giáo được điều hành bởi chính các bạn sinh viên. Tuy nhiên, còn nhiều những dự định, những ước mơ muốn giúp đỡ cho các bạn sinh viên mà chưa thực hiện được. Hy vọng trong tương lai sẽ có được những vị ân nhân, những nhà hảo tâm để hỗ trợ chúng ta thực hiện được những dự định, những ước mơ này”.

Vậy là năm Tân Mão sắp qua đi, phía trước là những nấc thang mới với những sự kiện mới trong năm Nhâm Thìn sắp đến. Các bạn sinh viên, những người điều hành các hội đoàn sinh viên là những người phải đối mặt với những khó khăn xảy đến trước mắt. Sự thành công hay thất bai của mỗi hội đoàn phụ thuộc rất nhiều vào những quyết sách mà những người điều hành đưa ra. Một con đường mới, một cánh cửa mới đang mở ra trước mắt mỗi bạn sinh viên dưới sự dẫn dắt của Ban điều hành.
 
Thông Báo
Thánh Lễ an táng Đức ông Đa-minh Vũ Văn Thiện
Lm Nguyễn Văn Hiện
21:52 03/01/2012
RIP
Trong niềm tin vào Chúa Kitô tử nạn và Phục sinh,
Tòa Giám mục Phát Diệm kính báo:

Đức ông Đa-minh VŨ VĂN THIỆN
Đã được Chúa gọi về lúc 4 giờ 00 (tức 10 giờ 00 giờ Việt Nam) ngày
26-12-2011, tại bệnh viện Gemelli- Rôma.

Dự kiến linh cữu sẽ về tới Hà Nội chiều tối ngày 08-01-2012 và được
quàn tại nhà thờ Phát Diệm.

Thánh lễ An táng sẽ được cử hành lúc 9 giờ 00, ngày 10-01-2012 tại
nhà thờ Chính tòa Phát Diệm.
An táng tại Đất thánh linh mục Phát Diệm.

Kính xin quý Đức Cha, quý cha, quý tu sĩ, quý thân nhân bằng hữu và
mọi người hiệp dâng thánh lễ và cầu nguyện cho Đức ông Đa-minh.
Chúng con xin chân thành cảm tạ.

Chánh Văn phòng TGM Phát Diệm
 
Văn Hóa
Chủ và tớ
lykhách
11:50 03/01/2012
Những “đầy tớ” ngày càng sang trọng
Những “ông bà chủ” càng chật vật long đong
Bố khỉ! lũ đầy tớ gian tham lật lọng
Lúc rách việc vẫn to mồm chủ là: công-nông!

Chúng đi làm bằng xe hơi sang sạch bóng
Chiều tan sở về vào nhà cao cửa rộng
“Ông bà chủ” chen chúc tranh xe buýt đón
Tan tầm về chui xập xệ chung phòng!

Đầy tớ xơi toàn bỗ dưỡng tươi ngon
Mạnh mồm uống cao cấp rượu ngoại thơm
Chủ đi chợ chiều mua bó rau héo lọn
Rẻo thịt cá thiu, gạo hẩm thổi bữa cơm

Những “ông chủ con” sớm chiều đi bán báo
Đánh giày kiêm bán vé số cất giọng rao:
“Thần Tài đây, Thần Tài đây” thảm não
Cha nội “Thần Tài” cũng kỳ thị chủ nghèo!

“Đầy tớ con” diện hàng hiệu quần áo
Sang trọng kiêu kỳ học thói siêu sao
Sống thừa dư rững mỡ sinh xào xáo
Bon chen xa hoa khẳng định nhà giàu

Bố khỉ! buổi đổi đời tớ thành khổ chủ
Thằng tớ hưởng hết, thằng chủ lãnh đủ
Như con khỉ già ngồi buồn trong sở thú
Tớ nhìn xem thiên hạ sống khôn ngu

Bố khỉ! tớ chợt chán leo trèo
Xã hội thời nay khỉ quá nhiều
Con người thế thời khỉ lắm kiểu
Nhìn thân mình chẳng thấy khỉ bao nhiêu!

Nhìn nhé, từng bầy khỉ trung ương
Khỉ lãnh tụ, khỉ đại biểu, khỉ địa phương
Chúng nhởn nhơ đời những con khỉ sướng
Những con khỉ làm đầy tớ bất lương

Thời thế thế thế biết làm sao
Làm chủ mà mất đất cắm sào
Vì thằng tớ nó cần làm sân golf
Nó cần xây nhà bố nó to cao

Làm chủ mà vật vã mồ hôi
Hằng ngày với đồng lương chết đói
Thằng tớ thời chủ nghĩa xã hội
Đúng thời sâu bọ lên làm người!

Trời ơi đầy tớ quyền quá to
Thằng chủ muốn gì phải “xin cho”
Bố khỉ nhà…“đầy tớ” chúng nó
Luôn mồm: độc lập với tự do!
 
Ảnh Nghệ Thuật
Trang Ảnh Nghệ Thuật Chiêm/Niệm/Thiền: Đại Bàng Tung Cánh – Flying Eagle.
Richard Drysdale
22:41 03/01/2012
ĐẠI BÀNG TUNG CÁNH – Flying Eagle.
Ảnh của Richard Drysdale
Bạn có thể gắn đôi cánh cho một chú heo,
nhưng không thế biến nó thành chim Đại Bàng.
You can put wings on a pig, but you don't make it an eagle.
(William J. Clinton)

Click here to go to PhotoArt Meditation Room - Phòng ảnh Nghệ Thuật và Chiêm/Niệm/Thiền